Chuyên đề Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Hiện nay, CN NHCT Đống Đa thực hiện bảo lãnh cho khách hàng chủ yếu dựa vào quy định trong quy chế bảo lãnh do NHNN Việt Nam ban hành, công văn hướng dẫn của NHCT Việt Nam và một số văn bản luật, dưới luật khác của Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay vẫn tồn tại quá nhiều bộ luật, văn bản chi phối hoạt động ngân hàng: Luật tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Luật doanh nghiệp và rất nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong quá trình nghiên cứu và thực hiện. Hơn nữa, các văn bản quy định này lại thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi và nhiều khi không thống nhất với nhau. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần sớm ban hành một hệ thống văn bản pháp luật chung về bảo lãnh ngân hàng trên các tiêu chí sau: - Các văn bản phải đồng bộ và nhất quán với nhau. - Các văn bản luật phải có hiệu quả và khả thi, tức là luật phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các bên tham gia bảo lãnh, khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát triển.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gang) - Hình thức thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh - Địa điểm nhận yêu cầu thanh toán theo nghĩa vụ bảo lãnh - Ngày hết hạn hiệu lực bảo lãnh - Các yêu cầu mà bên nhận thanh toán phải đáp ứng khi yêu cầu thanh toán Tùy theo yêu cầu của khách hàng trong giấy đề nghị bảo lãnh mà cam kết bảo lãnh có thể được phát hành bằng thư, điện Telex hoặc Swift. * Theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh Cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng. Với từng loại nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể cán bộ tín dụng sẽ yêu cầu khách hàng phải cung cấp các bằng chứng chứng minh mình đang thực hiện hợp đồng với bên thứ ba theo đúng cam kết. Đồng thời cán bộ tín dụng cũng phải theo dõi tài sản đảm bảo, định kỳ kiểm tra hiện trạng và giá trị thị trường để đánh giá lại giá trị của tài sản đảm bảo. * Định kỳ đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng Đối với trường hợp bảo lãnh có thời hạn dài hơn 1 năm thì định kỳ hàng năm cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích khách hàng. Tùy theo diễn biến của tình hình khách hàng và thị trường, cán bộ tín dụng sẽ lập tờ trình thẩm định trình TPTD, đề xuất một trong các phương án là tiếp tục duy trì quan hệ với khách hàng; duy trì quan hệ trên cơ sở một số điều kiện mới hay ngừng phát hành thêm cam kết bảo lãnh mới. Sau đó cán bộ tín dụng sẽ thông báo với khách hàng quyết định cuối cùng của CN. * Gia hạn bảo lãnh Khi cán bộ tín dụng nhận được Giấy đề nghị gia hạn bảo lãnh của khách hàng sẽ thực hiện kiểm tra phân tích lý do xin gia hạn; tình trạng tài chính và hoạt động của khách hàng; thực tế tình hình thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh; phương án thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh sau khi được gia hạn; tình trạng và giá trị tài sản đảm bảo. Trên cơ sở đó, cán bộ tín dụng sẽ lập tờ trình thẩm định đề xuất một trong ba phương án: đồng ý gia hạn; gia hạn có điều kiện; từ chối gia hạn và nêu rõ lý do, sau đó đem trình trưởng phòng tín dụng phê duyệt. Nếu đồng ý gia hạn bảo lãnh, cán bộ tín dụng sẽ thảo văn bản bổ sung hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng bảo đảm và cam kết bảo lãnh về điều khoản gia hạn. Gia hạn cam kết bảo lãnh sẽ được phát hành theo cùng một cách thức phát hành và gửi đến cùng một địa chỉ như đối với cam kết bảo lãnh ban đầu. * Xử lý khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Khi nhận được văn bản yêu cầu thực hiện nghãi vụ bảo lãnh của bên thứ ba, cán bộ tín dụng kiểm tra lại cam kết bảo lãnh về hiệu lực bảo lãnh và các điều kiện yêu cầu đối với bên thứ ba. Cán bộ tín dụng đề xuất họp 3 bên: ngân hàng, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh để bàn biện pháp thanh toán cụ thể, xác định nghĩa vụ thanh toán của mình. * Giải tỏa bảo lãnh và thanh lý hợp đồng bảo lãnh / hợp đồng bảo đảm Hợp đồng bảo lãnh được thanh lý khi cam kết bảo lãnh đã hết thời hạn hiệu lực hay khi bên nhận bảo lãnh có văn bản xác nhận chấm dứt cam kết bảo lãnh và gửi trả lại cho ngân hàng bản gốc của cam kết bảo lãnh. 2.1.2. Tình hình bảo lãnh của Chi nhánh trong thời gian qua Với mục tiêu tăng thu phí dịch vụ và đa dạng hóa sản phẩm, CN NHCT Đống Đa đã liên tục phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ bảo lãnh như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành… Kết quả là năm 2005, đánh dấu mức tăng trưởng lớn của doanh số bảo lãnh thực hiện. Năm 2005 doanh số bảo lãnh phát sinh là 277,579 tỷ tăng 51,7% so với năm 2004 chỉ có 182,977 tỷ. Tuy nhiên, do hạn chế đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và giao thông nên năm 2006 doanh số bảo lãnh phát sinh giảm thấp hơn năm 2005, cụ thể là năm 2006 doanh số bảo lãnh phát sinh là 234,63 tỷ đồng chỉ bằng 84,53% so với năm 2005. Sau đây là tình hình thực hiện cụ thể của ngân hàng: Ty le tang truong cua tung loai bao lanh Năm 2004 2005 2006 2007 Gía trị Giá trị 2005\2004 Giá trị 2006\2005 Giá trị 2007\2006 bảo lãnh dự thầu 36,687 59,235 161,46% 45,894 77,48% 43,789 95,41% bảo lãnh thực hiện hợp đồng 64,262 97,014 150,97% 87,822 90,53% 90,125 102,62% bảo lãnh thanh toán 9,734 9,882 101,51% 9,456 95,69% 15,577 164,73% bảo lãnh hoàn thanh toán 5,727 4,552 79,49% 5,420 119,06% 4,120 76,01% 66,567 106,896 160,58% 86,039 80,49% 89,500 104,02% Tổng 182,977 277,579 234,631 243,111 Từ số liệu bảng 2.8 ta thấy trong 4 năm 2004 - 2007mức độ biến động trong doanh số của các nghiệp vụ bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa là rất lớn và không đều qua các năm. Trong năm 2007 thì có sự biến