Một nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định là mục tiêu tất yếu của quốc gia, đặc biệt là Việt Nam chúng ta. Là một quốc gia còn nghèo nàn về kinh tế, tụt hậu về khoa học công nghệ, thì nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là phải thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đưa nước ta vươn lên trở thành một nước công nghiệp sánh vai với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới.
Trong điều kiện tình hình nền kinh tế thế giới biến động vô cùng phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế thế giới và các nước khác song Việt Nam chúng ta vẫn giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Điều đó đã tạo môi trường thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thu hút(huy động) nguồn vốn nước ngoài. Là một chi nhánh nhưng NHNo & PTNN Quận Tây Hồ, những năm qua đã không ngừng phát triển nguồn vốn huy động góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Đó là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, điều tiết vốn giữa các khu vực trong nền kinh tế. Mặt khác để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường với nguồn vốn ổn định, vững chắc. Ngân Hàng phải không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh nâng cao uy tín, tổ chức tốt công tác quản trị, quản lý với các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ khác nhau. Trong thời gian thực tập tại Ngân Hàng. Em đã tìm hiểu thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân Hàng. Tuy nhiên với năng lực bản thân và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và ban lãnh đạo Ngân Hàng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Hoàng Phú và các bác các cô trong ban lãnh đạo Ngân Hàng, các anh chị trong phòng kế toán chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện chuyên đề này.
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề cơ bản về vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức lợi nhuận 191.289tr.đ tăng 58,84% so với năm 2001.
Biểu 3: Kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
So sánh
+ - (tr.đ)
+ - (%)
Tổng Thu Nhập
30198
64019
+33821
+112
Tộng Chi Phí
17821
44730
+26909
+151
Lợi Nhuận
12377
191289
+6912
+55,84
Lợi nhuận năm 2002 đạt 191.289tr.đ tăng 6912tr.đ so với năm 2001 tương ứng mức tăng là 55,84% điều đó chứng tỏ chi nhanh đã hoạt động rất hiệu quả. Thu nhập tăng vượt trội so với chi phí và đó chính là cơ sở, là nền tảng giúp tăng nguồn vốn kinh doanh của chi nhánh.
Để đạt được thành tích trên, là nhờ sử quan tâm chỉ đảo của ban lãnh đạo chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ và đặc biệt là sự nổ lực cố gắng hết mình của cán bộ, nhân viên chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ.
III. thực trạng nghiệp vụ kế toán huy động vốn tại chi nhanh nhno & ptnt quận tây hồ.
1. Tình hình mở tài khoản tại NHNo & PTNT Quận Tây Hồ
Để thu hút tiền gửi vào Ngân Hàng ngoài các biện pháp khuyến khích cần sử dụng các phương thức gửi tiền thuận tiện và hợp lý.
Chuyển sang kinh doanh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ luôn xác định “vốn” giữ vai trò quyết định. Từ đó vấn đề khách hàng được đặt lên vị trí hàng đầu của kinh doanh. Mọi hoạt động đều hướng tới khách hàng, coi trọng khách hàng và Ngân Hàng là bạn hàng thực hiện đi vay để cho vay, nhằm huy động tạo lập được nguồn vốn lớn. Năm 2002 Ngân Hàng có nguồn vốn huy động đạt 490.518tr.đ nội tệ và ngoại tệ.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay Ngân Hàng đã đa dạng hoá phương thức huy động vốn, đa dạng hoá quan hệ, không ngừng mở rộng. Do đó khách hàng của Ngân Hàng ngày một phong phú, nhu cầu đa dạng với nhiều mục đích khác biệt trong quan hệ giữa khách hàng với Ngân Hàng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động vô cùng phức tạp Ngân Hàng muốn cạnh tranh giành giật chiếm lĩnh thị trường và thu hút khách hàng thì Ngân Hàng phải đổi mới một cách toàn diện, tạo ra các sản phẩm dịch vụ Ngân Hàng đa dạng để thoả mãn tốt nhất các nhu cầu trong kinh doanh .
*.Phân loại khách hàng theo từng đối tượng .
Khách hàng là các tổ chức kinh tế mở tài khoản giao dịch với Ngân Hàng chủ yếu là nhu cầu về dịch vụ thanh toán và quan hệ vay vốn kinh doanh. Khách hàng là cá nhân và hộ gia đình chủ yêú là gửi tiền tiết kiệm, đầu tư hưởng lãi và vay tiền dùng vào kinh doanh hộ gia đình, mục đích chi tiêu.
*.Tính chất tiền gửi.
- Tiền gửi không kỳ hạn (mục đích sử dụng các dịch vụ thanh toán).
- Tiền gửi có kỳ hạn ( mục đích hưởng lãi ).
- Tiền gửi tiết kiệm ( có kỳ hạn + không kỳ hạn ) huy động từ dân cư.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng, phong phú đồng thời khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của Ngân Hàng ngày càng tăng, thủ tục mở tài khoản tại Ngân Hàng ngày càng thuận tiện nhanh chóng, đơn giản. Không gây phiền hà và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Đối với các cá nhân chưa mở tài khoản tiền gửi để giao dịch khi có nhu cầu giao dịch thì các cá nhân cần có chứng minh thư nhân dân để mở tài khoản tại Ngân Hàng. Ngân Hàng cần khuyến khích giúp người dân mở tài khoản để họ sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngay càng nhiều, từ đó giúp Ngân Hàng tăng thu nhập tăng lợi nhuận.
Biểu 4: Tình hình số dư tiền gửi các tài khoản tại chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ năm 2001- 2002.
Số dư tiền gửi VND.
Đơn vị: Triệu đồng.
Loại Tài Khoản
Số dư 2001
Số dư 2002
1.Tiền gửi khách hàng
- T.G không kỳ hạn
- T.G có kỳ hạn
58926
38790
20136
105082
20768,5
84313,5
2.Tiền gửi tiết kiệm
- T.G không kỳ hạn
- T.G có kỳ hạn
20953,5
5838
15115,5
50440
4997
45443
Số dư tiền gửi bằng ngoại tệ quy đổi
Đơn vị: triệu đồng.
Loại Tài Khoản
Số dư 2001
Số dư 2002
1.Tiền gửi khách hàng
- T.G không kỳ hạn
- T.G có kỳ hạn
5049
4299
750
6134
5324
810
2.Tiền gửi tiết kiệm
- T.G không kỳ hạn
- T.G có kỳ hạn
25248
750
24498
36800
751
36049
2. Phân tích tình hình các loại tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ.
2.1. Phân tích cơ cấu chung của nguồn vốn tiền gửi.
Biểu 5: Cơ Ph cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ
Cơ cấu nguồn vốn tiền gửi bằng VND
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
*. T.Gửi TCKT
58926
18,19%
105082
23,47%
*. Huy động dân cư
-T.Gửi tiết kiệm
-Phát hành kỳ phiếu
215608,5
20953,5
194655
66,56%
6,46%
60,1%
286583
50440
236143
64,03%
11,27%
52,76%
*. T.Gửi TCTD
49392
15,25%
55917
12,5%
Tộng nguồn vốn
323926,5
100%
447582
100%
Qua số liệu bảng trên ta thấy, nguồn vốn tiền gửi của các doanh nghiệp tăng mạnh hơn tiền gửi của dân cư. Điều này nói lên khách hàng là các doanh nghiệp gửi tiền không chỉ chủ yếu nhằm nhận các dịch vụ thanh toán qua Ngân Hàng mà Ngân Hàng đã tạo lòng tin với khách hàng. Năm 2002 số dư tiền gửi của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể, chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với năm 2001 chứng tỏ Ngân Hàng huy động vốn ngày càng có hiệu qủa nguồn vốn này nhưng cũng đòi hỏi Ngân Hàng phải cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán hơn nữa để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, gây được lòng tin và có uy tín với khách hàng lớn, là các doanh nghiệp lớn.
