Chuyên đề Một số vấn đề cơ bản về thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kể. Bước sang thế kỷ 21, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới chúng ta cần phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại hơn nữa, từng bước nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trước yêu cầu đổi mới này, đòi hỏi các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Quân đội nói riêng phải đổi mới cơ chế và chất lượng sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng cũng như công tác thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng mới có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đạt được mục đích đề ra. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ, các Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ngày càng nhiều làm mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, việc nâng cao và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế là một yêu cầu bức thiết không chỉ đối với Ngân hàng Quân đội mà còn đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam để có thể đứng vững trên thị trường. Những giải pháp nêu trên trong chuyên đề sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với Ngân hàng Quân đội để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của mình hiện nay và trong tương lai.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề cơ bản về thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện thì thanh toán viên lập bảng kê chứng từ kèm chỉ thị hoàn tiền và lập điện đòi tiền trên T24 gửi đến ngân hàng trả tiền thông qua Hội sở chính cua MB. Và sau khi hối phiếu được sự kiểm tra của trưởng phòng thanh toán quốc tế hoặc người uỷ quyền thì tiến hành tính ký hiệu mật cho bức điện. Cuối cùng thanh toán viên sẽ đóng gói chứng từ kèm Covering letter và chuyển đến ngân hàng nhận thông qua dịch vụ chuyển phát nhanh. Trường hợp đòi tiền bằng thư, ngân hàng lập thư đòi tiền gửi cùng bộ chứng từ cho ngân hàng nước ngoài bằng chuyển phát nhanh. Trong trường hợp chứng từ có sai sót, ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để bổ sung, sửa đổi chứng từ nếu có thể. Nếu sai sót là không thể sửa chữa, ngân hàng có thể điện cho ngân hàng nước ngoài về sai sót để xin sự chấp nhận hoặc chuyển sang hình thức nhờ thu, hoặc vẫn gửi chứng từ ra nước ngoài nếu khách hàng yêu cầu với điều kiện khách hàng phải chịu hoàn toàn rủi ro. Bước 4 : Thanh toán/ chấp nhận thanh toán L/C: - Thanh toán L/C: Kiểm soát viên in điện báo về thanh toán L/C xuất khẩu và chuyển cho thanh toán viên. Sau đó, thanh toán viên thực hiện thu nợ (nếu ngân hàng tài trợ) hoặc báo có cho khách hàng, thu phí dịch vụ, phí gửi chứng từ, thuế VAT và chuyển toàn bộ chứng từ cho kiểm soát viên. Kiểm soát viên kiểm soát nội dung điện báo có và các chứng từ hạch toán nếu khớp đúng thì phê duyệt trên chứng từ giấy và chứng từ điện tử. Cuối cùng chứng từ được chuyển lại cho thanh toán viên xử lý. - Nhận điện chấp nhận thanh toán: Khi nhận được điện chấp nhận thanh toán từ ngân hàng phát hành/ ngân hàng xác nhận (đối với bộ L/C trả chậm), thanh toán viên lập thông báo để chấp nhận thanh toán hối phiếu xuất trình theo L/C xuất khẩu. Bước 5 : Đóng hồ sơ bộ chứng từ L/C : Để đóng hồ sơ theo dõi bộ chứng từ L/C xuất khẩu, thanh toán viên phải sử dụng chương trình máy tính, ghi rõ lý do đóng hồ sơ do chứng từ đã được thanh toán, hoặc bị từ chối thanh toán, chuyển sang hình thức thanh toán khác hay chứng từ bị trả lại. Bước 6 : Lưu giữ chứng từ L/C : Toàn bộ bản gốc của L/C, các sửa đổi, tra soát, bản copy của các chứng từ, điện thanh toán, chấp nhận thanh toán đều phải được lưu giữ theo quy định. 2.3.2. Hoạt động thanh toán theo phương thức thư tín dụng : Phương thức thư tín dụng là phương thức chiếm tỷ trọng cao nhất và quan trọng nhất trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB . - Về L/C nhập khẩu: Hoạt động L/C nhập khẩu của MB trong những năm qua chịu nhiều tác động của biến động trên thị trường quốc tế nên có sự tăng trưởng không ổn định. Biểu 8 : Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức thư tín dụng Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền Mở L/C 6430 755,08 6360 597 7320 892 Thanh toán L/C 8880 559 7670 565 10580 787 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động TTQT của MB) Qua ba năm số món mở L/C luôn nhỏ hơn số món thanh toán L/Cnhập khẩu. Trong năm 2005, số món mở L/C là khoảng 6430 món, số món thanh toán là khoảng 8880 món. Nhưmg sang đến năm 2006, số món mở và thanh toán L/C nhập khẩu giảm đi. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có ảnh hưởng của tình hình kinh tế chung và sự thay đổi trong việc sử dung phương thức thanh toán trong thanh toán xuất nhập khẩu. Năm 2006 số món mở L/C giảm đi nên giá trị L/C mở cũng giảm đi, nhưng số tiền thanh toán L/C lại tăng lên so với năm 2005, nguyên nhân là do một số lượng lớn L/C được mở trong năm 2005 nhưng đến năm 2006 mới được thanh toán. Đến năm 2007, số món mở L/C tăng 960 món so với năm 2006 và đặc biệt số món thanh toán L/C nhập khẩu tăng 2910 món so với năm 2006. Giá trị mở và thanh toán L/C nhập khẩu cũng tăng lên đáng kể so với hai năm trước đó, giá trị mở L/C tăng 295 triệu USD tương ứng với tăng 33% so với năm 2003 và giá trị thanh toán L/C nhập khẩu tăng 222 triệu USD tương ứng tăng 28% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ MB đã thu hút thêm được một lượng khách hàng mới và số khách hàng cũ thì có giá trị hợp đồng ngoại thương lớn hơn. - Về L/C xuất khẩu: Biểu 9 : Tình hình thanh toán XNK theo phương thức thư tín dụng tại MB Đơn vị: nghìn USD Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền Thông báo L/C 280 27.580 270 7.333 350 25.370 Thanh toán L/C 250 34.280 370 8.234 490 29.210 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động TTQT tại MB) Cũng giống như hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu, hoạt động thanh toán L/C xuất khâu trong những năm qua cũng có sự tăng giảm thất thường. Năm 2005 số món thông báo L/C là 280 món trị giá 27,58 triệu USD và số món thanh toán L/C là 250 món trị giá 34,28 triệu USD. Sang đến năm 2006, mặc dù kinh tế đất nước và kinh tế thủ đô có sự tăng trưởng khá nhưng tổng giá trị thông báo và thanh toán L/C nhập khẩu của MB lại giảm mạnh. Năm 2006, tổng giá trị thông báo giảm 20,24 triệu USD và tổng giá trị thanh toán giảm 26,04 triệu USD. Nguyên nhân của sự giảm sút này trước hết phải nói đến sự thay đổi trong cơ cấu thanh toán XNK của MB, năm 2006 phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu tiếp tục tăng mạnh. Sau đó là sự tác động của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, sang đến năm 2007, cùng với sự tăng trưởng kinh tế đất nước thì tổng giá trị thông báo và thanh toán L/C xuất khẩu cũng tăng lên. Tổng giá trị thông báo L/C đạt 25,37 triệu USD, tăng 18,03 triệu USD so với năm 2006 và tổng giá trị thanh toán L/C đạt 29,21 triệu USD, tăng 20,97 triệu USD. Đây là một thành công của ngân hàng trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch, duy trì ổn định thanh toán hàng xuất khẩu. 3. Đánh giá tình hình hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB : 3.1. Nhược điểm về hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB : Trong những năm qua, MB đã phấn đấu hoàn thành nhiêm vụ và luôn vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB đã ngày càng được hoàn thiện, có nhiều đóng góp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Một là: Mất cân đối giữa hoạt động thanh toán xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh số thanh toán hàng xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 9% tổng doanh số thanh thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng. Hơn nữa một số khách hàng thanh toán hàng nhập khẩu qua MB nhưng lại thanh toán hàng xuất khẩu qua các ngân hàng thương mại khác nên MB không thu được nguồn ngoại tệ về. Điều này làm cho ngân hàng hạn chế về nguồn ngoại tệ để thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Hai là: Thủ tục thanh toán còn mang nặng tính hành chính. Hiện nay, một thực tế đang diễn ra tại các Ngân hàng thương mại là khi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng luôn phải thực hiện những thủ tục rườm rà, tốn thời gian. Đó là lý do giải thích sự tăng lên của số lượng khách hàng đến giao dịch tại các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, tại các ngân hàng này khách hàng chỉ phải làm các thủ tục rất đơn giản mà vẫn đảm bảo tính an toàn. Ba là: Thời gian xử lý các giao dịch chưa nhanh. Mức độ xử lý tự động các giao dịch chưa cao, quy trình thanh toán rườm rà, chưa tạo thành khâu khép kín, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tốc độ thanh toán xuất nhập khẩu giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống MB vẫn còn chậm. Bốn là: Chương trình hiện đại hoá ngân hàng chưa hoàn thiện và ổn định. Các sự cố kỹ thuật chưa được khắc phục kịp thời, nhiều lúc giao dịch bị gián đoạn. Từ đó làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Năm là: Dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu còn chưa đa dạng. Việc cung ứng các dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu mới chỉ dừng lại ở việc thanh toán theo một số phương thức truyền thống như thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán L/C. Việc đưa vào sử dụng các loại hình L/C mới như L/C dự phòng, L/C chuyển nhượng đã đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng và đem lại hiệu quả thanh toán cao hơn. Tuy nhiên, nghiệp vụ này khá phức tạp nên vẫn chưa được sử dụng rộng rãi. Như vậy, bên cạnh những kết quả đã được, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần phải khắc phục. 3.2. Nguyên nhân của những nhược điểm : Nguyên nhân chủ quan: Một là: Mô hình tổ chức bộ máy kinh doanh tại ngân hàng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý. Sự phối kết hợp giữa các bộ phận, các phòng chức năng còn lỏng lẻo, chồng chéo, chưa tạo được một dịch vụ khép kín trong thanh toán, tín dụng, kinh doanh ngoại tệ đối với khách hàng. Do vậy, thời gian thanh toán còn dài và phí dịch vụ cao. Hai là: Công tác Marketing chưa có hiệu quả. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB chưa chú trọng đến công tác Marketing. Hiện nay, Ngân hàng chưa có các chương trình marketing hấp dẫn để thu hút khách hàng. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu chủ yếu dựa vào khách hàng truyền thống, chưa tăng cường tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Khách hàng truyền thống của MB phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước, còn các doanh nghiệp tư nhân chưa được chú trọng phát triển. Ba là: Hoạt động ngân hàng đại lý chưa phát huy hết hiệu quả. Với số lượng ngân hàng đại lý như hiện nay, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB vẫn chưa đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và chưa theo kịp với việc mở rộng phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đây cũng là một nguyên nhân làm giảm thị phần và tổng giá trị kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu qua MB trong những năm gần đây. Hơn nữa, ngân hàng chưa nắm bắt được hết các chính sách, quy định của các ngân hàng đại lý nước ngoài trong các giao dịch thanh toán với ngân hàng Việt Nam, chưa khai thác tối đa dịch vụ ngân hàng do họ cung cấp để đáp ứng nhu cầu giao dịch với khách hàng. Bốn là: Công tác kiểm tra, kiểm soát về các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu chưa được tiến hành thường xuyên, sâu sát. Năm là: Cơ sở vật chất, kỹ thuật, trụ sở làm việc còn chật chội, chưa đáp ứng được yêu cầu của một ngân hàng hiện đại. Sáu là: Trình độ, năng lực của đa số cán bộ tuy đã được nâng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Số cán bộ có trình độ ngoại ngữ, giỏi vi tính còn hạn chế, do đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận khai thác chương trình công nghệ mới phục vụ khách hàng. Một số ít nhân viên chưa ý thức đầy đủ về nhiệm vụ kinh doanh, tác phong làm việc còn mang tính bao cấp. Nguyên nhân khách quan: Một là: Tình hình kinh tế thế giới trong thời gian vừa qua có nhiều biến động đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của các NHTM nói chung và của MB nói riêng. Hai là: Môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn thiếu và chưa đồng bộ. Mặc dù luật Ngân hàng đã ban hành và có hiệu lực, nhưng chúng ta chưa có luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc. Các văn bản hiện hành thì chồng chéo, qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu lực pháp lý chưa cao. Nhà nước cũng chưa có những văn bản pháp lý về hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, nhất là những quy định cụ thể về hướng dẫn áp dụng các thông lệ quốc tế như UCP, INCOTERMS, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu chưa thực sự được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Ngoài ra, một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước quy định chưa cụ thể, gây ra sự hiểu khác nhau dẫn đến áp dụng không thống nhất tại các Ngân hàng thương mại . Ba là: Cơ chế chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại còn nhiều bất cập. Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan thường xuyên có những thay đổi về danh mục các mặt hàng được phép xuất nhập khẩu, biếu thuế áp dụng đối với từng mặt hàng, thời gian kể từ khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là ngắn, không đủ để các doanh nghiệp dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ chưa có chiến lược, giải pháp tổng thể hỗ trợ kịp thời đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu các thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa có sự liên kết phối hợp giữa các ban ngành, các quy định còn chồng chéo gây phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí. Chưa xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các ngân hàng khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Bốn là: Tỷ giá hối đoái không ổn định, thị trường ngoại hối chưa phát triển gây ra những cơn sốt về ngoại tệ, khan hiếm nguồn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Năm là: Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng gây khó khăn lớn cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB. Môi trường hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng của MB có sự cạnh tranh rất lớn của các NHTM khác đặc biệt là ngân hàng Ngoại thương và các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Các ngân hàng này thường có vốn điều lệ lớn nên cho phép các doanh nghiệp có thể vay được những khoản vay lớn, thực hiện các dự án lớn, do đó có điều kiện ràng buộc doanh nghiệp thanh toán qua ngân hàng. Còn các ngân hàng nước ngoài thường có lợi thế về thông tin hiện đại, thủ tục tín dụng đơn giản, có kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách ngân hàng. Vì vậy, lượng khách hàng đặt quan hệ giao dịch với MB ngày càng giảm. Điều này giải thích tại sao giá trị kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của MB trong những năm gần đây tăng ít. Sáu là: Trình độ nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu còn hạn chế. Khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật về nghiệp vụ ngoại thương, hành vi đạo đức của khách hàng cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của NHTM. Nhiều khách hàng không hiểu biết về các thông lệ quốc tế, thiếu kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, nên chịu nhiều điều khoản thua thiệt. Nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn hạn chế, khả năng thao tác, hoàn thiện bộ chứng từ để thanh toán còn chậm, chưa chặt chẽ nên sai sót là không thể tránh khỏi. Ngoài ra, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, ngân hàng và các chuyên gia trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để tìm ra cách giả quyết tốt nhất khi có những tranh chấp xảy ra. Một nguyên nhân khác xuất phát từ phía khách hàng là khi khách hàng thấy có bất lợi do hàng hoá xuống giá làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, họ lại nhờ ngân hàng tìm kiếm sai sót để bắt lỗi nhằm từ chối thanh toán, thậm chí cả trong trường hợp sai sót là không đáng kể, việc từ chối là trái với thông lệ quốc tế làm ảnh hưởng đến ngân hàng hoặc đẩy ngân hàng vào tình trạng kho khăn khi phải thực hiện cam kết thanh toán với ngân hàng nước ngoài. 3.3. Đánh giá hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB . Trong những năm qua, với xu hướng hội nhập cùng với nền kinh tế khu vực và trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam thực sự phát triển mạnh mẽ theo đường lối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm qua tăng lên nhanh chóng. Do vậy, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu cũng ngày càng được mở rộng và phát triển qua MB . Hiện nay, phòng Thanh toán quốc tế thực hiện những nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu cơ bản sau : thanh toán nhờ thu, chuyển tiền và thanh toán tín dụng chứng từ. Biểu 10 : Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu tại MB Đơn vị: nghìn USD Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị thanh toán Tỷ lệ (%) Giá trị thanh toán Tỷ lệ (%) Giá trị thanh toán Tỷ lệ (%) Nhờ thu 54.840 5,6 72.626 6,4 86.270 5,2 Chuyển tiền 334.850 34 481.530 42,7 739.850 44,9 L/C 593.280 60,4 574.234 50,9 822.240 49,9 Tổng cộng 982.970 100 1.128.390 100 1.648.360 100 Qua bảng trên ta thấy: trong thanh toán xuất nhập khẩu, phương thức nhờ thu chiếm tỷ trọng thấp nhất, sau đó là phương thức chuyển tiền và phương thức tín dụng chứng từ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khách hàng cũng bắt đầu chuyển dần sang sử dụng hai phương thức chuyển tiền và nhờ thu khiến tỷ trọng của hai phương thức này trong tổng giá trị thanh toán xuất nhập khẩu tăng lên. MB sử dụng phương thức nhờ thu như là một phương thức để thúc đẩy việc mở rộng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Còn phương thức chuyển tiền trong thời gian qua cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Trong năm 2005 giá trị thanh toán qua phương thức này chỉ chiếm khoảng 34% tổng giá trị thanh toán xuất nhập khẩu, năm 2006 con số này đã tăng lên 42,7% và năm 2007 tiếp tục tăng lên 44,9%. Phương thức này có xu hướng tăng do mức độ tin tưởng thanh toán giữa hai bên tăng lên và phương thức này có tốc độ thanh toán nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong thanh toán. Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức chiếm tỷ trọng cao và quan trọng nhất trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB. thanh toán xuất nhập khẩu là hoạt động luôn chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt trong điều kiện ngày nay kinh tế- chính trị thế giới có nhiều biến động thì đảm bảo an toàn trong thanh toán, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn lựa chọn phương thức tín dụng chứng từ làm phương thức thanh toán cho mình. Nhưng trong những năm gần đây, thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại MB lại có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do có sự thay đổi trong cơ cấu thanh toán xuất nhập khẩu tại MB, thanh toán theo phương thức nhờ thu và chuyển tiền tiếp tục tăng lên, đồng thời MB còn phải chịu sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với các Ngân hàng thương mại khác trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu.. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI 1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng TMCP Quân đội. Năm 2009 được nhận định là một năm đầy khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Trong cuộc họp thường kỳ đầu tiên của năm 2009, thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nói : “Nhiều nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng hiện đang là một cuộc đại khủng hoảng lớn nhất từ sau Đại chiến Thế giới thứ 2 đến nay. Cuộc khủng hoảng này chưa ai rõ đáy ở đâu”. Thủ tướng cho rằng : “Trong 2009, chúng ta đã chứng kiến xuất khẩu giảm mạnh, công nghiệp giảm mạnh, du lịch giảm, giải ngân vốn đầu tư nước ngoài chậm...” . Các yếu tố trên đều dự báo cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước sẽ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng. Trước những khó khăn như vậy, trong quý I/2009 chính phủ đã đưa ra các gói hỗ trợ giúp các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi. Điều này cũng làm cho các doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong việc vay vốn Ngân hàng thực hiện các kế hoạch kinh doanh. Do đó , tuy được dự báo là một năm gặp nhiêu khó khăn về kinh tế, xuất nhập khẩu có chiều hướng giảm, nhưng tập thể ban lãnh đạo MB vẫn quyết tâm đạt mức tăng trưởng trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu là 5% - 10% . Cụ thể định hướng của Ngân hàng quân đội trong năm 2009 đối với phòng thanh toán quốc tế như sau : Hoạt động mua bán ngoai tệ, thanh toán quốc tế phấn đấu tăng từ 5 - 10% so với năm trước. Giữ vững, phát triển và nâng cao nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng trong lĩnh vực này. Cơ hội kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đang mở ra, phòng kinh doanh đối ngoại cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức thương mại quốc tế, luật, thông lệ quốc tế cho cán bộ để phát triển các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu tăng thu dịch vụ thông qua phát triển mạng lưới chi trả ngoại hối, thanh toán séc, thẻ tín dụng. Hiện nay các Ngân hàng nước ngoài đã được cập phép hoạt động tại Việt Nam ngày càng tăng lên, hiện nay có 05 Ngân hàng có 100% vốn nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam như: HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hongleong . Như vậy các ngân hàng trong nước sẽ phải cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, những đối thủ nặng ký hơn hẳn về danh tiếng, lịch sử phát triển, công nghệ, vốn, chất lượng dịch vụ và cả trình độ nhân viên… Các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Quân đội nói riêng đang đứng trước sứp ép cạnh tranh buộc phải chuyển đổi mô hình tổ chức từ trụ sở chính đến các chi nhánh theo hướng các ngân hàng hiện đại. Đây là bước tiến rất lớn vì nó đòi hỏi mỗi nhân viên đều phải sử dụng thành thạo máy vi tính và thao tác nghiệp vụ với tính chuyên nghiệp cao. Vậy nên, yêu cầu đào tạo đang được đặt ra cấp bách đòi hỏi các phòng ban nghiệp vụ nói chung và phòng kinh doanh đối ngoại nói riêng phải chủ động nêu ra những vấn đề cần nghiên cứu học hỏi để phối hợp với phòng tổ chức hành chính mở lớp đào tạo cho các cán bộ nhân viên . Tích cực nghiên cứu nhằm nâng cao và hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh toán, hệ thống Ngân hàng một cửa, dịch vụ Ngân hàng trực tuyến, dịch vụ Ngân hàng điện tử. Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại một cách đồng bộ và toàn diện nhằm tối ưu hoá khả năng cạnh tranh, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Phát triển mạnh và tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới gắn kết với nhau để tạo lập, giữ vững và mở rộng thị phần. Tập trung đầu tư thoả đáng về cơ sở vật chất, con người, hoàn thiện mô hình tổ chức nhằm triển khai và thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đối ngoại mà trọng tâm là đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế củng cố và phát triển mối quan hệ ngân hàng đại lý của ngân hàng. 2 Phương hướng và biện pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng TMCP Quân đội. Mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân đội. Điều đó không những nâng cao hơn uy tín của ngân hàng mà còn tạo vị thế cho ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Qua đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại MB trong thời gian qua, ta có thể nhận thấy bên cạnh những thành tích đã đạt được thì ngân hàng cũng không tránh khỏi tồn tại những hạn chế. Dựa trên những tồn tại đó và định hướng phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu MB, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng Quân đội . 2.1 Các biện pháp chung : 2.1.1. Nâng cao năng lực thực hiện thanh toán của đội ngũ cán bộ nhân viên thanh toán quốc tế . Nhân tố con ngươi đóng vai trò quyết định sự thành bại của bất cứ hoạt động nào. Vì vậy, công tác cán bộ cần được chú trọng. Chất lượng thanh toán quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả năng xử lý công việc của cán bộ thanh toán. Ngoài những nghiệp vụ chuyên doanh chính của Ngân hàng, cán bộ thanh toán cần hiểu biết về lĩnh vực ngoại thương, trình độ về máy tính, ngoại ngữ cần phải toàn diện. Bởi vì trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế luôn phải xem xét và xử lý rất nhiều vấn đề có liên quan như : Trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia hoạt động ngoại thương cũng như hoạt động thanh toán quốc tế đều bị chi phối không chỉ bởi luật lệ, tập quán của từng quốc gia riêng biệt mà còn chịu sự qui định bởi các văn bản pháp quy quốc tế. Trong hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các vấn đề về xử lý các sai sót chứng từ và tranh chấp có thể xảy ra. Để có thể phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, Ngân hàng cần có đội ngũ cán bộ năng nổ nhiệt tình , giỏi cả về chuyên môn và ngoại ngữ, vi tính, am hiểu lĩnh vực ngoại thương, các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và thanh toán quốc tế. Có thể tư vấn giúp khách hàng ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, áp dụng phương thức và những điều kiện thanh toán có lợi nhằm tránh những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, đồng thời có thể xử lý được những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng và thanh toán, đảm bảo quyền lợi khách hàng nhưng vẫn giữ uy tín của Ngân hàng trên thương trường quốc tế. Đội ngũ thanh toán quốc tế của Ngân hàng hiện nay còn mỏng, cán bộ đều trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực ngoại thương và thanh toán quốc tế. Để có đội ngũ cán bộ thanh toán đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động thanh toán quốc tế Ngân hàng TMCP Quân đội cần phải giải quyết các vấn đề về : Bổ sung thêm các cán bộ có trình độ chuyên môn, giỏi về ngoại ngữ và vi tính, am hiểu ngoại thương và thanh toán quốc tế. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về thanh toán quốc tế, các cuộc hội thảo về thanh toán quốc tế nhằm giúp các Chi nhánh trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế, học tập kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động thanh toán quốc tế để vừa đảm bảo quyền lợi của khách hàng, đồng thời giữ uy tín cho Ngân hàng. Trích một phần từ lợi nhuận Ngân hàng để tài trợ cho các học viên là cán bộ của Chi nhánh đang theo học nâng cao nghiệp tại các trường đại học hoặc lớp nâng cao trình độ ngoại ngữ ... như vậy sẽ khuyến khích cán bộ có động lực trau dồi kiến thức toàn diện hơn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Bên cạnh việc bồi dưỡng trình độ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ ... cho cán bộ thanh toán quốc tế thì cần chú ý bồi dưỡng đạo đức phẩm chất, cán bộ thanh toán quốc tế phải có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, năng nổ, có thái độ và phong cách giao tiếp văn minh lịch sự ... 2.1.2. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng phục vụ công tác thanh toán XNK Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bào, các ngân hàng cần phải chủ động nắm lấy thời cơ và mạnh dạn đầu tư công nghệ vào hoạt động ngân hàng để có thể hội nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Nhận thức rõ được vấn này, trong thời gian qua MB đã tiến hành nâng cấp chương trình và trang bị máy móc phục vụ cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Tháng 8/2007, Ngân hàng Quân đội đã chính thức thực triển khai thành công hệ thống T24 của hãng hãng Temenos trên toàn hệ thống. Và MB là một trong những Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam thực hiện dự án này. Việc ứng dụng chương trình này trong thanh toán đã hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của MB. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện dự án cũng có nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp: Tiếp tục thực hiện dự án hệ thống T24 , từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục và sửa đổi cho phù hợp với ngân hàng . Mạnh dạn ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới trên thế giới để nâng cao hiệu quả thanh toán. Đồng thời với việc hiện đại hoá công nghệ thì ngân hàng cũng cần phải đảm bảo an toàn về công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng để giữ vững uy tín của ngân hàng trên thị trường. 2.1.3.Tăng cường hoạt động Marketting. Đối với mọi hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh thì khách hàng là một yếu tố cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong cơ chế thị trường “khách hàng là thượng đế“. Khách hàng quyết định khối lượng và qui mô hoạt động của Ngân hàng đó. Vì vậy để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế MB cần nỗ lực tăng cường hoạt động Marketing bao gồm: Thực hiện chính sách khách hàng hợp lý. Để thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, Ngân hàng phải lập ban chuyên nghiên cứu thị trường để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn Ngân hàng. Nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng sự lựa chọn Ngân hàng để giao dịch của khách hàng thường được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các tiêu chuẩn của Ngân hàng như địa điểm Ngân hàng có thuận lợi không, chất lượng phục vụ ở quầy ra sao, thái độ của nhân viên giao dịch, sự thuận lợi và dễ dàng khi vay mượn, hình ảnh và sức mạnh và sự an toàn của ngân hàng. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong hiện tại và tương lai để thấy được những điểm mạnh cần phát huy và thiếu sót cần khắc phục. Tứ đó đưa ra chính sách hợp lý. Chính sách khách hàng hợp lý là phải không phân biệt khách hàng về thành phần kinh tế nhưng do áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, phải đáp ứng cao nhất nhu câù của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, Ngân hàng mở rộng phạm vi kinh doanh một cách chắc chắn, tạo cho khách hàng có sự yên tâm tin cậy khi giao dịch và thanh toán quốc tế qua Ngân hàng. Ngân hàng phải là chỗ dựa lâu dài, nơi hậu thuẫn vững chắc cho khách hàng trong việc tư vấn và quản lý tài chính, đầu tư kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Chính sách khách hàng gắn liền với hiệu quả kinh doanh của khách hàng đối với hiệu quả, an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Yêu cầu củng cố thị trường, mở rộng có chọn lọc thêm khách hàng mới và thị trường mới, có bước đi vững chắc. Hiện nay MB có một số chỉ tiêu đối tượng khách hàng được ưu đãi: - Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng lâu dài từ trước tới nay. - Các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, không có nợ xấu. - Các doanh nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ, có khả năng là bạn hàng lâu dài. Chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng và các hình thức ưu đãi. Việc rà soát xếp loại khách hàng phải được tiến hành thường xuyên. Các hình thức ưu đãi đối với khách hàng được MB áp dụng đối với khách hàng truyền thống như : Ưu đãi về vốn và lãi suất khi vay vốn; Ưu đãi trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn; Ưu đãi về tỷ lệ ký quĩ trong việc mở L/C; Ưu đãi về phí dịch vụ, trong đó có phí thanh toán quốc tế; Ưu đãi về giá mua, bán ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế. Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh đối ngoại. Để đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, Ngân hàng cần nghiên cứu nhằm đa dạng hoá sản phẩm, các dịch vụ Ngân hàng, trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, đồng thời nâng cao uy tín, qui mô hoạt động của Ngân hàng. - Nâng cao chất lượng thẩm định đối với L/C trả chậm, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm đối với những mặt hàng trong danh mục cho phép của nhà nước, không mở L/C trả chậm đối với hàng tiêu dùng, quản lý chặt chẽ tiền bán hàng. - Phát triển các dịch vụ thanh toán séc du lịch, Visa card và hệ thống rút tiền tự động, tham gia tổ chức Master Card quốc tế, phát hành và thanh toán thẻ tín dụng. - Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh cũng như các hình thức kinh doanh ngoại tệ (mua bán trao đổi ngay, mua bán có kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi) để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. - Mua bán trao ngay nhằm cân bằng ngoại tệ cho các hoạt động đối ngoại của khách hàng và trực tiếp kinh doanh với khách hàng - Mua bán kỳ có hạn: Có thể ký hợp đồng mua ngoại tệ có kỳ hạn của khách hàng và từ khi khách hàng nhận được thông báo L/C hoặc ký hợp đồng bán ngoại tệ có kỳ hạn cho khách hàng để thanh toán ra nước ngoài trong thời gian tới. Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếo văn minh lịch sự. Trong Marketing Ngân hàng chính sách giao tiếp hằng ngày càng có vị trí quan trọng, nếu chỉ coi trọng chính sách quảng cáo như quảng cáo cho chế độ an toàn các khoản tiền gửi tại Ngân hàng, các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp là sai lầm. Trên thực tế, sự quyết định lựa chọn của khách hàng trong giao tiếp nhiều khi không phải do quảng cáo đưa lại, mà chính là do phong cách giao tiếp của Ngân hàng. Thái độ, phong cách giao tiếp chính là nghệ thuật lôi kéo khách hàng giữ khách hàng có hiệu quả. Trong mắt khách hàng nhân viên là hình ảnh của Ngân hàng nên khi thực hiện nghiệp vụ họ cũng không biết chính mình đang làm Marketing. Việc đổi mới phong cách làm việc, thái độ giao tiếp của cán bộ thanh toán quốc tế Ngân hàng là một trong những biện pháp quan trọng để lôi kéo và giữ được khách hàng. Nhân viên của Ngân hàng cần phải luôn luôn niềm nở, nhiệt tình, giải quyết công việc chính xác, không gây khó khăn và không sai hẹn với khách hàng, luôn sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng làm thủ tục một cách nhanh chóng chính xác. Sẵn sàng tư vấn cho khách hàng ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với những điều khoản và áp dụng phương thức thanh toán an toàn và có lợi nhất. Chi nhánh cần tổ chức một đội ngũ phục vụ giúp khách hàng làm các thủ tục cần thiết, tránh tình trạng khách hàng giải quyết một việc phải đi lại quá nhiều. Đẩy mạnh công tác tiếp thị và quảng cáo. Ngày nay trong cơ chế thị trường diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân hàng không thể ngồi đợi khách hàng tìm đếm mình mà phải chủ động tìm đến khách hàng. Ngân hàng nên thường xuyên phát hành các báo cáo thường niên của Ngân hàng gửi tới khách hàng, định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng để nắm được nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. 2.1.4 Đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Để các doanh nghiệp thực hiện thành công hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình, thì ngoài yếu tố chất lượng hàng hoá, uy tín của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài thì một vấn đề quan trọng là vấn đề tài chính phục vụ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là công cụ giúp các doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh. Hoạt động ngoại thương càng phát triển thì các hình thức thanh toán cũng đa dạng tất yếu dẫn đến sự đa dạng của các hình thức tài chính trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán xuất khập khẩu của Ngân hàng Quân đội Hoạt động tài trợ xuất khẩu. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu được thực hiện bởi phòng thanh toán quốc tế, hiện nay đối với Ngân hàng quân đội hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức: - Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất nhập khẩu: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc căn cứ vào L/C đã được thông báo, MB cấp tín dụng để giúp các đơn vị thu mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những đơn vị cam kết thông báo L/C xuất khẩu và gửi bộ chứng từ thanh toán qua MB thì sẽ được áp dụng lãi suất vay ưu đãi. - Chiết khấu bộ chứng từ: Căn cứ vào bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo, MB mua lại toàn bộ chứng từ để giải phóng vốn cho vay cho doanh nghiệp, giúp cho họ có điều kiện tăng vòng quay vốn. - Chiết khấu hối phiếu: Căn cứ vào hối phiếu đã được Ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn thanh toán, MB cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại hối phiếu đó. Hoạt động tài trợ nhập khẩu: Cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C hàng nhập qua MB. Mọi tín dụng thư đều do Ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu, tuy nhiên không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư tiền tài khoản để đảm bảo cho thư tín dụng. Trên thực tế, khoảng cách giữa thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là một khoảng thời gian quá dài, nếu chúng ta khống chế số dư tài khoản của nhà nhập khẩu thì điều này sẽ ảnh hưởng tới khả năng kinh doanh của họ cũng như ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng khi mở L/C , thì L/C đó lại thể hiện một sự đảm bảo thanh toán trừu tượng, có thể nói đó là một sự đảm bảo thanh toán của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng mở L/C phải gánh chịu một rủi ro khi một nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C hết hạn trả tiền. Để tránh những hoạt động cản trở tới kinh doanh của nhà nhập khẩu và đảm bảo uy tín của Ngân hàng, tránh được rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu thì Ngân hàng mở ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Do đó, trước khi mở L/C theo đề nghị của nhà nhập khẩu, Ngân hàng phải kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu, tính toán hiệu quả kinh tế của hợp đồng, xem xét khả năng hoạt động và cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai... Đó là cơ sở để đảm bảo vốn vay của Ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu qua các hình thức cho vay để thanh toán tiền đặt cọc cho phía nước ngoài hay cho vay trong thời gian mà nhà nhập khẩu bán hàng hoá nhập khẩu về cho đến khi thu được tiền bán hàng. 2.1.5 Tư vấn cho khách hàng trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Trong thực tế, không phải tất cả khách hàng tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có sự am hiểu thông suốt về luật lệ, nguyên tắc,… trong lĩnh vực này và tiềm lực tài chính của họ luôn luôn đáp ứng đủ ngay nhu cầu chi trả, ngoài ra còn tính đến thiện chí thực hiện thanh toán của đối tác. Còn có nhiều khách hàng kiến thức của họ còn hạn chế, ảnh hưởng tới quyền lợi của bản thân họ trong khi ký kết hợp đồng mua bán cũng như trong việc thiết lập các chứng từ thanh toán. Chính vì vậy, ngoài việc thiết lập hồ sơ thanh toán của khách hàng yêu cầu, MB cần có sự tư vấn cho các khách hàng trên nhiều khía cạnh. Lợi ích của Ngân hàng gắn liền với hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho nước ngoài khi đến kỳ hạn, đảm bảo uy tín cho khách hàng. Hơn nữa, Ngân hàng có mối quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài nên thông qua đó tìm hiểu về đối tác tham gia ký kết hợp đồng với khách hàng của mình để tư vấn cho khách hàng trong