động không đều,cụ thể là : - Nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu có doanh số tăng mạnh vào năm 2005, tăng 22,548 tỷ tương đương với 61,46% so với năm 2004, nhưng năm 2006 doanh số lại giảm đáng kể 13,341 tỷ tương đương 22,52% so với năm 2005,năm 2007 giảm 2,105 tỷ tương đương giảm 4,59% - Nghiệp vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng tăng đáng kể trong năm 2005 và lại không nhiều vào năm 2006. Năm 2005 doanh số bảo lãnh thực hiện hợp đồng tăng 35,752 tỷ tương đương 50,97% so với năm 2004; năm 2006 doanh số giảm 9,192 tỷ tương đương 9,47% so với năm 2005,tuy nhiên trong năm 2007 laị tăng 2,303 tỷ tương đương tăng 2,62% - Nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán biến động không đáng kể trong thời gian từ 2004 đến 2006,tuy nhiên năm 2007 lạI tăng rất đáng kể so vớI năm 2006,tăng 6,121 tỷ tương đương tăng 64,73% - Nghiệp vụ bảo lãnh hoàn thanh toán có doanh số giảm vào năm 2005 và tăng trở lại trong năm 2006, tuy nhiên lạI giảm tương đốI nhiều trong năm 2007,giảm 1,3 tỷ tương đương giảm 23,09% so vớI năm 2006 - Nghiệp vụ bảo lãnh bảo hành có doanh số tăng mạnh vào năm 2005, tăng 60,58% so với năm 2004, số tuyệt đối là 40,329 tỷ. Tuy nhiên, sang năm 2006 doanh số này lại giảm tương đối, giảm 19,51% tức là 20,857 tỷ đồng. Đến năm 2007 lạI có xu hướng tăng,tăng 3,461 tỷ tương đương tăng 4,02% Trái ngược với sự biến động thất thường trong doanh số của các nghiệp vụ bảo lãnh, tỷ trọng của các loại bảo lãnh trong tổng doanh số bảo lãnh lại không có nhiều thay đổi. Theo số liệu bảng 2.9 ta có thế thấy trong các loại bảo lãnh thì bảo lãnh bảo hành và bảo lãnh thực hiện hợp đồng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên 30%. Đây cũng là những nghiệp vụ bảo lãnh được CN NHCT Đống Đa thực hiện nhiều nhất. Điều này xuất phát từ nguyên nhân khách hàng chủ yếu của CN NHCT Đống Đa là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng và sản xuất thiết bị nên nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu họ yêu cầu là hai loại này. Bên cạnh đó hai loại nghiệp vụ bảo lãnh này thường có giá trị bảo lãnh rất lớn nên doanh số bảo lãnh có thể rất cao dù số món bảo lãnh có thể không nhiều bằng các loại bảo lãnh khác. Trong các loại bảo lãnh mà CN đang thực hiện thì bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh hoàn thanh toán có tỷ trọng rất thấp, thường chỉ chiếm từ 2-5% trong tổng doanh số bảo lãnh. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là nhu cầu hai loại bảo lãnh này hiện nay không nhiều và rủi ro của nghiệp vụ bảo lãnh này thường cao đặc biệt là bảo lãnh thanh toán nên số lượng bảo lãnh hai loại này ở CN NHCT Đống Đa còn hạn chế. Tỷ trọng các loạI bảo lãnh Năm 2004 2005 2006 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Bảo lãnh dự thầu 36,687 20,05 59,235 21,34 45,894 19,56 43,789 18,01 Bảo lãnh thực hiện hợp động 64,262 35,12 97,014 34,95 87,822 37,43 90,125 37,07 Bảo lãnh thanh toán 9,734 5,32 9,882 3,56 9,456 4,03 15,577 6,40 Bảo lãnh hoàn thanh toán 5,727 3,13 4,552 1,64 5,420 2,31 4,120 1,69 Bảo lãnh bảo hành 66,567 36,38 106,896 38,51 86,039 36,67 89,500 36,83 Tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 234,631 100,00 243,111 100,00 2. Phân loại bảo lãnh theo đối tượng khách hàng Năm 2004 2005 2006 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Doanh nghiệp lớn 130,938 71,56 193,695 69,78 169,426 72,21 Doanh nghiệp nhỏ và vừa 49,129 26,85 81,053 29,02 63,632 27,12 Cá nhân 2,909 1,59 2,831 1,02 1,572 0,67 tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 100,00 100,00 Theo số liệu bảng 2.11 ta thấy doanh số bảo lãnh của CN chủ yếu nằm trong các doanh nghiệp lớn, tỷ trọng chiếm trên dưới 70% trong tổng doanh số bảo lãnh. Doanh số bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ (dưới 30% tổng doanh số). Điều này cho thấy sự bất hợp lý trong cơ cấu bảo lãnh của CN. Hiện nay ở nước ta phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng khách hàng của CN lại chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, chứng tỏ CN chưa biết cách khai thác tốt nguồn khách hàng. Việc quá tập trung vào các khách hàng lớn mà bỏ quên một lượng khách hàng nhỏ và vừa dồi dào đã phản ánh chất lượng bảo lãnh của CN không thật sự tốt, luôn tiềm ẩn rủi ro cao. Dưới đây là tỷ trọng bảo lãnh phân loại theo thành phần kinh tế: Năm 2004 2005 2006 2007 Gía trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Doanh nghiệp quốc doanh 104,754 57,25 155,805 56,13 131,510 56,05 60,78 25 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 75,313 41,16 118,943 42,85 101,548 43,28 181,99 74,86 Cá nhân 2,909 1,59 2,831 1,02 1,572 0,67 0,341 0,14 tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 234,631 100,00 243,111 100,00 Từ bảng số liệu trên ta thấy có một sự thay đổI rõ nét trong năm 2007 so vói nhưng năm trươc đó.Từ năm 2004 đến 2006 thì tỷ trọng bảo lãnh cuả doanh nghiệp nhà nước còn chiếm vớI tỷ lệ là hầu hết thì đến năm 2007 thì hoàn toàn khác,doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ bảo lãnh nhiều hơn rõ rệt, đó là do xu hướng cổ phần hoá của các doanh nghiệp 3.Tình hình đảm bảo cho các khoản bảo lãnh Năm 2004 2005 2006 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Ký quỹ 0% 82,925 45,32 139,261 50,17 109,220 46,55 122,771 50,50 Ký quỹ 5% 73,465 40,15 108,922 39,24 98,028 41,78 93,66 38,50 Ký quỹ 10%-90% 0,695 0,38 4,858 1,75 3,519 1,50 4,86 2,00 Ký quỹ 100% 26,587 14,53 24,538 8,84 23,862 10,17 21,88 9,00 tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 234,631 100,00 243,111 100,00 Theo bảng số liệu 2.10 ta thấy các khoản bảo lãnh không có tài sản đảm bảo vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn trên 45%. Các khoản bảo lãnh chỉ ký quỹ 5% cũng chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó các khoản bảo lãnh có tỷ lệ ký quỹ từ 10% trở lên luôn chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong tổng số. Điều này phản ánh rằng đang tồn tại một cơ cấu bất hợp lý và tiềm ẩn nhiều rủi ro trong tài sản bảo lãnh của ngân hàng. Hiện tượng này có thể được giải thích thông qua việc đánh giá khách hàng bảo lãnh của chi nhánh. Đối tượng khách hàng bảo lãnh chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ làm ăn truyền thống và vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp. Họ đã quen được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp khác, do vậy họ thường không đồng ý ký quỹ khi yêu cầu ngân hàng bảo lãnh. 4.Phân loại bảo lãnh theo thời hạn Năm 2004 2005 2006 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Bảo lãnh ngắn hạn(dướI 1 năm) 119,191 65,14 176,624 63,63 151,219 64,45 170,18 70,00 Bảo lãnh trung hạn(1-5 năm) 53,887 29,45 71,810 25,87 62,881 26,80 52,27 21,50 Bảo lãnh dài hạn(trên 10 năm) 9,899 5,41 29,146 10,50 20,530 8,75 20,66 8,50 tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 234,631 100,00 243,111 100,00 Từ số liệu bảng 2.13 ta thấy bảo lãnh của CN chủ yếu là bảo lãnh ngắn hạn chiếm trên 60% tổng doanh số bảo lãnh; bảo lãnh trung hạn cũng chiếm một phần đáng kể (từ 25% đến 30% tổng doanh số bảo lãnh); còn bảo lãnh dài hạn chỉ chiếm một tỷ lệ rất ít dưới 10% tổng doanh số bảo lãnh. Do bảo lãnh dài hạn có rủi ro cao, khó quản lý và kiểm soát nên CN rất thận trọng khi thực hiện các khoản bảo lãnh dài hạn. 2.2. Phân tích chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa Căn cứ vào lý thuyết đã được khái quát ở trên, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa được phân tích qua hệ thống các chỉ tiêu: - Về doanh số bảo lãnh: Doanh số bảo lãnh phát sinh trong 3 năm qua có những diễn biến lên xuống không đều. Năm 2005, doanh số bảo lãnh tăng rất nhiều so với năm 2004, tăng 94, 602 tỷ, tương đương 51,7%. Nhưng sang năm 2006, doanh số bảo lãnh lại giảm đáng kể, giảm 42,949 tỷ tương đương 15,47% so với năm 2005. Như vậy doanh số bảo lãnh của chi nhánh không có tốc độ tăng trưởng đều, báo hiệu chất lượng bảo lãnh của CN đang có dấu hiệu suy giảm. - Về giá trị ghi nợ bắt buộc: Hiện nay chi nhánh chưa có khoản bảo lãnh nào phải thanh toán cho bên thứ ba thay khách hàng. Vì vậy CN chưa có khoản ghi nợ bắt buộc nào cho đến nay. Tỷ lệ ghi nợ bắt buộc trong tổng doanh số bảo lãnh của CN bằng 0 không có nghĩa chất lượng bảo lãnh của CN đã tốt, bởi vì tỷ lệ này chỉ thể hiện được chất lượng ở thời điểm hiện tại mà không hề cho chúng ta thấy những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro của bảo lãnh trong tương lai. - Về nợ bảo lãnh quá hạn: Do CN chưa có khoản bảo lãnh nào phải thanh toán thay khách hàng nên CN không có nợ bảo lãnh quá hạn. - Về các khoản bảo lãnh có vấn đề: Năm 2004 2005 2006 2007 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Bảo lãnh nhóm 1 166,930 91,23 247,267 89,08 206,334 87,94 219,32 Bảo lãnh nhóm 2 16,047 8,77 30,312 10,92 28,296 12,06 23,79 Bảo lãnh nhóm 5 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng 182,977 100,00 277,579 100,00 234,631 100,00 243,111 100,00 Từ số liệu bảng 2.13 cho ta thấy, trong 4 năm qua CN không có các khoản bảo lãnh có vấn đề tức là các khoản bảo lãnh được xếp vào nhóm 3,4,5; các khoản bảo lãnh nhóm 2 cũng chiếm tỷ lệ rất ít chỉ trên dưới 10%. Trong tổng doanh số bảo lãnh của CN chủ yếu là các khoản bảo lãnh nhóm 1, tuy nhiên tỷ lệ này lại đang giảm dần theo các năm. Điều này cũng là một vấn đề đáng chú ý, cho thấy đã có dấu hiệu của sự suy giảm trong chất lượng bảo lãnh của CN. - Về cơ cấu bảo lãnh của CN: Như đã phân tích ở phần trên, cơ cấu bảo lãnh của CN hiện nay vẫn còn chưa thực sự phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang là cơn lốc phát triển cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng tỷ lệ khách hàng này được bảo lãnh ở CN vẫn còn rất thấp. Ngoài ra, tỷ lệ khách hàng là các doang nghiệp nhà nước vẫn chiếm đa số, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn cũng là các doanh nghiệp nhà nước mới được cổ phần hóa. Do đó, cơ cấu bảo lãnh của CN chủ yếu là các khoản bảo lãnh tín chấp và bảo lãnh ký quỹ 5% (hai loại này chiếm một tỷ lệ trên 80% trong tổng doanh số bảo lãnh). Như vậy, cho đến nay cơ cấu bảo lãnh của CN vẫn còn nhiều bất hợp lý và tiềm ẩn nhiều rủi ro. - Về lợi nhuận thu được từ dịch vụ bảo lãnh: Bảng 2.14: Tình hình thu phí bảo lãnh Đơn vị: tỷ đồng 2004 2005 2006 Thu phí bảo lãnh 25,562 30,983 27,165 Tổng thu từ dịch vụ 248,541 286,825 223,772 Nguồn:Phòng tổng hợp, chi nhánh NHCT Đống Đa Từ số liệu bảng 2.14, ta thấy phí bảo lãnh thu được trong 3 năm qua so với tổng thu từ dịch vụ còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chỉ khoảng 10% trong tổng thu từ dịch vụ. Điều này cho thấy hoạt động bảo lãnh chưa thực sự trở thành hoạt động quan trọng và mang lại nguồn thu lớn cho CN. 2.3. Đánh giá thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 2.3.1. Kết quả đạt đuợc Từ những phân tích ở phần trên, chúng ta có thể đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa nhìn chung vẫn tương đối tốt. Cho đến nay CN chưa phải thanh toán hộ khách hàng lần nào cũng như chưa hề có nợ bảo lãnh quá hạn. Điều này chứng tỏ hoạt động bảo lãnh của CN khá an toàn, mang lại sự tin tưởng cho bên hưởng bảo lãnh khi tiếp nhận cam kết bảo lãnh của CN. Các dịch vụ bảo lãnh mà CN cung cấp đang ngày một hoàn thiện và có chất lượng hơn, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Điều này được thể hiện ở chỗ thời gian thẩm định và quyết định bảo lãnh đã nhanh hơn, cán bộ tín dụng đã có kinh nghiệm hơn trong nghiệp vụ bảo lãnh. Doanh số bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa dù trong năm 2006 có giảm do một số nguyên nhân nhưng xét trong cả giai đoạn thì xu hướng chung vẫn là tăng đáng kể. Số lượng khách hàng đến yêu cầu bảo lãnh tại CN đã nhiều lên không chỉ bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh mà còn có các thành phần kinh tế khác. Hoạt động bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa đã làm tăng cường thêm mối quan hệ giữa CN với các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy các dịch vụ khác cùng phát triển. Đặc biệt, dịch vụ bảo lãnh của chi nhánh đã phần nào đáp ứng được nhu cầu cần bảo lãnh của một bộ phận doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên để đạt được những kết quả trên là do sự tác động của rất nhiều yếu tố bao gồm cả các yếu tố chủ quan và khách quan. * Nguyên nhân khách quan Nền kinh tế nước ta trong thời gian qua đang ngày càng phát triển cùng với quá trình hội nhập. Nhiều tổ chức đầu tư nước ngoài đã bắt đầu coi Việt Nam như một vị trí để đầu tư chiến lược. Trong tình hình phát triển chung đó, các giao dịch thương mại cũng ngày càng mở rộng về quy mô và hình thức, điều tất yếu là nhu cầu về bảo lãnh ngân hàng ngày càng tăng. Vì vậy, doanh số bảo lãnh cũng như các đối tượng khách hàng bảo lãnh của CN ngày càng phát triển, đa dạng. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý hướng dẫn về nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM, văn bản sau luôn hoàn thiện, đầy đủ hơn văn bản trước tạo cơ sở pháp lý cho CN thực hiện quy trình bảo lãnh tốt hơn. +Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng; + Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; + Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; + Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; + Thông tư số 02/TT-NHNN14 ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng. + Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng Hiện nay CN đã bắt đầu triển khai thực hiện bảo lãnh theo quy chế bảo lãnh được ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN và văn bản hướng dẫn của NHCT Việt Nam. NHCT Việt Nam cũng đã ban hành quyển sổ tay tín dụng cung cấp đầy đủ, thống nhất hướng dẫn cho các bước của quy trình tín dụng nói chung và quy trình bảo lãnh nói riêng. * Nguyên nhân chủ quan Do nhận thức được xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam và của thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng, CN đã có kế hoạch phát triển đúng đắn, đồng bộ. CN đã đầu tư nhiều để nâng cao trang thiết bị làm việc cũng như hệ thống công nghệ ngân hàng nhằm góp phần hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Hơn nữa kết quả này có được còn nhờ vào những nỗ lực phấn đấu, không ngừng trau dồi, hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ của tập thể cán bộ công nhân viên trong CN. Đặc biệt các cán bộ tín dụng luôn cố gắng hết sức mình để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tín dụng nói chung và dịch vụ bảo lãnh nói riêng một cách tốt nhất. Với bề dày thành tích là chi nhánh cấp 1 có thời gian hoạt động lâu năm của hệ thống NHCT Việt Nam, CN NHCT Đống Đa đã tạo ra được cho mình uy tín vững chắc trong cộng đồng kinh tế. CN NHCT Đống Đa luôn mang lại sự tin tưởng tuyệt đối trong các cam kết bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân hưởng bảo lãnh vì danh tiếng, uy tín hoạt động của mình. Nguyên nhân nữa là khách hàng được bảo lãnh của CN chủ yếu là các khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu năm, có uy tín. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng của CN đã rất chú trọng đến công tác thẩm định khách hàng trước khi cấp bảo lãnh nên hiện nay CN vẫn chưa gặp tổn thất phải thanh toán hộ khách hàng. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Từ những phân tích về chất lượng bảo lãnh ở phần trên, chúng ta có thể thấy chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa về cơ bản chưa thật sự tốt. Có rất nhiều biểu hiện minh chứng cho nhận xét này: * Về doanh số bảo lãnh Doanh số bảo lãnh phát sinh của CN NHCT Đống Đa có nhiều biến động thất thường trong các năm. Năm 2005, doanh số bảo lãnh phát sinh tăng mạnh nhưng sang năm 2006 doanh số bảo lãnh lại giảm đáng kể. * Về các nghiệp vụ bảo lãnh Hiện nay các nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh chưa thực sự đa dạng và phong phú. Nhiều loại bảo lãnh chưa bao giờ được thực hiện ở CN như nghiệp vụ bảo lãnh bao tiêu hàng hóa,… Nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu và thường xuyên là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh mở L/C….Thời hạn bảo lãnh thường ngắn và doanh số thực hiện từng loại bảo lãnh cũng không cao và có biến động thất thường. * Về cơ cấu bảo lãnh của CN: Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ truyền thống, lâu năm. Đối tượng khách hàng của CN còn nhiều hạn chế, không phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế, điều này đã quyết định đến cơ cấu bảo lãnh của CN. Cơ cấu bảo lãnh của CN có nhiều bất hợp lý, trong đó cơ cấu chủ yếu nghiêng về phía tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp lớn. Vì vậy cơ cấu bảo lãnh theo tỷ lệ ký quỹ đa phần vẫn là các khoản bảo lãnh ký quỹ 0% và ký quỹ 5%. Cơ cấu bảo lãnh không hợp lý chính là biểu hiện rõ nét, minh chứng cho sự chưa hoàn thiện trong chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa. * Về thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh: Doanh thu từ dịch vụ bảo lãnh của chi nhánh khá thấp, khoảng trên 20 tỷ, chiếm một tỷ trọng nhỏ (xấp xỉ 10%) trong tổng doanh thu của CN. Dịch vụ bảo lãnh chưa thực sự được CN coi trọng và phát triển một cách đúng mức. So với các dịch vụ tín dụng khác, dịch vụ bảo lãnh thường chỉ là dịch vụ đi kèm theo, tức là các khách hàng bảo lãnh thường là các khách hàng có quan hệ tín dụng từ trước với CN. * Về mức độ an toàn của chi nhánh khi thực hiện bảo lãnh: Mặc dù cho đến nay CN chưa từng phải thanh toán bảo lãnh hộ khách hàng nhưng hoạt động bảo lãnh của CN vẫn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, khi rủi ro xảy ra tổn thất sẽ rất lớn. 2.3.