Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1.Khái quát hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 3 1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại 3 1.1.2.Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 4 1.2.Cho vay của NHTM 5 1.2.1.Khái niệm cho vay của NHTM 5 1.2.2.Đặc điểm cho vay của NHTM 6 1.2.3.Phân loại cho vay 7 2.CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NHTM 9 2.1.Khái niệm chất lượng cho vay của NHTM 9 2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay 11 2.2.1. Các chỉ tiêu định lượng 12 2.2.2. Chỉ tiêu định tính 15 2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của NHTM 18 2.3.1.Yếu tố chủ quan 18 2.3.1.1.Từ phía ngân hàng 18 2.3.1.2.Từ phía khách hàng 19 2.3.2.Yếu tố khách quan 20 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 23 1.GIỚI THIỆU VỀ NHNO&PTNT HÀ GIANG VÀ HỘ SẢN XUẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG 23 1.1.Khái quát về NHNo&PTNT Hà Giang 23 1.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 23 1.1.2.Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Hà Giang 23 1.1.3.Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Giang 25 1.2. Khái quát về hộ sản xuất trên địa bàn tỉnh Hà giang 29 1.2.1.Khái niệm, đặc điểm hộ sản xuất 29 1.2.2 Quy trình cho vay kinh tế hộ 31 1.2.3. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa bàn tỉnh Hà Giang 32 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 35 2.1. Thực trạng chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà giang 35 2.1.1. Tình hình cho vay, thu nợ, dư nợ hộ sản xuất 35 2.1.2. Tình hình nợ quá hạn 41 2.2. Đánh giá về chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang 44 2.2.1. Thành tựu đạt được 44 2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân 46 2.2.2.1. Hạn chế 46 2.2.2.2. Nguyên nhân 47 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 51 1.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 51 1.1.Mục tiêu hoạt động 51 1.2.Định hướng nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Giang 51 2.GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 54 2.1.Xây dựng chiến lược thu hút khách hàng 54 2.2.Thực hiện quy trình cho vay một cách hợp lý 55 2.3.Công tác đào tạo, bố trí, tuyển dụng cán bộ 56 2.4.Hoàn thiện hệ thống thông tin 57 2.5.Mở rộng màng lưới kinh doanh 58 2.6.Chú trọng đến việc xử lý và thu hồi nợ nhằm làm giảm nợ quá hạn 59 2.7.Tăng cường sự phối hợp giữa NHNo&PTNT Hà giang với các cấp chính quyền địa phương 61 3.KIẾN NGHỊ 62 3.1.Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam 62 3.2.Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 63 3.3.Kiến nghị đối với Nhà nước và các cấp uỷ chính quyền địa phương 64 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư nợ, đặc biệt là năm 2005 với tỷ lệ 65,2%, tốc độ tăng trưởng dư nợ lớn, điều này thể hiện NHNo&PTNT Hà giang đã chú tâm phát triển hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế này. Xét cơ cấu dư nợ hộ sản xuất theo kỳ hạn nợ ta thấy: Cả dư nợ ngắn hạn, trung, dài hạn đều tăng qua các năm. Dư nợ ngắn hạn tăng từ 259.048 trđ năm 2003 lên 438.194 trđ năm 2005, tăng gấp 1,7 lần. Dư nợ dài hạn tăng từ 121.905 trđ năm 2003 lên 158.766 trđ năm 2004, tăng 36.861 trđ (30,2%). Năm 2005, dư nợ dài hạn đạt 268.571 trđ tăng 109.805 trđ. Xét về tỷ trọng thì mặc dù dư nợ ngắn hạn là chủ yếu nhưng lại giảm dần qua các năm, còn tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn thì tăng đều qua các năm. Đây là kết quả đáng mừng vì các khoản cho vay trung, dài hạn được dùng để đầu tư vào các đối tượng tài sản có tính lâu dài như chăn nuôi đại gia súc, mua sắm máy móc thiết bị và cải tạo đất trồng cây ăn quả, cây nguyên liệu, cải tạo hồ ao thả cá… Với số tiền vay bình quân khá cao sẽ kích thích hoạt động sản xuất và như thế chất lượng cho vay sẽ ngày càng được nâng cao. Xét cơ cấu dư nợ theo ngành nghề thì cho vay hộ sản xuất nông lâm nghiệp vẫn là chủ đạo, cho vay thương nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề khác có xu hướng tăng khá. Tỷ lệ cho vay hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp còn ở mức cao, cho vay công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xét về tỷ trọng không tăng nhưng về số tuyệt đối sau 2 năm từ 2003 đến 2005, dư nợ cho vay hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng lên 68.596 trđ; dư nợ hộ sản xuất thương mại dịch vụ tăng lên cả về số tương đối và tuyệt đối, tỷ trọng dư nợ thương mại, dịch vụ tăng từ 17% lên 20% năm 2005, về số tuyệt đối dư nợ năm 2005 tăng so với năm 2003 là 70.591 trđ, tăng hơn gấp 2 lần. Điều này là do chủ trương phát triển kinh tế của tỉnh là tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư, diêm nghiệp đã được thực hiện đúng hướng thuận lợi cho việc ngân hàng đầu tư vốn theo đúng định hướng. Tỷ trọng dư nợ ngành nông nghiệp luôn ở mức cao và tăng dần qua các năm cả về số tương đối và tuyệt đối. Năm 2003, dư nợ ngành nông nghiệp là 198.096 trđ, chiếm 52%, năm 2004 tăng lên 244.953 trđ tăng 46.857 trđ (23,7%) chiếm tỷ trọng 54%, năm 2005 dư nợ 388.721 trđ tăng 143.768 trđ so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 55%. Có được kết quả như vậy là nhờ các cấp uỷ, chính quyền địa phương Hà giang đã quan tâm phát triển nông nghiệp, áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa cây trồng, con giống có giá trị kinh tế cao vào sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn thoả đáng, có chính sách bảo hộ sản phẩm nông nghiệp một cách hợp lý đưa sản xuất phát triển, tăng khả năng hấp thụ vốn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng đầu tư tăng trưởng tín dụng. Những kết quả trên đây cho thấy phần nào chất lượng cho vay đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất, nhưng ngoài ra chất lượng của ngân hàng đối với hộ sản xuất còn thể hiện ở tình hình nợ quá hạn, để đánh giá chính xác hơn ta xem xét đến tình hình nợ quá hạn của hộ sản xuất. 2.1.2. Tình hình nợ quá hạn Nợ quá hạn luôn là vấn đề đáng lo ngại đối với mỗi ngân hàng, nó làm doanh số thu nợ của ngân hàng giảm, ảnh hưởng xấu tới kết quả kinh doanh, làm phát sinh chi phí cho việc đòi nợ, xử lý phát mại tài sản thế chấp. Nợ quá hạn về lâu dài sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro lớn, làm giảm nguồn vốn tự có của mỗi ngân hàng. Nợ quá hạn là một chỉ tiêu tốt để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, khả năng mất vốn của ngân hàng càng lớn, gây tác động xấu tới kết quả hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Vì thế, cần thiết phải phân tích, tìm hiểu nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn nhằm tìm hướng khắc phục hạ tỷ lệ nợ quá hạn xuống càng thấp càng tốt góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Tình hình nợ quá hạn hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà giang thể hiện ở những số liệu