Tình hình nguồn vốn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2002 số dư tăng hơn so với năm 2001 là70.974,5tr.đ tương ứng mức tăng là 24,76%. Trong đó chủ yếu là nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá, cụ thể là phát hành kỳ phiếu năm 2002 đạt 236.143tr.đ tăng 41.488tr.đ so với năm 2001 tương ứng với mức tăng 21,31%. Điều đó cho thấy chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ đã có biện pháp cải tiến huy động nguồn vốn thích hợp, được khách hàng tin tưởng do đó số dư đến ngày 31/12/02 cao hơn so với năm 2001, nguồn vốn ổn định và ngày một tăng giúp cho chi nhánh NHNo & PTNT Quận Tây Hồ đảm bảo trong hoạt độg kinh doanh để tăng lợi nhuận.
Cơ cấu tiền gửi bằng ngoại tệ quy đổi
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
*. T.Gửi TCKT
5049
16,66%
6134
14,29%
*. Huy động dân cư
- T.Gửi tiết kiệm
- Phát hành T. phiếu
25249,5
25248
1,5
83,345%
83,335%
0,005%
36802
36800
2
85,71%
85,705%
0,005%
*. T.Gửi TCTD
0
0%
0
0%
Tổng nguồn vốn
30298,5
100%
42936
100%
Qua số liệu bảng trên ta thấy nguồn tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế không cao, họ chủ yếu mở tài khoản này để thanh toán với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, số dư trên tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế không cao.
Đối với tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ ngày một tăng chứng tỏ công tác huy động vốn của Ngân Hàng kinh doanh rất được chú trọng và giữ vững lòng tin đối với khách hàng, đã thu hút được nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ tương đối lớn trong thời kỳ lãi suất đồng USD liên tục biến động. Nhưng vơi chính sách khuyến khích khách hàng mềm dẻo, linh hoạt và đổi mới nên vẫn thu hút được lượng ngoai tệ đáng kể để cung ứng cho các khoản thanh toán Quốc tế, vẫn duy trì và giữ vững được tốc độ tăng trưởng của các loại ngoại tệ, đảm bảo thanh toán L/C cho khách hàng.
2.2.Tài khoản tiền gửi các tổ chức kinh tế.
Quan hệ giữa Ngân Hàng và các tổ chức kinh tế, chủ yếu là quan hệ thanh toán qua Ngân Hàng và quan hệ vay vốn. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại Ngân Hàng chủ yếu là loại tiền gửi không kỳ hạn trên tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, đây là bộ phận vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận. Nguồn vốn bao giờ cũng là tiền đề khởi sử và mở rộng kinh doanh. Thiết lập quan hệ giao dịch, quan hệ tiền tệ tín dụng và thanh toán với các Ngân Hàng. Tuy nhiên mở đầu cho quan hệ là mở và sử dụng tài khoản tại Ngân Hàng. Mối quan hệ này còn nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn chưa giải quyết được, việc cho phép các doanh nghiệp có quyền lựa chọn và mở tài khoản giao dịch tại nhiều Ngân Hàng. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp năng động, linh hoạt và tạo mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Ngân Hàng bình đẳng hơn trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Nhưng cũng chính điều này là để cho doanh nghiệp có thể lợi dụng trong việc kinh doanh không lành mạnh, lợi dụng vốn vay tràn lan, tẩu tán, lừa đảo làm thất thoát tiền.
Hiện nay ở nước ta, mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức kinh tế và quy định không được phát hành séc chuyển khoản quá số dư, nếu phát hành quá số dư sẽ bị phạt theo hợp đồng. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở nhiều nước đã áp dụng tài khoản vãng lai là tài khoản gộp tiền gửi không kỳ hạn và vay nóng tạm thời. Tức là cho phép doanh nghiệp phát hành séc quá số dư tiền gửi, nếu các doanh nghiệp áp dụng lành mạnh thì tích cực, nhưng ngược lại nếu doanh nghiệp lợi dụng trong điều kiện mở nhiều tài khoản giao dịch ở nhiều Ngân Hàng, phát hành quá số dư tràn lan sẽ gây ra nhiều vấn đề phức tạp và gây hậu quả nghiêm trọng. Đây cũng chính là vấn đề mà Ngân Hàng Thương Mại cần nghiên cứu để tìm ra giải pháp.
Biểu 6: Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại chi nhánh NH No & PTNT Quận Tây Hồ.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
So sánh
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
+ - (tr.đ)
+ - (%)
*.Tgửi không K.H
VND
USD
43089
38790
4299
67,36%
60,64%
6,72%
26092,5
20768,5
5324
23,46%
18,68%
4,78%
-16996,5
-18021,5
+1025
- 39,45
- 46,46
+23,84
*.T.Gửi có kỳ hạn
VND
USD
20886
20136
750
32,64%
31,47%
1,17%
85123,5
84313,5
810
76,54%
75,81%
0,73%
+64237,5
+64177,5
+60
+307,56
318,72
8
Tổng cộng
63975
100%
111216
100%
+47214
+38,84
Khách hành là các tổ chức kinh tế gửi tiền vào Ngân Hàng chủ yếu là sử dụng các dịch vụ thanh toán qua Ngân Hàng chứ không hoàn toàn vì mục đích hưởng lãi. Nhưng thực tế qua bảng số liệu trên cho ta thấy tỷ trọng nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn đã giảm khá mạnh điều đó khẳng định một vấn đề là các dịch vụ thanh toán qua Ngân Hàng của chi nhanh chưa đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn bằng đồng USD có tăng, cụ thể là năm 2002 đạt 5.324tr.đ tăng 1.025tr.đ so với năm 2001 tương ứng mức tăng là 23,84%. Điều này lại phản ánh ngược lại rằng các dịch vụ thanh toán qua Ngân Hàng của chi nhánh giữa cácTCKT với nước ngoài là rất tốt. Một khía cạnh khác cho thấy các tổ chức kinh tế nước ta hiện nay không chỉ trao đổi mua bán hàng hoá trong phạm vi quốc gia mà còn nhập khẩu- xuất khẩu ra nước ngoài, các mối quan hệ kinh tế với nước ngoài ngày càng được tạo lập. Do đó tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn bằng VND giảm mạnh, tiền gửi không kỳ hạn bằng VND tăng khá cao, còn tiền gửi có kỳ hạn lại chiếm tỷ trọng cao nhất. Điều này một mặt phản ánh nhược điểm trong sử dụng vốn của các tổ chức kinh tế là nguồn vốn ứ đọng còn nhiều. Một mặt phản ánh lợi thế của các tổ chức kinh tế là lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá lớn dẫn đến dư thừa nguồn vốn lớn nên tạm thời gửi vào Ngân Hàng để hưởng lãi.
Qua bảng số liệu trên ta thấy tiền gửi tổ chức kinh tế năm 2002 tăng hơn năm 2001 là 47.214tr.đ với mức tăng đạt 73,84%. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn giảm 16.996,5tr.đ, tiền gửi có kỳ hạn tăng mạnh đạt 64.237,5tr.đ tương ứng mức ăng là 307,56%.
