một số vấn đề về chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Thứ nhất kiến nghị Nhà nước sắp xếp lại doanh nghiệp trên các lĩnh vực sau đây:
Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ khả năng trong điều hành sản xuất kinh doanh và tài chính lành mạnh.
Chấn chỉnh việc cấp giấy phép hoạt động và kinh doanh đối với các doanh nghiệp mới, đặc biệt là các Công ty TNHH. Việc này phải đảm bảo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, cán bộ điều hành có đủ năng lực và phẩm chất.
Vì như trên đã nói nâng cao hoạt động tín dụng bắt đầu từ việc chấn chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời hạn chế cho thành lập ngân hàng cổ phần. Vì khi ngân hàng cổ phần thành lập nhiều sẽ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa khách hàng của các ngân hàng đây là cơ hội để bọn lừa đảo thực hiện phạm tội.
Xem lại các hoạt động công chứng, nhiều khi công chứng không chính xác tài sản thế chấp dẫn đến ngân hàng tin vào công chứng và bị lừa.
Tạo môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng ngân hàng được ổn định, đầy đủ cụ thể, không có sự mâu thuẫn với pháp luật về ngân hàng và của luật các tổ chức tín dụng.
31 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình kinh tế - xã hội. Qua số liệu thống kê, nhiều doanh nghiệp Nhà nước có trị giá taì sản còn lại chỉ bằng 61% nguyên giá tài sản cố định, còn vốn lưu động do Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước chỉ mới đạt khoảng 20% so với yêu cầu sản xuất kinh doanh nhưng thực tế chỉ đạt được 10% so với định mức. Chính vì vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Nhà nước phải đi vay ngân hàng với số lượng lớn, tỷ trọng vốn đi vay chiếm 80 - 90% vốn tự có, thậm chí còn gấp 3-4 lần vốn tự có. Vay nhiều thì phải trả nhiều, vì thế có người nói phải giả lãi vay cho ngân hàng nhiều là nguyên nhân trực tiếp gây thua lỗ. Điều này dễ hiểu, tiền ngân hàng cho vay là tiền ngân hàng đi vay của dân, có ngân hàng 70-80% nguồn vốn cho vay là tiền gửi tiết kiệm của dân. Còn lại là tiền có nguồn gốc vay từ nước ngoài hay tiền tạm vay từ tiền nhàn rỗi của các tổ chức khác. Họ có biết đâu, các khoản vay này ngân hàng phải trả cả gốc lẫn lãi không được khất hoãn. Vậy thì đó có phải là nguyên nhân trực tiếp không. Trên thực tế, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý thấp kém với trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Theo đánh giá của Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước về hoạt động của 5.800 doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thì kết quả cho thấy chỉ còn 37% hoạt động có hiệu quả, còn 46,4% chưa có hiệu quả thuộc diện khó khăn tạm thời, có số nợ phải thu khó đòi và lỗ luỹ kế là 1.135 tỷ đồng và 16,6% còn lại thuộc diện không có hiệu quả với số luỹ kế và nợ phải thu khó đòi lên đến 1.763 tỷ đồng, các doanh nghiệp này 75% vốn Nhà nước tan thành mây khói.
Một trong vấn đề nữa là trong các DNNN có nhu cầu gần như vô hạn đối với vốn vay ngân hàng, buộc các NHTM phải cho vay quá mức so với vốn tự có của doanh nghiệp. Các NHTM bị đẩy vào tình thế "tiến thoái lưỡng nan" nếu không cho vay thì dư nợ quá hạn thậm chí mất khả năng chi trả càng tăng trong khi ngân hàng không đảm bảo về mặt pháp lý. Việc xử lý đối với các khoản nợ quá hạn của các DNNN, doanh nghiệp kinh tế, Đảng đoàn thể, tổ chức kinh tế tập thể đang tồn đọng tại các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ tại các tổ chức tín dụng hầu như không được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cơ quan chủ quản quan tâm trả nợ. Đối với các trường hợp này, đơn vị có nợ và cơ quan chủ quản xem việc "xù nợ" tại các tổ chức tín dụng là điều hiển nhiên. Hiện tượng khá phổ biến mà bất cứ ai có một chút quan tâm đến hoạt động ngân hàng đều có thể nhận thấy rằng: thời gian qua, có không ít DNNN làm ăn thua lỗ, phá sản được các cơ quan chủ quản (Bộ, ngành, tỉnh) ra quyết định giải thể, sau thành lập đơn vị mới (với bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị vừa giải thể)để "xù" các khoản nợ của tổ chức tín dụng này và tiếp tục quan hệ với các tổ chức tín dụng khác.
Không riêng gì DNNN mà ngay cả đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng vậy. Trong thời gian qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được thành lập một cách ồ ạt, mở rộng với qui mô lớn song lại tách rời với khả năng tài chính. Một thực trạng đáng lo ngại là ngoài sự yếu kém về trình độ công nghệ, trình độ quản lý, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang quá ít vốn và thực tế cho biết không ít trường hợp doanh nghiệp ngoaì quốc doanh hoàn toàn không có vốn để hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời bằng" vốn ảo" vì vậy hoạt động sản xuất của các DNNQD chủ yếu bằng vốn vay hoặc vốn chiếm dụng .
Thực trạng tài chính của các doanh nghiệp như trên đã nảy sinh tình trạng tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn tự có. Mà hoạt động tín dụng bắt đầu từ sản xuất kinh doanh gắn bó với việc chu chuyển đồng vốn và quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá phục vụ cho đời sống của nhân dân. Hay nói cách khác, hoạt động tín dụng bắt đầu từ nội dung hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất lưu thông. Có "cầu" thì mới có "cung". Cầu đúng đắn, chính đáng thì cung mới bảo đảm và phát huy tác dụng. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã làm cho rủi ro trong tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Để nâng cao chất lượng tín dụng thì việc chấn chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Hay cụ thể hơn là bắt đầu từ chấn chỉnh chế độ tài chính của các doanh nghiệp, cho dù ngân hàng có đề ra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nhưng thực tế ngân hàng làm sao kiểm soát nổi? Bởi lẽ hoạt động kinh tế tài chính muôn hình vạn trạng, hơn nữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với ngân hàng lại là bình đẳng, thậm chí khách hàng còn là thượng đế của ngân hàng. Khi có sự kiểm soát thì sự việc đã diễn ra rồi. Trên thực tế, khoảng cách giữa người cho vay và khách hàng còn xa, không có nghiệp vụ tín dụng gắn liền với mối quan hệ tiếp xúc thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng. Vấn đề thông tin và nắm bắt tình hình biến đổi kinh tế-xã hội tác động đến khách hàng còn chậm, không đầy đủ và xử lý chưa triệt để.
Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngân hàng có sẵn sàng tiếp thêm vốn cho doanh nghiệp để "vượt cạn" không? đây là câu hỏi mà ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu tiếp thêm vốn thì lỡ mất hết thì sao. Nếu không tiếp thêm vốn để cho khách hàng "vượt cạn" có thể trả được cả nợ lẫn nợ mới thậm chí cả lãi thì sao. Đây là một chi phí cơ hội mà ngân hàng cần xem xét, đánh giá cẩn thận trước khi quyết định cho vay tiếp hay thôi. Sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân NHTM. Ngân hàng có thể tìm biện pháp như thương lượng, gia hạn nợ, giảm nợ.... để giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, tránh cho mình được rủi ro.
Những khó khăn mắc phải trong hoạt động tín dụng.