sau: Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang các năm 2003 - 2005 Đơn vị: triệu đồng CHỈ TIÊU Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng số Tỷ lệ Tổng số Tỷ lệ Tổng số Tỷ lệ 1. Tổng nợ quá hạn 6.477 100% 7.349 100% 10.672 100% * Cơ cấu nợ quá hạn - Ngắn hạn - Trung, dài hạn 2.934 3.543 45.3% 54.7% 3.395 3.954 46.2% 53.8% 3.970 6.702 37.2% 62.8% 3. Tổng dư nợ hộ sản xuất 380.953 453.616 706.765 4. Tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ hộ sản xuất 1.7% 1.62% 1.51% (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động tín dụng NHNo&PTNT Hà giang ) Nợ quá hạn hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang tương đối thấp, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ hộ sản xuất, tuy rằng về số tuyệt đối thì nợ quá hạn tăng nhưng xét trong mối quan hệ với tổng dư nợ hộ sản xuất thì tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ hộ sản xuất giảm dần qua các năm, cụ thể là tỷ lệ nợ quá hạn năm 2003 là 1,7% giảm xuống 1,62% năm 2004 và chỉ còn 1,51% năm 2005. Theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ <=2% là ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt, ở Việt Nam tỷ lệ là 3%. Như vậy có thể nói chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang là tốt. Xét về cơ cấu nợ quá hạn thì nợ quá hạn trung, dài hạn là chủ yếu, nguyên nhân là do những năm gần đây NHNo&PTNT Hà giang cho vay theo chương trình kinh tế của tỉnh trồng cây xoài, nhãn, cà phê. Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, rét đậm rét hại kéo dài nên hầu hết các rừng cây đều chết, số còn sống sót thì năng suất, chất lượng không cao làm thất thoát thu nhập người dân, làm họ không có khả năng trả nợ ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn nhưng chủ yếu là các nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh…, một số món chây ỳ, hộ sử dụng vốn sai mục đích, thua lỗ trong kinh doanh. Có thể phân loại các nguyên nhân đó thành một số nguyên nhân chính sau: - Nguyên nhân bất khả kháng: Có nhiều dự án khi lập mang tính khả thi cao nhưng khi đưa vào hoạt động lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố không lường trước được như thời tiết thay đổi, mưa lũ, hạn hán, dịch bệnh phát sinh, giá cả trên thị trường biến động theo hướng bất lợi làm cho các hộ sản xuất làm ăn thua lỗ không thể trả được nợ ngân hàng. - Do hộ sản xuất sử dụng vốn sai mục đích xin vay hoặc khi hoàn thành dự án chưa đến hạn trả nợ ngân hàng nên các hộ đem số vốn đó để cho vay nóng kiếm lợi nhưng họ không đòi được nợ dẫn đến không trả được nợ ngân hàng. - Do công tác quản lý, chỉ đạo tín dụng của ngân hàng chưa nghiêm dẫn đến việc một số cán bộ tín dụng làm sai quy trình nghiệp vụ, vi phạm thể lệ chế độ của ngành quy định, công tác kiểm tra, kiểm soát chưa được coi trọng, kiểm tra không thường xuyên, kém hiệu quả. Việc xử lý những sai phạm chưa kiên quyết kịp thời, chưa có sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa ngân hàng với chính quyền địa phương và các tổ chức ban ngành. 2.2. Đánh giá về chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang 2.2.1. Thành tựu đạt được Hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang những năm gần đây đạt được những thành tựu hết sức khả quan, cụ thể là: Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất ngày càng tăng và luôn ở mức cao. Dư nợ hộ sản xuất bình quân 3 năm gần đây là 433.934 trđ hỗ trợ 41.079 hộ có vốn đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cải thiện đời sống, góp phần thực hiện “xoá đói giảm nghèo” nâng cao đời sống nhân dân. Cùng với sự gia tăng liên tục của doanh số cho vay, thời gian qua ngân hàng đã thành công trong việc khắc phục và hạn chế được nợ quá hạn trong tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn luôn được duy trì ở mức thấp, thêm vào đó là nguồn vốn huy động tăng làm cho chất lượng tín dụng ngân hàng ngày càng được nâng cao. Khối lượng vốn tín dụng lớn, mức độ sử dụng vốn đối với hộ sản xuất luôn ở mức cao khoảng 52%, mức vốn sử dụng bình quân cho một hộ tăng từ 11 trđ/hộ năm 2003 lên 12,5 trđ/ hộ năm 2005, góp phần vào sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ. Ngân hàng cũng đã thực hiện đầu tư có trọng điểm góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, chú trọng đầu tư tập trung vào các chương trình kinh tế của tỉnh đặc biệt là ngành nông nghiệp hướng đến tăng năng suất chất lượng sản phẩm hàng hoá góp phần đưa kinh tế của tỉnh đi lên. Dư nợ ngắn, trung và dài hạn đều có xu hướng tăng lên. Mặc dù dư nợ trung, dài hạn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ nhưng mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn tăng nhanh hơn dư nợ ngắn hạn, vốn đầu tư trung, dài hạn đã từng bước đáp ứng nhu cầu về vốn của các hộ sản xuất để mua sắm máy móc thiết bị nông nghiệp, chăn nuôi đại gia suc sinh sản, đầu tư trồng cây lâu năm, cải tạo đầm hồ nuôi cá, dự trữ nguồn nước phục vụ trồng trọt, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của hộ nông dân. Nhờ vốn vay ngân hàng mà các hộ đã chủ động hơn trong sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động thất nghiệp, nhiều hộ đã vươn lên làm giàu góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà. Bên cạnh những thành tựu trên, hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng nông nghiệp Hà Giang còn góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà, góp phần vào sự tăng trưởng GDP, GDP luôn tăng khoảng 10%/năm, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp. Hơn nữa, thu nhập bình quân đầu người cũng đã từng bước nâng lên với mức tăng trưởng thu nhập từ 10% - 20%/ năm, năm 2005 thu nhập bình quân đầu người đạt 3 trđ/người/năm, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể. Trong những năm gần đây tỷ lệ trộm cướp, nghiện hút cũng đã giảm đáng kể do một bộ phận lớn thanh niên có được công ăn việc làm do các hộ được vay vốn ngân hàng sản xuất kinh doanh làm giàu bằng chính khả năng của mình góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh. Có được những kết quả trên là do: Nhờ có sự đoàn kết nhất trí của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên ngân hàng nên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra. Sự chỉ đạo chặt chẽ của ban giám đốc, các phòng tổ cùng với sự nỗ lực phấn đấu hết mình của tập thể cán bộ nhân viên ngân hàng mà chất lượng công việc ngày một nâng cao. Thường xuyên duy trì chế độ kiểm tra kiểm soát nội bộ trong tất cả các công việc, do đó nâng cao được ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ nhân viên ngân hàng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngân hàng đã chủ động bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Xác định rõ hướng phân bổ tín dụng từ đó lập kế hoạch kinh doanh, xác định hướng đầu tư, mức đầu tư cho từng đối tượng và trực tiếp giao khoán cho các đơn vị thực hiện. Tranh thủ sự giúp đỡ của cấp uỷ chính quyền địa phương, phố hợp với các cơ quan đoàn thể tuyên truyền về chủ trương, chính sách cho vay của ngân hàng nông nghiệp. 