LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 3
1.1. Khái niệm và phân loại 3
1.1.1. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) 3
1.1.2. Phân loại theo tài sản bảo đảm 4
1.1.3. Phân loại theo rủi ro 6
1.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM 7
1.2.1. Đối với Ngân hàng 7
1.2.2. Đối với nền kinh tế 8
1.3. Những điều cần chú ý trong hoạt động cho vay của NHTM 8
1.3.1. Nguyên tắc cho vay 8
1.3.2. Điều kiện vay vốn 9
1.3.3. Đối tượng cho vay 10
1.3.4. Quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay 10
1.3.5. Hợp đồng 11
1.3.6. Xét duyệt cho vay, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn vay 12
2. Chất lượng cho vay của NHTM 12
2.1. Khái niệm 12
2.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay của NHTM 13
2.2.1. Các chỉ tiêu giới hạn trong cho vay 13
2.2.2. Chỉ tiêu doanh số cho vay 14
2.2.3. Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay 14
2.2.4. Chỉ tiêu nợ xấu 14
2.2.5. Chỉ tiêu về số hộ vay vốn 15
2.2.6. Chỉ tiêu về tỷ lệ thu nợ bằng nguồn thu thứ nhất 15
2.2.7. Chỉ tiêu tỷ lệ thu lãi 15
2.2.8. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng 15
2.2.9. Chỉ tiêu về quy trình cho vay, thời hạn cho vay 16
2.2.10. Chỉ tiêu về sự phát triển kinh tế của khách hàng 16
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của NHTM 16
2.3.1. Các nhân tố chủ quan 16
2.3.2. Các nhân tố khách quan 18
CHƯƠNG II 20
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ NÔNG DÂN TẠI 20
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP CHÍ LINH 20
1. Giới thiệu về ngân hàng 20
2. Thực trạng chất lượng cho vay hộ nông dân tại chi nhánh NHNo_CL 22
2.1. Vốn vay ngân hàng đối với sự phát triển sản xuất của hộ nông dân 22
2.1.1. Đặc điểm hộ nông dân tại địa phương 22
2.1.2. Vai trò của vốn vay ngân hàng đối với sự phát triển sản xuất của hộ nông dân 24
2.2. Chất lượng cho vay hộ nông dân tại NHNo_CL 29
2.2.1. Chỉ tiêu doanh số cho vay 29
2.2.2. Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay 30
2.2.3. Chỉ tiêu nợ xấu 32
2.2.4. Chỉ tiêu về kết quả thu lãi 34
2.2.5. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng 35
2.2.6. Biện pháp bảo đảm tiền vay 35
2.2.7. Quy trình cho vay 37
2.3. Đánh giá chất lượng cho vay hộ nông dân tại NHNo_CL 39
2.3.1. Những mặt đã đạt được 39
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 43
CHƯƠNG III 50
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY 50
HỘ NÔNG DÂN TẠI NHNo_CL 50
1. Định hướng trong thời gian tới của hoạt động cho vay hộ nông dân 50
2. Một số giải pháp để xuất 50
3. Kiến nghị 55
3.1. Với Ngân hàng nhà nước Việt Nam 55
3.2. Với Ngân hàng cấp trên 56
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 61
65 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh - Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian ngắn (dưới 12 tháng), nên vay ngắn hạn là thích hợp. Hơn nữa, số vốn vay thường không nhiều nên ngắn hạn thuận lợn cho người nông dân trong việc chịu chi phí trả lãi ít.
Mặt khác, vay trung, dài hạn thường là khi số vốn tương đối lớn, quá trình đầu tư và thu hồi vốn lâu dài nên chỉ có ít người dám “mạo hiểm”, đa số những người này là chủ trang trại hoặc hợp tác xã.
Vay ngắn hạn cũng khiến cho hoạt động tín dụng của ngân hàng an toàn hơn, ít rủi ro hơn nhưng lợi nhuận thu được lại không cao so với cho vay trung, dài hạn.
2.2.3. Chỉ tiêu nợ xấu
Dư nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu được thống kê qua các năm (2005-2007) như sau:
Biểu đồ 2: Nợ xấu
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh qua các năm của NHNo_CL)
Ta thấy rằng dư nợ xấu năm 2007 đã tăng vọt lên rất nhiều so với năm 2006 (gấp 3 lần năm 2006), đây là dấu hiệu không tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đòi hỏi cần phải xem xét và có sự giải quyết rõ vấn đề, không để gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh.
Tuy tổng dư nợ năm 2007 cũng tăng nhiều so với 2006, nhưng vẫn không thể tương ứng với nợ xấu cao như vậy vì tỷ lệ nợ xấu của năm 2007 cũng rất cao, gấp hơn 2 lần so với 2006.
Qua tìm hiểu thực tế và qua ý kiến của các cán bộ tín dụng trong ngân hàng, tôi được biết nợ quá hạn năm 2007 tăng cao là do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chính là do Chi nhánh thực hiện phân loại nợ theo quy định mới cũng như nằm trong lộ trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro chung của toàn tỉnh, đồng thời 2007 cũng là năm nền kinh tế có nhiều biến động, thiên tai, dịch bệnh xảy ra nên làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Trước năm 2007, Chi nhánh cũng như các ngân hàng khác trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp, thực hiện phân loại nợ theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số 165/QĐ-HĐQT ngày 06/06/2005 nên việc phân loại nợ tương đối “mềm”, các khoản nợ có thể được tiến hành cơ cấu lại, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ nhiều lần mới tiến hành chuyển xuống nhóm nợ có rủi ro cao hơn. Sang năm 2007, NHNo thực hiện phân loại nợ theo Quyết định số 636/QĐ-HĐQT ngày 22/06/2007 của Hội đồng Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam, việc phân loại nợ được quy định cụ thể và chi tiết, chuẩn mực hơn đối với những khoản nợ xấu, việc cơ cấu lại nợ đi liền với việc chuyển nhóm nợ của các khoản đó. Do vậy mà tỷ lệ nợ xấu của năm 2007 đã tăng vọt so với những năm trước, tuy nhiên vẫn nằm trong giới hạn là dưới 5%. Năm 2007, chi nhánh đã trích dự phòng gần 9 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2006.
2007 cũng là năm tình hình kinh tế tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung, có nhiều diễn biến phức tạp, lạm phát tăng cao, giá cả biến động bất thường, thêm vào đó là dịch bệnh (cúm gà,…), thiên tai,… làm cho việc sản xuất của người dân tiến hành không được thuận lợi, làm giảm khả năng trả nợ của các khách hàng, khiến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng cao.
2.2.4. Chỉ tiêu về kết quả thu lãi
Lãi từ hoạt động cho vay là nguồn thu chính của ngân hàng, lãi thu được phải lớn để đủ bù đắp chi phí cho hoạt động của ngân hàng cũng như có thêm lợi nhuận để ngân hàng tiếp tục tồn tại và mở rộng hoạt động.
Tỷ lệ thu lãi càng cao thì càng chứng tỏ chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng là tốt, bởi khách hàng có sản xuất tốt thì mới thu được lợi nhuận mà trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Ta có: số lãi phải thu năm x = số lãi thực thu năm x + số lãi còn đọng năm (x-1).