Về nguyên tắc cho vay, phải có tài sản đảm bảo có thể là tín chấp hoặc thế chấp tài sản. Về tín chấp, ngân hàng phải xét uy tín, khả năng chi trả của khách hàng, hoặc uy tín bảo lãnh cho khách hàng đó. Nếu như xem xét khách hàng có đầy đủ uy tín thì có thể cho vay tín chấp. Trong bài viết "thu thập thông tin khi thẩm định cho vay cá nhân và hộ gia đình: Khâu quan trọng không thể bỏ qua" của tác giả Mai Anh (chi nhánh NHNo và phát triển nông thôn Thăng bình Quảng Nam) có đoạn viết rằng: một khi không biết chắc chắn rằng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào mục đích gì thì tuyệt đối không nên cho vay mặc dù khách hàng có tài sản thế chấp... "cán bộ tín dụng cần cảnh giác với nhóm đối tượng tìm mọi cách để vay bằng được vốn ngân hàng, nhóm khách hàng này thường đang sắp phá sản, cần vốn để cứu nguy khẩn cấp. Vì vậy họ dùng mọi thủ đoạn từ việc năn nỉ đến quà cáp, biếu xén, hối lộ cán bộ tín dụng, những việc mà khách hàng có lòng tự trọng không bao giờ làm, miễn sao vay được nhiều vốn càng tốt". Đây là một rủi ro đạo đức do khách hàng gây nên. Chúng ta không nên coi trọng quá vấn đề tín chấp hay tài sản thế chấp. ở Việt Nam đã thiên vị, coi trọng vấn đề thế chấp hơn là tín chấp. Trong luật cầm cố, người đi vay phải chuyển tài sản cho ngân hàng, điều này chưa triệt để vì trong lĩnh vực thương mại không thích hợp. Ví dụ: Trong thế chấp kho ngân hàng không thể quản lý được. Bản chất của sự cầm cố là người vay tín dụng phải đưa tài sản của mình cho ngân hàng cầm cố trong khi về mặt pháp lý họ vẫn là chủ sở hữu của tài sản đó (ở đây có sự khác biệt giữa sở hữu về mặt pháp lý và sở hữu thực tế quyền sử dụng).
Trong trường hợp thế chấp kho hàng, ngân hàng không thể thể lấy hàng hoá trong kho đưa về ngân hàng được. Trường hợp này cần uỷ thác cho người thứ ba trông coi kho và quản lý tài sản đó. Đây là một khâu sơ hở dẫn đến rủi ro cho ngân hàng do khách hàng và cán bọ tín dụng ngân hàng gây nên. Điển hình là vụ án gần đây nhất: Epco - Minh Phụng.
Đây là vụ án lớn nhất từ trước đến nay bao gồm 77 bị cáo trong đó còn 18 cán bộ ngân hàng, gây tổng thiệt hại hơn 4.300 tỷ đồng. ở đây chúng đã sử dụng thủ đoạn. Cách luật để vay vốn ngân hàng. Ngoài việc thành lập nhiều Công ty "ma" nhỏ để vay vốn ngân hàng cho chúng sử dụng thì chúng còn sử dụng thủ đoạn nhập khẩu hàng hoá thông qua pháp nhân của cá DNNN có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá như: Ngũ cốc, Công ty xuất nhập khẩu Đất Việt... các DNNN nhập khẩu hàng hoá ở nước ngoài về đều có bảo lãnh của ngân hàng. Song các doanh nghiệp lại đem lô hàng đó thế chấp cho ngân hàng bảo lãnh (ngân hàng nhận thế chấp tài sản của mình). Khi hàng được nhập về Việt Nam, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Nhà nước đem bán trên thị trường hoặc phân phối các đại lý ở phía Nam. Theo qui định của Chính phủ và Bộ thương mại, mà bán lòng vòng cho Công ty Minh Phụng, thậm chí bán cả hàng thế chấp mà không cần xin ý kiến của ngân hàng.
Việc Công ty xuất nhập Ngũ cốc và các Công ty khác trong vụ án Epco- Minh Phụng tự ý bán hàng thế chấp đã vi phạm cam kết trong hợp đồng.Hàng chỉ được xuất khỏi kho khi có sự đồng ý hoặc lệnh giải chấp của ngân hàng. Bất chấp những cam kết trong hợp đồng, lợi dụng ngân hàng không kiểm tra, giám sát hàng thế chấp, Nguyễn Xuân Phong và Liên Khui Thìn đã ngang nhiên bán hàng thế chấp lấy tiền sử dụng.
Mặt khác cùng một lô hàng đã được ngân hàng bảo lãnh khi nhập khẩu, nhưng khi bán cho doanh nghiệp trong nước thì lô hàng đó lại được Công ty Epco- Minh Phụng đề nghị ngân hàng bảo lãnh một lần nữa. Với thủ đoạn mua bán lòng vòng, thì cuối cùng Tăng Minh Phụng nhận được tiền bán hàng nhập khẩu và các Công ty nhập khẩu ban đầu lại mua số hàng nhập khẩu ban đầu với giá thấp hơn giá nhập khẩu lần đầu. Thực tế không có sự dịch chuyển cơ học của hàng hoá mà chỉ thông qua giấy tờ. Điều này cũng dễ "che mắt" vì có sự tiếp tay của cán bộ nhân viên ngân hàng.
Tính đến ngày khởi tố 24/03/1997 với các hình thức ký 217 hợp đồng tín dụng, 99 hợp đồng bảo lãnh, 9 thư tín dụng (L/C), Liên Khui Thìn và Tăng Minh Phụng cùng 47 Công ty con khác đã rút được 5.223 tỷ đồng của chi nhánh ngân hàng công thương và chi nhánh ngân hàng ngoại thương TP. Hồ Chí Minh.
Quay trở về với vấn đề thế chấp và tín chấp. Văn bản Nhà nước về cấp tín dụng đều qui định rất ngặt nghèo việc cho vay và không có bảo đảm trong luật các tổ chức tín dụng. Thậm chí còn "hình sự hoá" vấn đề này. Điều này có làm cho chất lượng tín dụng tốt hơn không? thực tế vấn đề cho vay có đảm bảo đã ăn sâu vào tâm trí mọi người đến mức hầu hết các đoàn thanh tra, kiểm tra ngân hàng Nhà nước đều đòi hỏi tất cả các món vay đều phải có tài sản thế chấp, mặc dù nhiều văn bản của Chính phủ hoặc NHNN vẫn cho phép vay tín chấp, không có tài sản thế chấp như đối với xí nghiệp quốc doanh, nông dân nghèo, sinh viên.... vấn đề làm cho NHTM coi tài sản thế chấp là nguồn thu nợ thứ hai và là nguồn thu nợ duy nhất nên đã không quan tâm đến xem xét thẩm định thu từ doanh thu, lợi nhuận hoặc thu nhập của khách hàng. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả. Phương án vay vốn có tính khả thi rõ ràng cũng bị từ chối cho vay thì không có tài sản thế chấp. Nhưng vay tín chấp thì sao. Có lẽ hiệu ứng "Fameco" làm cho các ngân hàng thương mại cảnh giác quá mức cần thiết khi không cần. Trong kinh tế thị trường vì bao nhiêu bất ngờ rủi ro chờ đợi các doanh nghiệp, có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thế nhưng chỉ dựa vào tài sản thế chấp không phải là giải pháp hữu hiệu. Thực trạng các NHTM có hàng trăm ngôi nhà thế chấp không bán được để thu nợ, gây tổn thất cho ngân hàng.