2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân 2.2.2.1. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được trong 3 năm qua thì hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Hà giang đối với hộ sản xuất còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục biểu hiện ở một số điểm sau: Tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng những khoản nợ quá hạn chủ yếu là của những năm trước chưa xử lý do đầu tư vào trồng cây cà phê, xoài, tốc độ xử lý nợ quá hạn chậm. Nợ quá hạn 3 năm gần đây vẫn tăng lên, tỷ lệ nợ quá hạn giảm là do tốc độ tăng trưởng dư nợ tăng nhanh chứ không phải là xử lý nợ quá hạn, thu hồi nợ. Việc xử lý nợ quá hạn đối với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn vì tài sản thế chấp thường rất khó phát mại và chủ yếu tài sản thế chấp là đất đai có giá trị lớn hơn rất nhiều so với giá trị khoản vay. Ngân hàng chưa có chiến lược đúng đắn để thu hút khách hàng nên số hộ đến giao dịch với ngân hàng còn ở mức thấp (41.079 hộ trong tổng số 145.000 hộ, chiếm 28,3%), mức vốn cấp cho mỗi hộ còn thấp và còn nhiều hộ sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến không trả được nợ ngân hàng. Quy trình cho vay của ngân hàng còn nhiều thủ tục rườm rà, làm thủ tục rất lâu và phức tạp do đó nhiều hộ vẫn còn ngại nên không đến ngân hàng vay vốn. Quy trình thẩm định còn nhiều sai sót, chưa bám sát thực tế, còn mang nặng tính kinh nghiệm dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ của khách hàng. Nguồn thông tin mà ngân hàng cần để phân tích, đánh giá còn thiếu, không kịp thời và chất lượng chưa cao. Công nghệ thông tin chưa được khai thác một cách triệt để để cung cấp thông tin phục vụ quản lý điều hành. Vì vậy cán bộ tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tự đi điều tra trong khi chi phí của ngân hàng cho hoạt động này là ít hoặc không có. Việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng xử lý rủi ro chưa thực sự nghiêm và hiệu quả. Do quỹ được trích từ lợi nhuận sau thuế của ngân hàng nên ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của ngân hàng, ngân hàng thường không tự động trích lập hoặc trích lập chỉ mang tính chất chống chế. Rủi ro trong hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất là rất lớn vì sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chịu nhiều tác động của cả các yếu tố khách quan và chủ quan, do vậy việc trích lập quỹ dự phòng xử lý rủi ro là rất cần thiết và đòi hỏi phải sử dụng một cách có hiệu quả. Lực lượng đội ngũ cán bộ tín dụng còn mỏng, trình độ nghiệp vụ tín dụng còn nhiều hạn chế và không đồng đều, đôi khi công tác bố trí tổ chức cán bộ chưa thực sự hợp lý nên chưa thực sự phát huy được năng lực của họ, một số bộ phận hiệu quả công tác còn thấp. Mạng lưới tín dụng ngân hàng nông nghiệp Hà giang vẫn còn mỏng nên việc cung ứng vốn tín dụng đến tận tay người dân còn nhiều hạn chế nhất là bà con nông dân ở vùng sâu vùng xa, NHNo chưa thực sự xứng đáng là người bạn đồng hành của nhà nông. Việc đầu tư vốn của NHNo còn chưa thực sự gắn với các chương trình kinh tế của tỉnh, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngân hàng với các cấp chính quyền địa phương trong hoạt động tín dụng, đầu tư vốn còn dàn trải theo diện rộng, thiếu tập trung. 2.2.2.2. Nguyên nhân Những hạn chế trên trong công tác cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà giang bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: * Nguyên nhân chủ quan Từ phía ngân hàng Việc chấp hành quy trình nghiệp vụ ở một số ngân hàng cơ sở còn thiếu nghiêm túc, chưa thực hiện tốt việc phân tích phân loại và xử lý nợ đặc biệt là các món vay trung, dài hạn. Qua kiểm tra một số nơi vẫn còn hiện tượng nợ đến hạn chưa xử lý kịp thời, nợ quá hạn tồn đọng từ các năm trước chưa được xử lý. Một số cán bộ tín dụng chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, thậm chí không tuân theo quy trình nghiệp vụ đã quy định. Việc chỉ đạo cán bộ, tổ công tác thực hiện quy trình nghiệp vụ chưa nghiêm, kém hiệu lực và còn nhiều sơ hở. Sự kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà giang với các cấp uỷ chính quyền địa phương chưa chặt chẽ, thiếu nhịp nhàng nên hiệu quả thu nợ chưa cao. Phần lớn các khoản vay được đảm bảo bằng tư cách và tài sản của người vay mà ít quan tâm đến dự án sản xuất kinh doanh nên khả năng khách hàng không trả được nợ ngân hàng là cao do tính khả thi và hiệu quả của dự án xin vay không được xác định. Công nghệ thông tin đã được NHNo&PTNT Hà giang quan tâm nhưng vẫn có trường hợp thiếu thông tin về tài chính, về mức độ rủi ro của khách hàng vay vốn, về năng lực quản lý vốn vay và sử dụng vốn vay của họ như thế nào, dẫn đến không kiểm soát chặt chẽ được vốn vay. Từ đó dẫn đến việc hộ sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không trả nợ đúng hạn. Hơn nữa công tác thông tin nhằm quảng bá hoạt động của ngân hàng đến tận các thôn bản vùng sâu vùng xa được triển khai nhưng chưa thực sự đem lại hiệu quả. Khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của NHNo trên địa bàn chưa cao, chủ yếu là cạnh tranh về lãi suất mà hình thức này không thể thực sự đem lại hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng được, đôi khi ngân hàng đầu tư và phát triển có lãi suất huy động cao hơn trong khi lãi suất cho vay lại thấp hơn NHNo, đặc biệt là từ năm 2002 sự xuất hiện của ngân hàng chính sách xã hội với cơ chế lãi suất cho vay ưu đãi đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả hoạt động cũng như việc mở rộng đầu tư cho vay, nhất là những dự án có chiều sâu, cần khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài. Nguyên nhân từ phía hộ sản xuất Hộ sản xuất trên địa bàn tỉnh Hà giang chủ yếu là hộ nông dân trình độ dân trí còn thấp và không đồng đều, nhất là kiến thức về khoa học kỹ thuật, kiến thức về quản lý sản xuất, kinh doanh cũng như công tác tiếp thị trong việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nông thôn. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản phẩm của hộ sản xuất ra còn chưa theo kịp với sự thay đổi của cơ chế thị trường nhất là về mặt chất lượng, chủng loại, giá cả… Đa số hộ sản xuất hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ và kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu, vốn tích luỹ nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường việc sản xuất cũng như việc tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Một số hộ sản xuất sử dụng vốn sai mục đích. Khi xin vay vốn thì đưa ra một dự án, phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao và hấp dẫn nhưng khi vay vốn rồi lại sử dụng số tiền đó vào mục đích khác có rủi ro và lợi nhuận cao hơn điều đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng do khách hàng không thu được vốn đầu tư vào dự án rủi ro cao. Một số hộ nông dân có tâm lý ỉ lại vào Nhà nước, không chủ động xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có lãi và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng do thời gian qua có rất nhiều nguồn vốn từ ngân sách quốc gia và nguồn ưu đãi khác tập trung đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn qua các định chế tài chính khác như Ngân hàng chính sách, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc…làm hạn chế đến việc đầu tư tín dụng của ngân hàng nông nghiệp. * Nguyên nhân khách quan Hà giang là một tỉnh miền núi thời tiết khắc nghiệt, hộ sản xuất luôn chịu ảnh hưởng của thời tiết như hạn hán, lũ lụt, bão quét, rét đậm rét hại… dịch bệnh phát sinh nhiều làm mất mùa, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của hộ sản xuất, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi nợ của ngân hàng. Địa bàn miền núi hiểm trở, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, đương xá giao thông đi lại khó khăn nên việc hộ nông dân tiếp cận thông tin cần thiết về giá cả và thị trường tiêu thụ còn nhiều hạn chế. Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh Hà giang việc tạo lập một thị trường tiêu thu sản phẩm sản xuất ra có tổ chức thì chưa có, việc tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là do người dân tự làm, hoặc có một số doanh nghiệp có tổ chức mua bán sản phẩm của bà con nông dân nhưng vẫn còn bấp bênh, không ổn định, công tác khuyến nông chưa mang lại hiệu quả cao, dẫn đến tính khả thi của một số dự án đầu tư thấp. Do chưa có cơ chế chính sách trong việc bao tiêu sản phẩm và giá cả giúp bà con nông dân. Tỉnh có thế mạnh cho phát triển cây chè, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc song vẫn còn manh mún, chưa hình thành vùng chuyên canh lớn. Các cấp uỷ chính quyền địa phương mới chỉ chú trọng đến việc đầu tư vốn phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của địa phương mà chưa quan tâm đến chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Khi hộ sản xuất sử dụng vốn vay không có khả năng trả nợ ngân hàng phải xử lý nợ vay để thu hồi vốn nhưng việc này lại không được các cấp ngành hữu quan đồng tình ủng hộ, làm ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng để đầu tư quay vòng vốn, từ đó làm hạn chế rất nhiều hộ có nhu cầu vay vốn. Môi trường pháp luật chưa đồng bộ, các cơ quan pháp luật chưa cương quyết cùng với ngân hàng để phát mại tài sản khi khách hàng làm ăn thua lỗ do chủ quan gây ra không tra được nợ, các hồ sơ khi chuyển sang tòa thụ lý phải mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HÀ GIANG 1.1. Mục tiêu hoạt động Để đảm bảo hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngày một phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Căn cứ vào tình hình hoạt động thực tế của chi nhánh và tình hình kinh tế – xã hội địa phương. Năm 2006, chi nhánh định hướng hoạt động kinh doanh trên một số chỉ tiêu chủ yếu sau: Về huy động vốn: nguồn vốn huy động tăng trưởng 22%. Trong đó huy động từ tiền gửi dân cư chiếm trên 50% tổng nguồn vốn huy động, từng bước đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư tín dụng trên địa bàn và giảm dần tỷ lệ sử dụng vốn điều hoà của NHNo&PTNT Việt Nam. Dư nợ tăng trưởng 17%, thực hiện tốt công tác tín dụng, phân tích tình hình tài chính của khách hàng trước khi cho vay để hạn chế tối đa rủi ro, đưa tỷ lệ nợ quá hạn nội bảng xuông dưới 3% tổng dư nợ nội bảng. Thu dịch vụ đạt trên 5% tổng thu. Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn đạt 64% Phấn đấu 100% NHNo các cấp kinh doanh có lãi, đảm bảo đạt hệ số lương tối đa theo quy định, đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên cho toàn chi nhánh. 1.2. Định hướng nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Giang Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của UBND tỉnh Hà Giang, vào định hướng và mục tiêu đề ra của hội đông quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Giang xây dựng phương hướng, biệp pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất năm 2006 như sau: * Về công tác huy động vốn Tích cực huy động vốn tại chỗ, có chính sách sản phẩm và lãi suất phù hợp với nhu cầu thị trường, khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài địa phương, thực hiện chuyển dich cơ cấu nguồn vốn trong kinh doanh, chủ động đáp ứng nguồn vốn ngắn, trung hạn cho hộ sản xuất, từng bước thoát khỏi việc lệ thuộc vào nguồn vốn điều tiết của ngân hàng cấp trên. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng, mở rộng mạng lưới kinh doanh, duy trì tốt thời gian giao dịch và trang bị đầy đủ phương tiện làm việc tạo mọi điều kiện cho khách hàng đến giao dịch. Thực hiện có hiệu quả chiến lược thu hút khách hàng đi đôi với việc thường xuyên nghiên cứu thị trường, yếu tố cạnh tranh nhằm thu hút và giữ khách hàng có số dư tiền gửi lớn và thường xuyên, vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi cá nhân và tiếp cận khách hàng có nguồn vốn lớn, thu hút nguồn vốn lãi suất rẻ, giảm chi phí dịch vụ thanh toán đối với khách hàng truyền thống, khách hàng có số dư tiền gửi, tiền vay lớn. Chi nhánh cũng xác đinh tiền gửi dân cư là nguồn ổn định nên phấn đấu đưa tỷ trọng tiền gửi dân cư lên 60% tổng nguồn huy động (hiện tại nguồn tiền này mới chỉ chiếm 45% tổng nguồn huy động). * Về công tác cho vay Tiếp tục duy trì các biện pháp đã và đang thực hiện có hiệu quả về mở rộng dư nợ trong đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất năm 2006. Bám sát các chương trình kinh tế của tỉnh phối kết hợp với các ngành có liên quan để nghiên cứu đầu tư theo dự án, chủ động tìm kiếm dự án và có biện pháp đầu tư phù hợp, tiếp tục củng cố phát triển thị phần khu vực nông nghiệp nông thôn. Chú trọng đến việc tiếp cận và mở rộng đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh lớn ở địa bàn thị xã, thị trấn, đầu tư vào cho vay kinh tế nông nghiệp để chuyển dịch cơ cấu cây trông vật nuôi theo định hướng phát triển của các cấp chính quyền địa phương, phấn đấu tốc độ tăng trưởng dư nợ đạt 18%. Tập trung xử lý nợ quá hạn, lãi tồn đọng, đưa tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức thấp nhất có thể hoặc không có nợ quá hạn. Thực hiện phân loại khách hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các khách hàng tốt (có uy tín, làm ăn hiệu quả, sòng phẳng trong thanh toán), đồng thời kiên quyết hạn chế hoặc ngừng cấp tín dụng đối với khách hàng làm ăn thua lỗ, không hiệu quả, không đủ điều kiện vay vốn. Cán bộ tín dụng phải tuân thủ nghiêm túc quy trình cho vay, chấp hành tốt các quy định, thể lệ, chế độ của ngành, làm tốt công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay để có những sửa chữa kịp thời khi có dấu hiệu xảy ra rủi ro. Mở rộng mạng lưới kinh doanh đến tận thôn bản để đưa vốn đến tận tay người dân, tiếp tục