Trong tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng cao 76,54%, phản ánh chính sách lãi suất đối với loại tiền gửi này của chi nhánh là rất cao so với các chi nhánh khác. Điều này giúp Ngân Hàng tạo thế ổn định trong kinh doanh nhưng lại làm tăng chi phí huy động vốn và vì thế mà giảm bớt lợi nhuận trong kinh doanh. Vì vậy, Ngân Hàng cần phải có giải pháp tốt để khai thác tối đa nguồn vốn này, như nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn tăng các tổ chức kinh tế thu được khoản lãi lớn do khoản tiền này mang lại vì lãi suất tiền gửi có ký hạn thường cao và ổn định. Nhưng nếu số dư tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thấp sẽ gây kho khăn cho các doanh nghiệp trong khâu thanh toán vì tính “lỏng” của tiền gửi trên tài khoản có kỳ hạn là rất thấp. Nếu có nhu cầu rút tiền trên tài khoản nay khi chưa đáo hạn thì chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn. Điều đó là rủi ro đối với các tổ chức kinh tế và với Ngân Hàng nếu khách hàng rùt tiền hàng loạt. Vì vậy, Ngân Hàng cần có giải pháp tốt để khuyến khích huy động tiền gửi không kỳ hạn sao cho giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn đạt được một tỷ lệ thích hợp trong từng thời kỳ.
2.3 Tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm của dân cư là nguồn vốn lớn nhất trên thị trường tiền tệ nhàn rỗi, bởi chính dân cư mới là chủ thể tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế nền sản xuất đa dạng. Trong dân cư quá trình sản suất kinh doanh dịch vụ ngoài “Của ăn” còn tích luỹ đựoc một phần “của đệ”. Trong khi đó thị trưòng tài chính trực tiếp như thị trường chứng khoán cổ phiếu trái phiếu, chưa thu hút người dân thì nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư chủ yếu được gửi vào Ngân Hàng. Quan hệ tiền tệ giữa Ngân Hàng và dân cư cũng sẽ tăng nhanh, mức thu nhập bình quân của người dân cũng được nâng cao và theo đó tỷ lệ tiết kiệm sẽ được nâng cao. Vì vậy, Ngân Hàng cần mở rộng hơn nữa địa bàn hoạt động vào khu vự dân cư, cần quan tâm hơn nữa nhu cầu và khả năng của đối tượng khách hàng này, tiền gửi của dân cư chủ yếu là tiết kiệm có thời hạn.
Biểu 7:Tiền gửi tiết kiệm tại chi nhánh NHNo&PTNT Quận Tây Hồ năm 2001-2002
Đơn vi :Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
So sánh
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
+ - (tr.đ)
+ - (%)
*T.G không kỳ hạn.
VND
USD
6588
5838
750
14,25%
12,64%
1,61%
5748
4997
751
6,58%
5,72%
0,86%
- 840
- 841
1
-12,75
-14,4
0,13
* TGTK có kỳ hạn
VND
USD
39613,5
15115,5
24498
85,75%
32,72%
53,03%
81492
45443
36049
93,42%
52,08%
41,32%
41878,5
30327,5
11551
105,72
200,64
47,15
Tổng cộng
46201,5
100%
87240
100%
41038,5
88,8
Qua biểu trên ta thấy, tổng nguồn tiết kiệm vẫn tăng qua các thời kỳ, mức tiết kiệm đầu tư vào Ngân Hàng tăng nhanh mặc dù trong năm 2002 Ngân Hàng đã nhiều lần điều chỉnh giảm lãi suất tiết kiệm xuống nhưng số dư tiết kiệm vẫn tăng so với năm 2001là 41.038,5tr.đ. Đó là điều đáng mừng vì nguồn vốn này sẽ là nhân tố quan trọng cho đầu tư kinh doanh.
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền mà người dân gửi vào Ngân Hàng với mục tiêu an toàn vốn và tích luỹ, hưởng lợi từ số tiền ấy. Tại chi nhánh NHNo & PTNT quận Tây Hồ tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn chiếm trên 93%. Sự phát triển và tăng trưởng của nguồn vốn đó là do các nguyên nhân sau:
- Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập tích luỹ cho nhu cầu chi tiêu trong tương lai của dân cư, như mua sắm các thiết bị, đồ dùng đắt tiền.
- Người dân chủ yếu gửi bằng ngoại tệ là do có tâm lý e ngại sợ tiền VND mất giá. Số người dân gửi bằng ngoại tệ với thời hạn trung và dài hạn là rất ít.
Theo quy định tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng thường được theo dõi trên một quyển sổ gọi là sổ tiết kiệm, sổ do khách hàng giữ còn Ngân Hàng giữ thẻ lưu. Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, mỗi lần gửi tiền được theo dõi trên một sổ riêng, Ngân Hàng coi mỗi thẻ tiết kiệm như một tài khoản phân tích. Như vậy, nếu một người gửi tiền tiết kiệm nhiều lần nhưng cùng kỳ hạn sẽ có nhiều tài khoản phân tích. ở phương diện khách hàng thì không có gì rắc rối song ở phương diện ngân hàng ta thấy có sự trùng lặp trong ghi chép số liệu lưu trữ, bảo quản theo dõi sổ sách kế toán, gây khó khăn cho cán bộ ở bộ phận tiết kiệm. Do vậy cần có biện pháp để đơn giản hoá công việc của cán bộ kế toán tiết kiệm trong việc hạch toán tiền gửi tiết kiệm.
Trên thực tế đã chứng minh, số lượng người gửi tiền tiết kiệm tại chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ còn thấp hơn rất nhiều so với số dân trên các địa bàn quận. Nguyên nhân thứ nhất là do thu nhâp của người dân chưa cao nhưng nguyên nhân chính là do khách hàng còn e ngại khi giao dịch với Ngân Hàng, đặc biệt là tâm lý lo ngại đồng VND mất giá khi tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới đang bị đảo lộn bởi cuộc khủng hoảng chính trị tại Irắc.
Thủ tục mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm trên lý thuyết rất đơn giản, chỉ cần một chứng minh thư nhân dân, kèm theo một phiếu gửi tiền và nộp tiền vào Ngân Hàng. Song trên thực tế thủ tục ấy làm cho khách hàng rất mệt mỏi khi phải chờ đợi vào sổ, kiểm đếm. Họ còn mệt mỏi hơn khi rút tiền cũng cần CMND, giấy lĩnh tiền tốn khá nhiều thời gian. Mặc dù Ngân Hàng đã cố gắng rút ngắn thời gian giao dịch với khách hàng song sự chờ đợi vẫn là điều còn tồn tại. Một nguyên nhân khác nữa là khách hàng gửi tiền ở đâu thì rút tiền ở đó nên có một số quỹ tiết kiệm có số dân tập trung quá đông.
Số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm vẫn tăng chứng tỏ chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ rất nỗ lực, cố gắng trong công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động của chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ không những đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của Ngân Hàng mà còn góp phần giữ thế cân đối, chủ động trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt nam.
2.4 Tài khoản tiền gửi cá nhân.
Các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn bắt đầu nhận thức được sự tiện lợi của việc thanh toán không dùng tiền mặt nên đã mở tài khoản giao dịch và nhận dịch vụ thanh toán của ngân hàng, họ đã sử dụng một số thể thức thanh toán thông dụng như: ngân phiếu thanh toán, séc, uỷ nhiệm chi. Với địa điểm giao dịch thuận lợi, việc thanh toán chuyển tiền qua mạng nhanh chóng và chính xác cho nên khách hàng mở tài khoản ngày càng tăng.