Bài học rút ra từ vụ án Epco - Minh Phụng vẫn còn. Được sự giúp đỡ, bảo lãnh của Huỳnh Văn Thành -Nguyên chủ tịch và ông Phạm Tấn Khoa- nguyên phó chủ tịch UBND quận 3 TP. Hồ Chí Minh đã che dấu hoạt động kinh doanh thua lỗ của Công ty Epco- Minh Phụng, nâng vốn và hạch toán lãi tạo điều kiện cho bọn chúng tiếp tục vay vốn ngân hàng hoạt động và lấy vốn vay chia lãi. Hay được sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã cố ý nâng giá tài sản thế chấp hoặc đem thế chấp cho nhiều ngân hàng khác nhau. Đây là bài học cho cán bộ ngân hàng về sự lơ là trách nhiệm, làm việc trên giấy tờ, văn bản đề nghị của khách hàng để định món vay.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng là các tài sản nợ, có tính thanh khoản cao và chủ yếu phải chi trả, phải thanh toán ngay khi có yêu cầu của chủ tài khoản, trong khi đó ngân hàng lại sử dụng nguồn vốn để đầu tư và cho vay, dưới dạng tài sản có tính thanh khoản thấp, khó định giá và thường có thời gian trung bình dài hơn so với thời gian huy động vốn. Dưới góc độ chế độ kế toán nhìn từ bản cân đối tài sản của một ngân hàng ta thấy: bên nguồn vốn thì phần lớn là huy động từ nguồn ngắn hạn (dưới một năm) nhưng về tài sản thì ngân hàng lại cho vay đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh trên 1 năm và các hoạt động kinh tế khác của các thành phần kinh tế, cho vay trung và dài hạn.
Trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng thì tín dụng hiện nay là một vấn đề đáng bàn. Nền kinh tế thị trường của chúng ta đã có những tác động làm nảy sinh những vấn đề rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng, rủi ro của ngân hàng đã được thực tế chứng minh trong thời gian dài vừa qua và được nhiều nhà khoa học bàn đến: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản...
Những rủi ro trên đối với hoạt động ngân hàng cũng là những tổn thất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng,gây ra những trục trặc trong quá trình kinh doanh. Qua theo dõi tình hình tội phạm kinh tế liên quan đến hoạt động ngân hàng trong những năm qua cho thấy nổi lên là tình trạng lừa đảo chiếm dụng vốn vay của ngân hàng hay thông qua các thủ đoạn nâng giá trị tài sản thế chấp, hoặc sử dụng hồ sơ giấy tờ giả vay nhiều ngân hàng, hoặc sử dụng một hồ sơ vay nhiều ngân hàng khác. Khi ngân hàng bị lừa đảo dẫn đến hậu quả nặng nề: tài sản Nhà nước bị mất, ngân hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng bị phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội của một cộng đồng.
Tội phạm lừa đảo trong thời kỳ bao cấp chủ yếu lừa đảo tài sản riêng của công dân và một số nhỏ lưà đảo tài sản Nhà nước, nhưng khi nền kinh tế thị trường ra đời thì tội lừa đảo bắt đầu xâm nhập vào ngân hàng ngày một nghiêm trọng, tài sản Nhà nước bị thất thoát nhiều hơn với một mức độ đáng lo ngại. Chỉ tính từ năm 1993-1997 đã xảy ra hơn 724 vụ lừa đảo trong ngân hàng, có vụ lên tới hàng trăm tỷ đồng: các đối tượng lừa đảo này ngày càng thủ đoạn những thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt thậm chí trắng trợn. Đối tượng lừa đảo trước kia còn mang tính đơn lẻ, tự phát đến nay trở thành có tổ chức, lừa đảo trên một phạm vi rộng, số lượng tài sản lớn. Đối tượng lừa đảo ngân hàng chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanhvà tư nhân, tổng số 335 vụ lừa đào có 254 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 460 tư nhân, 10 DNNN. Phòng cảnh sát kinh tế công an tỉnh Nam Định phát hiện Dương Thuý Hiền Giám đốc Công ty TNHH Tuyết Thu đã sử dụng tới 66 bộ hồ sơ nhà đất giả, có công chứng giả để thế chấp 3 ngân hàng vay trên 13 tỷ đồng sau đó bỏ trốn. Tham gia vào vụ lừa đảo này có 3 giám đốc Công ty TNHH và 3 tư thương. Đáng lưu ý, số cán bộ tín dụng ngân hàng của 3 ngân hàng đã không làm đúng chức năng nhiệm vụ được giao như kiểm tra hồ sơ vay, thẩm định tài sản thế chấp, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay để khi đối tượng vay bỏ trốn vẫn không biết- hoặc Vũ Văm Nam, giám đốc Công ty TNHH Thiên Thanh Hà Nội cùng vợ Trần Bích Thuỷ trong 3 năm (từ 1994-1996) bằng một thủ đoạn dùng một tài sản thế chấp vay vốn nhiều ngân hàng và các doanh nghiệp 23 tỷ đồng sau đó bỏ trốn.
Một dạng khác là sử dụng giấy tờ nhà thuê của Nhà nước đem thế chấp vay vốn ngân hàng sau đó thực hiện hành vi lừa đảo, hoặc trước khi bán nhà, đem bộ hồ sơ nhà đất làm công chứng, sau đó bán nhà bằng hồ sơ gốc rồi đưa hồ sơ công chứng để vay thế chấp để thực hiện hành vi lừa đảo.
Cuối năm 1996, lực lượng cảnh sát kinh tế phát hiện một thủ đoạn khá tinh vi của 3 sinh viên trường Cao đẳng ngân hàng và cán bộ kho bạc Hà Nội đã dùng hoá chất tẩy các chữ viết trong tờ trái phiếu kho bạc mệnh giá 200 nghìn và 300 nghìn, sau đó nghi mệnh giá mới từ 100 triệu đồng đến 680 triệu đồng, dùng con dấu giả và chữ ký giả của ban lãnh đạo kho bạc Hà Nội để làm giấy xác nhận cho các tờ trái phiếu, lừa một ngân hàng Hà Nội lấy trên 2 tỷ đồng chia nhau sử dụng cá nhân. Hoặc vụ lừa đảo của Đặng Thị Hồng thủ quĩ ngoại tệ ngân hàng công thương Hải Dương chiếm đoạt 100 nghìn USD trên đường vận chuyển nộp quĩ ngân hàng công thương Việt Nam ngày 04/02/1997. Bằng thủ đoạn như vậy Nguyễn Thị Thời đã rút của kho bạc Thái Nguyên gần 5 tỷ đồng suốt từ năm 1993-1997.
Tình trạng cán bộ nhân viên ngành ngân hàng lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao để tham ô tiền bạc của ngân hàng cũng xẩy ra khá phức tạp với nhiều thủ đoạn khác nhau. Hơn 10 cán bộ tín dụng của hai chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nho Quan và huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình đã dùng thủ đoạn thu nợ vay của các hộ nông dân số tiền 5,1 tỷ đồng nhưng không nộp quĩ đem đánh đề, mua sổ xố, đánh bạc, cho vay lại với lãi suất cao hơn, khi không còn có khả năng trả nợ thì lập hồ sơ vay khống để vay tiền trả các món nợ cũ (đảo nợ). Hoặc vụ 4 cán bộ cửa hàng vàng bạc thuộc chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình làm hồ sơ giả, thế chấp vàng giả để tham ô 6,9 tỷ đồng đem đánh bạc, đánh đề: khi không có còn khả năng thanh toán trả nợ ngân hàng các đối tượng đã bỏ trốn. Những thủ đoạn trên đây đã xảy ra ở một số ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, như ở chi nhánh huyện Cao Lộc, Trùng Khánh- Lạng Sơn; chi nhánh Văn Yên (Yên Bái), chi nhánh Bảo Khánh (Lào cao); chi nhánh Vĩnh Châu (Sóc Trăng).
