Chuyên đề Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua trường hợp Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu

Cổ phần hóa là một trong những biện pháp nhằm cải cách, đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, để cổ phần hóa thành công thì nhất thiết phải giải quyết được vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Trên cơ sở kiến thức được học và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa thời gian qua, đề tài xin dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, kinh nghiệm xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, từ đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới. Tác giả luận văn một lần nữa xin chân thành cảm ơn thày giáo PGS-TS Nguyễn Thành Độ đã trực tiếp hướng dẫn, đồng thời cũng xin cảm ơn các cán bộ phòng Tổ chức-Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu đã tận tình giúp đỡ để có thể hoàn thành luận văn này.

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua trường hợp Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần hóa. Hội đồng gồm có: - Chủ tịch Hội đồng: Ông Nguyễn Đình Chừng- Giám đốc Công ty. - Các thành viên: + Ông Ngô Hoằng- Phó giám đốc kỹ thuật. + Bà Nguyễn Thị Lan- Kế toán trưởng. + Ông Hoàng Công Chứ- Quyền trưởng phòng Cơ điện. + Ông Đỗ Đình Hỗ- Trưởng phòng Kỹ thuật. Công ty tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp theo Thông tư 104/1998/TT-BTC và theo hướng dẫn của Tổng Công ty Máy và Thiết bị Công nghiệp. Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty gồm có: * Số liệu trên sổ sách: - Số liệu giao vốn gần nhất. - Biên bản xét duyệt quyết toán ba năm trước khi cổ phần hóa. - Toàn bộ chứng từ sổ sách có liên quan. * Số liệu kiểm kê thực tế: - Tài liệu kiểm kê tài sản, tiền vốn, vật tư, hàng hóa. - Biên bản đối chiếu công nợ các bên đã xác nhận. - Hợp đồng, giấy phép liên doanh, liên kết. - Các tài liệu khác về đầu tư tài chính. * Giá hiện hành của từng loại tài sản, vật tư, hàng hóa: - Đối với tài sản trên thị trường có lưu thông thì giá thị trường là giá đang mua hoặc đang bán của tài sản đó. - Đối với tài sản chuyên dùng hoặc là các sản phẩm đầu tư xây dựng thì căn cứ vào hoạt động sản xuất đầu tư (hay giá đầu tư) ở thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. - Nếu là tài sản đặc thù không lưu thông trên thị trường thì tính theo giá tài sản cùng loại, cùng công suất, tính năng kỹ thuật tương đương, nếu không có tài sản tương đương thì tính theo giá tài sản ghi trên sổ sách kế toán. 2.2. Phương hướng thực hiện. Do nhận thức được tầm quan trọng của việc xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa và để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, Công ty đã xác định rõ phương hướng và các yêu cầu khi tiến hành cổ phần hóa, trong đó có việc xác định giá trị doanh nghiệp, đó là: - Quán triệt chủ trương cổ phần hóa đối với toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty. - Phát huy hết khả năng, thực hiện việc xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng và cổ phần hóa nói chung trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể, theo quy định của Nhà nước và cơ quan chủ quản. - Tiến hành cổ phần hóa nhưng vẫn đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, có hiệu quả. - Thực hiện triệt để tiết kiệm khi tiến hành cổ phần hóa. - Giá trị doanh nghiệp khi xác định phải chính xác, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của các cổ đông. - Các bộ phận, cá nhân có liên quan trong Công ty phải có trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất, trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể. Công ty đã tiến hành họp với các bộ phạn có liên quan trong Công ty để thông báo kế hoạch thực hiện đồng thời tiến hành phân công công việc cụ thể đối với các bộ phận có liên quan trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, trong đó đề cao việc tận dụng khả năng sẵn có của Công ty và thực hiện chủ trương tiết kiệm, cụ thể: - Phòng tài vụ đảm nhận việc kiểm kê tài sản trên sổ sách, Công ty không tiến hành việc thuê cơ quan kiểm toán độc lập. - Việc đánh giá lại % chất lượng còn lại của tài sản do phòng cơ điện và phòng kỹ thuật đảm nhận. - Phòng kinh doanh đảm nhận việc xác định giá thị trường các loại tài sản. - Trong tất cả các công việc đều có sự giám sát của Hội đồng kiểm kê. - Phương pháp xác định là phương pháp giá trị nội tại, căn cứ vào Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998. 3. Trình tự và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 3.1. Kiểm kê tài sản thuộc sở hữu của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Kiểm kê tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp là nội dung đầu tiên trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Hội đồng kiểm kê cùng với các bộ phận có liên quan tiến hành phân loại các tài sản thuộc sở hữu và không thuộc sở hữu của Công ty. Tiếp đó, trong số các tài sản thuộc sở hữu của Công ty lại được phân thành tài sản có nhu cầu sử dụng và tài sản không có nhu cầu sử dụng. Theo quy định tại Thông tư số 104/1998/TT-BTC, tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp cần phải kiểm kê gồm có: - Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. - Tài sản cố định và đầu tư dài hạn được phản ánh trong Bảng cân đối kế toán theo chế độ kế toán hiện hành. Còn số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, nhận bán hộ, nhận ký gửi được kiểm kê riêng. 3.1.1. Giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán. Theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC, giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán là tổng giá trị tài sản thể hiện trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp theo chế độ kế toán hiện hành. Thực hiện sự phân công của tiểu ban chỉ đạo cổ phần hóa Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, việc kiểm kê tài sản trên sổ sách kế toán đã được tiến hành kiểm kê một cách nhanh chóng, chính xác. Giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán được xác định là: 15.654.275.820 đồng. (1) Chi tiết thể hiện trong Phụ lục 1. Bên cạnh việc xác định giá trị doanh nghiệp trên sổ sách kế toán, Công ty cũng tiến hành xác định giá trị phần vốn Nhà nước tại Công ty theo sổ kế toán. Giá trị phần vốn Nhà nước theo sổ kế toán là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị tài sản phản ánh ở Bảng cân đối kế toán tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ phải trả, số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng. Bảng 6: Các khoản nợ phải trả