mở rộng cho vay thông qua tổ, hội. * Về công tác nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất Hộ sản xuất là khách hàng chủ yếu của NHNo&PTNT Hà Giang do vậy trước mắt cũng như lâu dài NHNo&PTNT Hà Giang luôn coi hộ sản xuất là đối tượng trọng tâm trong hoạt động cho vay và đề ra các chính sách nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất. Cụ thể là: Tích cực chỉ đạo mở rộng cho vay với phương châm tín dụng là an toàn và hiệu quả nên các khoản tín dụng cấp cho khách hàng phải luôn đảm bảo an toàn về vốn, có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đủ để bù đắp chi phí ngân hàng bỏ ra và có lãi. Tổ chức phân tích nợ quá hạn, nợ đến hạn hàng tháng, xác định rõ thực trạng dư nợ đang quản lý và khả năng thu hồi nợ của từng khách hàng trên địa bàn, đồng thời thực hiện trích lập và xử lý rủi ro kịp thời theo đúng quy định. Các ngân hàng cơ sở lập bản chỉ đạo thu hồi nợ, tập trung cán bộ có năng lực cho những địa bàn hoạt động tín dụng chậm phát triển, địa bàn khó khăn, áp dụng mọi biện pháp để giải quyết triệt để những tồn tại trong hoạt động tín dụng tạo đà cho sự phát triển bền vững. 2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 2.1. Xây dựng chiến lược thu hút khách hàng Tổng số hộ sản xuất trên địa bàn tỉnh Hà Giang tính đến 31/12/2005 là 145000 hộ. Trong đó số hộ có dư nợ với NHNo mới có 41079 hộ, chiếm 28,3% tổng số hộ sản xuất, như vậy số hộ sản xuất chưa vay vốn ở ngân hàng rất lớn và nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh là rất cần thiết mà chưa được ngân hàng đáp ứng. Hộ sản xuất là đối tượng khách hàng chính của NHNo&PTNT Hà Giang, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu dư nợ, để nâng cao doanh số cho vay, dư nợ và chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất ngân hàng cần có chính sách hợp lý để thu hút được ngày càng nhiều hộ đến vay và lựa chọn được hộ vay tốt (có tiền năng, uy tín, có khả năng tài chính lành mạnh và triển vọng trong hoạt động). Thực tế cho thấy nhiều hộ có nhu cầu đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong thời gian ngắn với số lượng ít họ thường họ thường vay ngoài thay vì đến ngân hàng xin vay do họ ngại phải làm thủ tục, hồ sơ theo quy định vì hồ sơ xin vay còn rườm rà khó hiểu so với trình độ dân trí miền núi, mặc dù lãi suất cho vay ngoài có cao hơn lãi suất cho vay ngân hàng. Hơn nữa do tâm lý sợ phiền hà về thủ tục, giấy tờ hoặc không có khả năng lập dự án. Vì vậy để thu hút thêm nhiều khách hàng ngân hàng cần có thông báo, hướng dẫn cụ thể về thủ tục xin vay, cách thức lập dự án đối với từng ngành nghề đến tận huyện, xã, thôn, bản. Có chính sách ưu đãi, quan tâm đến những khách hàng tiềm năng và hạn chế hoặc loại bỏ những khách hàng có uy tín thấp, khả năng tài chính yếu. Ngân hàng cũng cần có chính sách đón tiếp khi khách hàng đến vay vốn, tạo tâm lý thoải mái, thân thiên, loại bỏ tâm lý lo lắng của khách hàng khi họ mới đến xin vay lần đầu chưa biết làm thế nào để được ngân hàng cho vay. Ngân hàng cũng cần tuyên truyền, quảng cáo trên báo chí, truyền hình về các chính sách ưu đãi của chính phủ để khuyến khích nhu cầu tiềm ẩn của hộ sản xuất. Cán bộ tín dụng phải giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng, áp dụng quy trình cho vay một cách hợp lý, linh hoạt, chủ động tiếp cận giúp khách hàng quen thuộc với giao dịch của ngân hàng nhằm giảm thời gian và chi phí giao dịch cho khách hàng thu hút khách hàng đến vay vốn ngân hàng. Đẩy mạnh cho vay thông qua tổ hội để giảm bớt thủ tục đồng thời kết hợp với các cơ quan tổ, hội này để nắm bắt được tình hình của từng hộ, nhu cầu của hộ nào là thực sự cần thiết để ngân hàng đầu tư vốn giúp họ sản xuất kinh doanh và có các biện pháp điều chỉnh kịp thời khi có rủi ro xảy ra. 2.2. Thực hiện quy trình cho vay một cách hợp lý Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ cấp tín dụng đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Dựa vào quy trình cho vay, ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục phù hợp với luật pháp và đảm bảo mục tiêu an toàn trong kinh doanh đồng thời thiết lập các thủ tục cho vay thích ứng với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay nhằm tránh phiền hà cho khách hàng và tiết kiệm thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Thực tế hiện nay ở NHNo&PTNT Hà Giang, cán bộ tín dụng chưa làm đúng quy trình cho vay mà NHNo&PTNT Việt Nam quy định. Quy trình cho vay mà các cán bộ tín dụng ở đây áp dụng chỉ chú ý đến tư cách của người vay, khả năng tài chính và tài sản thế chấp của người vay là chủ yếu, dự án xin vay chỉ mang tính hình thức trong khi dự án xin vay quyết định đến kết quả kinh doanh của họ. Vì vậy để thực hiện quy trình cho vay một cách hợp lý cần thực hiện các công việc sau: Trước khi cho vay ngân hàng cần điều tra, khảo sát tình hình trên địa bàn, nắm được các luồng thông tin ban đầu về hộ sản xuất, xác định được khách hàng tiềm năng và khách hàng được xem xét giải quyết cho vay, loại bỏ những hộ không đủ điều kiện vay vốn. Tiến hành thẩm định khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng, việc thẩm định phải nhanh gọn, chính xác, đúng quy trình nghiệp vụ, không gây khó khăn cho khách hàng. Tuy nhiên tính đúng đắn của kết quả thẩm định lại phụ thuộc vào năng lực và ý thức chủ quan của cán bộ tín dụng. Sau khi kiểm tra điều kiện vay vốn của hộ sản xuất, xác định có cần hay không cần phải thực hiện đảm bảo bằng tài sản tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn vay, hướng dẫn thủ tục bảo đảm tiền vay theo quy định cho khách hàng, kiểm tra hồ sơ và các giấy tờ cần thiết, thực tế của tài sản đảm bảo và dự án mà họ đầu tư, nếu hộ có đủ điều kiện thì nhanh chóng hoàn tất hồ sơ để tiến hành giải ngân đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng.Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng cũng phải thường xuyên giám sát quá trình sản xuất kinh doanh của hộ xem hộ có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không, tình hình sản xuất kinh doanh của hộ như thế nào để có các quyết sách kịp thời tránh tình trạng khách hàng không trả được nợ. Tuy nhiên việc thẩm đinh trong thời gian này cũng rất khó khăn vì địa hình Hà Giang hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, việc kiểm tra một cách thường xuyên là rất khó thực hiện, điều này lại đòi hỏi cán bộ tín dụng phải yêu nghề, có trách nhiệm cao mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.3. Công tác đào tạo, bố trí, tuyển dụng cán bộ Con người là nhân tố trọng tâm quyết định đến thành công hay thất bại trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt với một ngành kinh doanh nhạy cảm như ngân hàng thì yếu tố con người phải được quan tâm một cách thích đáng vì nhân viên ngân hàng là bộ mặt và hình ảnh của ngân hàng, quyết định đến uy tín và chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng càng