Ngoài ra một số cán bộ, nhân viên ngân hàng còn lợi dụng thủ đoạn chuyển tiền của ngân hàng thông qua tài khoản của khách hàng được mở tại ngân hàng để tham ô, hoặc lợi dụng việc dùng ngân phiếu, tiền mặt trong quá trình quyết toán để đánh tráo những tờ ngân phiếu, tiền có mệnh giá thấp vào tiền có mệnh giá cao để tham ô chiếm đoạt tài sản của Nhà nước đã xẩy ra ở một số chi nhánh ngân hàng thương mại tại các tỉnh Thái Nguyên, Thanh Hoá, Lâm Đồng ,TP. Hồ Chí Minh... trong thời gian gần đây, lực lượng công an phát hiện một số đối tượng phạm tôị lợi dụng chuyển tiền bất hợp pháp qua hệ thống ngân hàng như vụ Trịnh Thị Lan Phương đã chuyển tiền từ Hà Nội vào TP. Hồ Chí Minh thông qua ngân hàng số tiền gần 30 tỷ đồng. Hoặc vụ buôn bán 7,2kg herôin của vợ chồng Xiêng My và Căn Tha Vông với Trần Văn An xảy ra tại Hà Tĩnh. Các đối tượng sau đã bán được hêrôin chúng đã chuyển được 3,4 tỷ đồng thông qua tài khoản mở tại ngân hàng từ TP. Hồ Chí Minh ra Hà Tĩnh.
Trong thời gian qua, có một số Việt Kiều, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc từ nước ngoài lợi dụng con đường tham quan du lịch, thăm người thân ở Việt Nam đã dùng thẻ thanh toán tín dụng quốc tế (Master card) được làm giả ở nước ngoài để rút tiền ở các ngân hàng như vụ Lê Công Đảng, Phan Đình Chương và Trần Toàn Việt là Việt Kiều Mỹ đã dùng thẻ tín dụng giả lừa trung tâm Kiều Hối 68 Lê Lợi quận 1 TP. Hồ Chí Minh lấy số tiền 40 nghìn USD. Hoặc vụ Ramran Takis Siddiam và Adnan Takis Sidqui (đều mang quốc tịch Pakistan) dùng hộ chiếu giả để lừa đổi sec du lịch cửa hàng vàng bạc thuộc Công ty kinh doanh vàng bạc Hà Nội, bị công an Hà Nội bắt giữ. Chúng đã lừa nhiều chi nhánh ngân hàng được 25 nghìn USD. Trong năm 1997, 3 chi nhánh ngân hàng Hải Phòng đã bị một số đối tượng người nước ngoài lừa đổi séc du lịch giả với số tiền là 31 nghìn USD.
Đứng thứ hai trong nhóm các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hàng là tội cố ý làm trái các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nhiều vụ án lớn trong thời gian qua được phát hiện như vụ lừa đảo của Lý Hóc Hỷ, giám đốc Công ty TNHH đầu tư và phát triển kinh tế Sóc Trăng, vụ Tamexco, vụ Công ty dệt Nam Định, Epco Minh Phụng, vụ VPBank, vụ Công ty TNHH Tân Hoàn Mỹ TP. Hồ Chí Minh.... cho thấy tình trạng cố ý làm trái, nhận hối lộ của nhiều cán bộ, nhânviên ngành ngân hàng trong quá trình xét duyệt hồ sơ cho vay, thẩm định tài sản thế chấp, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay, thậm chí tái bảo lãnh sai nguyên tắc, khi đối tượng vay không trả được nợ thì lại áp dụng thủ tục đảo nợ nhằm làm "trong sạch" sổ sách để trốn tránh sự phát hiện của các đoàn kiểm tra, thanh tra của ngân hàng và các cơ quan chức năng.
Việc bảo lãnh của các ngân hàng cho các doanh nghiệp mở L/C mua hàng trả chậm cũng nảy sinh nhiều tiêu cực. Chủ yếu là do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý làm trái của một số cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng do không quản lý theo dõi được thời gian, địa điểm, hàng hoá nhập về, quá trình bán hàng và thanh toán trả nợ ngân hàng để các đối tượng vay bán hết hàng, đem vốn sử dụng vào các mục đích khác nhau, hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích để các đổi tượng khác chiếm dụng vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán trả nợ ngân hàng. Ngân hàng đứng ra bảo lãnh phải lấy vốn của mình trả nợ cho phía nước ngoài để đảm bảo uy tín, trong khi đó, đối với các doanh nghiệp được bảo lãnh thì phải chuyển sang nợ quá hạn và cho vay bắt buộc.
Tóm lại, quá trình trưởng thành, phát triển của NHTM trongcơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn chặt một cách hữu cơ với quá trình phát triển tín dụng. Một ngân hàng thương mại mạnh cũng có nghĩa là khối lượng vốn và tín dụng ở đó được tăng trưởng một cách vững chắc, an toàn và có hiệu quả. Kết quả kinh doanh của ngân hàng là tổng hợp của nhiều nhân tố nhưng hoạt động tín dụng vẫn là khâu quyết định. Như đã trình bày ở trên, chất lượng tín dụng bắt đầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước tiên. Bên cạnh đó còn những tồn tại vướng mắc như nợ quá hạn, nợ đóng băng, rủi ro trong hoạt động kinh doanh cần được khắc phục.
Những tồn tại này do nhiều nguyên nhân khác nhau để có thể khắc phục được chúng ta cần phải tìm hiểu các nguyên nhân đó.
3. Những nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng giảm.
Việc phân tích được các nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng giảm là một việc hết sức cần thiết để từ đó phân tích, đánh giá các rủi ro, có biện pháp ngăn ngừa khắc phục có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân khác nhau tác động tổng hợp các hoạt động tín dụng, song tuỳ theo góc độ nhìn nhận và nghiên cứu, đánh giá khác nhau mà nguyên nhân được nhìn từ góc độ này hay góc độ khác. ở đây việc nghiên cứu đề tài một cách tổng quát nên chia thành nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Những nguyên nhân chủ quan được đề cập ở đây là chủ quan thuộc về NHTM, các tổ chức kinh doanh tiền tệ.
Có thể đề cập đến nguyên nhân chủ quan đầu tiên là kỷ thuật cấp tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng hiện nay.
Kỷ thuật cấp tín dụng hiện nay của các tổ chức tín dụng chủ yếu dựa trên đơn xin vay của khách hàng và phương án kinh doanh do khách hàng soạn thảo. Kỷ thuật cấp tín dụng vừa mang tính duy ý chí chủ quan của bên cấp tín dụng, vừa thiếu cơ sở khách quan của nền kinh tế. Thông thường một đơn xin vay đều có ghi rõ mục đích sử dụng tiền vay, số tiền xin vay và thời hạn trả nợ. Song điều đó hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người xin vay và khó có thể biết chắc rằng rằng, việc sử dụng tiền vay như vậy không đạt được mục tiêu đề ra trong phương án kinh doanh hay không. Vì vậy kèm theo đơn xin vay thì có phương án sản xuất kinh doanh như là một cơ sở để chứng minh cho ý đồ của người vay. Vấn đề đặt ra là độ tin cậy của phương án kinh doanh đó đạt đến mức độ nào, thì khó có tiêu chuẩn nào đánh giá và dự đoán được. Và khi có sự dự đoán không chính xác, nghiễm nhiên ngân hàng phải chịu rủi ra. Đấy là chưa nói đến tình trạng là: về nguyên tắc các phương án sản xuất kinh doanh phải do người đi vay thành lập hoặc có thể thuê người lập nhưng không phải là cán bộ tín dụng, tuy nhiên hiện nay hầu hết họ không có khả năng tự lập dự án và cũng chưa có chuyên trách hướng dẫn, do cán bộ tín dụng phải trực tiếp hướng dẫn cho người viết đơn xin vay, sau đó chính mình lại thẩm định dự án. Do vậy việc thẩm định dự án chỉ mang tính hình thức, thiếu khách quan vì cán bộ tín dụng "vừa đó bóng, vừa thổi còi".