Bảng 2.3: Hoạt động thu lãi của ngân hàng
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số lãi còn đọng năm trước (1)
2.510
3.990
3.010
Số lãi thực thu (2)
19.050
25.724
33.715
Số lãi phải thu (3)
21.560
29.714
31.512
Tỷ lệ thu lãi (4=(1+2)/3)
88.35%
86.6%
106%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh qua các năm của NHNo_CL)
Qua bảng chi tiết trên ta thấy tỷ lệ thu lãi của ngân hàng khá cao, rất khả quan cho kết quả kinh doanh của ngân hàng. Điều đó chứng tỏ khách hàng của ngân hàng sử dụng vốn vay rất có hiệu quả, việc thẩm định và kiểm tra, giám sát khách hàng đạt chất lượng tốt, đánh giá đúng khách hàng, thể hiện chất lượng cao của hoạt động tín dụng.
Với tỷ lệ thu lãi như vậy thì tiền lãi đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng ổn định và phát triển, đảm bảo khả năng cho ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ kinh doanh của mình với ngân hàng cấp trên cũng như đảm bảo cho quyền lợi cho cán bộ nhân viên ngân hàng.
2.2.5. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng là một chỉ tiêu khá quan trọng, nó thể hiện nguồn vốn của ngân hàng có khả năng cho vay nhiều hơn so với mức hiện có hay không, vòng quay vốn tín dụng càng tiến tới gần 1 thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt. Thống kê vòng quay vốn tín dụng tại NHNo_CL qua các năm như sau:
Bảng 2.4: Vòng quay vốn tín dụng
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
NHNo
NHĐT
NHNo
NHĐT
NHNo
NHĐT
Doanh số thu nợ (1)
146.395
445.115
160.491
512.167
249.804
501.122
Dư nợ bình quân (2)
180.675
523.665
195.973
609.723
262.604
622.748
Vòng quay vốn tín dụng ((3)=(1)/(2))
0.80
0.85
0.81
0.84
0.95
0.81
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh qua các năm của NHNo_CL, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Bắc Hải Dương-NHĐT)
Vòng quay vốn tín dụng ngày càng cao cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng có những kết quả đáng mừng, nhưng thực sự thì con số đó vẫn chưa được cao so với các ngân hàng khác, lại chưa ổn định, 2007 là năm mà vòng quay tín dụng cao “đột biến” so với các năm trước, mà tỷ lệ nợ xấu cũng lại rất cao, điều này chứng tỏ nợ thu được đa phần là ngắn hạn, còn nợ quá hạn lại nằm nhiều ở các khoản vay trung, dài hạn, NHNo_CL đầu tư vốn trung hạn lớn nên trong một kỳ mà tính vòng quay vốn tín dụng thì kết quả đánh giá không được chính xác như mong muốn.
2.2.6. Biện pháp bảo đảm tiền vay
Đảm bảo tiền vay là vấn đề tối quan trọng và cần thiết trong kinh doanh ngân hàng, nó đảm bảo cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro và tổn thất trong quá trình hoạt động để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.
Từ khi hệ thống ngân hàng được hình thành cho đến nay đã có rất nhiều quy định pháp lý được đưa ra về bảo đảm tiền vay, hiện nay vấn đề này đang được thực hiện theo NĐ số 163/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, QĐ số 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 03/12/2007 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về việc ban hành quy định thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Hiện nay thì nghiệp vụ cho vay của NHNo Chí Linh có trên 95% là cho vay hộ nông dân, trong đó lại có đến 40% số hộ vay dưới 10 triệu đồng. Như vậy thì theo quy định, những hộ vay dưới 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản mà chỉ nộp kèm theo Hồ sơ xin vay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính (nếu có) hoặc được UBND xã xác nhận là đất thổ cư và đất canh tác không có tranh chấp (trường hợp không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
Còn lại những hộ vay trên 10 triệu đồng được thực hiện đảm bảo theo NĐ số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư liên bộ số 05 và QĐ số 1300/QĐ-HĐQT-TD của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
Tình hình đảm bảo tiền vay được thể hiện qua bảng thống kê 2.5 như sau:
Bảng 2.5: Thực trạng đảm bảo tiền vay
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng dư nợ hộ nông dân
156.916
100%
220.169
100%
305.039
100%
Dư nợ không bảo đảm
55.705
35.5%
77.279
35.1%
105.848
34.7%
Dư nợ có bảo đảm
101.211
64.5%
142.890
64.9%
199.191
65.3%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh qua các năm của NHNo_CL)
Ta nhận thấy dư nợ có bảo đảm và không có bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng liên tục tăng lên qua các năm, tỷ lệ của hai loại hình cho vay này cũng không có sự biến động đáng kể. Điều này chứng tỏ người nông dân đã vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất nhiều hơn so với các năm trước. Tỷ lệ vay có bảo đảm tuy tăng chậm nhưng cũng cho thấy người nông dân ngày càng đầu tư nhiều hơn cho sản xuất, lượng tiền vay nhiều nên đòi hỏi họ phải có tài sản đảm bảo, đây là tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn tại địa phương.
Tài sản đảm bảo là nguồn đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi người vay không có khả năng trả nợ, hoặc trả không đủ, vì vậy mà tài sản đảm bảo là yếu tố quan trọng giữ cho hoạt động của ngân hàng được liên tục và ổn định.
Việc thực hiện nghiêm và đúng với những quy định về hình thức bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng chủ động tránh và giảm thiểu những tổn thất kinh doanh nếu có rủi ro từ phía khách hàng, đảm bảo cho hoạt động luôn được tiến hành thuận lợi.
2.2.7. Quy trình cho vay
Quy trình cho vay tại NHNo Chí Linh khi cho vay trực tiếp tới hộ nông dân là phương thức cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng theo quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam, ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN Việt Nam ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN VN,quyết định số 72…của NHNo&PTNT Việt Nam vận dụng cụ thể vào điều kiện của huyện Chí Linh. Quy trình cụ thể như sau:
- Hộ nông dân có nhu cầu vay vốn làm giấy đề nghị vay vốn theo mẫu in sẵn: mẫu 01A/CV nếu vay không phải đảm bảo bằng tài sản, hoặc mẫu 01B/CV nếu vay có bảo đảm bằng tài sản), xin xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn.
- Cán bộ tín dụng trực tiếp đến nhà người vay thẩm định thực trạng, nội dung thẩm định gồm có: + Năng lực của chủ hộ hoặc người đại diện vay vốn.
+ Mục đích sử dụng vốn
+ Khả năng trả nợ
+ Dự án đầu tư, phương án sản xuất khả thi
+ Thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định
Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn có thể thẩm định về tư cách người vay qua Hồ sơ khách hàng, trình độ tổ chức sản xuất,…
- Sau khi thẩm định, nếu đủ điều kiện thì cán bộ tín dụng hướng dẫn khách lập hồ sơ. Hồ sơ khác nhau với từng khách hàng vay theo hình thức có bảo đảm hay không có bảo đảm.
+ Hồ sơ với hộ vay dưới 10 triệu bao gồm:
Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của chính quyền địa phương
Sổ vay vốn theo mẫu in sẵn của NHNo&PTNT VN (2 liên-1lưu kế toán, 1 giao cho khách)
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận của địa phương là đất hợp pháp và không có tranh chấp.
Sau khi hoàn tất thủ tục, cán bộ tín dụng hẹn khách hàng ngày đến ngân hàng làm thủ tục lĩnh tiền vay.