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan: - Do sự thiếu đồng bộ trong các quy định của nhà nước: Hiện nay CN NHCT Đống Đa thực hiện quy trình bảo lãnh căn cứ vào những điều khoản quy định trong quy chế bảo lãnh do NHNN Việt Nam ban hành và các văn bản hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Các văn bản này được ban hành ra nhằm định hướng, điều tiết cho hoạt động bảo lãnh của NHTM. Tuy nhiên, giữa các văn bản nhiều khi còn chưa thống nhất với nhau, chưa theo kịp với thực tiễn hoạt động và còn thường xuyên bị sửa đổi. Một môi trường pháp lý còn nhiều điều bất ổn đã gây khó khăn rất nhiều cho các NHTM nói chung và CN NHCT Đống Đa nói riêng. Các NH vì thế không dám mạnh tay trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh vì lo sợ các quy định sẽ lại được sửa đổi theo chiều hướng khác. Nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập ngày càng nhiều với thủ tục rất đơn giản và hoạt động giao dịch rất sôi động. Tuy nhiên quy định của nhà nước để điều tiết các giao dịch này còn rất hạn chế vì có quá nhiều kẽ hở trong luật pháp và các quy định của Nhà nước. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động bảo lãnh của các NHTM nói chung và CN NHCT Đống Đa nói riêng là rất cao. Có quá nhiều các doanh nghiệp của tư nhân được thành lập chỉ là các “công ty ma”, rủi ro lớn và khó kiểm soát buộc CN NHCT Đống Đa còn chưa thể triển khai rộng rãi dịch vụ bảo lãnh đến đối tượng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh. - Năng lực của khách hàng được bảo lãnh còn thấp: Năng lực tài chính, vốn tự có, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp rất lớn vì vậy rủi ro bảo lãnh của các ngân hàng khá cao, và việc phát triển, mở rộng cũng như nâng cao chất lượng bảo lãnh còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, người dân và bản thân nhiều doanh nghiệp cũng chưa thật sự hiểu rõ về dịch vụ bảo lãnh, không thấy được tiện ích của dịch vụ bảo lãnh. Vì vậy, nhu cầu bảo lãnh trong nền kinh tế chưa cao nên doanh số bảo lãnh của CN còn thấp và cơ cấu bảo lãnh vẫn chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp có quan hệ làm ăn lâu dài. * Nguyên nhân chủ quan - CN chưa chú trọng đến việc tìm một cơ cấu khách hàng hợp lý Khách hàng được bảo lãnh ở CN chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc doanh lâu năm, có quan hệ truyền thống với CN, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản. Chính vì chưa chú trọng vào việc đa dạng hóa khách hàng nên chất lượng bảo lãnh của CN phụ thuộc rất lớn vào rủi ro kinh doanh của khách hàng. Nếu có một sự cố xảy ra trong lĩnh vực giao thông làm cho các doanh nghiệp trong ngành này bị đình chỉ hoạt động thì CN sẽ gặp tổn thất rất lớn. - Do đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng chưa có đủ kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết trong phân tích, thẩm định khách hàng. Hiện nay, đội ngũ nhân viên làm việc tại chi nhánh chủ yếu là những cán bộ trẻ, có năng lực, nhiệt tình và tận tâm với công việc nhưng thiếu kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết. Vì vậy, họ còn gặp nhiều khó khăn và sai sót trong công tác thẩm định các điều kiện bảo lãnh, đặc biệt là với các khoản bảo lãnh cho các dự án có quy mô lớn. - Do chính sách ký quỹ của CN còn nhiều bất cập Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh lớn, có uy tín, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp quen được Nhà nước ưu ái. Vì vậy, để giữ khách hàng CN thường phải áp dụng một chính sách ký quỹ nới lỏng cho họ. Các doanh nghiệp này khi yêu cầu bảo lãnh thường không phải ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ ở mức 5%. Mức ký quỹ quá ít và tỷ trọng của các khoản bảo lãnh này lại rất lớn mặc dù sẽ đem lại nhiều phí bảo lãnh hơn cho ngân hàng nhưng làm tăng rủi ro tiềm ẩn trong các khoản bảo lãnh và làm giảm chất lượng bảo lãnh của CN. - CN chưa chú trọng đến việc thực hiện thống nhất và khoa học quy trình bảo lãnh: Tuy đã phân rõ trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng trong quy trình bảo lãnh nhưng công tác thẩm định vẫn chưa được thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc. Nhiều khi việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, quyết định có bảo lãnh hay không chủ yếu dựa trên mối quan hệ truyền thống, lâu năm và lịch sử của khách hàng. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 1. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trong thời gian tới 1.1. Định hướng chung của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa Năm 2006 là một mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự kiện gia nhập WTO của nước ta. Từ đây, đất nước ta đã có những thay đổi lớn cả về kinh tế, xã hội và văn hóa. Nền kinh tế sẽ ngày càng phát triển và đi liền với nó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó ngân hàng tài chính là lĩnh vực sẽ gặp phải sự cạnh tranh lớn nhất. CN NHCT Đống Đa nói riêng và NHCT Việt Nam nói chung cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội trong thời gian tới, định hướng chung của toàn hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm tới là đổi mới cơ cấu, hiện đại hóa hệ thống và không ngừng tăng tiềm lực tài chính của ngân hàng. Theo đó, mục tiêu hoạt động cụ thể của CN NHCT Đống Đa trong năm tới là: - Giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp nhất, tỷ lệ nợ quá hạn không quá 5% tổng dư nợ. - Tăng dư nợ đạt tiêu chuẩn của chi