và số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng của Công ty. Đơn vị tính: đồng. Chỉ tiêu Giá trị xác định A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn Vay ngắn hạn Nợ dài hạn đến hạn trả Phải trả cho người bán Người mua trả tiền trước Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước Phải trả CNV Phải trả nội bộ Các khoản phải trả, phải nộp khác II. Nợ dài hạn Vay dài hạn Nợ dài hạn III. Nợ khác Chi phí phải trả Tài sản thừa chờ xử lý Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn 6.285.799.821 5.312.731.821 2.323.819.481 0 456.706.808 225.266.000 614.988.815 0 0 1.691.950.627 886.000.000 886.000.000 0 87.068.000 87.068.000 0 0 B. Quỹ khen thưởng, phúc lợi 424.870.446 Tổng cộng 6.710.670.267 (Nguồn: Báo cáo kết quả xác định giá trị doanh nghiệp) Các khoản nợ phải trả, số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng của Công ty được xác định là: 6.710.670.267 đồng. Vậy giá trị phần vốn Nhà nước theo sổ kế toán là: 15.654.275.820 -6.710.670.267 = 8.943.605.553 đồng. 3.1.2. Kiểm kê tài sản thực tế tại Công ty. (1) Chi tiết thể hiện tại Phụ lục 1. Để xác định giá trị doanh nghiệp thực tế, cần thực hiện kiểm kê tài sản thực tế tại doanh nghiệp. Việc kiểm kê này phải tuân thủ các yêu cầu sau: Xác định số lượng tài sản thực tế hiện có đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Phân loại tài sản hiện có thuộc sở hữu của doanh nghiệp. - Tài sản mà doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng thì căn cứ vào thông số kỹ thuật và thực trạng tài sản để xác định chất lượng còn lại của từng loại tài sản, loại hoặc nhóm tài sản. Chất lượng còn lại thể hiện bằng tỷ lệ % so với chất lượng tài sản mua sắm, đầu tư xây dựng mới. - Tài sản không có nhu cầu sử dụng bao gồm tài sản không cần dùng, tài sản không có khả năng phục hồi cho quá trình sản xuất kinh doanh được kê khai riêng để có biện pháp xử lý. - Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi cần kiểm kê để bàn giao riêng cho công ty cổ phần quản lý, sử dụng. Xác định tài sản thiếu hụt so với sổ sách (nếu có). Đối chiếu và phân loại các khoản công nợ. Nợ phải thu khó đòi phải có chứng từ hợp lệ, cụ thể: - Khoản nợ mà con nợ không xác nhận. - Con nợ là pháp nhân đã bị giải thể, phá sản. - Con nợ là cá nhân đã chết, đã bỏ trốn, không có người thừa kế trách nhiệm. - Các khoản nợ khó đòi do các nguyên nhân khác. Sau khi thực hiện kiểm kê tài sản thực tế, Công ty tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp thực tế theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC. 3.2. Nội dung và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC, khi xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa, doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp giá trị nội tại. Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp được xác định dựa trên việc tính toán giá trị ròng của "tài sản có", trên cơ sở giá trị tài sản có thực tế của doanh nghiệp. Nội dung của phương pháp này đã được Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp thực tế. Cụ thể như sau: 3.2.1. Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê, xác định theo công thức sau: Giá trị thực tế tài sản = Số lượng thực tế của từng tài sản Giá thị trường của tài sản tại thời diểm xác định giá trị doanh nghiệp Chất lượng còn lại của tài sản (%) Giá trị thực tế tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật của Công ty sau khi tính toán là: 9.940.917.617 đồng. 3.2.2. Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá do liên Ngân hàng công bố tại thời điểm gần nhất. Theo sự kiểm kê của Ban kiểm kê, giá trị tài sản là vốn bằng tiền của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu tại thời điểm xác định là: 632.592.128 đồng. 3.2.3. Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã được đối chiếu xác nhận. Giá trị các khoản nợ phải thu là: 3.120.951.372 đồng. 3.2.4. Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng) thì tính theo chi phí thực tế trên sổ kế toán. Giá trị các khoản chi phí dở dang: 0 đồng. 3.2.5. Đối với tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị tài sản ký quỹ, ký cược: 33.686.142 đồng. 3.2.6. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa. Giá trị tài sản đầu tư ngắn hạn của Công ty là: 510.000.000 đồng. Giá trị tài sản đầu tư dài hạn của Công ty là số vốn góp liên doanh với Công ty Honda Motor Shinjuku Nhật Bản có giá trị là: 2.047.514.000 đồng. Tất cả các khoản đầu tư này sẽ được công ty cổ phần tiếp tục kế thừa, do đó, phần giá trị đầu tư của Công ty tính vào giá trị doanh nghiệp là: 2.557.514.000 đồng. 3.2.7. Đối với tài sản vô hình, thì tính theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ sách. Giá trị tài sản vô hình của Công ty tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp là: 0 đồng. 3.2.8. Đối với doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính thêm giá trị lợi thế vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Tuy có lợi thế kinh doanh nhưng Công ty đã không tính phần giá trị lợi thế này vào giá trị doanh nghiệp, nên giá trị lợi thế kinh doanh là: 0 đồng. 4. Kết quả đạt được. Theo các số liệu kiểm kê thực tế, Công ty đã tiến hành xác định giá trị thực tế để cổ phần hóa, gồm có: 1. Giá trị TSCĐ, TSLĐ là hiện vật: 2. Giá trị tài sản là vốn bằng tiền: 3. Nợ phải thu: 4. Các khoản chi phí dở dang: 5. Tài sản ký quỹ, ký cược: 6. Tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn: 7. Tài sản vô hình: 8. Giá trị lợi thế kinh doanh: 9.940.917.617 đồng. 632.592.128 đồng. đồng. 0 đồng. 33.686.142 đồng. 2.557.514.000 đồng. 0 đồng. 0 đồng. Giá trị thực tế của doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa được xác định là: 16.285.661.259 đồng. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại Công ty là giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả, số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng. Giá trị các khoản nợ này là: 6.710.670.267 đồng. Từ đó tính được giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại Công ty là: 9.574.990.992 đồng. Theo các số liệu tính toán có thể thấy khi xác định giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán và trên thực tế có sự chênh lệch. Mức chênh lệch là: 15.654.275.820 - 16.285.661.259 = 631.385.439 (đồng). Có sự chênh lệch là do một số nguyên nhân sau: - Tăng tài sản cố định về nhà cửa, vật kiến trúc: 221.976.200 đồng. - Tăng thiết bị máy móc và phương tiện vận tải: 60.360.001 đồng. - Tăng các khỏan phải thu: 715.000.000 đồng. - Tăng giá trị thành phẩm tồn kho do tính lại giá sản phẩm tồn kho theo giá vốn: 387.239.238 đồng. - Toàn bộ giá trị bàn ghế, dụng cụ văn phòng đã đưa chi phí nhưng vẫn đang sử dụng, nên làm tăng: 11.810.000 đồng. Ngày 7/8/2000, Bộ Công nghiệp ra Quyết định số 2295/QĐ-TCKT về việc xác định giá trị Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu để cổ phần hóa, quyết định giá trị Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu tại thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000 để cổ phần hóa là 16.285.661.259 đồng. Quyết định này cho thấy việc xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty đã hoàn thành và căn cứ vào giá trị Công ty đã xác định, tiểu ban đổi mới Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu tiếp tục thực hiện các công việc tiếp theo để cổ phần hóa. 5. Thuận lợi và khó khăn trong xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 5.1. Thuận lợi. Thuận lợi đầu tiên là toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty từ cán bộ lãnh đạo đến người lao động đã quán triệt sâu sắc chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. Đây là điều rất đáng mừng vì tư tưởng, quan điểm là một trong những cản trở quá trình cổ phần hóa ở rất nhiều doanh nghiệp. Thứ hai, do sổ sách tài chính của Công ty được thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước nên việc xác định giá trị doanh nghiệp ít gặp khó khăn, nhất là khâu xác định giá trị theo sổ kế toán. Thứ ba, trong suốt quá trình tiến hành cổ phần hóa, Công ty luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của các cơ quan chủ quản nên những vướng mắc nảy sinh được giải quyết kịp thời, nhanh chóng. Kết quả là, quá trình cổ phần hóa diễn ra một cách suôn sẻ và mặc dù tiến hành cổ phần hóa nhưng Công ty vẫn hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đảm bảo hiệu quả, các chỉ tiêu chủ yếu của Công ty đều tăng so với năm kế hoạch: doanh thu năm 2000 tăng 19,75% so với năm 1999, lợi nhuận tăng 7,3%; thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng hơn so với năm 1999. Có được những kết quả như vậy, Công ty không phải và không thể chỉ dựa vào những thuận lợi khách quan mà chủ yếu là do sự chủ động, sáng tạo của Công ty trong quá trình thực hiện. Đả thông tư tưởng của người lao động là một việc không dễ dàng nhưng do sự nỗ lực của Ban lãnh đạo Công ty, có sự chuẩn bị ngay từ đầu nên đã có kế hoạch phổ biến chủ trương cổ phần hóa cho toàn thể người lao động trong Công ty. Ngoài ra phải kể đến tinh thần đoàn kết của người lao động, một lòng muốn Công ty phát triển nên đã quán triệt chủ trương cổ phần hóa. Chính vì tư tưởng đã được quán triệt sâu sắc nên mọi người đều đồng lòng, góp sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đặc biệt là các thành viên tham gia quá trình xác định giá trị doanh nghiệp - một khâu rất quan trọng trong toàn bộ tiến trình cổ phần hóa. Xác định % chất lượng còn lại của tài sản cố định là một việc khó khăn mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng gặp phải, khiến cho quá trình xác định giá trị doanh nghiệp bị chậm chễ, do việc dánh giá chất lượng còn lại phụ thuộc trình độ và ý kiến chủ quan của người đánh giá. Để giải quyết vấn đề này, Công ty đã có sáng kiến là tiến hành bỏ phiếu và chọn ý kiến có số người ủng hộ cao nhất. Ngay khi nhận được chủ trương cổ phần hóa, Công ty đã tiến hành xây dựng phương hướng, kế hoạch thực hiện. Trong quá trình thực hiện, cứ sau mỗi bước Công ty lại tiến hành tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm để xây dựng phương án thực hiện cho các bước tiếp theo. Với cách làm khoa học này, Công ty luôn có được sự chủ động trong mỗi bước công việc. 5.2. Khó khăn. Trước hết về mặt pháp lý, mặc dù các văn bản đã có các hướng dẫn khá cụ thể nhưng vẫn còn nhiều điểm, nhiều khâu trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp mang nặng tính thủ tục, hành chính, gây phiền hà cho Công ty. Những điều kiện và cơ sở trong việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa được thiết lập đầy đủ. Biểu hiện là việc thiếu một hệ thống văn bản pháp quy quy định hướng dẫn việc xác định giá trị doanh nghiệp và sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia, các tổ chức tư vấn định giá doanh nghiệp. Do đó, khi triển khai thường lúng túng trước các vấn đề phát sinh. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp còn đơn điệu, với duy nhất một phương pháp là giá trị nội tại nên kết quả mang tính chính xác không cao và khó được sự chấp nhận của người mua, đồng thời không tận dụng được ưu điểm của các phương pháp khác trong khi phương pháp này có nhiều nhược điểm: chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố (lạm phát, hao mòn thực tế...), không cho thấy được tính hệ thống, tính đồng bộ của máy móc, thiết bị, nhà xưởng; không cho thấy được giá trị trong tương lai của doanh nghiệp...Như đã trình bày ở trên, giá trị Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu khi xác định theo phương pháp giá trị nội tại là hơn 16 đồng nhưng nếu theo phương pháp lợi nhuận thì giá trị xác định được chỉ là 10 tỷ đồng, tức là có chênh lệch rất lớn (hơn 5 tỷ đồng). Tiểu ban đổi mới quản lý của Công ty do kiêm nhiệm nên chưa thể tập trung toàn bộ thời gian và sức lực vào công tác cổ phần hóa nên khiến cho quá trình cổ phần hóa bị chậm chễ. Trong nhiều công việc, tính chủ động của Công ty chưa cao, nhiều công việc đã hoàn thành nhưng không tiến hành bước tiếp theo mà chờ đợi chỉ đạo của trên. Có thể thấy thời gian dành cho xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu là khá dài (ngày 1/1/2000 bắt đầu tiến hành xác định nhưng đến 7/8/2000 mới có quyết định về giá trị xác định của Bộ Công nghiệp), thế nhưng Công ty không có một kế hoạch thực hiện chi tiết cho quá trình này mà chỉ có kế hoạch sơ bộ về mặt thời gian, nên chưa thực sự đẩy nhanh được tiến độ thực hiện công việc. Công việc xác định giá thị trường của các loại tài sản cũng là một trở ngại của quá trình kiểm kê, đánh giá tài sản thực tế, cũng như quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Khó khăn là ở chỗ, nhiều máy móc thiết bị của Công ty đã sản xuất từ lâu, hiện nay không còn lưu thông trên thị trường, kể cả các tài sản cùng loại nên phải sử dụng giá của loại tài sản đó đã ghi trên sổ kế toán để xác định nên vô hình chung đã bỏ qua yếu tố trượt giá. Đó là chưa kể đến các tài sản, máy móc chuyên dùng sẽ phải dựa vào suất đầu tư do cấp có thẩm quyền quy định. Suất đầu tư này thường là lấy theo mức trung bình của ngành nên không phản ánh chính xác đối với từng doanh nghiệp. Ngoài ra, Công ty không