Khi khách mang hồ sơ đến ngân hàng, cán bộ tín dụng kiểm tra lại, ký vào giấy đề nghị vay vốn, trình trưởng phòng tín dụng và Giám đốc ký duyệt cho vay, sau đó đăng ký hồ sơ khách hàng vào chương trình giao dịch, chuyển hồ sơ cho kế toán để giải ngân, đồng thời vào sổ theo dõi cho vay.
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng:
Cán bộ tín dụng nhận hồ sơ vay từ khách hàng, tiến hành thẩm định và lập báo cáo thẩm định, kiểm tra lại bộ hồ sơ trước khi trình trưởng phòng tín dụng. Trưởng phòng tín dụng kiểm tra lại hồ sơ, tiến hành tái thẩm định (nếu cần thiết, ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định hoặc tái thẩm định) rồi trình Giám đốc quyết định.
Nếu Giám đốc không đồng ý cho vay thì thông báo lại cho khách hàng biết (bằng văn bản), nếu đồng ý thì cán bộ tín dụng cùng khách hàng lập Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng đảm bảo tiền vay. Bộ hồ sơ vay vốn bao gồm:
Giấy đề nghị vay vốn mẫu 01B/CV.
Dự án, phương án sản xuất.
Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định (4A1 HDTC, 05A2HDBL, 01/ĐKTC)
Báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có)
Hợp đồng tín dụng (mẫu 04B/CV)
Các chứng từ khác có liên quan.
Sau khi hoàn chỉnh hồ sơ, cán bộ tín dụng tiến hành như đối với khách hàng vay dưới 10 triệu đã trình bày ở trên.
Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay: mục đích sử dụng tiền vay, tiến độ thực hiện dự án, hiệu quả của phương án, hiện trạnh tài sản bảo đảm tiền vay, nhắc nhở khách hàng trả nợ gốc, lãi đúng hạn.
Trong quá trình kiểm tra nếu thấy khách hàng có những vi phạm thì cần có biện pháp giải quyết kịp thời tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng.
Quy trình cho vay của ngân hàng được thực hiện chặt chẽ, khách quan, độc lập giữa những người liên quan nên đảm bảo diễn ra thuận lợi, việc kiểm tra, đôn đốc khách hàng diễn ra thường xuyên nên có biện pháp xử lý kịp thời những vi phạm xảy ra,tránh được những tổn thất bất ngờ, nhờ vậy mà chất lượng hoạt động tín dụng luôn được bảo đảm.
2.3. Đánh giá chất lượng cho vay hộ nông dân tại NHNo_CL
2.3.1. Những mặt đã đạt được
Để đánh giá những mặt đã đạt được của hoạt động cho vay, ta sẽ đánh giá chất lượng của hoạt động qua ba đối tượng, đó là: ngân hàng, khách hàng và kinh tế xã hội như đã trình bày ở phần trên.
Đối với ngân hàng
* Trong thời gian những năm đầu mới chuyển sang cơ chế hoạt động mới, NHNo_CL cũng giống như các ngân hàng khác, gặp phải rất nhiều những khó khăn, như: nguồn vốn ít, doanh số cho vay thấp, thu nhập của cán bộ công nhân viên không đảm bảo, vì vậy mà ngân hàng phải hoạt động trong điều kiện rất thiếu thốn. Tuy nhiên, nhờ sự hỗ trợ của nhà nước và nỗ lực của cán bộ nhân viên ngân hàng nên những năm gần đây hoạt động kinh doanh của NHNo_CL đã có nhiều thành công đáng kể, như: nguồn vốn huy động tăng liên tục qua các năm, việc sử dụng vốn đạt chất lượng cao, đem lại cho ngân hàng thu nhập ngày càng tăng, đời sống của cán bộ nhân viên ngày càng được cải thiện.
Để có được những thành quả trên, NHNo_CL đã phải nỗ lực hết mình trong công việc, nâng cao chất lượng cho vay, hạn chế nợ xấu để hoạt động cho vay đem lại kết quả cao. Cụ thể:
- Thực hiện quy trình tín dụng nghiêm ngặt nhất là thật coi trọng giai đoạn thẩm định trước khi cho vay vì đây là bước cơ bản để ra quyết định cho vay, đồng thời kết hợp chặt chẽ việc kiểm tra sử dụng vốn vay của cán bộ tín dụng và việc thanh tra, kiểm tra giám sát của lãnh đạo ngân hàng.
- Thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ nhân viên ngân hàng, đặc biệt là những người làm công tác tín dụng. Có quy chế rõ ràng, những cán bộ đạt thành tích cao sẽ được khen thưởng, còn những người mà để nợ xấu nhiều thì sẽ bị phạt trừ thành tích.
- Xây dựng mạng lưới đại lý cộng tác đến từng xã nhỏ để phổ biến và đưa hình ảnh của ngân hàng đến với các cấp chính quyền và người dân địa phương để nâng cao vị thế và mở rộng thị phần, từng bước mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, đây là một hình thức rất tốt để quảng bá hình ảnh và hoạt động của ngân hàng.
- Kết hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật tại địa phương để kiên quyết xử lý các khoản nợ xấu theo đúng quy định để không tạo ra thái độ coi thường quy định trong khách hàng của ngân hàng.
- Tuân thủ đúng sự chỉ đạo của Ngân hàng cấp trên và chính quyền địa phương.
* Ngoài hoạt động cho vay, NHNo_CL còn tiến hành thêm một số nghiệp vụ khác vừa để tăng lợi nhuận, vừa hỗ trợ cho việc cho vay và cũng đạt được những thành quả đáng kể, như dịch vụ chuyển tiền, bao gồm chuyển tiền trong nước và kiều hối qua Western Union, … Bên cạnh việc nâng cao trình độ nghiệp vụ, NHNo_CL còn tăng cường trang bị thêm cơ sở vật chất hiện đại, tiên tiến để phục vụ hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.
* Nhờ những cố gắng tích cực đó mà ngân hàng đã có một thị phần khá ổn định tại địa phương với lượng khách hàng thường xuyên khoảng trên 8000 hộ nông dân. Uy tín của ngân hàng với chính quyền các cấp ở địa phương ngày càng cao nên giành được sự ủng hộ cũng như hỗ trợ của họ trong hoạt động, hai bên cùng hỗ trợ để góp phần phát triển kinh tế tại địa phương. Hoạt động cho vay của ngân hàng đạt chất lượng khá cao và ổn định nên vị thế của ngân hàng đối với khách hàng ngày càng tăng và thị phần thì ngày càng được mở rộng.
Bảng 2.6: Dư nợ phân theo thành phần kinh tế của NHNo_CL
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Dư nợ kinh tế hộ
130.716
156.916
220.169
305.039
Tỷ lệ tăng so năm trước
20,04%
40,31%
38,55%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh qua các năm)
Qua bảng trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy dư nợ cho vay kinh tế hộ liên tục tăng lên sau các năm, đây tiếp tục là một tín hiệu đáng mừng báo trước sự phát triển của NHNo_CL nói riêng và của toàn huyện Chí Linh nói chung trong những năm tới.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều ngân hàng mở chi nhánh tại địa phương nên việc cạnh tranh càng lúc càng khó khăn, đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu của mình.