nhánh, tập trung tăng dư nợ trung và dài hạn đồng thời hướng tới đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nâng cao chất lượng hoạt động của CN trong đó quan trọng nhất là nâng cao chất lượng tín dụng. - Tăng tổng nguồn vốn huy động, đặc biệt là các nguồn vốn chi phí thấp như tiền gửi thanh toán. - Sắp xếp lại bộ máy tổ chức của chi nhánh theo hướng gọn nhẹ, giảm biên chế đồng thời tuyển chọn những nhân viên năng động, trẻ, có năng lực thay thế. - Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, phát triển các dịch vụ mới, hiện đại đem lại nhiều tiện ích và sự thuận lợi cho khách hàng. 1.2. Định hướng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa Nằm trong hệ thống mục tiêu hoạt động của CN trong thời gian tới, mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và nâng cao chất lượng bảo lãnh nói riêng đã được cụ thể hóa như sau: - Tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý và an toàn, trong đó tỷ trọng các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm phần lớn. Khi đó, chính sách ký quỹ của CN cũng sẽ phù hợp hơn. - Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng mới đặc biệt là các thành phần kinh tế tư nhân, mở rộng và đa dạng hóa các nghiệp vụ bảo lãnh vì mục tiêu không ngừng tăng trưởng doanh số bảo lãnh lành mạnh để đem lại thu nhập cao cho ngân hàng. - Xây dựng được quy trình bảo lãnh khoa học vừa đáp ứng được yêu cầu về thời gian vừa đáp ứng được nguyên tắc “sàng lọc và hiệu quả” trong hoạt động của ngân hàng. - Phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên thực hiện dịch vụ bảo lãnh về chất cũng như về lượng, không những giỏi chuyên môn mà còn phải có tư cách đạo đức tốt. - Phối hợp hiệu quả dịch vụ bảo lãnh với các dịch vụ khác để đem lại độ thỏa dụng tối ưu cho khách hàng của CN. 2. Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 2.1. Xây dựng một chính sách marketing hiệu quả để thực hiện đa dạng hóa khách hàng, tiến tới một cơ cấu bảo lãnh hợp lý, an toàn Như đã nói ở trên, khách hàng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống lâu năm, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông và xây dựng cơ bản, muốn nâng cao chất lượng bảo lãnh CN cần phải đa dạng hóa khách hàng. Để làm được điều này, trước hết CN cần thực hiện các việc sau: - Bên cạnh việc giao thêm công tác tiếp thị dịch vụ, tư vấn khách hàng cho các cán bộ tín dụng, CN cần thành lập bộ phận Marketing nghiên cứu chuyên nghiệp để xây dựng cho mình môt thương hiệu mạnh. - Nghiên cứu thị trường, phân nhóm khách hàng và phân tích các đặc điểm của từng nhóm khách hàng. Từ đó, xác định được nhu cầu và động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng bảo lãnh và xây dựng được một chính sách phí, mức ký quỹ, các dịch vụ kèm theo phù hợp với đặc điểm của từng nhóm khách hàng. - CN cần tìm ra thị trường mục tiêu cho dịch vụ bảo lãnh của mình, để tập trung chính sách Marketting cho đối tượng khách hàng này. - Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của CN trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh, xác định vị trí của mình trong ngành, xác định các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp . Từ đó tìm ra những khoảng trống thị trường phù hợp với mình để cung cấp dịch vụ bảo lãnh hiệu quả. 2.2. Tuân thủ nghiêm túc quy trình bảo lãnh mà Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra Quy trình bảo lãnh do NHCT Việt Nam đề ra là chuẩn mực chung được áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHCT. Để có được quy trình này các cán bộ cảu NHCT Việt Nam đã phải nghiên cứu và tìm ra những bước cần làm trong quá trình tiếp nhận yêu cầu bảo lãnh đến khi kết thúc bảo lãnh, những tiêu chuẩn đánh giá hợp lý nhất. Vì vậy, CN cần phải tuân thủ thực hiện quy trình một cách nghiêm túc, tạo điều kiện cho NHCT Việt Nam kiểm soát và theo dõi dễ dàng tình hình bảo lãnh của CN để kịp thời ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai sót có thể xảy ra. Khi thực hiện bảo lãnh theo một quy trình bảo lãnh chặt chẽ, khoa học CN mới có thể hạn chế được các kẽ hở trong công tác quản lý, tránh được hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền,tức là hạn chế được những rủI ro có thể gặp phảI trong quá trình bảo lãnh 2.3. Xây dựng một chính sách phí và mức ký quỹ hợp lý Chính sách phí và mức ký quỹ là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh của CN. Hiện nay CN đang áp dụng một biểu phí chung cho tất cả các dịch vụ bảo lãnh đó là: mức phí tính 1%/năm cho phần số dư bảo lãnh có ký quỹ ; mức phí tính 2%/năm cho phần số dư bảo lãnh không ký quỹ. Biểu phí này đã phần nào cân đối được mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, biểu phí này chưa thực sự cân đối giữa lợi ích và chi của khách hàng được bảo lãnh. Trước đây trong quyết định 283/2000/QĐ–NHNN có quy định mức phí bảo lãnh không quá 2%/năm, nhưng quy định này đã được bỏ trong quy chế bảo lãnh mới đi kèm theo quyết định 26/2006/QĐ-NHNN, thay vào đấy là quy định cho phép các NHTM cung cấp một mức phí thỏa thuận, linh hoạt cho bên được bảo lãnh. Căn cứ vào quy định của NHNN và thực tế dịch vụ của mình, CN phải xây dựng chính sách phí sao cho khách hàng không cảm thấy quá đắt so với những gì mình nhận được, như vậy mới khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Sau đây là một số giải pháp được đề xuất nhằm giúp CN có một chính sách phí phù hợp: - CN nên xây dựng một biểu phí chi tiết cho từng loại nghiệp vụ bảo lãnh vì mỗi loại bảo lãnh tiềm ẩn mức độ rủi ro khác nhau. Như vậy, khi muốn tập trung phát triển, mở rộng loại nghiệp vụ bảo lãnh nào, CN có thể hạ mức phí bảo lãnh của nghiệp vụ bảo lãnh đó xuống mà không làm ảnh hưởng đến các nghiệp vụ bảo lãnh khác. - Chi nhánh cũng cần phải căn cứ vào