phát triển thì những đòi hỏi về trình độ, năng lực của cán bộ ngân hàng ngày càng cao. Vì vậy mỗi cán bộ ngân hàng phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cũng như kiến thức thị trường, am hiểu pháp luật, có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, đảm đương tốt công việc được giao. Muốn vậy, ban lãnh đạo ngân hàng phải có chính sách quan tâm đến công tác đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ, nhân viên ngân hàng qua các chương trình như bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cử đi học, tổ chức các lớp tập huấn… Cùng với việc bồi dưỡng nâng cao về trình độ nghiệp vụ, cần tuyên truyền, giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ viên chức ngân hàng, tăng cường kiểm tra, kiểm soát để kịp thời phát hiện những cán bộ ngân hàng suy thoái về đạo đức, vi phạm pháp luật, kiên quyết xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm đạo đức và tiêu cực trong nghề nghiệp gây thiêt hại cho ngân hàng. Nhưng quan trọng nhất vẫn là yếu tố thuộc về chính bản thân cán bộ nhân viên ngân hàng, cán bộ nhân viên ngân hàng phải có đủ năng lực và phẩm chất nghề nghiệp, tư tưởng đạo đức chính trị vững vàng, phải tự học hỏi nâng cao vốn hiểu biết cho chính mình, tự rèn luyện bản lĩnh thử thách, khả năng ứng xử khi giao tiếp với khách hàng tạo hình ảnh đẹp cho ngân hàng, thực hiện mục tiêu an toàn – sinh lợi trong kinh doanh. Việc bố trí sử dụng nhân viên đúng người, đúng việc là rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì chỉ khi sử dụng đúng và phù hợp thì từng cán bộ mới phát huy được hết năng lực của mình từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng. Để làm tốt công việc này lãnh đạo ngân hàng phải có những đánh giá chính xác trình độ chuyên môn, năng lực của từng người, cần lưu ý đến tinh thần trách nhiệm và tiếp thu những nguyện vọng ý kiến của mỗi người để đưa ra được quyết định chính xác nhất. Việc tuyển dụng cán bộ: ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng sao cho tuyển dụng được những cán bộ đúng chuyên ngành, yêu cầu đề ra, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với vị trí cần tuyển chọn. Cùng với việc thi tuyển bằng lý thuyết, ngân hàng nên áp dụng hình thức thử việc, tạo điều kiện cho họ xuống địa bàn nghiên cứu tìm hiểu thị trường, sâu sát thực tế, bước đầu đánh giá năng lực của họ qua khả năng học hỏi và tiếp thu kiến thức mới. 2.4. Hoàn thiện hệ thống thông tin Thông tin là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là hoạt động nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng. Thực tế thông tin hiện nay của ngân hàng về đối tượng là hộ sản xuất còn thiếu, yếu và chưa được quan tâm đúng mức. Khi khách hàng mới đến vay cán bộ tín dụng còn phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu họ mà chưa chắc rằng những thông tin đó đã chính xác. Đối với các hộ đang vay vốn thì việc thiếu thông tin về giá cả, sự biến động của thị trường cũng gây rủi ro cho ngân hàng do không kịp đưa ra biên pháp xử lý những rủi ro xảy ra. Do vậy ngân hàng luôn phải chú ý đến công tác thông tin, trang bị đầy đủ hơn hệ thống máy tính và lưu trữ thông tin về thị trường và khách hàng. Xây dựng hệ thống thông tin bao gồm thông tin tín dụng, thông tin kinh tế, pháp luật, thị trường giá cả, thông tin khách hàng như trình độ học vấn, khả năng tài chính của họ…Nhờ đó có thể giúp ngân hàng giảm được thời gian, chi phí, công sức tìm hiểu khách hàng, giảm rủi ro đối với các khách hàng đang cho vay. Ngân hàng cũng cần thực hiện trao đổi thông tin với các tổ chức tín dụng, với ngân hàng Nhà nước và các tổ chức kinh tế, phát triển hệ thống thông tin nội bộ, cung cấp thông tin cho khách hàng về những quy định, chính sách mới của ngân hàng, cần có mối quan hệ trao đổi thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng. 2.5. Mở rộng màng lưới kinh doanh Đối với một địa bàn núi non hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn như Hà Giang, để làm tốt công tác cho vay thì việc mở rộng màng lưới kinh doanh là rất cần thiết. Hiện nay, NHNo&PTNT Hà Giang có 1 hội sở, 10 chi nhánh ngân hàng cấp huyện, 8 chi nhánh cấp III, chỉ có hai huyện Bắc Quang và Vị Xuyên có chi nhánh cấp III tại một số xã, còn các huyện còn lại chỉ có một ngân hàng ở trung tâm thị trấn nên mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của người dân trong vùng. Vì vậy NHNo&PTNT Hà Giang cần mở thêm các chi nhánh, các điểm giao dịch đến tận thôn bản giúp người dân tiếp cận được với ngân hàng, coi ngân hàng là người bạn đồng hành trong sản xuất, đồng thời cũng giúp ngân hàng kiểm tra khách hàng và nhờ thế nâng cao chất lượng của các khoản cho vay đã được cung cấp do có cán bộ tín dụng đến tận cơ sở có thời gian và điều kiện kiểm tra, giám sát các khoản vay, việc tiếp cận với khách hàng mới giàu tiềm năng có đủ điều kiện vay vốn cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên việc mở rộng màng lưới kinh doanh cũng phải phù hợp với khả năng tài chính và biên chế của ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo an toàn kho quỹ cho các chi nhánh đó. 2.6. Chú trọng đến việc xử lý và thu hồi nợ nhằm làm giảm nợ quá hạn Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc phát sinh nợ quá hạn là tất yếu do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan từ phía ngân hàng, khách hàng, môi trường kinh tế – xã hội. Nợ quá hạn làm giảm hiệu quả kinh doanh ngân hàng, ngân hàng cần chú trọng quan tâm hơn nữa đến quá trình xử lý và thu hồi nợ nhằm có được các giải pháp hữu hiệu làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức thấp nhất có thể. Cho vay hộ sản xuất nông nghiệp là một vấn đề không đơn giản, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào diễn biến của thời tiết, tình trạng dịch bệnh, biến động của giá cả thị trường sản phẩm nên tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, khả năng thu hồi vốn thấp. Hơn nữa việc phát mại tài sản thế chấp cũng gặp rất nhiều khó khăn vì tài sản thế chấp thường là đất đai mà giá trị thực thường lớn hơn nhiều giá trị của khoản vay nên ngân hàng cần có các biện pháp thu thập xử lý thông tin kịp thời để vừa đảm bảo thu hồi đủ nợ, vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ vay vốn, giữ đựoc mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và hộ sản xuất. Ngân hàng phải có các chính sách và biện pháp phù hợp áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Cụ thể là: Đối với hộ sản xuất kinh doanh thua lỗ do nguyên nhân bất khả kháng chưa có khả năng trả nợ ngân hàng, lúc này họ cần vốn để vực dậy sản xuất kinh doanh ngân hàng cần phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng xem có nên tiếp tục cho hộ sản xuất đó vay thêm hay không, cho vay bao nhiêu, và phải xuống kiểm tra trực tiếp tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của từng hộ. Đối với hộ có khả năng trả nợ mà cố tình chây