2. Đối với khách hàng
Ta đã biết ngân hàng có vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển và những gì mà ngân hàng No Chí Linh làm được trong những năm qua thật rất đáng quý. Trong suốt quá trình hoạt động tới nay, lượng vốn mà ngân hàng đã cung ứng cho những hộ sản xuất nông nghiệp trong huyện nói riêng, cho nền kinh tế địa phương nói chung, đã có vai trò rất lớn trong việc kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Qua đó, nông dân có vốn đầu tư tốt hơn cho sản xuất, chăn nuôi,… nâng cao sản lượng và chất lượng, từng bước cải thiện kinh tế gia đình, góp phần vào phát triển kinh tế chung của toàn huyện.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trình độ của người nông dân cũng ngày càng được nâng cao, vì vậy mà việc sản xuất đã đưa được những ứng dụng mới vào đồng ruộng và chuồng trại. Cây trồng được chăm sóc khoa học, đúng biện pháp, vật nuôi được phòng dịch, chăm sóc đúng kỹ thuật nên các sản phẩm do nhà nông làm ra ngày càng thu được nhiều lợi nhuận hơn. Có được thành quả này một phần là do người dân đã biết khai thác dịch vụ của ngân hàng, dựa vào nguồn vốn của ngân hàng để đầu tư đúng, đủ và kịp thời cho cây, con giống, dần nâng cao đời sống của bản thân cũng như của gia đình.
Đời sống ngày càng khá hơn nên người nông dân đã có điều kiện để cải thiện đời sống tinh thần của mình, số hộ có tivi, đầu, đài và các phương tiện giải trí khác ngày càng tăng.
Các tổ, hội, đoàn thể được thành lập, trong đó có những tổ có quan hệ chặt chẽ với ngân hàng như: tổ vay vốn-tiết kiệm, …đã giúp người nông dân cùng nhau tham gia xây dựng phát triển kinh tế. Ngân hàng lại thường có hoạt động cho vay thông qua các tổ hội (hội phụ nữ, …) nên mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ hội cũng như người nông dân ngày càng thắt chặt.
Cùng với sự hỗ trợ của nhà nước thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng còn góp phần tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn, nâng cấp hệ thống giao thông, kênh mương, đê điều, … tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển ổn định.
3. Thành quả về mặt xã hội tại địa phương
Trước đây, khi hoạt động cho vay của ngân hàng còn chưa phổ biến như hiện nay thì hoạt động cho vay nặng lãi tại các vùng nông thôn là rất phát triển, Chí Linh cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng, từ khi việc cho vay đến được với từng hộ nông dân thì người dân cày không còn khổ như trước, họ không phải chịu vay với lãi “cắt cổ” nữa nên có điều kiện để yên tâm chăm lo sản xuất, cải thiện đời sống. Số hộ đói nghèo giảm hẳn qua từng năm là một kết quả đáng quý thể hiện sự nỗ lực cố gắng của nhân dân toàn huyện.
Người dân vay vốn ngân hàng với những mục đích sử dụng khác nhau nhưng tựu chung vẫn là để tiến hành sản xuất, phát triển kinh tế. Do vậy mà nguồn vốn ngân hàng đã góp phần tạo thêm được việc làm tại địa phương, giảm hẳn tình trạng người lao động “ăn không ngồi rồi” để dẫn đến “nhàn cư vi bất thiện”. Hoạt động cho vay người xuất khẩu lao động cũng có tác dụng rất lớn trong việc phát triển kinh tế tại địa phương, giúp địa phương giảm hẳn lượng lao động nhàn rỗi mà kinh tế gia đình lại được cải thiện rõ rệt.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Từ thực trạng hoạt động cho vay hộ nông dân của NHNo_CL tuy đã có những thành quả đáng mừng nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế cần phải được khắc phục. Tuy những hạn chế này không phải là lớn nhưng nó cũng vẫn có ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động cho vay hộ nông dân nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung, vì vậy mà chúng cần phải được xem xét tìm biện pháp khắc phục kịp thời.
Tuy cán bộ nhân viên của ngân hàng đã có rất nhiều cố gắng để tự hoàn thiện mình nhưng nhìn chung thì chất lượng hoạt động tín dụng có lúc còn chưa được cao, khách hàng đến giao dịch có nhiều khi phải chờ đợi, đây là tín hiệu chứng tỏ lượng khách hàng ngày càng tăng nhưng cũng rất bất lợi khi để khách phải chờ như vậy.
Doanh số cho vay tăng liên tục qua các năm nhưng đến nay con số đó vẫn không phải là cao so với các ngân hàng khác, được thể hiện chi tiết trong bảng thống kê sau:
Bảng 2.7: Doanh số cho vay qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Ngân hàng
2006
2007
Thay đổi so 2006
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
NHNo_CL
218.749
100%
393.991
100%
175.242
80,1%
NHĐT&PT
385.116
100%
465.528
100%
80.412
20,9%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh qua các năm của NHNo_CL, Ngân hàng đầu tư và Phát triển Chi nhánh Bắc Hải Dương-NHĐT&PT)
Khách của ngân hàng chủ yếu là hộ nông dân với các món vay nhỏ, nên tuy lượng khách tăng nhưng doanh số cho vay thấp cũng là điều dễ hiểu. Tuy tỷ lệ tăng doanh số cho vay lớn, nhưng so với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trên địa bàn thì doanh số đó vẫn còn rất khiêm tốn, chưa xứng với tiềm năng và thế mạnh của mình. Để khắc phục hạn chế này, ngân hàng cần phải có biện pháp thu hút nhiều khách hàng hơn nữa, đồng thời tiếp tục mở rộng hoạt động đến các lĩnh vực khác, giới doanh nhân, doanh nghiệp, … đa dạng hoá khách hàng để tăng doanh thu và lợi nhuận.
Thực tế cho thấy dư nợ trung hạn của ngân hàng là rất cao còn nợ ngắn hạn thì lại thấp, nguồn cho vay trung hạn thường xuyên còn ít còn nguồn ngắn hạn lại dư nhiều (năm 2007, tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng chỉ có 239.892 triệu đồng (chiếm 29,2% tổng nguồn), so với lượng tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 580.591 triệu đồng (chiếm 70,8% tổng nguồn), điều này cho thấy cơ cấu nợ của ngân hàng chưa bền vững, nợ trung hạn cao sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi có nhu cầu thanh khoản, bởi khách hàng không có vi phạm gì thì không thể đòi nợ trước hạn của họ được, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, tác động đến hoạt động kinh doanh trong tương lai. Ngân hàng có thể khéo léo điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của khách hàng để rút ngắn thời hạn tín dụng trung bình của khoản vay, ví dụ như cho vay theo hình thức trả gốc theo tháng hoặc theo quý, lãi trả cùng kỳ trả gốc, hay cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức,… bằng cách đó vừa hạn chế được rủi ro mà vừa có thể rút ngắn vòng quay vốn, nâng cao chất lượng tín dụng.