Các dự án vay vốn với số lượng khách hàng đa dạng, phong phú, với lại thường theo một mẫu chung, thường là mẫu in sẵn, người vay chỉ ghi thêm số liệu vào bảng tái khẳng định. Nhưng nội dung quan trọng thể hiện tính khả năng thực thi của dự án không được đề cập đến. Cán bộ tín dụng không có số liệu về định mức kinh tế - kỹ thuật, thông tin giá cả nên không có cơ sở khoa học để kiểm tra số liệu của dự án. Hơn nữa, một khi việc cấp tín dụng chỉ đặt ra chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của bên cho vay quyết định, thì vấn đề tiêu cực trong quan hệ tín dụng sẽ có điều kiện nảy nở. Đặt vấn đề thẩm định và người quyết định cho vay phải chịu trách nhiệm vật chất nếu rủi ro xảy ra thì chắc chắn tín dụng sẽ bị co cụm lại và vấn đề đảm bảo tín dụng sẽ được đặt ra một cách khắc nghiệt. Và như vậy, khối lượng tín dụng không thể vượt quá giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Việc cho vay của ngân hàng lại quá đề cao vai trò của tài sản thế chấp, cầm cố. Do vậy khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngân hàng chỉ còn giải pháp là xin nợ tài sản thế chấp. Nhưng do biến động của nền kinh tế và do thướng đánh giá không đúng giá trị của tài sản thế chấp nên ngân hàng khó có thể thu được vốn. Thường thì giá trị tài sản thế chấp được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó, do vậy khi phát mại thì thâm hụt. Đấy là chưa kể hiện nay vấn đề phát mại tài sản thế chấp, cầm cố gặp nhiều khó khăn. Theo như Quyết định 217 của Thống đốc NHNN cũng như luật của các tổ chức tín dụng có quy định: Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, nếu hai bên không có thoả thuận nào thì ngân hàng có quyền bán tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để thu hồi nợ cho một thời gian nhất định theo qui định của pháp luật. Quyền được bán của ngân hàng trong trường hợp này không phải tự ý bán là được mà phải thông qua cơ quan pháp luật, chủ yếu là toà án để chờ giải quyết.
Thời gian qua, các ngân hàng đã nổ lực vượt bậc để thu hồi nợ quá hạn. Để phát mại tài sản thế chấp, không ít ngân hàng đã kiện con nợ ra toà, những mong với sự giúp đỡ của cơ quan pháp luật, họ sẽ thu hồi được tiền vay. Thế nhưng kiện thì vẫn kiện, con nợ vẫn không giảm được. Nguyên nhân là do tài sản thế chấp ở khâu toà án rất phức tạp, thủ tục nhiêu khê vừa tốn kém vừa mất nhiều thời gian, thậm chí còn bất lợi về phía ngân hàng. Chính điều này làm nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn do dư nợ cho vay đứng hoặc giảm xuống, tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên.
Vẫn còn yếu kém trong khâu quản lý nhân sự. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức, về thực tế, có một số cán bộ tín dụng của ngân hàng hiện nay còn thiếu trình độ năng lực về phân tích và xử lý thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát các khoản vay, thậm chí còn có những cán bộ tín dụng thái hoá biến chất, cố tình làm sai quy trình tín dụng để tham ô tiền bạc của ngân hàng với nhiều thủ đoạn tinh vi khác nhau như: thu nợ không nộp quỹ, lấy tiền để chơi đánh bạc, mua xổ số, cho vay lại với lãi suất cao, hay tiếp tay cho bọn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, vay ké Hoặc sửa chữa tài khoản để rút tiền sử dụng mục đích cá nhân.
Trình độ năng lực quản lý điều hành của các cán bộ ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của thị trường. Nhiều cán bộ đã gắn bó nhiều năm với cơ chế bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường bị hững hụt về kiến thức cả về kinh tế lẫn pháp luật, trình độ ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ chuyên môn chưa đáp ứng được. Điều này cũng thể hiện sự yếu kém trong khâu quản lý của ban lãnh đạo. Hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát phát hiện những vi phạm vẫn còn chậm xử lý. Thiếu thận trọng khi đặt quan hệ tín dụng với khách hàng, và khoảng cách giữa ngân hàng và khách hàng còn khá xa. Sự phối hợp giữa ngân hàng với cơ quan tư pháp vẫn còn chưa đồng bộ, chặt chẽ.
Bản thân ngân hàng cũng có nhiều chậm trễ trong việc tham mưu, đề xuất ban hành sửa đổi, bổ sung các chính sách có liên quan đến hoạt động ngân hàng như: bảo lãnh, thế chấp, cầm cố, phát mại tài sản thế chấp... hoạt động của các ngân hàng trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa thừa, không ổn định, bên cạnh đó một số chủ trương, chính sách ngành ngân hàng lại luôn được thay đổi, thậm chí trong thời gian ngắn. Nhiều NHTM cho rằng trong thời gian qua NHTM Việt Nam ban hành nhiều qui định tự trói buộc các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Nhiều vấn đề thực tế xảy ra nhưng lại chưa được quy định, bổ sung kịp thời, những qui định của Nhà nước, Chính phủ thì NHNN Việt Nam chậm hướng dẫn NHTM thực hiện.
Những nguyên nhân khách quan cũng tác động không những đến hoạt động tín dụng. Một trong những nguyên nhân sâu xa và là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm đất nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ một nền nông nghiệp lạc hậu. Trong khi đó luật pháp Việt Nam vừa thiếu, vừa không đồng bộ còn chồng chéo. Việc ban hành một số chủ trương, chính sách kinh tế của Chính phủ do không dự đoán trước được những khó khăn vướng mắc khi triển khai thực hiện đã tạo nên những bất cập và rủi ro không thể đoán trước được. Các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng như buôn lậu, cờ bạc, số đề, hụi họ, do họ muốn làm giàu một cách nhanh chóng.
Năng lực phẩm chất của khách hàng hạn chế dẫn đến thua lỗ hoặc lừa đảo chụp giật... năng lực kinh doanh kém hiệu quả nên mặc dù nhiều khách hàng có phương án kinh doanh và tính khả thi cao nhưng lại không có hiệu quả, hoặc cố tình lừa đảo, sử dụng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích. Đã thế môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện. Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng ngân hàng chưa đầy đủ, cụ thể: về vấn đề tài sản thế chấp, cầm cố, chưa có sự rõ ràng về quyền sở hữu về mặt pháp lý và quyền sử dụng... các quy định về luật kế toán, thống kê, kiểm toán chưa đầy đủ, tín dụng thương mại trở thành phổ biến nhưng chưa có định chế về lưu thông.