ỳ không trả nợ thì ngân hàng phải phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan pháp luật để có các biện pháp xử lý nghiêm minh làm gương cho các hộ khác. Đối với hộ có hàng hoá tồn đọng nhiều chưa bán được để có tiền trả nợ thì ngân hàng có thể giới thiệu đơn vị mua bán hàng hoá giúp hộ sản xuất giải quyết số hàng tồn đọng này thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng. Đối với nợ quá hạn, nhân viên ngân hàng cần phân tích thực trạng dư nợ một cách thường xuyên và có hệ thống phân loại, theo dõi và xử lý nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn phát sinh mới. Nên phân tích tình hình nợ quá hạn qua đó xác định được cán bộ tín dụng nào có vấn đề và mức độ nợ quá hạn, xác định được nợ quá hạn tiềm ẩn thuộc các địa bàn, khách hàng và đơn vị nào. Định kỳ hàng tháng hoặc quý nên chia hoạt động tín dụng ra bốn phần để phân tích và chỉ đạo từng phần cụ thể như sau: Tổ chức phân tích nợ quá hạn ra các loại: loại thu được ngay, loại thu dần từng phần, loại khó thu và loại không có khả năng thu hồi, từ đó xác định rõ nguyên nhân, nguồn thu, biện pháp thu và thời gian thu phù hợp. Tổ chức in giấy báo nợ các khoản nợ đến hạn của tháng sau, thông báo cho cán bộ tín dụng công tác trên địa bàn có trách nhiệm đối với khách hàng mình phụ trách có nợ đến hạn để xác định khả năng thu nợ của từng khách hàng, từ đó có biện pháp cụ thể, nếu khách hàng nào có khó khăn báo cáo cán bộ lãnh đạo trực tiếp để có biện pháp cụ thể giúp đỡ tháo gỡ kịp thời. Làm tốt công tác này sẽ hạn chế tình hình nợ quá hạn phát sinh. Với các món nợ chưa đến hạn, thường xuyên tổ chức kiểm tar sau khi vay với nội dung kiểm tra là tiền vay có được sử dụng đúng mục đích xin vay hay không, số lượng, giá trị vật tư tương đương làm đảm bảo, diễn biến tài sản thế chấp… để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ khách hàng khắc phục khó khăn và có điều kiện trả nợ ngân hàng. Với các món cho vay mới, yêu cầu cho vay đúng chế độ, đúng đối tượng xin vay, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ đảm bảo vốn vay phát huy tối đa hiệu quả nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới với chất lượng lành mạnh hơn. Bên cạnh các công tác trên, ngân hàng cũng nên thành lập ban thu hồi nợ quá hạn riêng để chuyên môn hoá trong nghiệp vụ cũng như phân định rõ trách nhiệm của từng cán bộ từ đó nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp đối với từng cán bộ. 2.7. Tăng cường sự phối hợp giữa NHNo&PTNT Hà giang với các cấp chính quyền địa phương Các cấp uỷ chính quyền địa phương có vai trò hết sức quan trọng trong đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất. Từ việc xác định dự án phát triển kinh tế xã hội đến xét duyệt cho vay, đôn đốc xử lý các trường hợp vi phạm chế tài tín dụng có liên quan đến chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy chi nhánh ngân hàng nào duy trì tốt mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương thì quy mô tín dụng ngày càng được mở rộng, chất lượng tín dụng được nâng cao. Nhận thưc rõ điều này, trong những năm qua NHNo&PTNT Hà giang luôn tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh uỷ, UBND tỉnh, ban lãnh đạo các huyện, xã, cơ quan ban ngành đoàn thể các cấp. Điều này đã góp phần không nhỏ đối với sự thành công trong công tác tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên muốn duy trì tốt mối quan hệ này với các cấp chính quyền địa phương thì ngoài việc kêu gọi tinh thần trách nhiệm của các cấp chính quyền, NHNo&PTNT Hà giang cũng nên trích một phần tỷ lệ hoa hồng nhất định hỗ trợ một phần bù đắp các chi phí đối với những huyện, xã có ký hợp đồng dịch vụ với ngân hàng trên cơ sở các nguyên tắc và nội dung đã được thoả thuận thống nhất giữa các cấp lãnh đạo. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất NHNo&PTNT Hà giang cũng cần phải thường xuyên bám sát các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh, phối hợp với các cấp chính quyền địa phương cung cấp tín dụng cho những chương trình phát triển kinh tế của tỉnh nhà, phối hợp với chính quyền địa phương cung cấp tín dụng cho những chương trình phát triển khách hàng của tỉnh, các khu trọng điểm, vùng chuyên canh, đồng thời cùng với tỉnh tháo gỡ khó khăn cho các hộ sản xuất trong việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. 3. KIẾN NGHỊ 3.1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam Trước hết NHNo&PTNT Việt Nam cần có chính sách lãi suất ưu đãi đối với cho vay hộ sản xuất đặc biệt là hộ sản xuất ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Thủ tục cho vay cần đơn giản và chặt chẽ, không nên quá nhiều giấy tờ phiền hà cho khách hàng vì khách hàng của NHNo&PTNT chủ yếu là nông dân với trình độ dân trí còn nhiều hạn chế. NHNo&PTNT Việt Nam cần ban hành quy định cụ thê hoá việc trích lập quỹ dự phòng xử lý rủi ro ở chi nhánh cơ sở vì rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là rất lớn và đa dạng, đặc biệt là kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp vì sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên, rủi ro bất khả kháng cao, rủi ro xảy ra có ảnh hưởng rộng lớn làm cho nguy cơ mất vốn của ngân hàng cao. Vì vậy, việc trích lập quỹ dự phòng xử lý rủi ro và sử dụng quỹ như thế nào có ý nghĩa rất lớn đến sự an toàn trong kinh doanh của các ngân hàng. NHNo&PTNT Việt Nam cần mở rộng các hình thức huy động vốn vì đối với khu vực miền núi, nông thôn thì thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư không nhiều trong khi nhu cầu vốn cao. NHNo&PTNT Việt nam cần tạo ra các hình thức mới với cơ chế lãi suất ưu tiên hơn với các khách hàng này. Mặt khác nguồn vốn điều hoà từ trung ương có thể giải quyết một vấn đề rất bức xúc với ngân hàng vì hiện nay vốn huy động không đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Vì vậy vấn đề tạo nguồn vốn trong kinh doanh, điều hoà vốn cần được đẩy mạnh có hiệu quả. Đồng thời cũng cần tăng cường tìm kiếm khai thác các nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức, chính phủ. Có kế hoạch tài trợ đào tạo kiến thức mới trong quản lý, kiến thức ngoài ngành, kiến thức về thị trường, mở các lớp tập huấn về tiếp thị marketing… NHNo&PTNT Việt nam cần phải có biện pháp, cơ chế quản lý thanh tra, kiểm tar và quy định cụ thể đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, phải thực hiện quy chế tín dụng chung của Ngân hàng Nhà nước. Theo quy định hiện hành, các hộ nông dân được giao đất sử dụng lâu dài, khi vay trên 10 triệu đồng phải thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tuy nhiên điều này chỉ có giá trị lý thuyết và trên thực tế khi người vay không hoàn trả được nợ thì tài sản là đất nông nghiệp rất khó phát mại. Vì vậy, NHNo&PTNT Việt nam cần tìm một hình thức đảm bảo mới có khả năng thực thi cao nhằm hỗ trợ công tác cho vay của các ngân hàng cũng như việc sản xuất của các hộ nông dân. NHNo&PTNT Việt nam cần nghiên cứu cải tiến quy chế cho vay qua tổ, hội, nhóm, hình thức giải ngân, thu nợ, hình thức cho vay nào cần được nhân rộng, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất. Đề nghị NHNo&PTNT Việt nam hỗ trợ thêm cơ sở vật chất như xây dựng và nâng cấp các ngân hàng cấp huyện, các ngân hàng cấp III, mở thêm các điểm giao dịch mới ở các phường Quang Trung, Ngọc Đường, và một số huyện. Cấp kinh phí xây dựng trụ sở giao dịch của NHNo tỉnh khang trang bề thế hơn, đông thời cần trang bị thêm cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại cho hệ thống ngân hàng các cấp để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu giao dịch và đảm bảo khả năng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. 