Lãi thu được ngày càng tăng, tỷ lệ thu lãi cũng tăng lên, nhưng nợ quá hạn cũng tăng cao, do nhiều hộ dân còn chây ỳ và kéo dài tình trạng nợ quá hạn, con số này không phải là lớn nhưng nó cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của ngân hàng, vì vậy, công tác thẩm định và kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay cần phải tiến hành cẩn thận và chặt chẽ hơn nữa.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan của ngân hàng
Mặc dù các cán bộ của ngân hàng vẫn thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại nhưng trình độ của nhiều cán bộ vẫn còn chưa theo được với sự phát triển và đòi hỏi của công việc. Ví dụ như việc sử dụng máy vi tính, một số vẫn còn hiểu biết rất sơ sài, qua loa nên việc sử dụng chưa mang lại hiệu quả cao, xử lý công việc nhiều khi mang tính chất thủ công nên mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó thì việc quản lý cán bộ là tập trung toàn ngành nên nếu tại cơ sở có nhu cầu sử dụng thêm nhân viên cũng không thể chủ động mà phải chờ chỉ tiêu biên chế từ cấp trên.
Trình độ nghiệp vụ còn bất cập nên có những dự án không đuợc thẩm định đầy đủ và chính xác, khả năng dự đoán về thị trường và đánh giá khách hàng còn hạn chế nên hoạt động kinh doanh chưa đạt được hiệu quả cao.
Việc ứng dụng công nghệ còn chưa thật phù hợp và hiệu quả, bởi Chí Linh là huyện miền núi nên việc cho vay được hưởng một phần sự ưu đãi của nhà nước, các mức lãi suất được áp dụng là khác nhau với từng đối tượng, việc xử lý và tính toán mất nhiều thời gian và công sức nên nếu đầu tư thích đáng cho công nghệ thì chắc chắn khối lượng công việc sẽ được giảm đi rất nhiều.
Số lượng hộ vay vốn nhiều mà lượng cán bộ ngân hàng còn hạn chế nên gây ra hiện tượng quá tải, nhiều khi khách hàng phải chờ lâu, nhất là ở phòng kế toán, nơi việc kiểm tra phải tiến hành tỷ mỉ nên mất nhiều thời gian, nhiều khi các cán bộ phải làm thêm giờ nhưng vẫn không hết việc. Điều này nếu không giải quyết sớm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng. Số lượng món vay lớn có thể dẫn đến việc thẩm định không đầy đủ, quyết định cấp tín dụng không chính xác, thêm vào đó việc kiểm tra sử dụng vốn vay lại khó có thể được thực hiện đầy đủ, chất lượng tín dụng ảnh hưởng là điều khó tránh khỏi. Hơn nữa, khối lượng công việc nhiều lại ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của cán bộ nhân viên ngân hàng.
Bảng 2.8: Thực trạng số món vay/cán bộ của NHNo_CL
Đơn vị: món, cán bộ
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số món vay
8.957
7.514
6562
Số cán bộ ngân hàng
45
48
55
Số món vay/cán bộ
199
156
119
(Nguồn: Báo cáo số lượng và chất lượng cán bộ qua các năm của NHNo_CL)
Tuy số lượng các món vay giảm đi và số cán bộ tăng lên qua các năm, nhưng khối lượng công việc mà mỗi cán bộ phải làm vẫn còn rất nhiều, thậm chí còn đa dạng và phức tạp hơn, do hoạt động kinh tế xã hội ngày càng phong phú, nên việc kiểm tra, thẩm định và giám sát khách hàng ngày càng có nhiều yếu tố và liên quan đến nhiều người, ngành khác nhau, đòi hỏi sự chi tiết và chính xác.
NHNN và NHNo Việt Nam đã xây dựng hệ thống thông tin khách hàng (CIC) nhưng việc khai thác và sử dụng thông tin còn nhiều hạn chế do thông tin cung cấp còn giới hạn về khối lượng và chậm về thời gian nên việc xử lý chưa kịp thời, đưa lại hiệu quả không cao cho chất lượng hoạt động tín dụng.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ ngân hàng trong những năm qua đã có được sự tiến bộ nhanh chóng, những ứng dụng hiện đại được đưa vào sử dụng để hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Nhưng những ứng dụng đó vẫn còn rất hạn chế, nhất là những phần mềm phục vụ chuyên môn, như tính lãi tự động, thẩm định dự án, … nên chưa đáp ứng và phục vụ kịp thời cho hoạt động của ngân hàng, vì vậy mà chất lượng cho vay còn nhiều hạn chế.
Đối tượng cho vay còn chưa được mở rộng và quy mô cho vay lại nhỏ, ví dụ như cho vay xuất khẩu lao động còn vướng măc về thủ tục rất phức tạp và số tiền vay lại nhỏ, đúng là số tiền để đi thì cũng không quá lớn, nhưng hầu hết các công ty đều đòi hỏi công nhân phải đặt cọc để tránh khi sang nước họ rồi lại bỏ việc, vì thế mà số tiền để “chạy” đi xuất khẩu lao động lên tới vài trăm triệu (sang Nhật là hơn 300 triệu, các nước Đông Nam Á khác thì ít hơn chút). Số tiền là quá lớn đối với một hộ nông dân chỉ sống bằng đồng ruộng, nhưng ngân hàng lại cho vay rất giới hạn, đòi hỏi cả giấy tờ từ công ty xuất khẩu (Hợp đồng lao động) và nhiều thủ tục khác. Nếu ngân hàng đa dạng được phương thức cho vay và đơn giản hoá thủ tục nhưng vẫn đảm bảo chất lượng thì chắc chắn hoạt động cho vay sẽ đạt kết quả tốt hơn. Ví dụ như ngân hàng sẽ thoả thuận với công ty xuất khẩu lao động sau khi thẩm định khách hàng đủ điều kiện vay thì số tiền vay đó sẽ được chuyển thẳng qua tài khoản cho công ty để đảm bảo mục đích sử dụng và an toàn, sau khi người lao động ra nước ngoài làm việc thì lương của họ sẽ được công ty chi trả một phần còn một phần giữ lại trả nợ dần cho ngân hàng. Công ty xuất khẩu cũng sẽ có trách nhiệm trong việc giám sát người lao động. Làm được như vậy thì sẽ đơn giản cho người vay cũng như ngân hàng rất nhiều trong việc giải ngân cũng như thu nợ, vừa đảm bảo cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích vừa giúp ngân hàng giảm được rủi ro, rút ngắn thời hạn tín dụng của khoản vay thông qua việc trả dần nợ. Đồng thời còn giúp cho lực lượng lao động nhàn rỗi tại địa phương có điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập cho gia đình cũng như giảm bớt các tệ nạn xấu cho địa phương.
Nguyên nhân khách quan
Các điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương tác động rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng, do điều kiện tự nhiên cón khá khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, nhất là thời gian vừa qua, rét đậm rét hại kéo dài, dịch bệnh lan rộng (cúm gia cầm) gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất của nhân dân trong huyện, giảm khả năng trả nợ của khách hàng, đa số lại là sản xuất nhỏ lẻ theo hộ gia đình nên chính quyền cũng rất khó trong việc hỗ trợ người dân và ngân hàng cũng không thể tiến hành đầu tư tập trung. Các món vay nhỏ lẻ khiến ngân hàng phải dàn trải vốn, khó khăn trong việc thẩm định cũng như kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay, dẫn đến chất lượng hoạt động không được cao như một số ngân hàng khác.