Thủ tục mở tài khoản tiền gửi cá nhân rất đơn giản, chỉ cần xuất trình CMND, gíấy xin mở tài khoản( có mẫu sẵn) và nộp 500.000đ ký quỹ. Hơn nữa chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong khi giao dịch, Ngân Hàng không thu lệ phí mở tài khoản tiền gửi cá nhân, hướng dẫn khách hàng, nêu những thuận lợi trong việc sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân.
Tình hình sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân chưa phổ biến là tồn tại chung của hệ thống Ngân Hàng Việt Nam. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó là do bốn yếu tố sau:
- Do dân chúng có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán, chi trả nên việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân chưa được hưởng ứng rộng vì khi chủ tài khoản phát hành séc cá nhân đẻ thanh toán, chi trả thì người bán hàng thường không chấp nhận hoặc rụt rè khi nhận séc. Vì họ chưa hiểu rõ về hình thức thanh toán này hoặc chưa mở tài khoản tại Ngân Hàng.
- Do thu nhập của dân cư tuy đã khá hơn trước song vẫn còn thấp, nhiều khi chỉ đủ chi tiêu, phần tích luỹ rất ít. Do đó chưa áp dụng hình thức trả lương vào tài khoản tiền gửi cá nhân nhiều. Một số người dân có thu nhập cao hoặc doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh đa mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân, séc cá nhân nhưng đại bộ phận dân chúng chưa tham gia. Hơn nũa thu nhập thấp mà lại phải trả một khoản lệ phí thanh toán qua Ngân Hàng nếu sử dụng tiền gửi cá nhân và phát hàng séc cá nhân chính là lý do khiến người dân chưa ủng hộ việc này.
- Một nguyên nhân nữa là Ngân Hàng chưa thực sự tích cực trong việc quảng cáo, tuyên truyền sâu rộng nhằm phổ biến trong nhân dân hiểu rõ và thấy được sự thuận lợi, an toàn của việc sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân và séc cá nhân.
- Nguyên nhân cuối cùng là do thu nhập thấp nên vấn đề lãi suất vẫn được khách hàng quan tâm. Ngân Hàng cần có chính sách lãi suất phù hợp. Mặt khác phải đa dạng hoá các dịch vụ Ngân Hàng, thực hiện việc thanh toán chi trả chính xác, kịp thời, nhanh chóng để khách hàng nhận thấy ưu điểm của việc mở và sử dụng loại tài khoản này.
Chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ đã khuyến khích cán bộ nhân viên Ngân Hàng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân song do thu nhập thấp, thường thì họ rút ra ngay để chi tiêu nên số dư không cao.
Những nguyên nhân cơ bản trên là những nguyên nhân khiến cho việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân chưa được người dân nhiệt tình tham gia.
Chương III
Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ huy động vốn nói chung và kế toán huy động vốn nói riêng tại chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ.
I. Kiến nghị nâng cao hiệu quả nghiệp vụ huy động vốn và kế toán huy động vốn của chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ.
1.Kiến nghị với nhà nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay, vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước là vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, trước sử biến động của nền kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là sự khủng hoảng về chính trị kể từ sau những sử kiện quan trọng như; cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đông nam á diễn ra đầu tiên ở thái lan, sử kiện 11/9/2001 diễn ra ở mỹ và hiện nay là cuộc chiến tranh của các nhà cầm quyền mỹ anh xâm chiếm đất nước IRắc đã làm cho nền kinh tế thế giới chao đảo, sử ảnh hưởng mạnh mẽ của đồng USD tới nền kinh tế của các nước là không nhỏ. Nên nhà nước phải có các giải pháp thích hợp để điều hành đất nước nói chung và hệ thống Ngân Hàng nói riêng. Đó là phải tạo môi trường pháp lý đồng bộ , môi trường kinh tế chính trị – xã hội ổn định từ đó tạo tâm lý tốt cho đầu tư phát triển nền kinh tế.
Tạo môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định: Nhà nước là cơ quan chức năng quyền lực, thông qua việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật phải xây dựng được môi trường pháp lý đồng bộ ổn định nhằm bảo vệ quyền của nhân dân nói chung và của người gửi tiền vào Ngân Hàng nói riêng. Nhà nước ban hành các văn bản liên quan tới lĩnh vực Ngân Hàng và kế toán phải đồng bộ và phù hợp giữa văn bản pháp luật về hoạt động Ngân Hàng với các văn bản pháp luật liên quan như luật doanh nghiệp, luật thương mại. Để thông qua đó khuyến khích tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
Tạo môi trường kinh tế chinh trị – xã hội ổn định: Nhà nước cần khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh có lợi cho nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất phát triển, tiền tệ ổn định, đời sống của người dân được nâng cao, có tích luỹ gửi vào Ngân Hàng. Tạo môi trường kinh tế chính trị – xã hội ổn định sẽ tránh được các biến động do sử mất giá của đồng tiền USD từ đó giảm tính bất thường giá trị các khoản tiền gửi tại Ngân Hàng .
Tạo môi trường tâm lý: Yếu tố tâm lý xã hội, trình độ văn hoá của từng dân tộc, từng quốc gia, có ảnh hưởng sâu sắc đến phương pháp tập trung huy động vốn, đây là những vấn đề cần phải được tính đến trong quá trình xây dựng chính sách và xây dựng các biện pháp huy động vốn phù hợp của Ngân Hàng. Chính vì vậy nhà nước cần phải xây dựng được môi trường pháp lý đồng bộ, môi trường kinh tế chính trị–xã hội ổn định.
2. Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước.
Bên cạnh một nền kinh tế chinh trị xã hội ổn định,để hệ thống Ngân Hàng hoạt động có hiệu quả thì Ngân Hàng Nhà Nước phải xây dựng được một hệ thống chính sách quản lý điều tiết hệ thống Ngân Hàng hợp lý.
- Cải tiến chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý: Lãi suất là giá cả trong hệ thống vốn và tiền tệ, cũng như giá cả thị trường hàng hoá và các thị trường khác, nó là yếu tố quan trọng quyết định đến cung cầu về tiền gửi. Lãi suất do Ngân Hàng quy định trên cơ sở tạo ra lợi nhuận của nền kinh tế và có thay đổi theo quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trên thị trường. Vì vậy việc áp dụng lãi suất trong huy động vốn đòi hỏi phải linh hoạt, phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan và phải đảm bảo được quyền lợi cho người gửi tiền, đồng thời tạo điều kiện cho Ngân Hàng có thể kinh doanh được.
- Đa dang hoá hình thức hy động vốn, đưa các công cụ thị trường tài chí mới để lưu động hoá hoạt động của Ngân Hàng và giúp Ngân Hàng phòng ngừa rủi ro: ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống Ngân Hàng cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn như; hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm có mục đích, tiết kiệm điện tử ,phát hành giấy tờ có giá.
- Hiện đại hoá công nghệ huy động vốn: Một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn là đổi mới công nghệ Ngân Hàng, tiếp cận với công nghệ hiện đại. Công nghệ Ngân Hàng không chỉ đơn thuần là các máy móc, thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động mà còn là cơ chế thanh toán trong nội bộ Ngân Hàng hay sử dụng tin học để quản lý chặt chẽ các mặt nghiệp vụ trong đó quản lý kế toán và thanh toán. Chính vì vậy Ngân Hàng phải không ngừng đổi mới công nghệ, đồng thời lựa chọn giải pháp công nghệ phù hợp với điều kiện, khả năng của Ngân Hàng .