3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách cho vay chiết khấu với lãi suất ưu đãi đối với NHNo&PTNT theo thời vụ vì NHNo&PTNT Việt nam lĩnh vực hoạt động chủ yếu là nông nghiệp và nông thôn mà đặc trưng quan trọng của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ cao. Khi đến mùa vụ nhu cầu vay vốn của hộ tăng nhanh trong khi đó khả năng của NHNo&PTNT là có hạn nên không thể huy động vốn kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn của họ. Để nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách cho vay chiết khâú lãi suất ưu đãi với NHNo&PTNT Việt nam cụ thể ở các mặt sau: Lãi suất cho vay chiết khấu thích hợp đảm bảo cho ngân hàng có thể cho vay với mức lãi suất mà nông dân có thể chấp nhận được. Thời hạn cho vay chiết khấu đủ dài để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh các hộ. Các khoản cho vay chiết khấu cần được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân vay vốn kịp thời. Ngân hàng Nhà nước địa phương phải thường xuyên cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về các văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt nam cho các ngân hàng thương mại nhằm giúp cho ngân hàng thương mại có chính sách phù hợp và kịp thời với tình hình mới. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tiếp tục tăng cường thanh tar, kiểm tra kiểm soát đối với các ngân hàng thương mại để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng đặc biệt là NHNo&PTNT và việc thanh tra đòi hỏi phải đúng quy định đã đề ra. 3.3. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cấp uỷ chính quyền địa phương Cần có chính sách bao tiêu sản phẩm co các hộ sản xuất vì hiện nay tiêu thụ sản phẩm là vấn đề bức xúc và khó khăn đối với hộ sản xuất, thị trường đầu ra đối với các sản phẩm này không ổn định, sản phẩm các hộ sản xuất ra không đủ khả năng cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu chất lượng tốt mà giá thành lại rẻ hơn, hộ còn phải chịu sự o ép hạ giá của những người thu mua khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm càng khó khăn hơn. Nhà nước cần từng bước thực hiện chính sách bao tiêu sản phẩm cho các loại nông sản của các hộ sản xuất trên cơ sở phát triển mạng lưới thương nghiệp, công nghiệp chế biến ở nông thôn, thành lập các doanh nghiệp hay cho phép các doanh nghiệp hay cho phép các doanh nghiệp mở rộng mạng lưới xuất nhập khẩu nông sản, hàng thủ công. Cần đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp như công nghiệp chế biến, phân bón, thuốc trừ sâu… đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng đường xá giao thông hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất của các hộ sản xuất. Tạo cho ngân hàng môi trường pháp lý thuận lợi để hoạt động, đặc biệt là các nội dung sau: cho phép ngân hàng áp dụng cơ chế bảo đảm tiền vay linh hoạt để đáp ứng nhu cầu vay vốn có tính khả thi cao nhưng khó khăn trong vấn đề tài sản đảm bảo, tạo ra khung pháp lý thuận lợi và phù hợp giúp ngân hàng xử lý phát mại tài sản thế chấp, xử lý những khoản nợ có vấn đề. Cần chú trọng công tác giáo dục đào tạo nâng cao trình độ dân trí cho người dân, nhằm nâng cao năng lực của các hộ sản xuất về trình độ quản lý kinh doanh, khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật và sản xuất, kinh nghiệm trong sản xuất, khả năng tiếp cận những thông tin mới nhanh chóng và có hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơ quan chức năng trên địa bàn cần chủ động phối hợp với các ngân hàng để theo dõi, quản lý, thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, giúp đỡ ngân hàng trong việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay, giải quyết triệt để các khoản nợ có vấn đề đặc biệt là khâu phát mại tài sản thế chấp. KẾT LUẬN Kinh tế hộ sản xuất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, phát triển kinh tế hộ sản xuất một cách toàn diện với cơ cấu hợp lý là một nhu cầu bức xúc. Trong điều kiện nước ta đi lên từ sản xuất nông nghiệp, có xuất phát điểm thấp, khả năng tích luỹ để mở rộng đầu tư rất hạn chế, đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất. Vì vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy hộ sản xuất phát triển. Trong những năm qua, NHNo&PTNT Hà giang đã có những chính sách quan tâm thích đáng đối với hộ sản xuất, coi hộ sản xuất là khách hàng quan trọng, cung cấp vốn tạo điều kiện cho các hộ sản xuất mua sắm các yếu tố đầu vào phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ chính sách xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trong chuyên đề này, với thực tế nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động của các hộ sản xuất, thực trạng cho vay đối với hộ sản xuất, tìm ra một số vương mắc và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó em xin đưa ra một số giải pháp nhỏ nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất. Nhưng do trình độ còn nhiều hạn chế, khả năng nắm bắt tình hình thực tế cũng như suy luận vấn đề chưa sâu nên không tránh khỏi những sai sót, nhưng em mong rằng một số đóng góp như vậy có thể góp phần nâng cao chất lượng cho vay phát triển kinh tế hộ sản xuất, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trên địa bàn có những bước phát triển mới, thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn của tỉnh, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Một lần nữa cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - tài chính, các cán bộ NHNo&PTNT Hà giang đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại . TS. Phan Thị Thu Hà, NXB thống kê. Quản trị ngân hàng thương mại, Peter Rose, NXB tài chính Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, TS. Nguyễn Hữu Tài, NXB thống kê. Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo&PTNT Hà giang các năm 2003 - 2005. Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng NHNo&PTNT Hà giang các năm 2003 - 2005. Luật các tổ chức tín dụng, NXB Hà Nội. Các văn bản của NHNo&PTNT Việt Nam quy định về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT. Luận văn các khoá trước. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 114.doc
Tài liệu liên quan