Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay của NHTM trong nền kinh tế

Nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi Ngân hàng cần hoàn thiên các hoạt động kinh doanh của mình trong đó có hoạt động cho vay. Nghiệp vụ cho vay của các NHTM trong thời gian qua đã giúp các doanh nghiệp đẩy nạnh đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá công nghệ, từ đó góp phần tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho vay đòi hỏi mang tính cấp thiết cho cả NH và cho nền kinh tế, vì nó không những mang lại lợi nhuận cho NH mà còn phục vụ trực tiếp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, để giải quyết một cách hoàn chỉnh các vấn đề có liên quan đến hiệu quả tín dụng cho vay không chỉ có nỗ lực của bản thân NH mà cần có sự giúp đỡ của các cơ quan khác trong nền kinh tế. Có như vậy tín dụng cho vay mới có thể phát huy được vai trò tích cực mà nó có để phục vụ lợi ích của đất nước. Những vấn đề đã đề cập trong bài viết này chỉ là một khía cạnh của hoạt động NHTM. Hy vọng rằng bài viết này và những suy nghĩ của em có thể đóng góp một phần nhỏ bé nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho vay. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức có hạn cũng như xét từ thực tế cho thấy bài viết vẫn còn thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, cô giáo để bài viết này thêm được hoàn thiện. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo, đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Hữu Tài đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

doc76 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay của NHTM trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỗ họ trông mong vào sự cấp bù của ngân sách. Thời kỳ mấy năm đầu chuyển sang tự hạch toán kinh doanh, họ phải vay ngân hàng thay cho việc cấp vốn từ ngân sách trước đây, nhưng khi thua lỗ họ vẫn có tâm lý trông mong vào sự trợ giúp của Nhà nước như khoanh nợ, xoá nợ, nói chung họ chưa thực sự có ý thức lo lắng hậu quả của sự thua lỗ như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cuối cùng sự thiệt hại đó vẫn là Nhà nước chịu. Sự thua lỗ đó cũng đã kéo theo việc gây thiệt hại cho ngân hàng. Mặt khác, đất nước đang trên đà chuyển đổi nền kinh tế do đó chưa có được những quy hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô nên đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đầu tư sản xuất. Nhiều dây chuyền sản xuất lắp đặt xong thiết bị, khi bước vào sản xuất thì sản phẩm không tiêu thụ được do Nhà nước có chủ trương cấm hoặc sản xuất hạn chế. Một số mặt hàng do không có quy hoạch tổng thể và sự chỉ đạo thống nhất nên có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn nhưng sản phẩm lại không tiêu thu được do đã bão hoà hoặc lợi nhuận thu về không được như khi xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật, hoặc không có đủ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, điều này gây rất nhiều khó khăn cho NH vì phần lớn vốn đầu tư của doanh nghiệp là vốn vay NH. Môi trường pháp lý Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động NH hiện nay, tuy đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn chưa thực sự khoa học và thiếu đông bộ, chưa đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong thực tế kinh doanh của NHTM. Nhiều hướng dẫn của các Bộ, ngành khác nhau còn chồng chéo, rất khó khăn trong triển khai thực hiện. Những quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp, tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp tại ngân hàng chưa khoa học và chưa công bằng gây thiệt hại chung cho nền kinh tế và NH. Nhiều doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu bằng vốn NH, nhưng khi doanh nghiệp vị giải thể thì chủ thể đầu tiên được thanh toán nợ từ nguồn thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp lại không phải là ngân hàng cho vay, dẫn đến việc mất vốn của NH là điều không tránh khỏi. Những doanh nghiệp “có vấn đề” thì các cơ quan pháp luật phải can thiệp và ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị trong quá trình điều tra, tài sản thế chấp sẽ không được tiếp tục khai thác hoặc khai thác một cách kém hiệu quả, gây thất thoát vốn cho các doanh nghiệp và NH. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách thường phải điều chỉnh là điều không thể tránh khỏi, do đó sự điều chỉnh đó đôi khi tác động làm ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, như Nghị định 18/CP của Chính phủ về quản lý đất đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn kinh doanh bất động sản bị kẹt, vốn không thể trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Chính sách Ngoại thương không kịp thời, không đối phó được với sự biến động của thị trường làm cho hàng hoá lúc thì nhập ồ ạt không tiêu thụ được gây kẹt vốn, lúc thì tạo thành cơn sốt nên nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ không thể trả nợ được cho ngân hàng. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp như giải thể, sát nhập không đồng bộ với giải quyết các khoản nợ ngân hàng nên việc xác nhận nợ để thu hồi đôí với đơn vị mới gặp khó khăn, và những khoản nợ đó dễ trở thành quá hạn, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng cuả ngân hàng. Nhà nước chưa có luật sở hữu, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình dịch chuyển sở hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và nhiều tài sản của doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu. Như vậy tài sản đó đem thế chấp để vay ngân hàng không thể có đầy đủ giấy tờ pháp lý, do đó khi doanh nghiệp thua lỗ thì việc phát mại tài sản rất phức tạp, việc thu hồi vốn gặp rất nhiều khó khăn. Các cơ quan hữu quan chưa có được cách nhìn thấu đáo về NH và hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên chưa có được sự phối hợp đông bộ, tích cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay không ít người còn cho rằng việc cho vay và thu hồi tiền vay chỉ đơn thuần là việc của NH, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay NH đã được thực hiện theo thu hồi được nợ, lúc đó việc thu hồi nợ đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của NH. Mặc dầu đã có nhiều thông tư liên tịnh giữa NHNN và các Bộ, ngành liên quan đến hoạt động NH, nhưng thực tế đòi hỏi cần phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong thời gian tới. 1.3 Nguyên nhân từ phía môi trường Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong thời gian qua, nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có những khó khăn nhất định nên đã tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị vay