khi mua bán và thanh toán sao cho có lợi và tránh được các tình huống rủi ro. Và với kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với đội ngũ nhân viên có kiến thức của mình Ngân hàng nên tư vấn miễn phí cho khách hàng nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ: - Cần thiết tư vấn cho khách hàng ngay từ khi lập và ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu: Nên sử dụng phương thức thanh toán nào sao cho thuận tiện và chi phí thấp nhất, ngoài ra còn tính đến lợi ích tối đa mà phương thức thanh toán có thể mang lại. - Đối với khách hàng xuất khẩu: Hướng dẫn cho khách hàng lập các chứng từ phù hợp với thông lệ quốc tế và trong nước, đảm bảo sự thống nhất giữa các chứng từ mà bên đối tác có thể từ chối và thanh toán. Mọi chứng từ được lập ra phải cụ thể, rõ ràng, tránh sự hiểu nhầm và mâu thuẫn xảy ra. - Đối với khách hàng nhập khẩu: ngoài sự tư vấn cho khách hàng mình về các phương thức thanh toán, cán bộ thanh toán quốc tế cần yêu cầu khách hàng của mình chuẩn bị sẵn nghiệp vụ thanh toán để quá trình thanh toán được trôi chảy. Ngoài ra cán bộ thanh toán quốc tế cần chú ý khách hàng của mình về thiện chí tham gia khi buôn bán ngoại thương. Vì xét về lâu dài, mối quan hệ tín nhiệm của các bên đối tác sẽ làm nền tảng thành công cho hiệu quả và chất lượng trong lĩnh vực ngoại thương nói chung cũng như thanh toán quốc tế nói riêng. - Bản thân công tác tư vấn được tiến hành tốt đã có tác dụng là một dịch vụ thu hút khách hàng đến với Ngân hàng, vừa có tác dụng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán L/C của Ngân hàng. 2.2 Một số biện pháp hoàn thiện hoạt đông thanh toán XNK theo phương thức thư tín dụng : Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức thư tín dụng là phương thức chiếm tỷ trọng cao nhất và quan trọng nhất trong ba phương thức thanh toán của MB. Trong thời gian được thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Mỹ Đình, em thường xuyên được tham gia vào việc lập hồ sơ mở L/C. Do đó em xin có một số biện pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức thư tín dụng Quy trình thanh toán L/C hàng nhập : Định mức ký quỹ một cách hợp lý : Nếu định mức kí quỹ thấp rất có thể mang tới rủi ro không thanh toán hay rủi ro tỷ giá. Nhưng nếu định mức trên cao sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẽ sẵn sáng từ bỏ ngân hàng chuyển sang quan hệ với ngân hàng khác chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn. Chính vì vậy khi xác nhận định mức kí quỹ ngân hàng cần dựa vào những yếu tố sau như : - Uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu nhà nhập khẩu là khách hàng quan hệ lâu nam, có uy tín thanh toán đối với ngân hàng thì có thể qui định mức kí quỹ thấp. Ngược lại nếu khách hàng lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thì phải yêu cầu ký quỹ cao có thể lên tới 100% trị giá thanh toán hoặc phải có tài sản đảm bảo hay tìm người bảo lãnh. - Khả năng tiêu thụ của sản phẩm - Hiệu quả kinh tế của lô hàng nhập về: định mức ký quỹ phải cao hơn tỷ suất lợi nhuận lô hàng mang lại. Vì trong trường hợp nhà nhập khẩu thế chấp bằng cả lô hàng không có khả năng thanh toán cho ngân hàng mở thì ngân hàng sẽ được quyền định đoạt đối với hàng hoá. Giá chuyển nhượng phải bảo đảm cho ngân hàng thanh toán với nước ngoài. - Biến động về tỷ giá: thời kỳ tỷ giá biến động mạnh, ngân hàng phải điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ tránh rủi ro về tỷ giá. Hoàn thiện qui trình thanh toán L/C hàng xuất Ngân hàng thông báo sau khi nhận được L/C bằng điện không đầy đủ và không rõ ràng có thể không xác định được mấu điện. Trong trường hợp này ngân hàng thông báo phải yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng mở lại hoặc cung cấp mã kiểm tra chính xác. Nếu MB được yêu cầu thông báo L/C cho nhà xuất khẩu ở nước thứ ba không phải nước ngân hàng thông báo đang hoạt động, nếu không muốn thông báo thì phải gửi ngay quyết định cho ngân hàng mở. Ngoài dịch vụ thông báo L/C thu phí, MB có thể yêu cầu xác nhận L/C. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện với nhứng ngân hàng mở có uy tín. Tuy nhiên vẫn có thể thực hiện xác nhận đối với các ngân hàng mở không phải khách hàng quen thuộc nhưng phải nghiên cứu kỹ khách hàng. Tăng cường công tác cố vấn cho khách hàng Đối với đơn vị xuất khẩu : Các đơn vị xuất khẩu thường gây ra rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập một bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro trên ngân hàng có thể cố vấn giúp họ những vấn đề sau: Cố vấn cho khách hàng yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C bảo đảm nhất. Hiện nay là loại L/C không hủy ngang có xác nhận và miễn truy đòi. Cố vấn cho nhà xuất khẩu chọn ngân hàng mở L/C, ngân hàng thanh toán có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng. Cố vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng điện hay bằng thư. Ngoài ra Ngân hàng cũng nên cố vấn cho khách hàng giải quyết bộ chứng từ có sai sót, xem xét kỹ lí do ngân hàng mở từ chối thanh toán. Nếu chứng từ có sai sót nghiêm trọng nên cố vấn cho khách hàng chuyến sang hình thức thanh toán khác. Trong trường hợp khách hàng từ chối thanh toán đối với nhà xuất khẩu, MB có thể cố vấn cho họ trong ciệc tìm nguồn tiêu thụ. Đối với đơn vị nhập khẩu : Nhà nhập khẩu có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng khi họ mất khả năng thanh toán hoặc vi phạm cam kết. Để đem lại lợi ích cho họ và bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng thì MB cần cố vấn cho họ một số vấn đề sau: Cố vấn xem nên mở L/C loại nào, các điều khoản trong L/C chú ý không nên đưa quá nhiều điều khoản vào L/C, dẫn đến sai sót. Cố vấn cho họ biết khi nào nên chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/c, sửa đổi L/C để không tổn hại tới lợi ích của mình. 3 Một số kiến nghị . 3.1 Kiến nghị Ngân hàng nhà nước : Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các nhu cầu về ngoại tệ giữa các ngân hàng với nhau. Ngân hàng Nhà nước tham gia với tư cách là người mua- bán cuối cùng và chỉ can thiệp khi cần thiết. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng phát triển giúp cho ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế phát triển. Để mở rộng và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nước phải mở rộng đối tượng tham gia vào hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các hình thức giao dịch trên thị trường và phải giám sát thường xuyên hoạt động của thị trường, quản lý quá trình mua bán của các ngân hàng trên thị trường. Xây dựng cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với thị trường Tỷ giá có tính linh nhạy cảm cao, ảnh hưởng rất rộng đến tất cả các hoạt dộng của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế. Tỷ giá hối đoái là một nhân tố tác động mạnh đến hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế cần phải xây dung một cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với thị trường. Việc điều hành chính sách tỷ giá phải được tiến hành theo từng giai đoạn. Cần phải định hướng Nhà nước không nên trực tiếp ấn định tỷ giá mà chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô trên thị trường ngoại hối để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế. Củng cố hệ thống thông tin và cấp thông tin . Để cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về các khách hàng cho hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện hệ thống cung cấp thôgn tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành đồng thời giúp các ngân hàng cập nhật thông tin khi có biến động của khách hàng.ư Phát huy vai trò lãnh đạo của Ngân hàng nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong quan hệ giao dịch với các bạn hàng quốc tế. Trong quan hệ quốc tế, uy tín là một yếu tố vô cùng quan trọng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam nếu so với các ngân hàng nước ngoài còn tỏ ra rất yếu kém, chúng ta chưa xây dựng được uy tín. Để tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại Việt nam mở rộng hoạt động thanh toán XNK thì Ngân hàng nhà nhà nước cần phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ quốc tế. 3.2 Kiến nghị với Chính phủ : Tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho hoạt động thanh toán XNK. Có thể nói, tạo lập một môi trường kinh tế thuận lợi là hết sức cần thiết bởi vì hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu chỉ có thể được mở rộng và phát huy hiệu quả của nó trên cơ sở một môi trường kinh tế thuận lợi và ổn định. Như ta đã thấy, trong những năm vừa qua, Chính Phủ đã đưa ra nhiều biện pháp tích cực để xây dựng một môi trường kinh tế thuận lợi tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Chính phủ cần có những biện pháp, chính sách tích cực hơn nữa để thúc đẩy hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng phát triển. Hoàn thiện và các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán XNK Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có liên quan đến mối quan hệ trong nước cũng như quốc tế, liên quan đến luật pháp các quốc gia tham gia vào hoạt động này và thông lệ quốc tế. Hiện nay, chúng ta chưa có văn bản pháp lý để điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, chính phủ cần sớm nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng hệ thống văn bản pháp quy phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như phù hợp với môi trường kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam tạo môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Đồng thời cũng cần có các văn bản quy định về giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, trong đó đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa hợp đồng ngoại thương của hai bên xuất nhập khẩu với giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu và quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và các ngân hàng khi tham gia thanh toán quốc tế. Chính phủ cũng cần có những văn bản hướng dẫn về việc áp dụng các điều lệ quốc tế trong thanh toán quốc tế như UCP, INCOTERM ... Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hịên chính sách quản lý ngoại hối Để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, Nhà nước cần sớm tìm ra biện pháp, chính sách để quản lý ngoại hối thích hợp như tiến tới xoá bỏ quản lý hạn ngạch nhập khẩu mà thay thế bằng việc áp dụng các biện pháp về thuế, phát hiện một cách kịp thời các sai phạm trong việc thực thi song cần linh hoạt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, nhưng vẫn đảm bảo ổn định kinh tế. Hoàn thiện chính sách thương mại Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Công thương thực hiện có hiệu quả hơn chính sách thương mại phát triển theo hướng khuyến khích xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Khai thác triệt để và có hiệu quả những tiềm năng sẵn có về tài nguyên, sức lao động, phấn đấu giảm giá thành, năng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, năng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao đồng thời chính phủ cần cảI cách mạnh mẽ và triệt để các thủ tục hành chính, tạo hành lang thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành (hải quan, thuế) tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu theo một chu trình tuần tự khép kín, cải cách thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí. LỜI KẾT Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kể. Bước sang thế kỷ 21, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới chúng ta cần phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại hơn nữa, từng bước nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trước yêu cầu đổi mới này, đòi hỏi các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Quân đội nói riêng phải đổi mới cơ chế và chất lượng sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng cũng như công tác thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng mới có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đạt được mục đích đề ra. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ, các Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ngày càng nhiều làm mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, việc nâng cao và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế là một yêu cầu bức thiết không chỉ đối với Ngân hàng Quân đội mà còn đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam để có thể đứng vững trên thị trường. Những giải pháp nêu trên trong chuyên đề sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với Ngân hàng Quân đội để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của mình hiện nay và trong tương lai. Trong quá trình thực tập, em đã được cán bộ trong phòng Quan hệ khách hàng doanh nghiệp, Ngân hàng Quân đội- Chi nhánh Mỹ Đình tận tình giúp đỡ, em xin chân thành cảm ơn. Em xin gửi tới thầy giáo Giáo sư, tiến sĩ : Đặng Đình Đào, người đã hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều để thực hiện chuyên đề lòng biết ơn sâu sắc. Hà Nội , ngày tháng năm 2009 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21550.doc
Tài liệu liên quan