Việc mở rộng tín dụng còn nhiều hạn chế, nhìn chung là do những quy định chặt chẽ của nhà nước, ban hành đã lâu nên hiện nay có phần đã không còn theo kịp với sự phát triển của xã hội. Cơ chế đảm bảo tiền vay được quy định cụ thể tại NĐ 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999, tuy đã có thông tư hướng dẫn cụ thể nhưng việc thực hiện vẫn vấp phải nhiều khó khăn. Trong luật quy định rõ phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm tài sản đảm bảo, nhưng nếu đó là hộ chưa có sổ đỏ thì sao? Đất của họ được cha ông truyền lại (không nằm trong quy hoạch của nhà nước-một số hộ ven đường quốc lộ) nên chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý để được cấp Sổ đỏ. Vì vậy mà khi họ vay vốn để sản xuất kinh doanh thì ngân hàng lại khó có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Những hộ được giao đất, giao rừng nên chỉ có Sổ bìa xanh, không có Sổ đỏ thì làm sao vay được nhiều vốn ngân hàng để đáp ứng nhu cầu sản xuất được? Nhất là những hộ làm kinh tế trang trại, việc đầu tư cơ sở vật chất, cây, con giống, … cần rất nhiều vốn nhưng giấy tờ chứng minh kinh tế trang trại còn chậm thì việc cho vay không thể kịp thời với hoạt động của họ, việc này gây ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn cũng như chất lượng hoạt động tín dụng của chính ngân hàng.
Một số hộ vay vốn còn kém về ý thức trả nợ, cá biệt hơn là còn có biểu hiện chây ì. Tôi đã một số lần được đi thực tế tại xã với các cô ở phòng tín dụng, có một trường hợp tôi thấy rất khó coi đó là ông Trưởng công an xã VĐ, vay của ngân hàng để đầu tư sản xuất nhưng nay đến hạn mà ông lại không chịu trả: “Biết rồi, nhưng không có tiền”. Thiết nghĩ, đội ngũ cán bộ chính quyền phải gương mẫu cho nhân dân noi theo nhưng trường hợp này thì ông Trưởng công an kia đã tự biến mình thành gương xấu rồi. Những hộ như vậy khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên, tuy không có nhiều hộ nhưng cũng ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Thiên nhiên khắc nghiệt, dịch bệnh gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất của người nông dân, ảnh hưởng đến việc trả nợ ngân hàng của họ, số hộ xin gia hạn nợ tăng lên. Tuy nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi cho người nông dân, như về lãi suất, hình thức vay vốn, hỗ trợ khi có thiên tai dịch bệnh như khi có thiên tai xảy ra có thể xét gia hạn nợ hoặc cho vay tiếp mà người dân không phải chịu lãi quá hạn nếu rủi ro do bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh gây thiệt hại 40% giá trị tài sản trở lên trên diện rộng, nhưng thiệt hại xảy ra không đủ để hưởng hỗ trợ của nhà nước thì người dân nên vui hay buồn đây? Vui vì thiệt hại không lớn hay buồn vì không được nhà nước hỗ trợ.
Các nguyên nhân nói trên nhìn chung đều có ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người nông dân, dẫn đến việc trả nợ vay của họ không được đúng hạn như trong Hợp đồng tín dụng, vì vậy mà làm cho chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng không được cao.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY
HỘ NÔNG DÂN TẠI NHNo_CL
1. Định hướng trong thời gian tới của hoạt động cho vay hộ nông dân
Giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu trong hoạt động cho vay hộ nông dân cũng như mở rộng thị phần và vị thế sang các đối tượng khác như: doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,…
Nâng cao chất lượng dịch vụ, giữ uy tín với khách hàng.
Tăng doanh thu cũng như lợi nhuận, đạt tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu cao.
Hiện đại hoá công nghệ để hội nhập khu vực và cạnh tranh với các ngân hàng khác.
2. Một số giải pháp để xuất
Mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa ngân hàng đến với người nông dân ở cả những vùng xa xôi, các xã còn nhiều khó khăn. Hiện nay ngân hàng đã có hệ thống đại lý đến từng xã, nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng, chỉ có một người đảm nhiệm làm đại lý ở mỗi xã. Với diện tích rộng lớn, địa hình lại phức tạp thì mỗi cán bộ cũng như đại lý của họ không thể đảm trách tốt nhiệm vụ của mình được. Theo tôi, có thể tăng lên thành 2 người làm đại lý/xã đối với những xã lớn, lượng khách hàng đông, phân công từng địa bàn chuyên trách cho mỗi người thì chắc chắn họ sẽ làm việc có hiệu quả hơn, hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động của những cán bộ cũng như của ngân hàng.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực cũng như kiến thức thực tế để có thể phục vụ tốt hơn cho nhu cầu khách hàng của mình. Một cán bộ ngân hàng muốn hoàn thành thật tốt công việc của mình thì đòi hỏi họ phải có trình độ để đảm bảo việc thực hiện đúng quy trình cũng như thủ tục làm việc, nhưng cũng không thể thiếu những hiểu biết về khách hàng của mình. Ví như muốn thẩm định một dự án chăn nuôi thì cũng phải biết nơi để tham khảo giá cả, tránh hiện tượng khách hàng khai không trung thực để nâng giá, ảnh hưởng đến kết quả thẩm định cũng như quyết định cho vay. Muốn cho vay kinh doanh thì cũng cần phải biết mặt hàng đó có tiềm năng hay không, hoặc địa điểm kinh doanh có thuận lợi như khách hàng miêu tả không, giá cả tài sản đảm bảo có đúng như khách hàng kê khai hay không, tránh xảy ra những sai lầm đáng tiếc và không đáng có.
Tăng cường mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể, như: Hội phụ nữ, Hội nông dân,… để xã hội hoá công tác của ngân hàng cũng như tranh thủ được sự giúp đỡ của địa phương trong hoạt động kinh doanh. Những tổ chức đoàn thể tại địa phương luôn giành được sự tin tưởng của người dân, đóng vai trò quan trọng trong tinh thần, ý thức của họ, vì vậy mà khi ngân hàng giành được sự ủng hộ và giúp đỡ của các tổ chức này thì chắc chắn sẽ được người dân biết đến nhiều hơn, tin tưởng hơn. Đặc biệt là với vai trò chủ yếu là phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn thì hoạt động này càng có vị trí quan trọng đối với ngân hàng nông nghiệp nói chung và NHNo_CL nói riêng. Ngân hàng có rất nhiều các chính sách, phương thức cho vay hỗ trợ phát triển nông nghiệp, như: cho vay mua máy móc cải tiến sản xuất, cho vay phát triển đàn bò, … những hoạt động này thường phải có sự giúp đỡ của Hội nông dân, Hội phụ nữ,… Hội sẽ lập danh sách những hộ có nhu cầu để chuyển đến ngân hàng, ngân hàng sẽ căn cứ vào đó để tiến hành thẩm định, sau đó sẽ chuyển vốn tới các hộ này thông quan Hội nông dân, cũng có khi cho vay thông qua Hội bằng tín chấp của Hội. Cho vay bằng hình thức này vừa an toàn lại vừa giảm bớt khối lượng công việc cho ngân hàng, đồng thời cũng củng cố thêm mối quan hệ với địa phương.