vốn, điều này như một phản ứng dây chuyền đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh NH, đặc biệt là công tác tín dụng. Do một số khó khăn của nền kinh và sự chững lại của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua nên giá bất động sản đã liên tục giảm xuỗng gây khó khăn cho NH trong việc phát maị tài sản thế châp để thu hồi vốn vay. Hơn nữa, chúng ta rất thiếu thông tin tín dụng, thông tin thương mại. Cho nên việc xem xét cho vay nhiều khi chưa chính xác, như không biết rõ tình hình thực tế của doanh nghiệp nên họ bị thua lỗ mà vẫn cho vay, hoặc cho vay để trả nợ ngân hàng khác mà không biết, thậm chí bị lừa đảo mà không phát hiện được. Và do thiếu thông tin như tình hình giá cả, tình hình cung cầu, biến động của thị trường nên không thể lường trước được rủi ro của thị trường như có trường hợp cho vay để nhập hàng rồi mới biết là hàng hóa đó khó tiêu thụ vì cầu trong nước đã đủ, hoặc một số doanh nghiệp nhập máy thiết bị lạc hậu nên không phát huy được. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất luôn biến động và sự biến động của lãi suất sẽ làm ảnh hưởng tới công tác tín dụng. Những năm gần đây ở nước ta đã khống chế được tình trạng lạm phát, nhưng lãi suất cho vay giảm, trong khi đó, lãi suất tiền gửi giữ nguyên làm cho chênh lệch đầu ra và đầu vào giảm dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn. Như vậy hoạt động tín dụng rõ ràng không thể cho hiệu quả cao. Chính vì huy động vốn dễ dàng ( kể cả vốn vay NHTM và vay nợ lẫn nhau ) đã tạo ra nhu cầu và sức mua giả tạo, gây nên cơn sốt về giá cả, chủ yếu là nhà đất và các hàng hóa sinh hoạt đắt tiền, có loại tăng 2 lần so với đầu năm 1999. Nhiều người vay tiền để đầu cơ kinh doanh bất động sản, khi giá cả hạ xuống mức hợp ljý thì dẫn tới phá sản, vỡ nợ. Đồng thời các tệ nạ xã hội như : đề hịu, buông lậu cũng phát sinh mạnh, nhưng chưa được các ngành, các cấp nhận thức đầy đủ những tác hại dây chuyền để có biện pháp ngăn chặn kịp thời ảnh hưởng xấu đến hoạt động tín dụng. Việc xử lý tài sản thế chấp còn nhiều khó khăn, chậm chạp do giá cả hạ thấp, các văn bản pháp lý thiếu sự thống nhất và đồng bộ. 1.4 - Trình độ dân trí Một nguyên nhân sâu xa của thực trạng là trình độ dân trí thấp. Dân trí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng của nó, bao gồm : sự hiểu biết về kinh tế thị trường, về pháp luật, về các cơ chế chính sách của Nhà nước, về quan hệ tín dụng với ngân hàng, về vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Dân trí thấp không loại trừ ở một số cán bộ các cấp, các ngành. Dân trí thấp nên bị choáng ngợp trước cơ chế mới sôi động, làm nảy sinh những nhu cầu quá khả năng tự có, những nhu cầu đưa đến sự phồn vinh, hào hoa giả tạo. Thực tế cho thấy người ta có thể không có tiền mà dùng nhà đất thế chấp để vay vốn ngân hàng mua phương tiện đắt tiền ăn chơi, xây biệt thự sang trọng hoặc thực hiện những dự án thiếu hiệu quả kinh tế, có người vay hàng ngàn tỷ đồng để rồi mất khả năng thanh toán đi đến phá sản, phạm luật. Dân trí thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật đã dẫn tới chây ỳ, trốn tránh nghiã vụ trả nợ, thậm chí tìm cách chạy nợ, xù nợ. Dân trí thấp, sự hiểu biết về thị trường còn hạn chế, ngân hàng cũng bị choáng ngợp trước sự phồn vinh giả tạo, cho vay vốn thiếu cơ sở khoa học trước những yêu cầu về vốn, không chấp hành đúng quy trình và qui chế tín dụng được ban hành. Dân trí thấp nên nhận thức về những tác hại của tệ nạn xã hội chỉ mang tính trực diện, không thấy được tác hại dây chuyền của nó ở tòan bộ nền kinh tế đất nước. Nguyên nhân chủ quan 2.1- Các chính sách của NHTM Chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng chưa chặt chẽ, nên còn ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Chẳng hạn, do sự không thống nhất của một số văn bản quy định chế độ tín dụng nên có món vay vượt 10% vốn tự có và chính ngững món vay như vậy không hoàn trả được đã gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng. Về cho vay doanh nghiệp Nhà nước không quy định rõ ràng như thế nào thì được phép cho vay tín chấp, như thế nào thì phải có tài sản cầm cố, thế chấp mới được vay, chính vì vậy khi xảy ra nợ quá hạn ở những doanh nghiệp rất khó xử lý. Việc qui định theo dõi kiểm tra sau khi vay cũng không cụ thể rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó theo dõi kiểm tra việc sử dụng tiền vay của khách hàng, nên có những trường hợp đã bị một số kẻ lừa đảo lợi dụng sơ hở về thể chế để chiếm dụng số tiền lớn. Việc cho phép được vay chồng chéo hoặc cho vay các doanh nghiệp ở xa trụ sở hoạt động của ngân hàng trước đây đã làm cho việc theo dõi quản lý tiền vay khó khăn và dễ dẫn đến tình trạng nợ quá hạn ở những doanh nghiệp đó, và gây nên tổn thất... Hơn nữa, việc chấp hành quy định, thể lệ tín dụng ở một số ngân hàng còn chưa nghiêm túc. Còn một thực tế, nhiều nơi chưa xem xét kỹ hồ sơ, không điều tra kỹ khách hàng trong quá trình xét duyệt cho vay. Thí dụ khách hàng đã vay nợ nhiều ngân hàng, có dư nợ quá hạn, nợ khoanh đang bị kẹt mà vẫn được vay ở ngân hàng mới khác và rõ ràng như vậy món vay đó khó mà tránh được rủi ro. Bên cạnh đó đánh giá tài sản thế chấp lại không chính xác, hồ sơ tài sản thế chấp không được lập và bảo quản đúng quy định, như vậy khi khách hàng không trả được nợ thì tài sản thế chấp có phát mại cũng không hoàn trả đủ vốn cho ngân hàng hoặc tài sản thế chấp không đủ cơ sở pháp lý để phát mại. Bên cạnh đó còn có trường hợp cho vay để trả lãi tiền vay hoặc cho vay đảo nợ như cho vay và thu nợ một khách hàng cùng số tiền trong một ngày hay cho vay để trả nợ ngân hàng khác, hoặc chuyển nợ quá hạn không kịp thời ở một số món vay làm cho khách hàng không thấy rõ trách nhiệm của mình đối với món vay là phải tìm mọi cách hoàn trả nợ cho ngân hàng. Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có của họ lại rất ít trong những trường hợp này rất dễ gây ra rủi ro lớn vì một khi doanh nghiệp đó bị thua lỗ rất khó đòi vốn cho ngân hàng. 2.2- Công tác kiểm tra Kiểm tra sau khi cho vay chưa chặt chẽ. thực tế thời gian qua có những trường hợp vay vốn ngắn hạn nhưng lại sử dụng vào đầu tư xây dựng cơ bản, thậm chí còn dùng tiền vay đó để mua đất đai, nhà cửa. Trong những trường hợp này, khi đến hạn, món vay đó sẽ không thu hồi được, xảy ra tình trạng nợ quá hạn, dây dưa kéo dài. Bên cạnh đó còn để khách hàng dùng tiền vay sai mục đích, buôn bán lòng vòng, làm ăn kiểu chiếm đoạt, lừa đảo chiếm dụng vốn của nhau... dẫn đến gia tăng tỉ lệ nợ quá hạn lớn ở một số ngân hàng thương mại hiện nay. Kiểm tra, kiểm soát chưa kịp thời và thường xuyên. Bên cạnh công tác tôn trọng các quy trình tín dụng cần phải thường xuyên tiến hành kiểm tra kiểm soát mới đảm bảo an toàn tín dụng, nhưng thời gian qua việc làm này còn chưa chủ động vì thường chỉ khi nào có phát sinh vụ việc, lúc đó mới biết và cử đoàn xuống kiểm tra. Do vậy chức năng ngăn ngừa là không thực hiện được, mà kết quả của các cuộc kiểm tra đó chỉ là để rút kinh nghiệm hoặc sửa chữa qua loa, vì nó đã qua. Việc thanh tra kiểm tra để nâng cao ý thức trách nhiệm của đơn vị, nhằm hạn chế thiệt hại trong công tác tín dụng là cần thiết, nhưng cũng cần tránh phiền hà vì có khi hết đoàn nọ đến đoàn kia nối tiếp xuống đơn vị sẽ tạo ra sự căng thẳng và mệt mỏi cho đơn vị. 2.3- Chất lượng cán bộ tín dụng Đội ngũ cán bộ NH phần lớn đã được đào tạo một cách cơ bản và đã có nhiều đóng góp trong quá trình đổi mới ngành ngân hàng, góp phần vào việc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên với việc phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng và đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường thì lực lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ làm công tác tín dụng đã không chuyển biến kịp, để có thể thích ứng với điều kiện mới. Mỗi khi cán bộ ngân hàng không thực hiện tốt được công việc của mình, không đưa ra được những quyết định kịp thời, chính xác thì hoạt động ngân hàng mà cụ thể là công tác tín dụng gặp phải khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Trình độ tín dụng của cán bộ còn bị hạn chế, do đó không có khả năng phân tích thẩm định dự án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc do không phân tích được các báo cáo tài chính một cách chính xác hay không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng. Kiến thức về xã hội, thị trường của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây cho món vay bị rủi ro vì trong nhiều trường hợp khách hàng đã không nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, không phân tích được cung cầu của thị trường dẫn đến mặt hàng kinh doanh đó bị ứ đọng. Nếu cán bộ tín dụng là người có kiến thức, biết phân tích tình hình thị trường giá cả, cung cầu, hiểu biết và có kinh nghiệm sẽ tư vấn cho khách hàng, sẽ tránh được thiệt hại trong kinh doanh, và tiền vay của ngân hàng khi đó mới không bị rủi ro. 2.4- Tâm lý của các ngân hàng Tâm lý lo ngại, chùn lại trước yêu cầu của thực tế về vốn không chỉ ở một vai nơi, một vài bộ phận, một vài ngân hàng mà đã trở thành phổ biến. Trong đó, nặng nề nhất là các nhà quản lý, điều hành trực tiếp công tác tín dụng và số cán bộ kinh doanh tín dụng ( điều này cũng dễ hiểu và thông cẩm với họ đứng trước cơn sốt về tín dụng cũng như thực tiễn cuộc sống còn nhiều bất cập, vướng mắc ). Tình hình đó đã kéo theo xu hướng di chuyển khỏi công việc tín dụng trực tiếp để tránh va chạm, tránh vướng mắc cho bản thân. Việc di chuyển có thể sang bộ phận khác trong một đơn vị hoặc có thể chuyển lên nghiên cứu, chỉ đạo tầm xa. Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho vay Các giải pháp đối với NHTM 1. Không ngừng bồi dưỡng giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ Cán bộ tín dụng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với chất lượng và hiệu quả của nghiệp vụ cho vay của NHTM. Do đó những cán bộ có tay nghề vững vàng, trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đánh giá khách hàng cũng như thẩm định dự án đầu tư chính xác hơn những người có năng lực chuyên môn kém. Để thực hiện tốt các nội dung trong quá trình thẩm định, cán bộ NH cần được trang bị các kiến thức như : - Nắm vững mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của NH chủ quản trong phát triển kinh tế, chế độ tín dụng, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ NH, nhất là nghiệp vụ tín dụng. - Có kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, nhanh nhậy nắm bắt thông tin, am hiểu pháp luật. - Có kiến thức, hiểu biết nhất định trên một số lĩnh vực có liên quan đến công tác thẩm định như : công nghệ, kỹ thuật, bảo hiểm... NH cần quan tâm đặc biệt đến trình độ cán bộ tín dụng, đảm bảo năng lực và trình độ phù hợp với tính chất công việc chuyên môn. Phải triển khai các trương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn hàng năm cho tất cả các cán bộ tín dụng trong cơ quan, chuẩn hóa tiêu chuẩn cán bộ tín dụng, bố trí và sử dụng hợp lý có hiệu quả cán bộ có năng lực chuyên môn và trình độ của từng người, nhằm phát huy tối đa hiệu quả cán bộ, tránh để lãng phí. Nên đưa công tác đào tạo, tiêu chuẩn hoá cán bộ vào chiến lược phát triển nguông nhân lực cảu ngành. Hàng năm, HN cần tổ chức các đợt thi nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Qua đó, có chế độ khen thưởng, đề bạt kịp thời và chính xác nhằm khuyến khích cán bộ NH trau dồi nghiệp vụ, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là thẩm định dự án đầu tư, thực hiện đúng qui trình nghiệp vụ cho vay, lựa chọn khách hàng hợp lý, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong đầu tư cho vay, chấp hành đúng thể lệ tín dụng, gắn trách nhiệm của cán bộ tín dụng với hiệu quả vốn vay. Bên cạnh đó NHTM cần chú trọng tới công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hướng dẫn cán bộ thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững kịp thời những biến động của khách hàng, từ đó có những cách thức đối phó cho phù hợp. Hàng năm, NHTM nên có những chính sách chế độ, lương thưởng hợp lý gắn với hiệu quả công việc để kích thích cán bộ tín dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ, trách tình trạng hưởng lương theo doanh số cho vay, làm cho nhân viên chỉ quan tâm đến số lượng mà không quan tâm đến chất lượng. Cần nghiêm khắc xử lý những cá nhân vì lý do chủ quan gây thất thoát vốn của NH. Những cá nhân này phải nghiêm chỉnh chấp hành việc bồi thường vật chất. 2. Thu thập, đánh giá và xử lý thông tin để có những nhận thức chính xác về khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Thông tin chính xác sẽ giúp ngân hàng đánh gía khách hàng một cách toàn diện, chính xác, có thể thấy được những ưu nhược điểm của họ. Từ đó, ngân hàng có những kết luận đúng đắn về bản thân khách hàng. Thông tin đầy đủ nhiều chiều với độ tin cậy cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Thông tin có thể thu thập từ các nguồn sau : Thông tin từ các doanh nghiệp vay vốn Trong quá trình hoàn tất hồ sơ, thủ tục xin vay, doanh nghiệp vay vốn có trách nhiệm cung cấp những thông tin cần thiết cho ngân hàng như : dự án đầu tư, kế hoạch vay vốn, trả nợ, các báo cáo tài chính ở thời điểm gần nhất và các thông tin khác. Đối với các báo cáo tài chính : Thường cán bộ tín dụng căn cứ vào báo cáo tài chính để đánh giá về năng lực tín dụng của doanh nghiệp vay vốn. Tuy nhiên rất khó xác định được chính xác độ tin cậy của báo cáo tài chính đó. Hiện nay, Bộ Tài Chính đã ban hành “ quy chế kiểm toán nội bộ” để làm căn cứ cho doanh nghiệp Nhà nước áp dụng, nhưng việc thực hiện chưa mang tính bắt buộc. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì việc báo cáo tài chính càng khó khăn hơn, phần lớn công tác kế toán chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, chủ yếu là ghi sổ. Do vậy đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải chú trọng đến việc kiểm tra thật kỹ lưỡng báo cáo tài chính. Muốn xác định tính chính xác của các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng cần kết hợp với việc điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để xác minh độ tin cậy của báo cáo tài chính. Để đánh giá được khả năng trả nợ của người vay, ngân hàng có thể tiến hành phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn. Mục đích của cuộc phỏng vấn để xem khách hàng có trung trực hay không, tuy nhiên sẽ không cần thiết nếu khách hàng là người quen thuộc, có tín nhiệm. Qua đó có thể nhận xét về tư cách, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm của người vay, có thể thông qua phỏng vấn để làm sáng tỏ những điểm còn mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng trong hồ sơ vay vốn, ví dụ như : lịch sử doanh nghiệp, gốc của sự gia tăng thu nhập ( hay chi phí ) và lợi nhuận, loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh ( doanh nghiệp cung cấp cho thị trường loại sản phẩm nào, hoạt động trên thị trường nào...). Khi đặt ra các câu hỏi phỏng vấn cán bộ tín dụng cần tạo ra bầu không khí thoải mái như một cuộc trò chuyện trao đổi, làm sao cho khách hàng không cảm thấy mình bị phỏng vấn, có thể gây ra sự gượng ép hoặc trả lời sai sự thật. Đặc biệt ngân hàng phải chú ý nắm được những vấn đề sau thuộc về khách hàng : - Khả năng tạo điều kiện cần và đủ để tạo ra thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh từ vốn vay của ngân hàng để trả nợ. - Các nguồn tiền khác có thể thay thế để trả nợ ngân hàng trong trường hợp phương án xin vay vốn bị rủi ro không có nguồn trả nợ. - Những khó khăn, thuận lợi và những loại rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp và những biện pháp khắc phục. Thu thập thông tin từ các nguồn khác Ngoài các thông tin thu thập được từ chính doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng có thể khai thác nhiều nguồn thông tin khác như : thông tin từ các ngân hàng có quan hệ với khách hàng vay vốn, thông tin từ các doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ, thông tin từ các công ty kiểm toán, từ trung tâm tín dụng hay trung tâm phòng ngừa rủi ro. Nguồn thông tin có nhiều, nhưng ngân hàng cần biết chọn lọc và xử lý thông tin sao cho có hiệu quả nhất. Ngân hàng nên lấy thông tin từ trung tâm tín dụng, vì mọi thông tin về doanh nghiệp vay vốn và ngân hàng khác đều tập trung tại đây. Sau khi thu thập được thông tin ngân hàng cần lưu trữ những thông tin liên quan đến doanh nghiệp vay vốn cùng với hồ sơ vay vốn, làm cơ sở để phân loại khách hàng. Do yêu cầu phải thu thập thông tin nhanh và đầy đủ, việc lưu trữ thông tin và phân loại khách hàng là rất cần thiết. Đối với các khách hàng có mối quan hệ thường xuyên, lâu dài với ngân hàng thì ngân hàng cần lưu giữ các tài liệu đã thu thập từ các lần vay trước, để khi tiến hành thẩm định có thể lấy ra thẩm định dễ dàng. Công việc lưu trữ thông tin của khách hàng cần được tiến hành thường xuyên và tập trung thành những bộ hồ sơ để dễ tìm kiếm, có thể lưu trữ trong máy vi tính. Theo định kỳ ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng theo chỉ tiêu đánh giá chất lượng khoản vay và hiệu quả sản xuất kinh doanh ... qua đó giúp cán bộ thẩm định có căn cứ để đánh giá chính xác hơn về doanh nghiệp vay vốn. 3. Xác định thời hạn trả nợ và cách thức tính lãi phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của dự án Việc xác định thời hạn trả nợ cũng như mức trả nợ cần tính toán sao cho phù hợp với tiến độ thi công cũng như khai thác của dự án. Ngân hàng cần xác định nguồn thu của khách hàng để trả nợ, đó chính là khấu hao thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chính dự án. Thu nợ khách hàng cần căn cứ vào nguồn thu nhập của dự án, đồng thời nên tiến hành thu hồi nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư ( giai đoạn đầu tư dự án chưa chạy hết công suất, giai đoạn tiếp theo là công suất tăng dần và đạt mức tối đa, cuối cùng công suất sẽ giảm dần và thanh lý ). Ngân hàng có thể áp dụng phương pháp thu nợ theo niên kim cố định, phương pháp này đơn giản dễ thực hiện và có ưu điểm : mỗi kỳ thu nợ ngân hàng đều nhận được một khoản tiền bằng nhau, nhưng kỳ đầu số tiền lãi thu được là lớn nhất, số tiền gốc thu được là nhỏ nhất, sau đó số tiền gốc tăng dần, số lãi giảm dần. Điều này hoàn toàn phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư và đảm bảo nguồn trả nợ cho ngân hàng chính là nguồn thu từ dự án. Cùng với phương thức thu nợ theo niên kim, ngân hàng nên đưa ra mức lãi suất hợp lý để hấp dẫn người đầu tư. Mức lãi suất của ngân hàng phải nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư và tỷ suất lợi nhuận đó phải lớn hơn lãi suất đầu tư vào lĩnh vực tài chính. Có như vậy mới khuyến khích người đầu tư, vừa đảm bảo thu hồi được nợ, vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng và doanh nghiệp. 4. Thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng Thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng của NHTM đối với các khách hàng vay vốn là biện pháp bắt buộc để ràng buộc trách nhiệm của người vay vốn với NHTM trong suốt quá trình sử dụng vốn tín dụng, từ đó góp phần đảm bảo an toàn nguồn vốn của NHTM. Vì vậy, tuy không phải là mục tiêu hàng đầu nhưng bảo đảm tín dụng là nội dung hết sức quan trọng của mục tiêu an toàn, chất lượng và hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Khi thực hiện các bảo đảm tín dụng, NHTM cần tiến hành thực hiện nghiêm túc việc nhận các bảo đảm tín dụng. Giá trị của bảo đảm tín dụng phải thật sự tương đương với khoản cho vay, NHTM không thể nhận bảo đảm một cách qua loa vì làm như vậy chính là tạo điều kiện cho khách hàng chiếm dụng vốn của NH hoặc sử dụng vốn vay không hiệu quả. Bên cạnh đó, khi buộc phải xử lý các đảm bảo để thu hồi nợ vay, thì NHTM phải xử lý một cách linh hoạt, sao cho phù hợp với hoành cảnh thực tế mà lại có lợi cho mình nhất. - Vấn đề thực hiện bảo đảm đối với các xí nghiệp quốc doanh. Ngày 31/5/2001 do NHNN ra công văn số 417 về việc “hướng dẫn thực