có đủ các thiết bị kiểm định, đo lường để đánh giá tài sản nên việc đánh giá này chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên độ chính xác không cao. Đó là chưa kể đến việc đánh giá tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc nằm ngoài khả năng chuyên môn của cán bộ đánh giá. Khi xác định giá trị doanh nghiệp, Công ty đã không đưa vào phần giá trị lợi thế kinh doanh trong khi trên thực tế phần giá trị này có thực và có thể xác định được một cách dễ dàng. Như vậy, vô hình chung đã làm giảm giá trị thực tế để cổ phần hóa của Công ty. Do thị trường chứng khoán ở nước ta chưa phát triển nên không thể căn cứ vào đó để xác định cung cầu, xác định giá bán doanh nghiệp vì vậy phải sử dụng ngay kết quả định giá doanh nghiệp làm giá bán nên hoặc sẽ không hấp dẫn người mua khi giá bán quá cao hoặc sẽ gây thất thoát vốn Nhà nước nếu bán với giá thấp hơn giá trị thực tế của doanh nghiệp, tức là chưa thực sự đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của các cổ đông tương lai. Phần III: Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa qua thực tế công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta về cơ bản có thể chia thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn thí điểm: từ 5/1992 đến 5/1996. - Giai đoạn mở rộng: từ 6/1996 đến 6 /1998. - Giai đoạn đẩy nhanh cổ phần hóa: từ 7/1998 đến nay. Mặc dù số lượng doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa trong mỗi giai đoạn là khác nhau nhưng nhìn chung tiến độ cổ phần hóa vẫn diễn ra chậm chạp, cho đến nay mới có hơn 500 doanh nghiệp (chiếm 9,3% tổng số doanh nghiệp Nhà nước) chuyển thành công ty cổ phần trong khi mục tiêu đặt ra là đến năm 2003 có 1498 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khó khăn và làm mất nhiều thời gian trong quá trình cổ phần hóa là vướng mắc trong vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Trên cơ sở phương án sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các Bộ, Tổng công ty 91, các địa phương quyết định danh sách doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hóa. Sau khi đã quyết định doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, vấn đề quan trọng nhất là xác định giá trị doanh nghiệp. Đây là công việc không dễ dàng, tốn không ít thời gian và công sức, bởi phần lớn doanh nghiệp Nhà nước của ta đã được thành lập và hoạt động vài chục năm, quá trình hình thành tài sản qua nhiều thời kỳ, giá cả khác nhau, thậm chí có thiết bị máy móc đã hết thời gian khấu hao nhưng vẫn còn tiếp tục sử dụng. Cũng theo quy định của Nhà nước: giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa. Do vậy, để xác định tương đối chính xác giá trị thực tế của doanh nghiệp và có thể coi đó là giá thị trường để người mua (các nhà đầu tư, kể cả người lao động tại doanh nghiệp) và người bán (Nhà nước) chấp nhận được đòi hỏi phải mất 5 - 6 tháng là chuyện bình thường, thậm chí còn lâu hơn. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và đẩy nhanh quá trình xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới. A- Một số giải pháp cho vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. 1. Giải quyết vấn đề tư tưởng. Tư tưởng, quan điểm của người lao động trong doanh nghiệp là một trong những vấn đề cần giải quyết trước tiên khi tiến hành cổ phần hóa. Nếu tư tưởng được giải quyết tốt thì nó là một trong những điều kiện đẩy nhanh cổ phần hóa và ngược lại, nếu tư tưởng vẫn vướng mắc thì sẽ là lực cản rất lớn gây châm trễ cho toàn bộ quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, Nhà nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và đặc biệt là cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp phải là người đầu tiên quán triệt và phải tăng cường tiến hành các hoạt động tuyên truyền cho người lao động trong doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. - Một là, chủ trương cổ phần hóa không dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hôi chủ nghĩa và làm suy yếu kinh tế Nhà nước. - Hai là, cổ phần hóa không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của doanh nghiệp. Có thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền thông qua việc tổ chức các buổi hội nghị, giải thích những thắc mắc của người lao động về cổ phần hóa; tạo điều kiện cho người lao động có khả năng được tham gia vào các công việc trong quá trình cổ phần hóa. 2. Thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa. Theo quan điểm truyền thống thì kế hoạch hóa là tổng hợp các hoạt động nhằm xác định trước các mục tiêu, nhiệm vụ, đồng thời tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó. Hiện nay, kế hoạch hóa được định nghĩa: kế hoạch hoá là một quá trình bắt đầu bằng việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính sách và các kế hoạch chi tiết để đạt mục tiêu. Cho dù định nghĩa theo quan điểm nào thì bản chất của kế hoạch vẫn là trạng thía ý tưởng, sự suy nghĩ để vạch ra những mục tiêu và cách thức để đạt được những mục tiêu đó. Qua các phân tích ở trên có thể thấy tầm quan trọng của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, một số doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng công tác kế hoạch, có thể nhận thấy điều này trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp thời gian qua. Mặc dù quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng là một công việc phức tạp, thực hiện trong thời gian dài nhưng hầu như các doanh nghiệp chỉ lập kế hoạch thực hiện mang tính sơ bộ. Chính do chỉ đề ra kế hoạch sơ bộ nên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều vướng mắc không đáng có, dẫn đến thời gian công việc kéo dài. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp cần xây dựng một bản kế hoạch chi tiết các công việc cần thực hiện ngay từ khi nhận được quyết định cổ phần hóa (ở đây chỉ xin đề cập đến lập kế hoạch chi tiết cho quá trình xác định giá trị doanh nghiệp). Bản kế hoạch chi tiết này sẽ giúp lập ra một lịch trình hoạt động mang tính khoa học, giúp cho các công việc diễn ra nhịp nhàng, không chồng chéo, từ đó rút ngắn được đáng kể thời gian thực hiện do đã lường trước được hầu hết các khả năng có thể xảy cũng như các biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu. Bản kế hoạch có thể được lập theo hướng sau: Bước công việc Thời gian thực hiện (từ...đến...) Công việc Biện pháp thực hiện Đối tượng thực hiện Ghi chú 1. Kiểm kê tài sản trên sổ sách kế toán ... 1. 2. ... ... ... 