Tiến hành định kỳ công tác đánh giá hoạt động để thống kê những mặt đã làm được, rút ra những tồn tại để kịp thời đề ra những biện pháp cụ thể khắc phục tồn tại đó, thực hiện tốt hơn nữa hoạt động của đơn vị. Hiện nay NHNo_CL đã thực tiện tự kiểm tra định kỳ hàng quý do Tổ thanh tra chuyên đề của ngân hàng tiến hành. Tuy nhiên, do lực lượng tương đối ít, khối lượng công việc lại nhiều, trình độ cán bộ còn chưa cao nên việc thanh tra có khi còn thiếu sót. Quý I/2008, khi chuyển chứng từ lên ngân hàng Tỉnh để tiến hành kiểm toán thì mới phát hiện 4 trường hợp một khách hàng mà đứng tên vay nhiều món khác nhau, ở các điểm giao dịch khác nhau. Tuy lý do được đưa ra là do “thiếu thông tin”, nhưng đó cũng là sơ sót khi thanh tra ngân hàng không phát hiện được. Để tránh những sai sót có thể phát sinh, theo tôi thì ngân hàng cần tiến hành đào tạo nâng cao trình độ năng lực cho cán bộ kiểm tra, có thể giao lưu, trao đổi với các ngân hàng khác để học hỏi kinh nghiệm. Đồng thời, mỗi cán bộ cần tự mình nâng cao trình độ, ý thức được vai trò của mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ để hoạt động ngân hàng có thể diễn ra thuận lợi, đem lại kết quả cao.
Coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng, thường xuyên xác định chất lượng tín dụng qua công tác phân loại nợ, có những biện pháp cụ thể và kiên quyết để giải quyết dứt điểm các món nợ xấu. Nợ xấu là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh, vì vậy mà giải quyết nợ xấu có vai trò rất quan trọng. Nợ xấu phát sinh khi khách hàng không trả hoặc trả không đủ nợ vay cho ngân hàng (bao gồm cả vốn và lãi), vì vậy mà trước tiên ta phải giảm nợ xấu trong khả năng có thể. Thực hiện thông qua hoạt động thẩm định trước khi cho vay và giám sát sử dụng vốn vay. Cán bộ tín dụng phải thẩm định cẩn thận, nhất là tính khả thi, khả năng sinh lời của phương án sản xuất, bởi việc này sẽ quyết định trực tiếp nguồn trả nợ của khách hàng, cùng với việc xác định đạo đức của người xin vay, thông qua các tổ chức đoàn thể, hoặc hàng xóm, bạn hàng,… Nợ xấu phát sinh có thể do nguyên nhân từ dự án hoặc rủi ro từ phía người vay, việc kiểm tra thật đầy đủ các yếu tố trước khi quyết định cho vay có thể giảm thiểu nguy cơ dẫn đến nợ xấu.
Nợ xấu ảnh hưởng rất không tốt đến hoạt động của ngân hàng nhưng việc giải quyết bằng tài sản thế chấp chỉ là biện pháp cuối cùng mà cả ngân hàng và khách hàng đều không mong muốn. Tài sản thế chấp của người nông dân thường là nhà đất của họ nên khi bị ngân hàng kết hợp với công an xã niêm phong thì họ không còn chỗ ở, mà ngân hàng cũng phải tốn chi phí để bảo quản, trông coi trước khi phát mãi. Các cán bộ ngân hàng thường “chỉ dẫn” cho khách hàng là “cứ trả hết nợ đi, rồi lại vay ngay được mà!”, bằng cách vay tạm đâu đó trong vòng khoảng 1 tuần, khách hàng đã có thể trả nợ ngân hàng, rồi lại vay lại của ngân hàng để trả chỗ kia, ngân hàng lại bớt đi một món nợ xấu, nhưng đó chỉ là biện pháp tạm thời, mang tính đối phó, bởi cuối cùng thì khách hàng cũng vẫn phải trả nợ cho ngân hàng.
Theo tôi, đối với những món nợ xấu, cán bộ tín dụng cần phân tích cụ thể, chính xác, cẩn thận, xét khả năng trả nợ của khách hàng, để tìm cách thu hồi hợp lý, hiệu quả. nếu họ vì lý do khách quan như thiên tai, dịch bệnh,… mà không trả được nợ, tư cách, ý thức trả nợ được đánh giá tốt, có khả năng sản xuất, thì có thể dãn nợ cho họ, thậm chí có thể hỗ trợ cho vay thêm để họ sản xuất lại, khắc phục thiệt hại đồng thời trả nợ cho ngân hàng. Riêng với những hộ bị thiệt hại nặng, ít có khả năng sản xuất lại, mà cũng không có tài sản đảm bảo thì có thể tạm lùi thời hạn trả nợ lại để tìm cách thu hồi sau (đến vụ mùa thu hoạch,…). Với những trường hợp cá biệt, không thể khắc phục được, khả năng thu hồi vốn không cao thì ngân hàng mới tiến hành xử lý tài sản đảm bảo theo luật định, trong thời hạn nhất định mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đó để thu hồi lại vốn kinh doanh. Việc giải quyết những món nợ xấu cần tiến hành thật khéo léo và cẩn thận để tạo điều kiện cho các khách hàng gặp khó khăn có cơ hội khắc phục sản xuất và hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu cho ngân hàng.
Mở rộng đối tượng cho vay, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để hoạt động ngân hàng diễn ra thuận lợi và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Vì là một ngân hàng nông nghiệp, vốn kinh doanh có lúc còn hạn chế, với khách hàng là nông dân, nhu cầu vay ít thì việc đáp ứng không có khó khăn, nhưng để hướng tới lực lượng khách hàng khác như: doanh nghiệp, vay tiêu dùng (mua nhà, xe,…) thì trước tiên ngân hàng cần phải mở rộng hoạt động huy động vốn của mình. Với lợi thế là ngân hàng lâu năm nhất trên địa bàn, có quan hệ tốt với người dân và chính quyền thì chắc chắn việc mở rộng hoạt động của ngân hàng sẽ không gặp nhiều khó khăn.
Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu của con người càng phong phú, cho vay tiêu dùng cũng đã được triển khai ở NHNo_CL từ 5 năm nay, nhưng kết quả vẫn còn rất hạn chế, do theo quy định thì việc cho vay theo lương thông qua cơ quan của người vay thì chỉ được giới hạn 10 triệu đồng/người không phải thế chấp tài sản, cả đối với người có mức lương cao (khoảng 5triệu đồng/tháng). Trong nền kinh tế hiện nay thì 10 triệu đồng không thể giúp nhiều cho những người có nhu cầu cao. Theo tôi, ngân hàng có thể kiến nghị với ngân hàng cấp trên tăng mức cho vay tiêu dùng không phải thế chấp tài sản.. Một số ngân hàng khác đã tiến hành hợp tác với các công ty khác để tiến hành cho vay mua hàng trả góp, đây là một phương thức rất hay mà trong quá trình mở rộng kinh doanh, ngân hàng có thể xem xét và áp dụng.
Số doanh nghiệp mở ra trên địa bàn ngày càng nhiều, lượng vốn cho kinh doanh của họ là rất lớn, đây là lực lượng khách hàng đầy tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng có thể tìm thêm khách hàng bằng cách quảng bá hình ảnh rộng rãi, có những phương thức ưu đãi cho khách hàng lớn, như lãi suất ưu đãi, tiến hành thăm hỏi, tặng quà các dịp có ý nghĩa (lễ, tết, …), đồng thời tự mình nâng cao chất lượng hoạt động để giành được uy tín và vị trí đối với khách hàng, làm tốt những việc này thì chắc chắn khách hàng sẽ tự tìm đến với ngân hàng.