Các quy định của pháp luật và các yêu cầu giải quyết các tranh chấp tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự phát mại tài sản, bán đấu giá còn chưa rõ ràng cụ thể:
Việc thực hiện nguyên tắc lập quỹ dự trữ bắt buộc chưa thực hiện nghiêm chỉnh, quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều sơ hở: và quản lý kinh doanh của ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng cấp dưới, ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ, đầy đủ, đúng với chức năng ngân hàng của các ngân hàng. Chủ yếu quản lý, điều hành bằng mệnh lệnh, bằng văn bản vừa cứng nhắc vừa không cụ thể và không nắm được, hỗ trợ được cho các ngân hàng cấp dưới.
4. Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro:
Phân tích được nguyên nhân, thấy được rủi ro tín dụng là do đâu để từ đó có đánh giá mức độ và khắc phục. Phân tích rủi ro tín dụng là hoạt động bắt buộc trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng. Chất lượng của công tác phân tích rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào trình độ của cán bộ tín dụng, không có một chuẩn mực chi tiết mang tính cố định cho hoạt động này. Phân tích rủi ro tín dụng là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi khoản cho vay tín dụng.
Trước khi ngân hàng có một quyết định đầu tư vào một dự án hay một tài sản thế chấp nào đó, bản thân mỗi NHTM với công việc đầu tiên đều phải đánh giá hiệu quả và rủi ro của việc đầu tư đó, phải xác minh cân đối giữa khả năng, giữa lợi nhuận thu được và mức độ rủi ro liên quan có thể chấp nhận được hay không (mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận). Khi cho vay đầu tư đối với cá nhân và tổ chức, về nguyên tắc đánh giá không có gì khác nhau, mà chỉ khác ít nhiều về nội dung đánh giá.
Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng khác nhau, tuy nhiên hiện nay phương pháp thông thường đang được nhiều định chế tài chính áp dụng trên thế giới là phương pháp "5c" để phân tích tín dụng. Phương pháp này, khi phân tích tín dụng thông qua 5 chỉ tiêu khác nhau.
a. Vốn: thông qua mức vốn để đánh giá thực trạng và tình hình hoạt động của đối tác vay vốn. Vốn là yếu tố quan trọng thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng. Mặc dù sức mạnh tài chính chỉ là một tỷ số các yếu tố liên quan đến việc đánh giá rủi ro, những thông tin có được để đánh giá vốn nói chung sẽ hình thành cơ sở để đánh giá các yếu tố khác như khả năng năng lực tài chính. Do vậy, để đánh giá rủi ro tín dụng luôn luôn bắt đầu từ việc đánh giá sức mạnh tài chính của người vay, cần đánh giá về thực trạng tài chính của người vay và thu nhập dự kiến trong tương lai của người vay.
b. Khả năng trả nợ : Phân tích khả năng hoàn nợ của đánh giá vay vốn. Việc đánh giá khả năng hoàn nợ của khách hàng là cực kỳ quan trọng, nó quyết định chất lượng tín dụng. Khi đánh giá khả năng hoàn trả, điều quan trọng phải phân tích đó là yếu tố dòng tiền, bao gồm dòng tiền vào và dòng tiền ra và đánh giá việc thu nhập và lợi nhuận trong tương lai của họ để từ đó chắc chắn nguồn trả nợ của khách hàng. Khi phân tích yếu tố này chủ yếu căn cứ vào việc phân tích bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp.
c. Đặc tính:Đánh giá đặc tính và khả năng độc lập trong kinh tế của đối tác vay vốn. Khả năng độc lập trong kinh tế của khách hàng là yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh của khách hàng đó. Khách hàng phải có khả năng độc lập cao trong kinh doanh, là người giám quyết, giám làm và chịu trách nhiệm trong kinh doanh không mang tính mạo hiểu nhiều.
d. Điều kiện: Phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài có thể ảnh hưởng đến tình hình hoạt động trong tương lai cuả đối tác vay vốn. Các yếu tố bên trong và bên ngoài cũng là yếu tố quan trọng liên quan trực tiếp đến rủi ro của khoản vay. Các yếu tố này thường tạo ra những rủi ro thướng không được báo trước, đôi khi cả những rủi ro bất khả kháng. Người phân tích tín dụng hay cán bộ tín dụng khi phân tích đòi hỏi phải đưa ra những trường hợp xấu nhất để lường trước những rủi ro có thể phát sinh trong thời gian khách hàng vay vốn, đặc biệt đối với các khoản vay có thời hạn dài.
e. Thế chấp: Đánh giá những bảo đảm để hỗ trợ và bảo đảm cho các khoản vay vốn. Mặc dù khi vay vốn, mục tiêu của ngân hàng không phải thu hồi tài sản thế chấp mà thu hồi tiền vốn, tiền vốn và lãi. Song tài sản thế chấp dùng làm bảo đảm cho khoản vay trước hết tăng cường trách nhiệm của người và đối với tiền mình vay và sau đó bảo đảm cho số tiền vốn ngân hàng cho vay.
Khi phân tích rủi ro tín dụng, cả 5 chỉ tiêu này cần được đánh giá rất kỹ lưỡng. Với mỗi chỉ tiêu các ngân hàng lượng hoá theo hình thức chấm điểm. Phương pháp tính điểm hiện nay với nhiều ngân hàng tiến hành chấm điểm theo hệ thống ký hiệu ABC và được sắp xếp lần lượt từ Aaa -C.
Ngoài những ký hiệu trên để định lượng chính xác, nhiều ngân hàng còn xây dựng tính điểm cụ thể cho mỗi chỉ tiêu và căn cứ vào những điểm số này, ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hoặc đầu tư hay không. Điểm trong phân tích được hiểu như một hình thức đo lường được tính theo phương pháp xác suất thống kê. Dựa vào khả năng hoàn trả của khách hàng. Điểm này sẽ được chấm với từng chỉ tiêu, tuy nhiên đối với từng khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp đều có những tiêu thức khác nhau để xác định. Với từng vấn đề, số điểm tối đa, tối thiểu nhác nhau dựa theo từng cách sử dụng của người đánh giá.
5. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Để đánh giá được chất lượng hoạt động tín dụng có những chi tiêu trực tiếp như dựa trên tổng dư nợ cho vay hay mức nợ khó đòi trong khả năng có thể chấp nhận được ở Việt Nam hiện nay là 5% tổng dư nợ cho vay, thấp hơn so với thế giới là 8% tổng dư nợ cho vay. Nhưng chỉ tiêu này cũng chưa xác định được rõ ràng vì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nước ngoài ra ta có thể đánh giá một cách gián tiếp thông qua xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư tín dụng, nhất là đối với đầu tư tín dụng theo dự án. Đó là đầu tư trung - dài hạn.
a. Nguyên tắc xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư tín dụng.
Bất cứ một hoạt động nào cũng đòi hỏi chi phí và thường đạt một số kết quả nhất định. Mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được gọi là hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả xem xét trên khía cạnh kinh tế của vấn đề. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế đạt được và chi phí phụ thuộc vào chủ đề và mục tiêu mà chủ thể đặt ra.
Hoạt động đầu tư tín dụng theo dự án là một quá trình xem xét cấp vốn tín dụng trên cơ sở những dự án có tính khả thi. Đây là hoạt động đầu tư phát triển, là hoạt động tín dụng - trung - dài hạn của các NHTM. Tham gia hoạt động này vì các chủ thể: ngân hàng, khách hàng và Nhà nước. Vì vậy hoạt động đầu tư tín dụng theo dự án có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung và đối với ngân hàng, khách hàng nói riêng.