2. Kiểm kê tài sản thực tế 3. Xác định chất lượng còn lại của tài sản 4. Xác định giá thị trường 5. Kết quả 6. Tổng hợp Điểm mục “tổng hợp” có thể xây dựng một bản riêng để dễ dàng theo dõi kết quả thực hiện chung mà không nhất thiết phải nằm trong bản kế hoạch này. Ngoài ra, sau mỗi công việc hay bước công việc phải tiến hành kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm để thực hiện các bước tiếp theo cho thật tốt. Sau khi xây dựng bản kế hoạch, có thể cụ thể hoá lịch trình làm việc theo sơ đồ GANTT, ví dụ như sau: Thời gian 1 2 3 ... Đối tượng thực hiện Công việc 1. 2. 3. ... ... ... ... Cần luôn luôn đảm bảo tính tập thể trong xây dựng kế hoạch này tức là kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở ý kiến của tập thể mới đảm bảo tính đúng đắn và tính khả thi cao. Nói chung, để lập được kế hoạch chi tiết đòi hỏi đầu tư thời gian, chi phí nhưng chắc chắn lợi ích mà nó mang lại là rất lớn nếu so với chi phí xây dựng kế hoạch hoặc chi phí phát sinh khi không có kế hoạch. 3. Giải quyết vấn đề xác định giá trị còn lại và giá thị trường của tài sản. Đây chính là những vấn đề gây cản trở chủ yếu cho quá trình định giá doanh nghiệp. Có thể thấy, việc xác định giá trị còn lại của doanh nghiệp là rất khó khăn, chính vì vậy, thường xảy ra tình trạng cán bộ doanh nghiệp đánh giá cao nhưng cơ quan thẩm định lại đánh giá thấp, gây tranh chấp về quyền lợi giữa hai bên. Có thể giải thích nguyên nhân của tình trạng này là: Thứ nhất, việc đánh giá này hoàn toàn dựa trên chủ quan của người đánh giá. Có thể thấy, phầnlớn cán bộ thẩm định không thể đánh giá đúng giá trị còn lại của tài sản trên cơ sở thực tế mà chủ yếu đánh giá trên dựa vào sổ sách, tài liệu. Trong khi đó, cán bộ đánh giá của doanh nghiệp là người thường xuyên tiếp xúc, sử dụng máy móc nên có thể đánh giá khá chính xác nhưng lại thường có tư tưởng cục bộ, nên kết quả đánh giá dễ cao hơn thực tế. Từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các bên. Mâu thuẫn này rất khó giải quyết bởi mỗi bên đều giữ quan điểm của mình trong khi không thiếu máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm để đánh giá chính xác chất lượng cònlại của tài sản. Thứ hai, tiêu thức và phương pháp đánh giá không có sự thống nhất giữa các bên. Giá trị tài sản hay giá trị còn lại là một chỉ tiêu tổng hợp, có thể xác định qua nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ, một máy dập có thể đánh giá qua động cơ, phụ tùng máy, thiết bị thay thế, chất lượng phôi sau khi dập, năng lượng tiêu hao, hao mòn vô hình, giá trị ban đầu...Vì thế, khác nhau trong sử dụng phương pháp đánh giá cũng tạo nên sự sai lệch trong kết quả đánh giá. Thứ đến là phương pháp đánh giá. Một trong những phương pháp thường được sử dụng là phương pháp cho điểm. Theo cách này, tất cả các tiêu thức có thể so sánh được liệt kê để cho điểm căn cứ theo tầm quan trọng cuả tiêu thức. Đây là cách làm khoa học và tương đối chính xác nhưng không phải doanh nghiệp cũng sử dụng trong đánh giá chất lượng còn lại của tài sản. Đơn cử như Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu sử dụng phương pháp chuyên gia và đưa ra kết quả trên cơ sở tổng hợp ý kiến của tập thể. Chính vì vậy lại dẫn dến sự không thống nhất giữa hội đồng thẩm định và ban kiểm kê của doanh nghiệp. Thứ ba, chưa có tổ chức tư vấn chuyên ngành về vấn đề xác định giá trị còn lại. Việc xác định giá trị còn lại của một số tài sản thuộc doanh nghiệp đôi khi nằm ngoài khả năng chuyên môn của cán bộ kiểm kê. Đối với Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu là việc xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, công trình xây dựng cơ bản, trong khi không có một cơ quan chuyên tư vấn về lĩnh vực này cho nên cũng gây khó khăn cả cho hội đồng thẩm định. Ngoài ra, do sổ sách kế toán không thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của Nhà nước: ghi sai, ghi thiếu, chậm hạch toán...cũng khiến cho việc xác định giá trị doanh nghiệp bị chậm trễ. Để giải quyết những vấn đề này, các doanh nghiệp cần: - Thực hiện đúng Pháp lệch kế toán và các quy định về kế toán của Nhà nước. - Đối với các vấn đề không nắm rõ cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia hoặc các tổ chức chuyên ngành để nhận được sự giúp đỡ cần thiết. Ngoài ra, nên chăng Nhà nước cần có các quy định cụ thể, thống nhất về các phương pháp, tiêu thức đánh giá tài sản để tránh xảy ra mâu thuẫn, gây tốn kém, lãng phí. Để xác định giá thị trường của tài sản, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều bước khác nhau từ nghiên cứu giá cả thị trường của các tài sản tương đương đến tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn...Tuy nhiên, để xác định được tương đối chính xác thì vẫn rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau: - Nhiều loại tài sản chuyên dùng không có trên thị trường, giá thị trường chỉ có thể tính theo phương pháp điều chỉnh giá trị sổ sách theo tỷ lệ lạm phát trung bình và độ hao mòn ước tính nên giá trị xác định được không có tính chính xác cao. - Một số máy móc đã quá cũ, thậm chí hết khấu hao nhưng vẫn được sử dụng thì chưa có phương pháp giải quyết hữu hiệu. Nói chung, để xác định giá thị trường của tài sản một cách chính xác thì ngoài sự cố gắng của các doanh nghiệp cần có sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua các quy định cụ thể. 4. Vấn đề tổ chức thực hiện tại doanh nghiệp. Theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC thì những thành viên trong hội đồng kiểm kê tại doanh nghiệp gồm có giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng kỹ thuật, tức là, đều là các thành viên kiêm nhiệm. Vì vậy khó tránh khỏi sự sao nhãng trong công việc chuyên môn hay công việc kiêm nhiệm (ở đây là nhiệm vụ xác định giá trị doanh nghiệp). Tuy nhiên, kiêm nhiệm là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là các thành viên này cần phải trang bị cho mình những kiến thức về công việc được giaovà phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với mỗi mọi công việc của nình. Ngoài ra, người lao động trong doanh nghiệp cũng cần chủ động nghiên cứu, tham gia tích cực vào những công việc có thể để giảm bớt gánh nặng cho ban kiểm kê, đồng thời để bày tỏ quan điểm, nhận xét, đưa ra những ý kiến đề xuất giúp ban kiểm kê hoàn thành công việc một cách tốt nhất. B- một số kiến nghị đối với nhà nước. I- Một số nhận xét. Trong suốt quá trình thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp quy về vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Giai đoạn đầu - giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (5/1992 - 5/1996), giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp định giá tài sản có điều chỉnh (Thông tư số 36/TC-CN). Giai đoạn mở rộng cổ phần hóa (6/1996 - 6/1998), giá trị doanh nghiệp xác định trên cơ sở kết hợp giữa giá trị tài sản thuần và phương pháp so sánh trực tiếp (Thông tư số 50/TC/TCDN). Giai đoạn đẩy nhanh cổ phần hóa (từ 7/1998 đến nay), Thông tư 104/TT-BTC quy định phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là tổng hợp giữa phương pháp giá trị tài sản có và khả năng sinh lời. Qua quá trình thực hiện cổ phần hóa thời gian qua, có thể rút ra một số nhận xét sau về các quy định hiện hành: 1. Ưu điểm. 1.1. Phân loại hợp lý các loại tài sản để định giá doanh nghiệp. Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, các tài sản được phân loại thành tài sản thuộc sở hữu và không thuộc sở hữu của doanh nghiệp; trong số các loại tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp lại phân thành tài sản doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng, tài sản không có nhu cầu sử dụng và tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng phúc lợi. Đây là cách phân loại rất hợp lý, dựa trên cơ sở: tài sản là một bộ phận cấu thành, là nguồn gốc tạo nên doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp. Nói cách khác, tiêu thức để phân loại tài sản chính là lợi nhuận mà tài sản mang lại cho doanh nghiệp. Cách phân loại này là cơ sở đảm bảo cho việc tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa; đảm bảo quyền lợi cho người bán (Nhà nước) và người mua (cổ đông). 1.2. Giá trị vô hình của doanh nghiệp. Trước đây, khi định giá thì phần giá trị vô hình thường bị bỏ qua hoặc xem nhẹ. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, người ta cho rằng yếu tố vô hình mới là yếu tố quyết định giá trị sản phẩm hay giá trị tài sản. Chính vì vậy, Thông tư 104/TT-BTC đã quy định giá trị thực tế doanh nghiệp gồm hai phần là tổng giá trị thực tế của tài sản (giá trị tài sản hữu hình và giá trị vô hình). Đây là quy định thể hiện sự vượt trội trong cách tiếp cận mới đối giá trị doanh nghiệp, thể hiện một tư duy động, mang đậm phong cách hiện đại và phù hợp với cơ chế thị trường. 1.3. Phương pháp định giá. Mặc dù, về phương pháp định giá còn nhiều vấn đề cần bàn nhưng xác định giá trị doanh nghiệp phương pháp giá trị nội tại tỏ ra khá phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. - Thứ nhất do việc tính toán theo phương pháp này không quá phức tạp, chi phí có thể chấp nhận được. - Thứ hai, phương pháp này tỏ ra hiệu quả trong xác định giá trị doanh nghiệp ở nước ta khi mà hầu hết các doanh nghiệp được thành lập từ lâu với máy móc, thiết bị lạc hậu,trình độ cán bộ định giá chưa đáp ứng yêu cầu... 2. Nhược điểm. Mặc dù các quy định của Nhà nước thường xuyên được sửa đổi bổ sung nhưng trong quá trình thực hiện vẫn có những bất cập, cần được hoàn thiện. Đó là: 2.1. Phương pháp định giá. Theo quy định hiện nay thì chỉ có duy nhất một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp giá trị nội tại, trong khi ở các nước thường sử dụng tổng hợp các phương pháp. Mặc dù phương pháp này tỏ ra khá phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay, nhưng chỉ với duy nhất một phương pháp trong số rất nhiều các phương pháp thì không thể tận dụng được ưu điểm của các phương pháp còn lại, đồng thời không có cơ sở để kiểm chứng tính xác thực tính, tính toàn diện của kết quả tính toán. 2.2. Giá trị lợi thế của doanh nghiệp. - Như trên đã trình bày, việc quy định giá trị doanh nghiệp gồm cả phần giá trị lợi thế là một ưu điểm. Sự phân chia giá trị doanh nghiệp thành hai bộ phận là giá trị hữu hình và giá trị lợi thế sẽ giúp dễ dàng lượng hoá, tính toán nhưng do sự phân chia này nên giá trị doanh nghiệp tính được sẽ nhỏ giá trị khi tính theo tổng hợp hai bộ phận. Nguyên nhân của sự khác biệt này là: giá trị lợi thế là một bộ phận cấu thành giá trị doanh nghiệp nên không thể tách rời nó trong mối quan hệ với các bộ phận khác vì như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc tổng hợp trong xác định giá trị doanh nghiệp, dẫn đến giá trị xác định được không còn chính xác. - Phương pháp xác định giá trị lợi thế chưa thực sự tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp, điều này không có lợi đối với các doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp mới thành lập. - Xác định giá trị lợi thế chỉ dựa trên lợi nhuận siêu ngạch của doanh nghiệp là chưa đầy đủ. Bởi vì giá trị lợi thế không chỉ phụ thuộc duy nhất vào lợi nhuận siêu ngạch mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác: như thời gian, giá trị theo thời gian của tiền...(những yếu tố này vẫn chưa được đề cập đến trong Thông tư 104/TT-BTC). Có thể nêu ra một ví dụ để chứng minh luận điểm này: Xem xét 2 doanh nghiệp A và B cùng ngành nghề kinh doanh trên cùng địa bàn, có cùng số vốn Nhà nước, trong đó: Doanh nghiệp A có tỷ suất lợi nhuận trong 3 năm 1997,1998,1999 lần lượt là: 5%,10% và 0%. Doanh nghiệp A có tỷ suất lợi nhuận trong 3 năm 1997,1998,1999 lần lượt là: 0%, 5% và 10%. Nếu xác định theo quy định hiện hành thì hai doanh nghiệp này có cùng giá trị lợi thế kinh doanh nhưng rõ ràng doanh nghiệp B đang có xu hướng có lợi thế hơn doanh nghiệp A trong tương lai. - Theo Nghị định 44-CP và Thông tư 104-BTC nếu hiểu giá trị doanh nghiệp gồm giá trị tài sản (giá trị hữu hình) và lợi thế kinh doanh thì có nghĩa là coi giá trị lợi thế của doanh nghiệp là giá trị vô hình. Nếu coi như vậy có lẽ chưa thật sự chính xác, bởi vì: giá trị vô hình của doanh nghiệp gồm 2 phần: + Các chi phí làm tăng giá trị doanh nghiệp như: tiền mua bằng sáng chế, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu-phát triển... + Giá trị lợi thế của doanh nghiệp: uy tín công ty, nhãn mác sản phẩm, vị trí địa lý... Như vậy có thể thấy, giá trị lợi thế kinh doanh chỉ là một bộ phận cấu thành nên giá trị vô hình của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu không coi giá trị lợi thế kinh doanh là giá trị vô hình thì đã bỏ sót một bộ phận cấu thành nên giá trị doanh nghiệp nằm trong giá trị vô hình (là các chi phí làm tăng giá trị doanh nghiệp). 2.3. Một số vấn đề khác. a) Các quy định về xác định giá hiện hành còn thiếu và chưa đồng bộ. Nhà nước chưa đưa ra một tiêu chuẩn, một quy định cụ thể về vấn đề xác định giá trị còn lại và giá thị trường của các loại tài sản của doanh nghiệp trong khi thực hiện vấn đề này ở doanh nghiệp là rất khó khăn do máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, không đủ phương tiện đánh giá chính xác; có mâu thuẫn trong phương pháp xác định giữa hội đồng kiểm kê và hội đồng thẩm định do các tiêu thức được sử dụng để đánh giá là khác nhau... b) Giá trị đất đai của doanh nghiệp. Theo quy định hiện nay, giá trị đất không được tính vào giá trị doanh nghiệp mà hàng năm doanh nghiệp phải nộp tiền thuê đất. Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và không được mua bán, nhưng trên thực tế, các hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra đã khiến hình thành giá thị trường của đất đai. Như vậy chính sự mâu thuẫn giữa quy định và thực tế đã khiến cho vấn đề “giá trị đất trong giá trị doanh nghiệp” trở thành vấn đề gây tranh cãi. Ngoài ra, Nhà nước cũng chưa có quy định về đối với trường hợp nhà cửa, vật kiến trúc là hàng hoá của doanh nghiệp; hay giá trị đất tính như thế nào trong trường hợp đất được giao theo chức năng kinh doanh địa ốc ? Vì vậy, Nhà nước cần có những điều chỉnh một số điểm trong Luật Đất đai có liên quan đến những vấn đề trên. c) Quy trình định giá. Theo quy định hiện hành thì toàn bộ quá trình định giá doanh nghiệp hầu hết do người mua (các cổ đông tương lai-các thành viên trong hội đồng kiểm kê) tiến hành, từ chuẩn bị hồ sơ, sổ sách đến thống nhất giá bán nhưng đến khâu cuối cùng là quyết định giá bán lại do Nhà nước quyết định. Như vậy có nghĩa là cổ đông phải chấp nhận mức giá Nhà nước đưa ra mà không có sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua với đúng nghĩa của nó. Quy trình định giá còn nhiều thủ tục mang nặng tính hành chính, gây phiền hà, mất thời gian cho doanh nghiệp. Các thủ tục này cho thấy dường như vẫn tồn tại một phong cách làm việc theo cũ. II- kiến nghị với Nhà nước. 1. Chính xác hóa ngôn ngữ trong các quy định. Thứ nhất, chỉ có thể đưa ra một công thức tổng quát để xác định giá trị doanh nghiệp mà không thể làm như vậy đối với giá cả, bởi vì giá cả phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như cung cầu thị trường, điều kiện bán, vị thế của mỗi bên tham gia hoạt động mua bán...Vì vậy, không thể dùng giá trị doanh nghiệp để làm giá bán mà giá trị doanh nghiệp xác định được chỉ nên dùng làm cơ sở để xác định giá bán. Trong khi đó, Nghị định 44-CP quy định “giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cổ phần hóa là giá trị thực tế mà người bán và người mua đều chấp nhận được”. Như vậy, phải chăng , giá trị doanh nghiệp được đồng nhất với giá cả. Thứ hai, việc quy định giá trị doanh nghiệp gồm giá trị tài sản hữu hình và giá trị lợi thế của doanh nghiệp là chưa chính xác, thiếu chuẩn mực do đồng nhất giá trị lợi thế và giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Thứ ba, theo Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ Tài chính: "Kết quả xác định giá trị DN do cơ quan tài chính công bố". Vậy trong trường hợp này do cơ quan tài chính địa phương công bố hay trình Bộ tài chính quyết định? Như vậy có khác gì thủ tục công bố giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa? Vì vậy, Nhà nước cần nhanh chóng chuẩn hoá các ngôn từ dùng trong các văn bản pháp luật, đồng thời có những hướng dẫn cụ thể đối với một số thắc mắc nêu trên để tránh có sự hiểu nhầm, từ đó dẫn đến thực hiện sai. 2. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống các phương pháp định giá. Mặc dù phương pháp định giá mà chúng ta đang áp dụng tỏ ra khá phù hợp với điều kiện Việt Nam nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sịnh những bất cập, khi chỉ với duy nhất một phương pháp định giá như hiện nay. Đôi khi phương pháp định giá này tỏ ra cứng nhắc và thiếu chính xác, trong khi lại không có sự kiểm chứng. Vì vậy, nên chăng Nhà nước cho phép sử dụng đồng thời nhiều phương pháp định giá khác nhau để tận dụng ưu điểm của mỗi phương pháp. a) Phương pháp tính giá trị lợi thế. Về giá trị lợi thế của doanh nghiệp, Nhà nước nên qui định rõ các điều kiện cần và đủ để xét doanh nghiệp có lợi thế hay không, nếu có thì bắt buộc doanh nghiệp phải tính phần giá trị này vào giá trị doanh nghiệp. Phương pháp xác định giá trị lợi thế cũng cần có sự sửa đổi, có thể tính theo công thức sau: Trong đó: i: Chi phí vốn của doanh nghiệp. n: Thời hạn tính giá trị lợi thế. Xác định giá trị lợi thế theo công thức này có ưu điểm hơn do tính đến lợi thế của nhiều năm trong tương lai chứ không chỉ riền năm đầu tiên sau khi cổ phần hóa như cách xác định cũ. b) Phương pháp xác định giá trị tài sản cố định và tài sản lưu động bằng hiện vật. Nhà nước cần sớm quy định phương pháp định giá thống nhất, tránh tình trạng lộn xộn như hiện nay. Để có phương pháp xác định thống nhất có thể là hoàn thiện phương pháp hiện tại hoặc sử dụng phương pháp mới theo cách tính của một số nước (phương pháp lợi nhuận, phương pháp đấu giá...), hoặc là sử dụng tổng hợp tất cả các phương pháp. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần tạo tiền đề cho việc thực hiên thành công các phương pháp này, bằng cách xây dựng thị trường chững khoán đủ mạnh, cho ra đời thị trường bất động sản chính thống, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về đấu giá tài sản doanh nghiệp... 3. Một số kiến nghị khác. a) Giá thuê đất của doanh nghiệp. Hiện nay, có một thuận lợi là giá thuê đất đã được Nhà nước quy định theo vị trí. Nhưng quan trọng hơn Nhà nước cần thực hiện tiếp việc quy định giá thuê đất theo ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp theo hướng sau: giá thuê đất dùng cho doanh nghiệp kinh doanh các loại khách sạn, du lịch phải cao hơn giá thuê đất cho doanh nghiệp thương nghiệp và giá thuê đất dành cho thương nghiệp phải cao hơn giá thuê cho doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp công ích...Riêng giá thuê đất dành cho doanh nghiệp thương nghiệp kinh doanh đối ngoại phải cao hơn giá thuê đất đối với doanh nghiệp kinh doanh nội thương. Để phân loại như vậy có thể dùng phương pháp cho điểm (lập hệ số giá thuê theo ngành nghề). Ví dụ: ngay trên một vị trí như nhau, dùng loại đất có giá thuê cao (như đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, du lịch) làm hệ số chuẩn (1) và giá đất các hạng khác giảm dần theo ngành nghề (0,9-0,8-0,7...). Từ đó, cùng với hệ số giá thuê theo vị trí để tính ra giá thuê đất cụ thể cho mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra Nhà nước cần tính cả giá thuê đất đối với phần đất mà doanh nghiệp đã được giao mà chưa sử dụng vào sản xuất kinh doanh, nếu không thì phải thu hồi nhằm tránh lãng phí đất. b) Cải cách thủ tục định giá. Theo quy định hiện nay thì hầu như toàn bộ quá trình dịnh giá được bên mua (cán bộ nhân viên doanh nghiệp) thực hiện trong khi quền quyết định giá bán lại thuộc người bán (Nhà nước). Thoạt nhìn thì có vẻ hợp lý bởi vì người bán là người có quyền quyết định giá bán. Tuy nhiên nếu đi sâu xem xét thì: nếu như quyết định giá của Nhà nước không thống nhất với người mua (đây là điều thường xảy ra) thì quá trình cổ phần hóa bị ách tắc, Nhà nước lại phải thực hiện điều chỉnh giá, gây chậm trễ, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc (mà đôi khi giá điều chỉnh vẫn chưa phù hợp). Vậy phải làm thế nào để vừa đạt được sự thoả thuận giữa hai bên, vừa tiết kiệm, vừa không gây thất thoát tài sản Nhà nước. Có hai cách giải quyết: - Một là, trong quá trình định giá phải có sự tham gia của bên thứ ba, là cơ quan kiểm toán độc lập. Hiện nay, “chỉ những doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp xem xétthuê tổ chức kiểm toán độc lập”. Trong khi nhiều doanh nghiệp dù thực hiện đúng các quy định của pháp luật về kế toán nhưng vẫn có nhu cầu thuê kiểm toán thì không được chấp nhận. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần quy định tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa phải thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính, đồng thời cho phép doanh nghiệp được thuê kiểm toán độc lập và chi phí thuê kiểm toán được tính vào chi phí cổ phần hóa. Khi đó, ngoài nhiệm vụ định giá doanh nghiệp, vai trò của kiểm toán độc lập gần giống như người môi giới, họ là cầu nối trong việc thoả thuận giá cả giữa bên bán (Nhà nước) và bên mua (cổ đông tương lai-trong và ngoài doanh nghiệp). - Hai là, xoá bỏ cơ chế hội đồng định giá. Để thực hiện giải pháp này có hiệu quả thì việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước phải dựa trên cơ sở giá trị còn lại và giá cả thị trường chung của xã hội, trên cơ sở đấu giá doanh nghiệp và tài sản doanh nghiệp. Theo cách này có một số ưu điểm: giảm bớt phiền hà trong thủ tục định giá, từ đó rút ngắn thời gian thực hiện cổ phần hóa; tăng tính hấp dẫn đối với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp Nhà nước, thu hút các chủ đầu tư mua hết các cổ phần của doanh nghiệp; đồng thời khắc phục tình trạng định giá quá thấp để bán hết cổ phần gây thiệt hại cho Nhà nước. Kết luận Cổ phần hóa là một trong những biện pháp nhằm cải cách, đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, để cổ phần hóa thành công thì nhất thiết phải giải quyết được vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Trên cơ sở kiến thức được học và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa thời gian qua, đề tài xin dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, kinh nghiệm xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, từ đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới. Tác giả luận văn một lần nữa xin chân thành cảm ơn thày giáo PGS-TS Nguyễn Thành Độ đã trực tiếp hướng dẫn, đồng thời cũng xin cảm ơn các cán bộ phòng Tổ chức-Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu đã tận tình giúp đỡ để có thể hoàn thành luận văn này. Phụ lục 1: Bảng kết quả xác định giá trị doanh nghiệp Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Chỉ tiêu Số liệu sổ sách kế toán Số liệu thực tế Chênh lệch A-Tài sản đang dùng I- TSCĐ và đầu tư dài hạn 6.939.580.035 7.221.916.236 282.336.201 1.Tài sản cố định 4.892.066.035 5.174.402.236 282.336.201 a) TSCĐ hữu hình 4.892.066.035 5.174.402.236 282.336.201 b) TSCĐ vô hình 0 0 0 2. Các khoản đầu tư dài hạn 2.047.514.000 2.047.514.000 0 3. Chi phí XDCB dở dang 0 0 0 4. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 0 0 0 II- TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 8.714.695.785 9.063.745.023 349.049.238 1. Tiền 632.592.128 632.592.128 0 + Tiền mặt tồn quỹ 19.991.952 19.991.952 0 + Tiền gửi ngân hàng 612.600.176 612.600.176 0 + Tiền đang chuyển 0 0 0 2. Đầu tư tài chính ngắn hạn 510.000.000 510.000.000 0 3. Các khoản phải thu 3.113.801.372 3.120.951.372 7.150.000 4. Giá trị vật tư hàng hóa tồn kho 4.417.466.143 4.766.515.381 349.049.238 - Nguyên vật liệu 1.867.564.140 1.867.564.140 0 - Công cụ, dụng cụ LĐ trong kho 94.647.170 94.647.170 0 - Bán thành phẩm tồn kho 402.254.833 402.254.833 0 - Thành phẩm tồn kho 2.053.000.000 2.390.239.238 337.239.238 - Công cụ LĐ đang dùng 0 11.810.000 11.810.000 5. TSLĐ khác 40.836.142 33.686.142 -7.150.000 6. Chi phí sự nghiệp 0 0 0 III- Giá trị lợi thế kinh doanh 0 0 0 Giá trị doanh nghiệp (I+II+III) 15.654.275.820 16.285.661.259 631.385.439 IV- Nợ thực tế phải trả 6.710.670.267 6.710.670.267 0 Tổng giá trị phần vốn NN tại doanh nghiệp 8.943.605.267 9.574.990.992 631.385.439 B- Tài sản không cần dùng 0 0 0 I- TSCĐ và đầu tư dài hạn 0 0 0 1. Tài sản cố định 0 0 0 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 0 0 0 3. Chi phí XDCB dở dang 0 0 0 4. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 0 0 0 II- TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 0 0 0 C- TSCĐ đã khấu hao hết chờ xử lý 97.118.000 97.118.000 0 D- Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi 0 0 0 Phụ lục 2: Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Luật Doanh nghiệp - Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999. 2. Một số ăn bản pháp quy của Nhà nước về cổ phần hóa: - Nghị định số 28/1996/NĐ-CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ. - Thông tư 50/1996/TC-TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính. - Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ. - Thông tư 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính. - Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ tài chính 3. Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp - GS-TS Nguyễn Đình Phan-NXB Giáo dục-1999. 4. Giáo trình Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - PGS.TS Phạm Hữu Huy - NXB Giáo dục-1998. 5. Giáo trình Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp - PGS.TS Nguyễn Thành Độ - NXB Giáo dục-1998. 6. Báo cáo tổng kết của Công ty từ 1997 đến 2000. 7. Điều lệ Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 8. Đề án cổ phần hoá Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 9. Hồ sơ xác định giá trị Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 10. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Kinh nghiệm thế giới - Hoàng Đức Tảo - NXB Thống Kê-1993. 11. Hỏi và đáp về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - Hoàng Công Thi - NXB Thống Kê 1993. 12. Tạp chí Tài chính số 5/1995; 5/1998; 13. Các phương pháp thẩm định giá trị tài sản-Nhiều tác giả-NXB TPHCM-1997. 14. Một số tài liệu có tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0288.doc
Tài liệu liên quan