công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng trong việc xây dựng biểu phí. Với các khách hàng có rủi ro thấp hơn nên được hỗ trợ, khuyến khích bằng cách giảm mức phí. Chính sách mức ký quỹ có mục tiêu là giảm rủi ro, tăng độ an toàn cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng nào cũng đều muốn khách hàng ký quỹ nhiều, vừa an toàn vừa có thêm nguồn vốn chi phí thấp để kinh doanh. Tuy nhiên, khi khách hàng ký quỹ tức là khách hàng đã bị chiếm dụng vốn, có thể làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chính sách ký quỹ cũng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng bảo lãnh của khách hàng, bởi vì không có doanh nghiệp nào muốn mình bị chiếm dụng vốn quá nhiều, tiền nằm nhàn rỗi không sinh lời. Một chính sách ký quỹ hợp lý phải đảm bảo được hai mục tiêu: thứ nhất là tạo ra độ an toàn nhất định cho ngân hàng, thứ hai là ở mức có thể chấp nhận được của khách hàng, tức là không làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Để xây dựng được chính sách ký quỹ hợp lý chi nhánh có thể thực hiện các giải pháp sau: - Gắn mức ký quỹ với mức độ rủi ro của khách hàng và mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh. Ví dụ bảo lãnh thanh toán có rủi ro lớn hơn các nghiệp vụ bảo lãnh khác cho nên mức ký quỹ cho nghiệp vụ bảo lãnh này phải cao hơn; đồng thời khách hàng yêu cầu bảo lãnh có rủi ro cao (đánh giá thông qua công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng) thì sẽ phải ký quỹ nhiều hơn các khách hàng có mức rủi ro thấp hơn. CN có thể xây dựng cách tính mức ký quỹ thực tế thông qua phương pháp đánh trọng số cho mức ký quỹ căn cứ vào rủi ro bảo lãnh và mức ký quỹ căn cứ vào rủi ro của khách hàng. CN cũng có thể lập bảng liệt kê mức ký quỹ cụ thể cho từng trường hợp. - Chi nhánh nên áp dụng phương thức trả lãi cho khoản tiền ký quỹ của các doanh nghiệp như các khoản tiền gửi thông thường, để khuyến khích các doanh nghiệp ký quỹ, tăng tính cạnh tranh với các ngân hàng khác. 2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ bảo lãnh Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định trong công việc. Vì vậy, CN muốn thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng bảo lãnh không thể không chú ý đến vấn đề con người. Cán bộ tín dụng là những người sẽ trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ bảo lãnh. CN cần tập trung hoàn thiện chất lượng cán bộ tín dụng bằng những biện pháp sau: - Thực hiện điều chỉnh, sắp xếp cán bộ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của hoạt động bảo lãnh nói riêng, hoạt động tín dụng nói chung. - Có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý, thu hút được nguồn lao động có chất lượng cao, có phẩm chất tốt. Biện pháp hữu hiệu nhất là tuyển chọn các sinh viên giỏi của các trường khối kinh tế. Ưu điểm của lực lượng sinh viên mới ra trường là đội ngũ lao động trẻ, năng động, ham học hỏi, có tinh thần sáng tạo, hăng hái tuy nhiên còn thiếu kinh nghiệm. Sau khi tuyển chọn Ban lãnh đạo CN có thể tổ chức các khóa đào tạo nâng cao chuyên môn, áp dụng hình thức gửi các nhân viên mới đi theo học hỏi các cán bộ có kinh nghiệm, làm việc lâu năm trong nghề. - Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ tín dụng. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện kịp thời những sai sót, gian lận trong quá trình làm việc của các nhân viên. 2.5. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong bảo lãnh Chất lượng bảo lãnh phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng. Khách hàng có thể mất khả năng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết hoặc cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ, như thế đều gây ra tổn thất cho ngân hàng và làm giảm chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Vì vậy, để nâng cao chất lượng bảo lãnh CN nhất thiết phải hoàn thiện công tác thẩm định trong bảo lãnh. Thực tế, khả năng ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng trong hợp đồng bảo lãnh hiếm khi xảy ra, nhưng điều này cũng không có nghĩa là công tác thẩm định trong bảo lãnh của ngân hàng đã được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Muốn nâng cao chất lượng thẩm định, trước hết ban lãnh đạo cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thẩm định của các cán bộ tín dụng. Công tác thẩm định khách hàng có bốn nội dung cơ bản đó là phân tích tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành và quản lý; đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng; phân tích và đánh giá tình hình tài chính của khách hàng; phân tích khả năng thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh. Cán bộ tín dụng cần phải thực hiện đầy đủ và chi tiết, không được bỏ sót nội dung nào. 3. Kiến nghị 3.1. Kiến nghị với chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước 3.1.1. Về môi trường pháp lý Hiện nay, CN NHCT Đống Đa thực hiện bảo lãnh cho khách hàng chủ yếu dựa vào quy định trong quy chế bảo lãnh do NHNN Việt Nam ban hành, công văn hướng dẫn của NHCT Việt Nam và một số văn bản luật, dưới luật khác của Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay vẫn tồn tại quá nhiều bộ luật, văn bản chi phối hoạt động ngân hàng: Luật tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Luật doanh nghiệp và rất nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong quá trình nghiên cứu và thực hiện. Hơn nữa, các văn bản quy định này lại thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi và nhiều khi không thống nhất với nhau. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần sớm ban hành một hệ thống văn bản pháp luật chung về bảo lãnh ngân hàng trên các tiêu chí sau: - Các văn bản phải đồng bộ và nhất quán với nhau. - Các văn bản luật phải có hiệu quả và khả thi, tức là luật phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các bên tham gia bảo lãnh, khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát triển. - Phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại quốc tế đặc biệt là đối với hoạt động bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài. - Các văn bản này cần có tính ổn định, tránh thay đổi thường xuyên sẽ gây ra tâm lý lo lắng, kìm hãm sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. 3.1.2. Về môi trường kinh doanh Nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, khi đó nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh ngân hàng chắc chắn sẽ tăng cả về chất và lượng. Nhà nước cần hướng tới xây dựng một môi trường kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, thông tin công khai. Một môi trường như vậy không chỉ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển mà còn tạo điều kiện hỗ trợ rất nhiều cho công tác thẩm định bảo lãnh của ngân hàng. 3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hiện nay, CN NHCT Đống Đa thực hiện hoạt động bảo lãnh theo quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. Quyết định này đã thay thế các quyết định trước đây là Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000; Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000; Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Thông tư số 02/TT-NHNN ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng. Mặc dù quyết định này đã được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung so với các văn bản trước đây nhưng nó vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu là văn bản định hướng cụ thể và chi tiết cho hoạt động bảo lãnh của NHTM. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện quy chế về bảo lãnh ngân hàng nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các NHTM và các doanh nghiệp khi thực hiện bảo lãnh. Chỉ khi có nền tảng pháp luật phù hợp thì việc nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của các NHTM mới có cơ sở thực hiện được. NHNN cần đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, tập trung vào thanh tra chất lượng tín dụng trong đó có chất lượng bảo lãnh, công tác quản trị điều hành…để phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm. NHNN cần đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại NHTM theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, tiếp tục xử lý nợ tồn đọng nhằm tăng cường năng lực tài chính của các NHTM. 3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam NHCT Việt Nam là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động của CN NHCT Đống Đa. Do đó, NHCT Việt Nam cần thường xuyên hoàn thiện những văn bản hướng dẫn bảo lãnh sao cho phù hợp với thực tế, với quy định của nhà nước và với đặc điểm kinh doanh của các chi nhánh trực thuộc. Cụ thể, NHCT VN cần đổi mới quyển sổ tay tín dụng đã lạc hậu để phù hợp hơn với thực tiễn, hoàn thiện quy trình tín dụng nói chung và quy trình bảo lãnh nói riêng. Đồng thời NHCT Việt Nam cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn hệ thống để phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm. NHCT Việt Nam phải xóa bỏ hoàn toàn những tư tưởng bao cấp vốn đã ăn sâu vào suy nghĩ, hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước để đổi mới cơ chế hoạt động, đem lại sự năng động cho toàn hệ thống. Điều đó, chỉ có thể thực hiện được thông qua cổ phần hóa ngân hàng. Vì vậy, việc nhanh chóng tiến hành cổ phần hóa sẽ mang lại một môi trường hoạt động cạnh tranh, năng động hơn cho các CN trong đó có CN NHCT Đống Đa. NHCT Việt Nam nên tổ chức thường xuyên các chương trình đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân viên trong hệ thống ngân hàng. Kết luận Dịch vụ bảo lãnh ngân hàng ở nước ta hiện nay đang trong quá trình trở thành một dịch vụ ngân hàng phát triển, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Nhận thức được tiềm năng của dịch vụ bảo lãnh, CN NHCT Đống Đa luôn tìm cách nâng cao tính cạnh tranh của mình trong việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh để nhanh chóng khẳng định được vị thế và chiếm lĩnh thị trường đầy màu mỡ này. Tuy nhiên, CN còn gặp nhiều khó khăn và chưa tìm ra được phương hướng cũng như các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu, định hướng nâng cao chất lượng bảo lãnh của mình. Vì vậy, thông qua chuyên đề tốt nghiệp, em xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh của chi nhánh NHCT Đống Đa căn cứ vào những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh và thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về mặt nhận thức, đồng thời thời gian nghiên cứu cũng chưa lâu nên chuyên đề của em không tránh khỏi có những khiếm khuyết, sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà Nhà xuất bản Thống kê – Hà Nội 2. Quản trị Ngân hàng thương mại – PGS. TS Nguyễn Thị Mùi Nhà xuất bản Tài chính – Hà Nội 3.Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – PGS. TS Nguyễn Văn Tề Nhà xuất bản Thống kê – Hà Nội – 2003 4. Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter S.Rose Nhà xuất bản Tài chính – Hà Nội – 2004 5. Sổ tay tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam Hà Nội – 2004 6. Các văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế bảo lãnh của NHCT Việt Nam 7. Quyết định số 400/2004/QĐ – NHNN quy định về việc xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước và nhân dân 8. Quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. 9. Về thực trạng bảo lãnh tại các NHTM Nhà nước – Lê Hồng Tâm Tạp chí ngân hàng – Số chuyên đề, tháng 6/2003 10. Các hình thức và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng- Lê Hồng Tâm Tạp chí Tài chính – Số 4 tháng 7+8/2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24715.doc
Tài liệu liên quan