hiện những giải pháp cấp bách của Chính Phủ và Thủ Tướng Chính Phủ liên quan đến công tác tín dụng NH”, nên NHTM rất khó bắt các xí nghiệp quốc doanh vay vốn phải thế chấp tài sản vì nội dung của công văn 417 quy định : “các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các NHTM QD không phải thế chấp tài sản...”, điều này làm giảm an toàn vốn vay của các NHTM QD, mặc dù đã nới lỏng thủ tục vay vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Để gắn trách nhiệm của các xí nghiệp quốc doanh đối với các khoản vay, NHTM QD đã yêu cầu các doanh nghiệp vay vốn được cơ quan cấp trên đứng ra bảo lãnh cho các đơn vị thành viên. Tuy nhiên, hình thức bảo lãnh này mới chỉ do một phía ( các tổng công ty ) đứng ra viết giấy cam đoan bảo lãnh, chưa quy định rõ trách nhiệm trả nợ cũng như cách thức xử lý trong trường hợp các doanh nghiệp không trả được nợ. Để khắc phục tình trạng này, NH nên vận dụng theo quyết định số 217/ QĐ - NH1 ngày 17/8/2000 và thông tư liên Bộ số 01 – TT/LB ngày 3/7/2000 tiến hành lập hợp đồng bảo lãnh rõ trách nhiệm của mỗi bên. Trong đó không nhất thiết yêu cầu bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố tài sản vẫn đảm bảo tăng độ an toàn cho khoản vay. - Thực hiện và xử lý bảo đảm đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh Khi cấp các khoản tín dụng cho đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh thì hình thức bảo đảm tín dụng chủ yếu là thế chấp, trong đó tài sản thế chấp phổ biến là nhà. Đối với các tài sản thế chấp, NHTM cần quan tâm đánh giá chính xác giá trị kinh tế và pháp lý của chúng. Do đặc điểm của tài sản thế chấp là NHTM không thể trực tiếp quản lý chúng bằng hiện vật, mà chỉ quản lý chúng thông qua các giấy tờ sở hữu, nên điều trước tiên NHTM phải làm là xác định tài sản thế chấp đó có thực sự thuộc quyền sở hữu của khách hàng hay không. NHTM cần chú trọng đến những tài sản mang tính đồng sở hữu, vì nó sẽ liên quan đến vấn đề phát mại tài sản khi rủi ro xảy ra. Sau khi cấp tín dụng đến thời hạn trả nợ, mà khách hàng không trả được nợ, mặc dù NHTM đã sử dụng hết các biện pháp khai thác, thì NHTM sẽ tiến hành xử lý các tài sản thế chấp. Hiện nay, hình thức xử lý chủ yếu nhất là phát mại tài sản. Hình thức này mang một số nhược điểm nhất định : thủ tục phát mại phức tạp và kéo dài, khi phát mại rất khó bán, do tâm lý người mua không muốn mua nhà của người bị phá sản hoặc cố tình dìm giá để thu lời, đồng thời chi phí phát mại rất tốn kém. Nhằm xử lý tài sản một cách hữu hiệu, NHTM có thể áp dụng các biện pháp sau : - Mua lại tài sản thế chấp : NHTM có thể dùng nguồn vốn phát triển của mình để mua lại một số tài sản thế chấp như : nhà ở, văn phòng... có vị trí thuận lợi để làm trụ sở, quầy giao dịch cho NH mình. Biện pháp này vừa thu hồi được vốn vay, vừa giúp doanh nghiệp trả nợ không bị ép gía, giảm chi phí phát mại. Tuy nhiên cách này chỉ có thể áp dụng trong một phạm vi nhất định. - Trừ nợ bằng tài sản thế chấp : đây là việc NHTM tự khai thác tài sản của khách hàng bằng cách mua lại tài sản thế chấp và tiến hành kinh doanh trên tài sản đó, dưới hình thức cho thuê lại có thời hạn, cho thuê mua, liên doanh, bán đứt... để thu hồi vốn vay. Biện pháp này thường được áp dụng với tài sản có gía trị lớn. Nó có ưu điểm là NHTM trực tiếp nắm giữ và khai thác tài sản, do vậy khả năng đảm bảo của khoản nợ là chắc chắn, vì NHTM sẽ trực tiếp quản lý các khoản tiền có được nhờ kinh doanh trên tài sản đó, để trừ dần vào gốc và nợ vay, do đó khả năng thu hồi vốn nhanh hơn. Mặc dù vậy hình thức này có nhược điểm là khi giá cả có sự biến động lớn thì NHTM có thể bị lỗ khi bán đứt tài sản để trừ nợ trong khi cơ chế bù lỗ chưa có. - Liên doanh hùn vốn để trừ nợ quá hạn : nếu trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp quá lớn so với khoản nợ quá hạn mà không thể trừ nợ được hết gía trị tài sản, NHTM sẽ khấu trừ nợ vay bằng cách liên doanh hùn vốn. Khi đó NHTM sẽ trực tiếp cử người sang liên doanh quản lý và khai thác tài sản, tránh chi phí sang tên trước bạ. Tuy nhiên NHTM cần chú ý đến qui định : không được sử dụng quá 50% vốn tự có để tham gia hùn vốn liên doanh. Những biện pháp xử lý đối với tài sản thế chấp trên cũng hữu dụng với những tài sản thế chấp của các xí nghiệp quốc doanh. Khi công văn 417 không còn hiêu lực, NHTM cũng có thể nghiên cứu đưa vào sử dụng. 5. Coi trọng công tác phòng ngừa, đồng thời xử lý nhanh chóng dứt điểm đối với nợ quá hạn. Nợ quá hạn là một vấn đề nhức nhối của mỗi ngân hàng, nên để xử lý vấn đề này, NHTM có thể xem xét áp dụng những phương pháp sau : - Biện pháp phòng ngừa các khoản cho vay dẫn đến nợ quá hạn. Biện pháp này được thực hiện ngay khi NHTM tiến hành kiểm tra cho vay, nếu thấy khách hàng bắt đầu có dấu hiệu có thể dẫn đến rủi ro, dẫn tới nợ quá hạn như : khách hàng chậm trễ trong việc nộp báo cáo tài chính cho NH, số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiện nhiều séc phát hành quá số dư, sự gia tăng bất thường của số dư hàng tồn kho, có sự chậm trễ trong việc thanh toán nợ khi đến hạn hay có những ý muốn xin gia hạn nợ, việc nhận tín dụng chậm trễ không đúng theo đúng kế hoạch dự kiến mặc dù sử dụng vốn đúng mục đích... thì ngân hàng cần sử dụng một số biện pháp để ngăn ngừa. Trước hết NHTM cần xác định rõ xem khách hàng gặp khó khăn gì trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu tìm được nguyên nhân thì NH có thể sử dụng các biện pháp để giúp khách hàng tháo gỡkhó khăn. Cán bộ tín dụng cần tích cực giúp khách hàng trong việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu trong quá trình sản xuất kinh doanh về các vấn đề : bán sản phẩm ( tìm kiếm thị trường và khách hàng ), thu nợ... hoặc nếu cần thì NH có thể mời chuyên gia kinh tế tư vấn cho doanh nghiệp. Trong trường hợp khó khăn của khách hàng là do thiếu vốn trong kinh doanh thì NH có thể xem xét tăng vốn cho doanh nghiệp bằng cách mua trái phiếu do doanh nghiệp phát hành hoặc cho vay thêm vốn nếu thấy việc làm đó có hiệu quả, nhằm tăng năng lực sản xuất giúp cho việc thu hồi hết nợ qúa hạn của doanh nghiệp. Ngoài ra, NHTM có thể yêu cầu khách hàng cung cấp thêm các tài sản bảo đảm, để tăng cường an toàn cho nguồn vốn của NH trong trường hợp tài sản thế chấp bị giảm giá trị hoặc giá trị vật tư hàng hoá cấu tạo bằng nguồn vốn của NH. Trong một số trường hợp nếu thấy cần thiết NHTM có thể tiến hành gia hạn nợ cho khách hàng – biện pháp này NHTM hay sử dụng – nhưng NHTM cần gắn thêm những biện pháp kinh tế thiết thực để đảm bảo chắc chắn thu hồi được nợ. Sau khi NH đã tiến hành các biện pháp phòng ngừa nhưng nợ quá hạn vẫn xảy ra thì NH có thể áp dụng