Đối với mỗi quốc gia, vai trò của đầu tư tín dụng trung- dài hạn được thể hiện ở chỗ góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy và đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế lâu dài và vững chắc, đảm bảo tính độc lập và tự chủ của mỗi quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một doanh nghiệp, tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hệ thống NHTM là một hệ thống kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong việc nắm bắt thị trường, có khả năng thẩm định các dự án đầu tư, công trình đầu tư. Với việc phân tích và thẩm định một cách toàn diện khách hàng, nghiêm túc dự án trước khi cho vay đã giúp cho ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm thu hồi vốn và có lãi. Do vậy, việc ngân hàng tài trợ vốn trung - dài hạn cho các doanh nghiệp vừa bảo đảm tài chính về mặt tốc độ cơ cấu sản xuất, vừa bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó việc xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư tín dụng phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
Một là, nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và hiệu quả. Theo nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn để xác định hiệu quả kinh tế khi mục tiêu này thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế thay đổi. Mỗi chủ thể có những mục tiêu khác nhau khi tham gia hoạt động đầu tư theo dự án. Mục tiêu của mỗi chủ thể thay đổi theo từng thời kỳ. Nếu NHTM coi nâng cao lợi nhuận là tiêu chuẩn hàng đầu thì tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh tế là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận thu được từ dự án đó. Khi ngân hàng không nhấn mạnh yêu cầu về lợi nhuận mà nhấn mạnh về mục tiêu trước mắt là phải thu hút khách hàng và mở rộng tín dụng thì tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế và số lượng dự án đầu tư tham gia và số lượng khách hàng được đầu tư.
Hai là, nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích. Theo nguyên tắc này, hoạt động đầu tư tín dụng theo dự án được xem là có hiệu quả khi có lợi ích của các chủ thể tham gia được kết hợp một cách hài hoà. Nếu lợi ích của một chủ thể nào đó bị vi phạm, hoạt động đó sẽ bị ảnh hưởng không thể trôi chảy được. Hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động đầu tư tín dụng theo dự án nói riêng luôn gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đó là mối quan hệ tạo tiền đề và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Cần thấy rõ ràng sự cung cấp tín dụng , đặc biệt tín dụng trung và dài hạn luôn kéo theo sự huy động tài nguyên xã hội rất lớn và một mục tiêu cụ thể nào đó. Chính sự huy động đó, nếu đạt hiệu quả cao sẽ mang lại cho xã hội và ngân hàng to lớn và ngược lại ,nếu không đạt hiệu quả cao sẽ gây tổn thất cho xã hội và bản thân ngân hàng. Điều này đã được chứng minh qua hoạt động thực tiễn của tín dụng ngân hàng. Vì vậy đầu tư tín dụng theo dự án phải bảo đảm phương châm lấy hoạt động chung của nền kinh tế và hiệu quả riêng của khách hàng làm mục đích và đồng thời phải bảo đảm hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo cơ chế thị trường.
Ba là, nguyên tắc về tính chính xác và đơn giản. Để đánh giá hiệu quả kinh tế của một dự án đầu tư phải dựa trên một hệ thống chỉ tiêu có thể lượng hoá được và không lượng hoá được. Vì vậy phải có sự kết hợp giữa phân tích định tính và định lượng. Tính chính xác trong việc đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án trước hết thể hiện tính trung thực của các số liệu thông tin của dự án, tiếp đến là ở phương pháp tính toán và kết quả tính toán.Kết quả tính toán chỉ có sức thuyết phục khi các số liệu thông tin được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền cung cấp hoặc qua thu thập , khảo sát thực tế. Phương pháp tính toán có ảnh hưởng đến kết quả khá lớn. Kết quả tính toán của một dự án rất lớn, vì vậy cần kết hợp tính chính xác và tính đơn giản để giảm bớt khối lượng tính toán không cần thiết, đỡ tốn kém tiền của và công sức. Đương nhiên tính toán đơn giản thường có sai số nhưng sai số trong mức độ cho phép trên cơ sở sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến thay đổi về chất.
b. Một số chỉ tiêu đánh giá.
1. Chỉ tiêu tỷ lệ giữa lợi ích và chi phí
Đây là chỉ tiêu so sánh giữa lợi ích thu được (Benefit - B) và chi phí bỏ ra (Cost-C) của dự án. Chỉ tiêu này cho biết lợi ích thu được trên một đồng vốn bỏ ra. Vì vậy, nếu hệ số B/C=1 thì dự án có thể chấp thuận. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm là không biết được qui mô tiền lời của dự án.
2. Lãi ròng hàng năm và lãi ròng của dự án.
Lãi ròng là chênh lệch giữa doan thu với chi phí. Lãi ròng hàng năm bằng doanh thu trừ đi chi phí trong năm. Lãi năm trong cả đời dự án tính bằng tổng doanh thu của cả đời dự án trừ đi tổng chi phí của cả đời dự án. Để tính toán chính xác lãi ròng cần tính đến giá trị thời gian của giá trị đồng tiền. Cụ thể ,cần chuyển toàn bộ một khoản tiền phản ánh doanh thu và chi phí của dự án được phát sinh ở các thời điểm khác nhau về điểm gốc thông qua lãi suất chiết khấu thực chất của lãi ròng được tính theo thời điểm gốc còn gọi là ròng giá trị hiện tại rong hay hiện giá thuần (Net Presnt Value-NPV).
3. Chỉ tiêu lợi ích ròng trên tổng vốn đầu tư.
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia theo tổng vốn đầu tư. Đây là thước đo khả năng sinh lời của vốn đầu tư, là chỉ tiêu quan trong để xác đinh hiệu quả vốn đầu tư. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của dự án càng cao và ngược lại.
4. Lãi suất lợi nhuận ròng của doanh số ngân hàng:
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia cho doanh số bán hàng. Tỷ lệ này được sử dụng để so sánh hiệu quả vốn đầu tư đối với từng loại sản phẩm để có sự lựa chọn đầu tư cho sản phẩm nào có hiệu quả hơn hoặc so sánh với cùng loại sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường để thấy rõ mức độ cạnh tranh.
5. Tỷ suất lợi nhuận của vốn sở hữu.
Được xác định bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn sở hữu. Tỷ suất này cho biết một đồng vốn của chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ đó, cán bộ tín dụng có thể xác định được khả năng huy động lợi nhuận của khách hàng để thu nợ khi cần thiết.
6. Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ. Nó có ưu điểm:
- Cho biết khả năng sinh lời của dự án.
- Có thể so sánh với lãi suất thị trường để quyết định đầu tư vì nó biểu thị lãi suất tối đa mà các dự án có thể chịu đựng được.
7. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn:
Nó phản ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư nhanh hay chậm. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm:
- Không xem xét đến phần thu nhập được sau thời gian hoàn vốn;
- Không tính đến thời điểm phát sinh của chi phí và thu nhập.
- Không tính đến qui mô của dự án
8. Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn của dự án.
Cần phải xem xét cơ cấu vốn vay và vốn cổ phần. Phải có một cơ cấu vốn hợp lý vì sử dụng vốn vay phải trả lãi cố định, còn sử dụng vốn cổ phần sẽ phải trả lãi theo mức độ hiệu quả của dự án. Thông thường, cơ cấu này có thể là 50/50 hoặc 60/40, 70/30.
9. Chỉ tiêu phân tích khả năng thanh toán.
Gồm tỷ lệ lưu hoạt và tỷ lệ cấp thời.
Tỷ lệ lưu hoạt bằng
=
Giá trị tài sản có lưu động
Giá trị tài sản nợ ngắn hạn và nợ đến hạn
Tỷ lệ cấp thời
=
Giá trị tài sản có lưu động - Giá trị tồn kho
Giá trị tài sản nợ ngắn hạn
Dự án được đánh giá là có khả năng đánh giá tốt nếu:
- Tỷ lệ lưu hoạt trong khoảng từ 2-4.