3. Kiến nghị với chi nhánh NHNo & PTNN Quận Tây Hồ .
- Đẩy mạnh phát triển mạng lưới: Tích cực triển khai thành lập thêm các phòng giao dịch phù hợp với nhu cầu phát triển và hoạt động Ngân Hàng. Chú trọng đến những địa bàn có nhiều tiềm năng và thương nghiệp, công nghiệp phát triển để từ đó tạo điều kiện tăng cường huy động vốn và cung cấp các dịch vụ thanh toán.
- Đa dạng hoá hình thức huy động vốn và các tiện ích: Để duy trì sử phát triển và hoạt động có hiệu quả Ngân Hàng cần phải không ngừng phát triển nguồn vốn trên cơ sở đa dạng hoá hình thức huy động vốn như áp dụng hình thức tiết kiệm gửi một nơi rút nhiều nơi thông qua các phòng giao dịch. Đối với khách hàng dịch vụ này giúp họ tiết kiệm thời gian, tăng chi phí cơ hội, tạo tâm lý thoải mái và tránh được thình trạng quá tải của một số phòng giao dịch. Đối với Ngân Hàng dịch vụ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng phục vụ tốt hơn, đối tượng rộng hơn, phạm vi lựa chọn địa điểm linh hoạt hơn đồng thời là bước tiếp theo trong việc hiện đại hoá các dịch vụ thanh toán.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân và dịch vụ thanh toán trong dân cư: Phương thức thanh toán qua Ngân Hàng là cách huy động tiền gửi tốt nhất của các Ngân Hàng thương mại, đặc biệt hình thức này rất thích hợp với khu vực đô thị do thu nhập của dân cư khu vực đô thị là khá cao cộng với sự phát triển của hệ thống thương nghiệp hiện nay đã tạo điều kiện cho việc thanh toán qua Ngân Hàng. Vì vậy, để tăng nguồn vốn huy động Ngân Hàng cần quan tâm khai thác tối đa nuồn vốn trong dân cư ,đặc biệt là các hộ gia đình thương nghiệp, các viên chức nhà nước có mức thu nhập khá, nhân viên và lãnh đạo doanh nghiệp liên doanh, các công ty nước ngoài, các công ty xuất nhập khẩu, nhân viên và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân có thu nhập bình quân trên mức trung bình trong xã hội, các cá nhân khác có thu nhập khá cao trong dân cư, sau đó là tầng lớp người lao động khác. Bởi vì, tài khoản tiền gửi cá nhân có ưu điểm lớn là; việc rút tiền mặt trên tài khoản dễ dàng, thuận tiện như rút tiền gửi tiết kiệm . Không những thế, người có tài khoản tiền gửi cá nhân có thể phát hành séc cá nhân để thanh toán trực tiếp các khoản mua hàng hoá, tiền nhà, dịch vụ mà không cần rút tiền mặt để thanh toán. Làm như vậy sẽ góp phần to lớn giảm dần tiền mặt trong lưu thông. Dần dần tạo cho dân cư tiếp cận và sử dụng các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán, séc thanh toán. Sau khi cá nhân có tài khoản tiền gửi tại Ngân Hàng Thương Mại; Giám đốc doanh nghiệp, thủ trưởng cơ quan đơn vị được quyền trả lương và các khoản thu nhập khác ( nếu là công nhân viên chức ) vào tài khoản tiền gửi của từng người ở bất kỳ Ngân Hàng Thương Mại nào trên địa bàn mà cá nhân mở tài khoản. Cho dân cư được hưởng mức lãi suất tương đương mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, Ngân Hàng nên cung cấp dịch vụ miễn phí cho người dân để họ hăng hái mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân, làm quen với các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt mà Ngân Hàng cung cấp.
- Kiến nghị về áp dụng tài khoản vãng lai: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, giữa các Ngân Hàng luôn có sự cạnh tranh mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Một yêu cầu đặt ra là làm thế nào để duy trì được lượng khách hàng truyền thống mặt khác khai thác tối đa các khách hàng tiềm năng; theo em Ngân Hàng có thể sử dụng giải pháp sau, đó là mở tài khoản vãng lai cho khách hàng. Tài khoản vãng lai là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng và có thể thông qua tài khoản này khách hàng có thể sử dụng để vay tiền tạm tời khi cần thiết. Như vậy, tài khoản này có thể dư nợ hoặc dư có. Nhờ đặc điểm này nên tài khoản này rất thông dụng, phổ biến cho các doanh nghiệp và cho cả người dân. Sử dụng rất tiện lợi và linh hoạt, rất phù hợp với nền kinh tế thị trường. Vì vậy, theo em các Ngân Hàng Thương Mại nên cho áp dụng rộng rãi tài khoản vãng lai để tạo thuận lợi cho khách hàng khi đến giao dịch với Ngân Hàng, Ngân Hàng có thể áp dụng ưu điểm của tài khoản này để đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng khi cần, tạo sử thoải mái, tạo niềm tin cho khách hàng vào Ngân Hàng.
- Nâng cao trình độ cán bộ nhân viên và cải tiến phong cách phục vụ: Trước đây trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Ngân Hàng được coi là phù hợp. Song so với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển của Ngân Hàng hiện nay trình độ phần đông cán bộ Ngân Hàng còn bất cập. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn Ngân Hàng cần tiếp tục nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên công tác huy động vốn. Trước hết, người làm công tác huy động vốn phải thành thảo thể lệ, chế độ về huy động vốn, được đào tạo về tin học, về thanh toán quốc tế…Đáp ứng yêu cầu công việc hàng ngay càng phức tạp. Ngoài ra nhân viên trực tiếp về huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế phải được đào tạo riêng. Để khi giao dịch với khách hàng họ có thể giải quyết được các yêu cầu của khách hàng.
- Đẩy mạnh hoạt động marketing: Các Ngân Hàng Thương Mại trong thời gian qua đã quan tâm đến hoạt động tuyên truyền quảng cáo nhưng chưa đạt hiệu quả là do nguyên nhân; Phạm vi hoạt động marketing chưa được mở rộng các hình thức chưa được phong phú. Để nắm bắt được thị hiếu của khách hàng Ngân Hàng cần phải đẩy mạnh hoạt động marketing dưới nhiều hình thức như trên các phương tiện thông tin đại chúng; Đài truyền hình, đài phát thanh, trên các báo chi, các tạp chí và thông qua các hội nghị khách hàng… Nhằm phổ biến rộng rãi đến từng người dân các biện pháp khuyến khích gửi tiền, đặc biệt chú ý đến tính sinh lời của tiền vốn khi gửi vào Ngân Hàng. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng lựa chọn các hình thức gửi tiền thuận lợi, an toàn, nhanh chóng.
Bên cạnh đó thông qua các cuộc hội thảo với khách hàng, Ngân Hàng cần tranh thủ thăm dò ý kiến của khách hàng để đưa ra biện pháp phù hợp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Ngân Hàng, từ đó nâng cao hoạt động kinh doanh Ngân Hàng. Đồng thời kịp thời phát hiện và đình chỉ giao dịch với những khách hàng kinh doanh không có hiệu quả hoặc giảm ưu đãi đối với họ.
II một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn và kế toàn huy động vốn tại chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ
1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
1.1 Đa dang hoá các kỳ hạn gửi tiền.