các biện pháp xử lý nợ quá hạn sau : - Trước hết NHTM cần tìm các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Đây là vấn đề cần phân tích kỹ lưỡng, chính xác nhằm xác định đúng nguyên nhân đã gây ra nợ quá hạn, để có những biện pháp xử lý cho thoả đáng. Để xác định rõ được nguyên nhân, NH cần xác định nhiều mặt : * Lật lại hồ sơ xin vay vốn và những giấy tờ mà NH lập từ khi nhận đơn xin vay của khách hàng đến khi chuyển nợ quá hạn. Phải xem xét lại từng khâu trong quá trình thẩm định xem NH đã mắc những sai sót gì trong khâu nào, trong công đoạn nào... * Xem xét lại các điều kiện kinh tế, pháp lý của người vay khi thực hiện sản xuất kinh doanh và quá trình thực hiện dự án đã đề ra khi vay vốn. * Tiến hành điều tra, kiểm tra thực tế toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng, gắn liền với quá trình sử dụng vốn vay cho đến khi nợ quá hạn phát sinh. Qua đó rút ra kết luận về những sai sót, vi phạm của cán bộ tín dụng khi thực hiện thẩm định cho vay hay là do nguyên nhân sai lầm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do chủ quan hay khách quan gây ra. Từ các kết quả có được trong xem xét hồ sơ và tình hình thực tế ở các mặt trên, cán bộ tín dụng rút ra kết luận về các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, trong đó phải xác định đó là nguyên nhân chủ quan hay khách quan, nguyên nhân đó xuất phát từ khâu nào - để đưa ra những giải pháp xử lý có hiệu quả nhất và xác định mức độ và tình trạng nợ quá hạn của khách hàng (nợ quá hạn phát sinh kịp thời có thể thu hồi được trong thời gian ngắn, nợ quá hạn phải xử lý trong các khâu sản xuất, lưu thông, thanh toán thì phải trong một thời gian dài mới thu hồi được, nợ quá hạn có nhiều diễn biến phức tạp từ phía khách hàng hoặc do các nguyên nhân bất khả kháng như : thiên tai, hoả hoạn... dẫn tới khả năng mất một phần hay mất toàn bộ ). Sau khi đã xác định rõ nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, NH cần xác định và khai thác các nguồn thu hồi nợ. Thông thường nguồn cơ bản mà doanh nghiệp dùng để trả nợ là nguồn tiền thu được do tiêu thụ hàng hóa, ngoài ra còn có những nguồn thu khác mà NHTM cần khai thác triệt để. Trường hợp nguồn thu của doanh nghiệp vẫn không đủ để trả nợ thì NHTM mới phải dùng đến các bảo đảm tín dụng. Hiện nay khi tiến hành thu hồi nợ quá hạn NH nên áp dụng hai phương pháp : + Phương pháp thứ nhất là sử dụng các biện pháp khai thác. Phương pháp này được sử dụng khi người vay có ý muốn và tích cực tìm các biện pháp để khách hàng được tự khắc phục những khó khăn về tài chính để hoàn trả khoản nợ của NH càng sớm càng tốt. NH chỉ đưa ra những lời khuyên tư vấn cho khách hàng. Lời khuyên tư vấn có thể là : Hướng dẫn tư vấn cho khách hàng trên nhiều khía cạnh, nhằm tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận của họ. NH có thể gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả trước mắt, có thể tìm những giải pháp tiếp tục cho khách hàng vay, để tạo thêm năng lực tài chính, khôi phục sản xuất kinh doanh và giám sát chặt chẽ khách hàng cho đến khi số nợ vay được hoàn trả. Đề nghị người vay cắt bớt những khoản chi không cần thiết, nhanh chóng giải quyết hàng tồn đọng ( bằng cách khuyên khách hàng tăng thêm chi phí quản cáo, bán hàng có khuyến mại hoặc nhờ vào quan hệ rộng rãi của chính bản thân NH để giới thiệu khách hàng cho doanh nghiệp ), đồng thời đề nghị doanh nghiệp thay đổi chiến lược kinh doanh, hệ thống hoạt động sản xuất khi không có hiệu quả. Nếu nợ quá hạn do các nguyên nhân khách quan thì NHTM có thể xem xét gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng vho tương ứng với kỳ hạn có thể thu được lợi nhuận của người vay. Khi cần thiết, NH có thể tham gia điều hành doanh nghiệp đến khi thu hồi hết nợ. Phương pháp thứ hai là sử dụng biện pháp thanh lý đối với tài sản thế chấp. Phương pháp này sử dụng khi NHTM thấy việc tổ chức khai thác là không tiện lợi và không có hy vongj thu hồi được hết nợ, để nhanh chóng xử lý khoản nợ khó đòi. Tuy nhiên, NH chỉ nên áp dụng biện pháp này khi đã thực hiện một vài hình thức khai thác, song không có hiệu quả, khi người vay không sãn sàng chi trả, có hành vi lẩn trốn và tình trạng vỡ nợ bắt đầu xẩy ra. 6. Phát huy vai trò tư vấn đối với chủ đầu tư. Khi khách hàng mang đến NHTM dự án đầu tư để xin vay vốn, họ rất mong muốn được NH tạo điều kiện thuận lợi để cho vay, từ đó họ sẽ tiến hành thực hiện dự án đầu tư với mong muốn dự án sẽ đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, không phải bất kỳ dự án naò Nh đều cho vay. Đối với những dự án như vậy, cán bộ tín dụng cần phát huy vai trò tư vấn của NH, giúp chủ đầu tư tìm những biện pháp khắc phục. Nếu dự án vẫn đạt hiệu quả thấp thì NHTM giải thích rõ cho khách hàng hiểu tại sao NH không cho vay : phải lý giải được cho khách hàng thấy hiệu quả sủa dự án không cao, nếu tiếp tục thực hiện thì doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận rất thấp, từ đó không có nguồn để trả nợ cho NH. Cũng có thể khi doanh nghiệp tính toán dự án bằng những chỉ tiêu cũ, không áp dụng những chỉ tiêu mới để phân tích phươn diận tài chính của sự án nên thấy dự án khả thi, nhưng khi NH thẩm định lại dùng những chỉ tiêu mới để phân tích phương diện tài chính của dự án nên thấy dự án khả thi, nhưng khi Nh thẩm định lại dùng những chỉ tiêu mới ( như NPV, IRR ) để tính toán thì lại đưa ra kết luạn dự án không khả thi. Những trường hợp như vậy cán bộ tín dụng cần hướng dẫn cặn kẽ cho khách hàng sử dụng các chỉ tiêu mới để tính hiệu qủa đầu tư, giúp cho cả hai bên ( NH và khách hàng ) thống nhất cách tính, nhằm thấy được dự án không khả thi. Nếu cán bộ tín dụng cho qua, không lý giải được cho khách hàng hiểu thì rất có thể khách hàng cho rằng NH làm ăn cửa quyền, từ đó họ sẽ không hoặc giảm đến giao dịch với NH, uy tín NH sẽ bị giảm. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Nhà nước với chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế có vai trò quản lý hoạt động kinh tế và đầu tư. Chỉ một thay đổi nhỏ trong chính sách quản lý Nhà nước cũng có thể dẫn đến sự đảo lộn hoạt động cho vay của NH. Chính vì vậy để NH có thể thuận lợi và dễ dàng hơn, Nhà nước có thể thực hiện những biện pháp sau : 1. Tăng cường sự quản lý đối với các doanh nghiệp NHTM chịu sự tác động rất lớn của chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy Nhà nước phải tăng cường sự quản lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải có cơ chế, chính sách thích hợp, đồng bộ và kịp thời, xuất phát từ khâu quyết định tư cách pháp nhân đến quá trình hoạt động các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh cần phải rà soát tổng thể để sắp xếp lại theo xu hướng cổ phần hóa. Trong một doanh nghiệp vừa có cổ phần Nhà nước vừa có cổ phần của người lao động sẽ phát huy tinh thần làm chủ của người lao động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bổ sung nguồn vốn tự có thực có theo điều lệ và chấn chỉnh việc chấp hành pháp lệnh kế toán – thống kê một cách nghiêm ngặt, phản ánh chính xác, đầy đủ và kịp thời kết quả sản xuất kinh doanh và vốn liếng của mỗi đơn vị. Việc cấp giấy phép quyết định thành lập các tổ chức kinh tế phải tuân thủ luật định, chỉ có thể có quyết định thành lập doanh nghiệp, công nhận tư cách pháp nhân trên cơ sở các cơ quan hữu trách đã thẩm định đầy đủ, cụ thể về các điều kiện theo quy định. Đồng thời, rà soát lại số doanh nghiệp đã được thành lập để bổ sung, sửa đổi, hướng dẫn và trợ giúp thực hiện hoặc thu hồi giấy phép nếu cần thiết. Cần sớm nghiên cứu để hoàn thiện hơn các văn bản luật như : luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật phá sản doanh nghiệp... nhằm tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh của NH thuận lợi và ít rủi ro hơn. 2.Tạo môi trường hấp dẫn khuyến khích đầu tư. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu A có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư trong nước : biến những dự án khả thi thành bất khả thi bởi những yếu tố liên quan đến hoạt động của dự án đầu tư thay đổi như : sự tăng giá hoặc khan hiếm yếu tố đầu vào, sự bão hoà của đầu ra, chi phí thay đổi không theo dự kiến của chủ đầu tư,... gây ra sự trì trệ trong nền kinh tế, các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Do vậy, để duy trì và khuyến khích đầu tư Nhà nước cần đưa ra những biện pháp để hạn chế cuộc khủng hoảng tiền tệ : có chính sách bảo hộ đối với hàng hoá sản xuất trong nước để xuất khẩu, tăng thuế nhập khẩu để bảo vệ hàng hoá trong nước, kiên quyết không phá giá đồng tiền, có chính sách tỷ giá hợp lý để vẫn khuyến khích xuất khẩu mà không ảnh hưởng đến nhập khẩu... Bên cạnh đó, Nhà nước cần đưa ra những chính sách thích đáng để đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình khai thác dự án. Ngoài ra, Nhà nước cần có những chính sách thuế thích hợp đối với những đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh tại những ngành có tỷ suất lợi nhuận nhỏ nhưng đem lại lợi ích lớn cho nền kinh tế, thu hút nhiều lao động như : ngành xây lắp. 3. Tạo môi trường pháp lý. Nhà nước nên để NH độc lập trong hoạt động tín dụng, NH tự quyết định có cho vay hay không hoàn toàn phụ thuộc vào tính khả thi của dự án. Do NH hoạt động kinh doanh chịu sự tác động rất lớn của hệ thống các văn bản luật và các quy định khác nên Nhà nước cần sớm nghiên cứu để hoàn thiện hơn các văn bản luật nhằm taok điều kiện để hoạt động kinh doanh của NH thuận lợi và ít rủi ro hơn. Chính quyền cấp có thẩm quyền cần có biện pháp khẩn trương cấp chứng thư sở hữu về tài sản cho các pháp nhân và thể nhân, trong đó chủ yếu là nhà đất, lâu nay số chưa được cấp chiếm 80%, do đó ngân hàng rất khó cho vay. Chính quyền phường xã và công chứng Nhà nước phải chịu trách nhiệm pháp luật và vật chất vì những xác nhận sai sự thật, gây thất thoát vốn đối với NH. Thực tế đã có nhiều trường hợp vì xác nhận trùng lặp của công chứng và phường, xã tạo kẽ hở cho sự lợi dụng, chiếm đoạt vốn NH. 4. Tăng cường sự hỗ trợ các cơ quan chức năng có liên quan. Hiện nay, một số người ở các cấp, các ngành khác nhau chưa thấy được vai trò tín dụng NH là “đòn bẩy” quan trọng của nền kinh tế, là nguồn vốn quan trọng, chủ động cho phát triển kinh tế. Họ coi hoạt động tín dụng NH chỉ vì lợi ích cục bộ của ngành NH. Vì thế, khi giải quyết vấn đề còn thiên lệch, nhất là xử lý thu hồi nợ để tái tạo nguồn vốn cho vay. Có thể khẳng định rằng hoạt động tín dụng NH luôn gắn bó chặt chẽ với phát triển kinh tế, không thể tách rời chúng, do vậy, cần có sự thống nhất quan điểm, tư tưởng và nhận thức của các ngành, các cấp. Các cơ quan chức năng như toà án, viện kiểm sát, công an, thi hành án, thanh tra Nhà nước cần có sự quan tâm hỗ trợ ngành NH trong việc xử lý thu hồi nợ, nhất là các khoản nợ mà người vay cố trây ỳ, trốn tránh trách nhiệm trả nợ và lừa đảo. Cần có những văn bản có tính chất liên ngành nhằm phối hợp, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tín dụng. Các ngành tài chính, thuế cần kiểm soát chặt chẽ hơn việc tuân theo pháp lệnh kế toán- thống kê đối với các doanh nghiệp, tránh tình trạng hạch toán, ghi sổ tuỳ tiện, thậm chí chưa mở sổ kế toán để ghi chép, phản ảnh. Lâu nay, lĩnh vực này hầu như bỏ ngỏ, thiếu sự chỉ đạo cũng như thực thi trong nền kinh tế ; ngân hàng thiếu cơ sở số liệu chính xác để tính toán, xác định mức đầu tư vốn. 5. Tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát ở tầm vĩ mô Tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát ở tầm vĩ mô xuất phát từ việc bổ sung, sửa đổi những nội dung cơ chế tín dụng kịp thời, thường xuyên theo yêu cầu của thực tiến đời sống, cho đến việc kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng một cách khoa học, khách quan và kịp thời nhằm ngăn chặn, uốn nắn những lệch lạc trong hoạt động tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những mất mát có thể xảy ra. Việc đề ra định hướng phải xuất phát từ nghiên cứu thực tế và khả năng của chính mỗi NHTM. Những kiến nghị đối với NHNN 1. Để giúp đỡ các NHTM trong việc thu nhập thông tin được chính xác và cập nhập thì không chỉ cần nỗ lực của mỗi NH mà còn rất cần đến sự giúp đỡ của trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN. Vì vậy NHNN cần tổ chức trung tâm phòng ngừa rủi ro theo một mô hình thích hợp để đảm bảo cho hoạt động của trung tâm có hiệu quả. 2. NHNN cần có văn bản hướng dẫn thủ tục xử lý tài sản thế chấp đối với các doanh nghiệp có dư nợ tại NHTM, để các NH thực hiện thống nhất trên cơ sở có được sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng như : Chính quyền sở tại, cơ quan bảo vệ pháp luật... trong việc thi hành giám sát, phát mại tài sản thế chấp thu hồi vốn vay cho NH. 3. Mở rộng quyền tài chính cho các NHTM Hiện nay các NHTM mới chỉ có quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro. Quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 100% vốn điều lệ. Tỷ lệ này đã làm cho quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro quá nhỏ bé so với mức rủi ro trong quá trình kinh doanh, chưa đủ sức giúp NH tự thân khắc phục được những rủi ro tín dụng làm cho nợ khó đòi ngày càng chồng chất, gây khó khăn cho hoạt động của NH. Để khắc phục tình trạng này, NHNN nên cho NH được trích lập hai quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro được hình thành từ chi phí để xử lý các khoản rủi ro tổn thất tín dụng do khách hàng gây ra ( quỹ dự phòng tổn thất tín dụng, quỹ bảo hiểm tiền gửi ). Quỹ dự phòng rủi ro được hình thành từ lợi nhuận ròng, để bù đắp rủi ro khi NH làm ăn thua lỗ, bị thiệt hại bất ngờ do những nguyên nhân khách quan bất khả kháng ( quỹ dự trữ đặc biệt ). Cả hai quỹ này đều nhằn mục đích phòng chống rủi ro do mất vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của NH nhưng chúng khác nhau ở nguồn hình thành và cách thức sử dụng. 4. Quy định một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng là một vấn đề mới nhưng việc thực hiện cơ chế này còn chưa nghiêm túc, dẫn đến rủi ro cho NH do không nắm được đầy đủ thông tin về khách hàng có dư nợ tại nhiều tổ chức tín dụng. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta với hình thức truyền tin chưa kịp thời, đầy đủ, biện pháp phòng ngừa còn hạn chế thì NHNN có thể tạm thời nghiên cứu hủy bỏ quy định một khách hàng được vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng, mà quy định nhiều NH cho một khách hàng vay theo hướng đồng tài trợ do một NH đứng ra làm đầu mối, như vậy thông tin về khách hàng được NH nắm đầy đủ và chắc chắn hơn. 5. Vai trò và công dụng của việc khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động vốn bình quân 0,35% trực tiếp đối với NHTM về mặt quản lý tài chính rất hạn chế, hiệu lực thi hành không cao. Do vậy NHNN nên bỏ việc khống chế chênh lệch lãi suất 0,35%, thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của NHTM để thúc đẩy sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, tạo nên mức lãi suất hợp lý theo xu thế chênh lệch lãi suất ngày càng giảm để kích hoạt động NH. Kết luận Nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi Ngân hàng cần hoàn thiên các hoạt động kinh doanh của mình trong đó có hoạt động cho vay. Nghiệp vụ cho vay của các NHTM trong thời gian qua đã giúp các doanh nghiệp đẩy nạnh đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá công nghệ, từ đó góp phần tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho vay đòi hỏi mang tính cấp thiết cho cả NH và cho nền kinh tế, vì nó không những mang lại lợi nhuận cho NH mà còn phục vụ trực tiếp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, để giải quyết một cách hoàn chỉnh các vấn đề có liên quan đến hiệu quả tín dụng cho vay không chỉ có nỗ lực của bản thân NH mà cần có sự giúp đỡ của các cơ quan khác trong nền kinh tế. Có như vậy tín dụng cho vay mới có thể phát huy được vai trò tích cực mà nó có để phục vụ lợi ích của đất nước. Những vấn đề đã đề cập trong bài viết này chỉ là một khía cạnh của hoạt động NHTM. Hy vọng rằng bài viết này và những suy nghĩ của em có thể đóng góp một phần nhỏ bé nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho vay. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức có hạn cũng như xét từ thực tế cho thấy bài viết vẫn còn thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, cô giáo để bài viết này thêm được hoàn thiện. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo, đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Hữu Tài đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. LỜI NểI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGHIỆP VỤ CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 I .Ngõn hàng thương mại 3 1.Quỏ trỡnh ra đời của ngõn hàng 3 2. Phõn loại ngõn hàng : 5 3. Chức năng của ngõn hàng thương mại 6 II.Cho vay của ngõn hàng thương mại 7 1. Thuyết cho vay thương mại 7 2. Cỏc vấn đề chung 9 1.0- Cỏc loại hỡnh cho vay 9 1.1- Hạn mức tớn dụng 11 1.2- Lói suất cho vay 11 3. Cỏc loại cho vay 13 III. Vai trũ của nghiệp vụ cho vay đối với nền kinh tế 15 1. Đối với đời sống kinh tế - xó hụi 15 1.1 Thỳc đẩy sản xuất phỏt triển 15 1.2 Gúp phần ổn định tiền tệ và giỏ cả 16 1.3 Gúp phần ổn định đời sống, tạo ra cụng ăn việc làm và ổnđịnh trật tự xó hội 17 2. Đối với cỏc doanh nghiệp 17 2.1 Làm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp 17 2.2 Tạo điều kiện mở rộng quy mụ sản xuất, chiếm lĩnh thị trường 18 3. Đối với Ngõn hàng 18 IV. Một số kinh nghiờm 20 1. Kinh nghiệm của Ngõn hàng cụng thương tỉnh Đồng thỏp 20 2. Kinh nghiệm của Ngõn hàng cụng thương khu vực Ba đỡnh 23 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CHO VAY Ở VIỆT NAM 27 I.Những thành tựu đạt được 27 II. Những vấn đề cũn tồn tại và nguyờn nhõn 29 1. Những vấn đề cũn tồn tại 29 1.1- Tỡnh trạng nợ quỏ hạn 29 1.2 Vấn đề lói suất 30 2.3- Vấn đề thế chấp tài sản 33 1.4. Vấn đề ứ đọng vốn 35 III. Nguyờn nhõn 36 1. Nguyờn nhõn khỏch quan 36 1.1- Nguyờn nhõn từ phớa khỏch hàng 37 1.2- Mụi trường phỏp lý 40 1.3 Nguyờn nhõn từ phớa mụi trường 42 1.4 - Trỡnh độ dõn trớ 43 2. Nguyờn nhõn chủ quan 44 2.1- Cỏc chớnh sỏch của NHTM 44 2.2- Cụng tỏc kiểm tra 46 2.3- Chất lượng cỏn bộ tớn dụng 46 2.4- Tõm lý của cỏc ngõn hàng 47 CHƯƠNG III 49 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ CHO VAY 49 I. Cỏc giải phỏp đối với NHTM 49 1. Khụng ngừng bồi dưỡng giỏo dục phẩm chất đạo đức, nõng cao trỡnh độ chuyờn mụn cho cỏn bộ 49 2. Thu thập, đỏnh giỏ và xử lý thụng tin để cú những nhận thức chớnh xỏc về khỏch hàng, gúp phần nõng cao chất lượng thẩm định. 50 2.1 Thụng tin từ cỏc doanh nghiệp vay vốn 51 2.2 Thu thập thụng tin từ cỏc nguồn khỏc 52 3. Xỏc định thời hạn trả nợ và cỏch thức tớnh lói phự hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của dự ỏn 53 4. Thực hiện tốt cỏc bảo đảm tớn dụng 55 5. Coi trọng cụng tỏc phũng ngừa, đồng thời xử lý nhanh chúng dứt điểm đối với nợ quỏ hạn. 58 6. Phỏt huy vai trũ tư vấn đối với chủ đầu tư. 63 II. Một số kiến nghị đối với Nhà nước 64 1. Tăng cường sự quản lý đối với cỏc doanh nghiệp 64 2.Tạo mụi trường hấp dẫn khuyến khớch đầu tư. 65 3. Tạo mụi trường phỏp lý. 66 4. Tăng cường sự hỗ trợ cỏc cơ quan chức năng cú liờn quan. 66 5. Tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soỏt ở tầm vĩ mụ 67 III. Những kiến nghị đối với NHNN 68 KẾT LUẬN 71 tài liệu sách tham khảo Ngân hàng thương mại – Edward Wreed, Edward K. Gill. Các nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Lê Văn Tư - nhà xuất bản Thống kê. Tiền tệ, Ngân hàng và tín dụng – Robert Raymond. Giáo trình môn học. Chương trình Pháp – Việt về đào tạo cán bộ Ngân hàng. Kinh tế học – Qui trình nghiệp vụ cho vay – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ - tín dụng và Ngân hàng trong bước đầu đổi mới ở Việt Nam – Cao Sỹ Kiên. Tạp chí Ngân hàng 2000,2001. Tạp chí Phát triển kinh tế. Tạp chí Tài chính. Thời báo kinh tế Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0009.doc