- Tỷ lệ cấp thời vào khoảng một.
10. chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ của dự án.
Được xác định bằng tỷ lệ giữa khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án và nghĩa vụ hoàn trái (bao gồm nợ gốc và lãi phải trả hàng năm) dự án được đánh giá có khả năng trả nợ tốt nếu tỷ lệ này bằng hoặc lớn hai.
Phần II
một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế những rủi ro, hạn chế đến mức thấp nhất thất thoát tài sản của Nhà nước, lấy lại lòng tin của ngân hàng đối với khách hàng, thiết lập một hệ thống ngân hàng hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, góp phần vào công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thì trong thời gian tới ngành ngân hàng và các cơ quan chức năng cần:
Đối với ngành ngân hàng
Trước hết cần tập trung lành mạn hoá tình hình tài chính của tất cả các tổ chức tín dụng bằng việc xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi. Các tổ chức tín dụng đã tiến hành đánh giá, phân loại, phải phân tích nợ quá hạn, đồng thời phân tích hiệu quả kinh tế của từng món vay và tính hình tài chính của khách hàng có nợ quá hạn ngân hàng, trên cơ sở đó đề ra biện pháp để thu hồi vốn. Đối với nợ quá hạn ngân hàng mà ngân hàng đã xiết nợ bằng tài sản, những tài sản đó đã có đủ hồ sơ pháp lý hợp pháp thì thực hiện việc phát mại hoặc đưa sang trung tâm đấu giá tài sản thu hồi vốn vay. Trường hợp không có thị trường tiêu thụ hoặc tiêu thụ chậm, NHTM được phép khai thác bằng các hình thức cho thuê hoặc sử dụng các hoạt động kinh doanh tạo nguồn thu bù đắp phần lỗ phải trả huy động vốn. Những tài sản thể chấp đã xiết nợ chưa đảm bảo tính pháp lý cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành chức năng để hoàn thiện và tiếp tục xử lý. Sau khi phân tích nợ ,đôn đốc các khách hàng trả nợ và xử lý phát mại tài sản thế chấp ,nếu vẫn không còn có khả năng thu, thì đề nghị Nhà nước cho phép hạch toán vào rủi ro và được phân bổ cho những năm sau.
Rà soát để sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng không còn phù hợp với tình hình hiện tại trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình hoạt động đã nảy sinh nhiều vấn đề mới, hiện nay Quốc hội đã quyết định nâng pháp lệnh ngân hàng thành luật. Đây là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, nhưng để các vi phạm của luật đưa vào cuộc sống và phát huy hiệu quả cần phải nhanh chóng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo thực hiện .
Trích lập quĩ dự phòng rủi ro. Vấn đề này cũng cần phải được kế hoạch khoa học như: tạo lập bằng năng lực tài chính thực, đều đặn trong một khoảng thời gian nhất định, tích luỹ trong một thời gian nhất định, yêu cầu này phải xuất phát từ thực trạng hoạt động của ngân hàng. Phân loại và xác định mức độ rủi ro từ đó có quyền chủ động xử lý rủi ro, giải toả tâm lý lo sợ "hình sự hoá" quan hệ nhân sự các hoạt động ngân hàng đã phát sinh và tồn tại gần đây.
Cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng cần được đào tạo và đào tạo lại cho phù hợp với năng lực trong thời kinh tế thị trường, tinh thông về nghiệp vụ, nhanh nhạy thích ứng với điều kiện nền kinh tế mở. Kiên quyết đưa ra khỏi ngành ngân hàng những cán bộ thái hoá biến chất, làm trái nguyên tắc quản lý tài chính, kinh tế cũ mục đích vụ lợi để bọn lừa đảo lợi dụng. Thường xuyên theo dõi sát sao và tiến tới việc thực hiện thay đổi, luân chuyển cán bộ định kỳ theo cơ chế.
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vốn vay: đó là khâu quan trọng trong hoạt động đầu tư tín dụng, nó quyết định đến hiệu quả đầu tư tín dụng. Dự án đầu tư hay phương án kinh doanh có hiệu quả, có lãi là điều kiện, là cơ sở để ngân hàng thu hồi vốn và lãi. Vậy để công tác thẩm định đảm bảo chất lượng, điểm cốt yếu là phải có cán bộ thẩm định tín dụng giỏi, không những am hiểu về nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ thẩm định mà còn phải sâu cả lĩnh vực kinh tế và nghiệp vụ đầu tư.
Phải lựa chọn được khách hàng, cần tạo ra mối quan hệ thường xuyên và tin cậy trong mối giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy phải có chiến lược về khách hàng, chính sách khách hàng cho phù hợp. Về vấn đề này, ngân hàng thương mại cần xây dựng riêng một qui chế về chính sách khách hàng một mặt đa dạng hoá, đa phong hoá khách hàng, mặt khác ưu tiên cho những khách hàng làm ăn có hiệu quả, quan hệ tốt với khách hàng.
Một hoạt động không thể thiếu được đó là công tác kiểm tra, kiểm soát. Để đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát trước hết phải bố trí đội ngũ kiểm tra viên có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, am hiểu pháp luật và có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp mặt khác phải có chế độ ưu đãi ,làm việc đúng mức. Kiểm tra, phát hiện và phối hợp với cơ quan chính quyền, cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả, kịp thời .Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để ngăn ngừa những rủi ro ,tuyên truyền và phổ biến luật DNNN, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản có liên quan về tiền tệ - ngân hàng mới ban hành, kèm với giải thích, kịp thời cho toàn bộ cán bộ ngân hàng, cán bộ ngành điều tra theo dõi chuyên ngành và cho toàn xã hội.
Có nhiều hướng giải quyết khác nhau, phụ thuộc vào bản thân mỗi ngân hàng. Mỗi ngân hàng mà hoạt động càng mạnh, có hiệu quả thì cả hệ thống ngân hàng sẽ đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội. Do vậy vấn đề tiên quyết để nâng cao chất lượng tín dụng phụ thuộc vào bản thân hoạt động của mỗi ngân hàng từ trên xuống. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ từ ngân hàng trung ương đến địa phương (kể cả các quĩ tín dụng cấp thấp nhất).
Các biện pháp khác:
Thứ nhất kiến nghị Nhà nước sắp xếp lại doanh nghiệp trên các lĩnh vực sau đây:
Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ khả năng trong điều hành sản xuất kinh doanh và tài chính lành mạnh.
Chấn chỉnh việc cấp giấy phép hoạt động và kinh doanh đối với các doanh nghiệp mới, đặc biệt là các Công ty TNHH. Việc này phải đảm bảo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, cán bộ điều hành có đủ năng lực và phẩm chất.
Vì như trên đã nói nâng cao hoạt động tín dụng bắt đầu từ việc chấn chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời hạn chế cho thành lập ngân hàng cổ phần. Vì khi ngân hàng cổ phần thành lập nhiều sẽ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa khách hàng của các ngân hàng đây là cơ hội để bọn lừa đảo thực hiện phạm tội.
Xem lại các hoạt động công chứng, nhiều khi công chứng không chính xác tài sản thế chấp dẫn đến ngân hàng tin vào công chứng và bị lừa.
Tạo môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng ngân hàng được ổn định, đầy đủ cụ thể, không có sự mâu thuẫn với pháp luật về ngân hàng và của luật các tổ chức tín dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0765.doc