Hiện nay, Ngân Hàng chỉ huy động các kỳ hạn 3tháng, 6 tháng, 12tháng…Thế nhưng khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền không khớp với những kỳ hạn huy động của Ngân Hàng sẽ không khuyến khích khách hàng gửi tiền. Chẳng hạn, khách hàng có tiền nhàn rỗi trong 10 tháng, trong khi Ngân Hàng chỉ có kỳ hạn 9 và 12 tháng, như vậy khách hàng không thu thêm được một tháng lãi từ số tiền nhàn rỗi của mình, đồng thời Ngân Hàng không tận dụng được tối đa số tiền nhàn rỗi của khách hàng. Do đó, Ngân Hàng nghiên cứu thêm về kỳ hạn 2tháng, 10 tháng hoặc 11 tháng…cho tiền gửi tiết kiệm .
Vấn đề thiếu vốn đầu tư trung và dài hạn đang là một trong những thách thức to lớn đối với các nhà kinh doanh. Do đó, ngân hàng cần có các hình thức huy động dài hạn từ 5 đến 15 năm. Để việc huy động vốn trung, dài hạn đạt hiệu quả cao thì Ngân Hàng phải đa dạng hoá các loại hình cụ thể là:
- Loại gửi một lần rút một lần ( lãi suất cao nhất ).
- Loại gửi một lần lấy lãi nhiều kỳ giữ nguyên vốn. Đối với loại này Ngân Hàng nên cho khách hàng lấy lãi hàng tháng hoặc lĩnh lãi 6 tháng một lần đối với tiền gửi có kỳ hạn dài từ 2 năm trở lên.
- Loại gửi nhiều lần góp thành số tiền lớn trong thời gian dài mới rút ra một lần, cần ưu đãi khách hàng bằng lãi suất của loại tiền gửi thời hạn dài.
- Loại gửi một lần dài hạn nhưng rút một phần trước hạn, cần ưu đại khách theo cách lĩnh lãi kỳ hạn tương đương nghĩa là một phần rút trước hạn sẽ được tính lãi tương ứng với thời hạn rút ra. Như vậy, người gửi không thiệt thòi khi phải rút ra một phần, không ảnh hưởng đến lãi của phần còn lại.
- Ngoài ra, Ngân Hàng cần phải có lãi suất ưu đãi, tăng lãi suất tiền gửi cho các doanh nghiệp có số dư tiền gửi cao từ 1 tỷ VND trở lên.
1.2. Phát triển tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân.
Tuy nguồn vốn nay thường xuyên biến động nhưng tính trên toàn bộ tài khoản tiền gửi thanh toán luôn tồn tại một số dư nhất định mà Ngân Hàng có thể sử dụng để cho vay. Hơn nữa, do chỉ phải trả lãi suất thấp thậm chí không trả lãi cho các tài khoản thanh toán, nên nếu Ngân Hàng mở rộng được nguồn vốn này thì sẽ có điều kiện hạ lãi suất huy động bình quân.
Hiện nay, Ngân Hàng sử dụng hình thức này chủ yếu với cán bộ nhân viên Ngân Hàng, chưa phát triển rộng rãi trong dân cư. Do đó, Ngân Hàng cần mở rộng và khuyến khích khách hàng sử dụng bằng cách Ngân Hàng nên phát hành séc tiền mặt để tạo điều kiện cho chủ tài khoản thức hiện thanh toán dễ dàng cho người bán chưa có tài khoản tại Ngân Hàng vẫn có thể rút tiền nhanh chóng, thuận tiện. Theo quy định hiện nay, cá nhân có tài khoản tiền gửi tại Ngân Hàng có nhu cầu phát hành séc thanh toán với giá trị lớn hơn 5 tr.đ thì phải đến Ngân Hàng làm thủ tục séc bảo chi. Trong khi séc cá nhân chưa phải là phương tiện thanh toán quen thuộc mà phiền hà thì không khuyến khích được người sử dụng và họ sẽ ưa thích sử dụng tiền mặt, ngân phiếu thanh toán hơn. Đồng thời, Ngân Hàng cũng nên có chính sách ưu đãi đối với khach hàng quen và làm ăn có lãi như cho phép sử dụng thấu chi trên tài khoản vãng lai trong hạn mức nhất định.
1.3. Triển khai các hình thức tiết kiệm mới.
1.3.1. Triển khai thực hiện tiết kiệm gửi góp.
Đây là hình thức huy động vốn thông qua nguồn vốn mà người có thu nhập ổn định mong muốn đủ tiền để mua sắm một số các vật dụng cần thiết nhưng trước mắt họ không đủ tiền.
Hình thức tiết kiệm gửi góp có hai phương thức sau:
+) Mua sắm ngay: Ngân Hàng cung ứng đủ tiền cho nhu cầu mua sắm ngay khi người gửi đã ký một số tiền nhất định vào Ngân Hàng và cam kết từng định kỳ tiếp theo lần gửi ban đầu ký gửi thêm một khoản tiền nhất định theo một số kỳ hạn đã được thông báo trước.
+) Mua sắm thời hạn: Ngân Hàng cung ứng đủ tiền cho nhu cầu mua sắm của người gửi khi người gửi đã ký gửi một số tiền nhất định ban đầu và trong những định kỳ tiếp theo lần gửi ban đầu với một số kỳ hạn nhất định ( ít nhất một tháng một lần ).
1.3.2 Triển khai hình thức tiết kiệm dưỡng lão.
Ngân Hàng cung cấp cho khách hàng một dịch vụ quản lý tiền tích luỹ cá nhân để đảm bảo nguồn sinh sống khi về già hoặc mất khả năng lao động.
Phần vốn gốc tích luỹ không bị mất đi nếu người thụ hưởng chết trước thời hạn mà họ sẽ được thừa kế trọn vẹn theo pháp luật hoặc có thể được hoàn trả cùng với lãi suất (sau thời hạn nhất định, tối thiệu là 10 năm) hoặc có thể trở thành các khoản thu nhập cố định tuy theo sử lựa chọn của người thụ hưởng đồng thời tổng thu nhập từ lãi được miễn thuế hoàn toàn.
Với hình thức tiết kiệm dưỡng lão thì người gửi được toàn quyền quyết định về số tiền, thời điểm gửi mỗi lần tuỳ theo khả năng tích luỹ thực có. Có thể nói, khi cung cấp loại hình này, Ngân Hàng sẽ khai thác được lợi thế về mặt tài chính từ một sản phẩm bảo hiểm truyền thống, mặt khác sản phẩm này lại mang tính xã hội rộng rãi.
1.3.3.Triển khai hình thức tiết kiệm học đường.
Phương thức này được triển khai và áp dụng tại các trường học nhằm giáo dục ý thức tiết kiệm cho học sinh, trên cơ sở hình thức kết dư tiết kiệm đáp ứng một phần chi tiêu cho nhu cầu học tập và làm tiền đề khi vào Đại học.
Khi triển khai hình thức này ngân hàng cần quan tâm đến hai vấn đề sau:
+) Vấn đề về thời gian: thời gian nên kéo dài vừa đủ phù hợp với từng lứa tuổi học sinh và khi chuẩn bị vào Đại học.
+) Vấn đề về lãi suất: Ngân Hàng phải có mức lãi suất thích đáng nhằm khuyến khích và giáo dục ý thức tiết kiệm cho lứa tuổi học sinh.
Hiện nay, hình thức này có sức cạnh tranh đặc biệt với ngành bảo hiểm và là hình thức có khả năng hấp dẫn người gửi tiền.
1.3.4. Triển khai hình thức tiết kiệm xây dựng nhà ở:
Đối với hình thức này, cần phải cải tiến để có tính kinh tế, hấp dẫn với khách hàng trong đó cần phải điều chỉnh 2 yếu tố về thời gian và mức cho vay.
Đối với hình thức này, khi người gửi tiền liên tục từ 5 năm trở lên thì được vay Ngân Hàng để đầu tư xây dựng hoặc mua nhà ở (nếu số tiền và lãi tích luỹ dến thời điểm đó cộng với các nguồn tự có khác đạt 50% giá trị của căn nhà ). Sau khi thẩm định Ngân Hàng sẽ căn cứ vào khả năng tích luỹ và hoàn trả của khách hàng đẻ quyết định cho vay, lãi suất cho vay được tính toán trên cơ sở lãi suất tiền gửi cộng với phí quản lý. Ngân Hàng sẽ nắm giấy tờ sở hữu và sử dụng nhà cho tới khi khách hàng trả hết gốc và lãi. Trong trường hợp khách hàng vi phạm quá nhiều lần thanh toán đã cam kết thì Ngân Hàng có quyền phát mại căn nhà để thu đủ cả gốc và lãi, số còn lại hoàn trả cho người vay.
1.3.5. Triển khai hình thức rút tiền qua may rút tiền tự động (ATM).
Đối với hình thức này, khách hàng cầm thẻ được cho một số nhận dạng cá nhân để gi nhớ, sau khi đưa thẻ vào trong may khach hàng sẽ bấm số trên bàn phím. Hành động này nối máy ATM với máy tính của Ngân Hàng, thông qua thông tin lưu trữ trên dải từ tính của thẻ, máy tính có thể đưa ra số tiền mặt mà người cầm thẻ muốn rút với một giới hạn nào đó, máy cho người cầm thẻ biết số dư trong tài khoản với điều kiện phải biết được chi tiết về Ngân Hàng của người được thanh toán. áp dụng hình thức này Ngân Hàng có thể đặt máy tại Ngân Hàng hoặc ở các cửa hàng bán lẻ lớn.
Hiện nay, giờ làm việc và ngày nghỉ của Ngân Hàng trùng với giờ hành chinh và ngay nghỉ của các doanh nghiệp, cho nên áp dung hinh thức này là rất cần thiết. Vì tính năng nhanh gọn và không giới hạn về thời gian nên sẽ thu hút được lượng lớn khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng.
Trên đây là các hình thức nhằm mở rộng công tác huy động vốn của Ngân Hàng. Vì vậy, Ngân Hàng cần nghiên cứu để đưa vào hoạt động làm tăng tính hấp dẫn và khuyến khích khách hàng hơn.
2. Vận dụng chính sách lãi suất hợp lý.
Trong tình hình hiện nay khi thị trường chứng khoán việt nam đã đi vào hoạt động và đang phát triển tương đối mạnh, đó sẽ là trở ngại lớn đối với Ngân Hàng nguồn vốn huy động rất có thể chảy sang thị trường chứng khoán, lãi suất của Ngân Hàng có thể bị ép phải nâng giá lên khi thị trường chứng khoán hấp dẫn với mức chia cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi Ngân Hàng. Do đó Ngân Hàng phải nắm bắt được những biến đổi trên thị trường ngoại tệ để có chính sách thích hợp trong chỉ đạo điều hành lãi suất.
Với nền kinh tế mở cửa, các chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài đã xâm nhập vào thị trường truyền thống của các Ngân hàng Thương Mại Quốc Doanh. Như vậy, có thể khẳng định rằng các Ngân Hàng sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh hơn trong huy động vốn, cho vay khách hàng trong những năm tới và vẫn lấy công cụ lãi suất làm tọng điểm trong chiến lược cạnh tranh của mình. Do đó, Ngân Hàng luôn phải áp dụng một mức lãi suất đảm bảo cạnh tranh để có thể hấp dẫn người gửi tiền vào Ngân Hàng nên chọn biểu lãi suất cao sao cho nhìn vào đó khách hàng có thể thấy ngay tính ưu đại của nó. Một lãi suất cao sẽ kích thích người dân kiềm chế những khoản chi tiêu để dành tiền cho đầu tư sinh lợi. Lãi suất tiền gửi cao còn chứa một thành tố tích cực là trong một chừng mực nhất định nó giúp phân phối lại thu nhập trong dân cư vì người được hưởng lợi của chính sách này là số đông dân cư, những người có lãi suất tiền gửi là một trong những nguồn thu nhập cho cuộc sống.
Ngoài ra, Ngân Hàng cần duy trì mức lãi suất giữa nguồn huy động trung, dài hạn và ngắn hạn. Trên thục tế mặc dù lãi suất trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn nhưng sau khi tính toán người ta thấy rằng, với cùng một món tiền gửi trong cùng một khoảng thời gian thì lãi suất thu được do gửi kỳ hạn dài vẫn thấp hơn so với kỳ hạn ngắn. Điều này đã làm thiệt thòi cho người gửi tiền trung, dài hạn thời gian gửi càng dài thì mức độ rủi ro họ gánh chịu càng cao. Do vây, cần thiết phải duy trì khoảng cách giữa mức lãi suất trung, dài hạn và ngắn hạn sao cho trong cùng một thời gian, cùng một khoản tiền gửi thì lãi thu được từ dài hạn cao hơn lãi thu được từ kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, biện pháp này không có nghĩa là phải tăng lãi suất huy động trung, dài hạn cao hơn vì như vậy sẽ dẫn đến phải tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn điều này các nhà kinh doanh khó chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao, họ sẽ không đầu tư mà lại gửi vào Ngân Hàng để hưởng lãi, điều này gây trở ngạy cho Ngân Hàng là không giải quyết được đầu ra. Do đó, Ngân Hàng cần có sự cân đối giữa lãi suất ngắn hạn và trung, dài hạn đồng thời phải đảm bảo không ảnh hưởng tới mức lãi suất huy động bình quân.
3. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân Hàng .
Hiện nay, phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các Ngân Hàng là cạnh tranh bằng loại hình và chất lượng dịch vụ. Do đó, để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân Hàng, nâng cao hiệu quả huy động vốn thì Ngân Hàng cần nghiên cứu triển khai các dịch vụ sau:
- Nâng cao hiệu quả dịch vụ tư vấn: Hiện nay, ở nước ta trình độ dân trí chưa cao, đặc biệt là một số vùng sâu vùng xa và miền núi chủ yếu người dân sống bằng nghề nông, tiểu thủ công nghiệp. Nên thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp, chưa có tích luỹ để gửi vào Ngân Hàng. Một mặt khác nữa là do tâm lý ngại giao dịch với Ngân Hàng, bởi không phải ai đến Ngân Hàng cũng hiểu biết rõ về sản phẩm dịch vụ của Ngân Hàng. Do đó khi khách hàng đến giao dịch thì Ngân Hàng có thể tư vấn cho họ nên chọn hình thức gửi tiền nào là phù hợp nhất.
Ngoài ra, Ngân Hàng cũng có thể nhận các dich vụ đại lý, uỷ thác như; Đại lý thanh toán, chuyển tiền, bảo quản hộ tài sản, dịch vụ lưu quản lý hộ chứng khoán và nhận lãi chứng khoán hộ khách hàng.
- Triển khai dịch vụ Home Banking.
Đây là một loại hình dich vụ được áp dụng vào trong lĩnh vực kinh doanh Ngân Hàng những năm gần đây, loại hình dịch vụ này rất mới đối với người dân song nó có ưu điểm rất lớn. Bên cạnh những khách hàng quen thuộc còn có những người chưa tiếp cận với Ngân Hàng, họ ít hoặc không hiểu biết về Ngân Hàng cũng như thủ tục gửi tiền. Do đó Hngân Hhàng nên cử nhân viên của mình để xuống tận nơi tiếp cận, hướng dẫn, giúp họ thực hiện các thủ tục gửi tiền khi nhận được điện thoại hoặc thư yêu cầu của họ.
4. Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục gửi, rút tiền.
Ngân Hàng cần trang bị thêm máy tính cho các phòng giao dịch, các quỹ tiết kiệm , hệ thống máy của phòng kế toán phải được nối vớ hệ thống máy của phòng thủ quỹ và phòng giao dịch qua đó để kiểm tra lẫn nhau, tăng độ chính xác, giảm thơi gian chờ đợi của khách hàng.
Ngân Hàng nên cho phép khách hàng thực hiện việc lĩnh lãi trong phạm vi 25 ngày kể từ ngày gửi của kỳ hạn gửi thay vì việc phải ruts vào đúng ngày đến hạn.
Hiện nay tại Ngân Hàng khách hàng có nhu cầu rút tiền thì phải rút đúng quầy mà họ gửi tiền, như vậy sẽ làm mất nhiều thời gian của khách hàng, để tạo tiện ích thực sự cho khách hàng, Ngân Hàng nên tổ chức thực hiện nhgiệp vụ cho phép khách hàng gửi tiền một nơi, rút tại nơi khác nghĩa là gửi một nơi nhưng rút được ở nhiều nơi. Để thực hiện được nghiệp vụ đó Ngân Hàng cần phải thực hiện mở thêm một số phòng giao dịch mang tính trọng điểm, về phía khách hàng khi gửi tiền phải có yếu tố an toàn, phải đăng ký mẫu dấu, mẫu chữ ký tại quầy huy động, phải tổ chức nối mạng để có thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, thông tin kịp thời.
5. Thực hiện tốt chính sách khách hàng- tìch cực tìm kiếm chọn lọc khách hàng lớn.
Chiến lược khách hàng là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Ngân Hàng. Vì vậy, việc đề ra chiến lược khách hàng và thực hiện tốt chính sách khách hàng là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có hơn 60 Ngân Hàng Thương Mại là tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ, trong đó có 3 Ngân Hàng liên doanh, 12 chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài và 21 văn phòng đại diện, 6 Ngân Hàng cổ phần và 9 chi nhánh Ngân Hàng cổ phần nên tất yếu có sự cạnh tranh gay gắt vá phân chia lại khách hàng . Khách hàng là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho sự thành công và phát triển của Ngân Hàng. Do đó, để đảm bảo cho công tác huy động vốn đạt hiệu quả cao thì Ngân Hàng phải có quan hệ rộng lớn và tin cậy với khách hàng. Muốn làm được điều đó thì Ngân Hàng cần có một đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng. Khi giải quyết công việc khẩn trương nhanh chóng nhưng vẫn phải đảm bảo tính chính xác, đúng chế độ, phải có sự khiêm nhường, tôn trọng bình đẳng với khách hàng bám sát địa bàn, gần gũi với khách hàng.
Yếu tố cần thiết để đảm bảo sự gắn bó lâu dài của khách hàng vào Ngân Hàng đòi hỏi Ngân Hàng phải luôn tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để cung ứng cho họ những sản phẩm dịch vụ mang tính tiện ích cao, đưa ra các chính sách khách hàng hợp lý với điều kiện của từng thời kỳ.
6. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quy luật kinh tế đặc trưng như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Phát triển thì yếu tố con người giữ vai trò quyết định thành công của Ngân Hàng trên thị trường. Những Ngân Hàng Thương Mại muốn thắng lợi trong cạnh tranh, phát triển với tốc độ cao và bền vững thì Ngân Hàng phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, có tầm nhìn xa, năng động hoạt bát, tinh thông nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ nhân viên, cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên sâu. Như vậy, Ngân Hàng mới tạo được sản phẩm chất lượng cao.Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy định, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả hơn. Mặt khác, trên cơ sở tiêu chuẩn hoá, cán bộ nhân viên có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát huy cao độ ý chí và nghị lực của mình.
Bởi vậy, Ngân Hàng hàng cần có những lớp bồi dưỡng nâng cao công tác quản lý, kỷ năng quản trị điều hành, nghệ thuật kinh doanh, nâng cao trình độ nghiệp vụ, thông tin cập nhật kiến thức mới…hàng năm.
Chỉ có thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo mới phát huy hết nội lực của cán bộ công nhân viên.
7. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo hiểm tiền gửi.
Đối với những người gửi tiền các khoản tiền gửi của họ được bảo vệ sẽ tạo cho họ có lòng tin vào Ngân Hàng. Do đó Ngân Hàng cần có mức bảo hiểm cao một cách hợp lý để tạo ra sự khích lệ cho những người gửi tiền. Không ngừng hoàn thiện hệ thống bảo hiẻm tiền gửi sẽ giúp Ngân Hàng thu hút khách hàng tiềm năng, mở rộng phạm vi hoạt động, tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động, tăng nguồn vốn kinh doanh, từ đó tăng doanh số cho vay của khách hàng, tăng thu nhập Ngân Hàng.
Kết luận
Một nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định là mục tiêu tất yếu của quốc gia, đặc biệt là Việt Nam chúng ta. Là một quốc gia còn nghèo nàn về kinh tế, tụt hậu về khoa học công nghệ, thì nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là phải thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đưa nước ta vươn lên trở thành một nước công nghiệp sánh vai với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới.
Trong điều kiện tình hình nền kinh tế thế giới biến động vô cùng phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế thế giới và các nước khác song Việt Nam chúng ta vẫn giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Điều đó đã tạo môi trường thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thu hút(huy động) nguồn vốn nước ngoài. Là một chi nhánh nhưng NHNo & PTNN Quận Tây Hồ, những năm qua đã không ngừng phát triển nguồn vốn huy động góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Đó là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, điều tiết vốn giữa các khu vực trong nền kinh tế. Mặt khác để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường với nguồn vốn ổn định, vững chắc. Ngân Hàng phải không ngừng cải tiến hoạt động kinh doanh nâng cao uy tín, tổ chức tốt công tác quản trị, quản lý với các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ khác nhau. Trong thời gian thực tập tại Ngân Hàng. Em đã tìm hiểu thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân Hàng. Tuy nhiên với năng lực bản thân và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và ban lãnh đạo Ngân Hàng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Hoàng Phú và các bác các cô trong ban lãnh đạo Ngân Hàng, các anh chị trong phòng kế toán chi nhánh NHNN & PTNN Quận Tây Hồ đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện chuyên đề này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1) Nghiệp vụ Ngân Hàng Thương Mại.
- GS. TS Lê Văn Tư.
2) Nghiệp vụ Ngân Hàng hiện đại.
- David Cox.
3) Nghiệp vụ Ngân Hàng nâng cao.
- Ngân Hàng Việt Nam.
4) Luật Ngân Hàng nhà nước và luật các Tổ chức Tín dụng.
- Chính phủ nước CHXHCNVN.
5) Giáo trình kế toán Ngân Hàng.
- Đại học kinh tế quốc dân.
6) Bài giảng kế toán Ngân Hàng.
- Học Viện Ngân Hàng.
7) Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân Hàng 2001, 2002.
- NHNN & PTNN Quận Tây Hồ.
8) Báo cáo công tác Ngân Hàng.
- NHNN & PTNN Quận Tây Hồ.
9) Ngân Hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
10) Tạp chí Ngân Hàng các năm 2002, 2003.
11) Thời báo Ngân Hàng.
12) Một số văn bản, tài liệu liên quan khác.
Nhận xét của Ngân hàng thực tập
……………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0557.doc