Đồng thời cũng tiến hành đơn giản hoá các thủ tục đến mức có thể để người nông dân - trình độ còn hạn chế, hiểu được và thực hiện dễ dàng bằng cách giải thích thật đơn giản, dễ hiểu nhưng cũng phải đầy đủ, chính xác. Đối với những khách hàng vay vốn lần đầu, cán bộ ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua sự chủ động giúp đỡ họ giải quyết vướng mắc về thủ tục cho vay, cách thức giải ngân và thu lãi, thu nợ, tiến hành giải ngân nhanh chóng đáp ứng kip thời nhu cầu của người vay để tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp về ngân hàng. Với những khách hàng quen, đã hiểu, biết về thủ tục vay vốn, ngân hàng có thể ưu đãi hơn về lãi suất, giảm bớt các điều kiện cho vay, …
Trên đây chỉ là một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng, việc áp dụng các giải pháp đó cần phải có sự nghiên cứu và chuẩn bị kỹ lưỡng từ phía ngân hàng để có thể đem lại hiệu quả tốt nhất.
3. Kiến nghị
3.1. Với Ngân hàng nhà nước Việt Nam
- Đề nghị NHNN Việt Nam giảm thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ thanh toán cũng như giảm thấp mức đóng góp nguồn vốn cho NH Chính sách xã hội để NHNo có thêm nhiều nguồn vốn với chi phí thấp để cho vay hộ nông dân với lãi suất hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống, văn hoá, XH.
- Ngân hàng Trung ương có chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ và ngân hàng, trong đó có vấn đề điều hành lãi suất. Trong những tháng đầu năm 2008, các tổ chức tín dụng vì cạnh tranh thu hút vốn nên đã đua nhau tăng lãi suất, NHNN khó kiểm soát. Sang đầu quý II/2008, NHNN đã quy định mức lãi suất trần trong huy động vốn của các ngân hàng nên hoạt động của các ngân hàng đã dần ổn định trở lại.
- Khách hàng chủ yếu của NHNo là người nông dân nên lượng vốn huy động được từ địa phương rất nhỏ, chi phí lại cao, cũng không thể tăng lãi suất cho vay nếu không sẽ mất khách hàng, việc thực hiện chính sách ưu tiên cho nông nghiệp nông thôn lại gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh tràn lan, vì vậy mà hoạt động của NHNo vấp phải những khó khăn hơn so với các ngân hàng thương mại khác. Dù vậy hiện nay lãi suất cho vay của NHNo_CL vẫn thấp hơn hoặc bằng so với các ngân hàng khác đang hoạt động trên địa bàn (NHNo cho vay ngắn hạn là 1,4%/tháng, trong khi Sacombank là 1,2-1,65%/tháng với các món vay cùng kỳ hạn). Do vậy, kiến nghị với ngân hàng Trung ương có chính sách lãi suất phù hợp và giải pháp cụ thể cho NHNo để NHNo vừa phát triển kinh doanh vừa phục vụ được chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn.
- Việc kiểm tra của các ngân hàng cấp trên là rất cần thiết, đảm bảo hoạt động của ngân hàng ổn định và an toàn nhưng cũng không nên áp dụng quá cứng để tránh ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng cũng như tiết kiệm được chi phí cho toàn hệ thống.
- Một số rủi ro của ngân hàng xảy ra là do thiếu thông tin (tình hình vay nợ của khách hàng, số món vay của một người,…) nên NHNN cần có biện pháp tích cực nâng cao chất lượng công tác thông tin phục vụ hoạt động cho vay của các NHTM cũng như các tổ chức tín dụng, cần thiết thì có thể bắt buộc các tổ chức này tham gia vào hệ thống thông tin, coi đó vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của mình thì chắc chắn hệ thống sẽ đáp ứng được nhu cầu thông tin cho các ngân hàng, giảm thiểu những rủi ro do thiếu thông tin.
- Tài sản đảm bảo tiền vay phần lớn là bất động sản nên khi có nợ xấu cần giải quyết tài sản đảm bảo để thu hồi nợ thì lại có nhiều vướng mắc do trình tự, thủ tục đấu giá cũng như tố tụng nên rất phức tạp và mất thời gian, bởi theo quy định thì ngân hàng cần đưa tài sản ra bán đấu giá hoặc khởi kiện ra Toà án. Theo tôi, nên đổi mới theo hướng ngân hàng có thể chủ động áp dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo (bán, chuyển nhượng, cho thuê) để thu hồi nợ của mình.
3.2. Với Ngân hàng cấp trên
- Đề nghị trang bị và lắp đặt máy rút tiền tự động ATM cho NHNo Chí Linh để Chi nhánh mở rộng hoạt động dịch vụ cũng như nâng cao vị thế của Chi nhánh để có thêm điều kiện thuận lợi phục vụ khách hàng tốt hơn.
- Đề nghị sớm cho khởi công xây dựng trụ sở chính cho Chi nhánh như kế hoạch để Chi nhánh sớm có trụ sở mới khang trang phục vụ cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi hơn.
- Kiến nghị cho các chi nhánh ngân hàng cơ sở được chủ động về nhân sự trong phạm vi cho phép để có thể phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của khách hàng, giảm thiểu trường hợp phải chờ đợi lâu, gây phiền hà, mất thời gian, vừa để đảm bảo chất lượng tín dụng cũng như quyền lợi của người lao động trong ngân hàng.
- Đề nghị NHNo&PTNT VN tăng đơn giá tiền lương cho các ngân hàng ở địa bàn miền núi để kích thích hoạt động kinh doanh cũng như tạo động lực cho người lao động làm việc có hiệu quả hơn.
- Chế độ với các cán bộ tín dụng cần phải được điều chỉnh, bởi cán bộ tín dụng thường xuyên phải đi thẩm định, kiểm tra,… nên cần phải có mức công tác phí hợp lý để đảm bảo sự công bằng cũng như hỗ trợ cho người lao động có điều kiện để phát huy tốt nhất khả năng làm việc của mình.
- Tăng cường hơn nữa các chương trình đào tạo và đào tạo lại trình độ nghiệp vụ cũng như phổ biến các cơ chế, công nghệ mới cho các nhân viên ngân hàng để hoạt động của ngân hàng ngày càng có chất lượng hơn.
- Hiện nay, hồ sơ cho vay khách hàng còn nhiều sự lặp lại và chưa cập nhật nên kiến nghị NHNo&PTNT VN có mẫu cải tiến mới để phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của khách hàng. Ví dụ như Báo cáo thẩm định và Biên bản định giá hiện nay, theo tôi thì có thể gộp hai văn bản này làm một, khi cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định thì kết hợp lập báo cáo đồng thời cũng là biên bản định giá, xác định giá trị của tài sản đảm bảo, làm cơ sở để cho vay sau này. Việc tồn tại cả Báo cáo thẩm định và Biên bản định giá như hiện nay dẫn đến sự trùng lặp về công việc tiến hành, thủ tục kéo dài, làm mất thời gian và công sức của các cán bộ ngân hàng cũng như của người vay.
KẾT LUẬN
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta nên sự phát triển nông nghiệp nông thôn là vô cùng quan trọng. Trong đó mô hình hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ nên việc đầu tư vốn tín dụng đến hộ nông dân là một vấn đề vô cùng quan trọng đòi hỏi sự tham gia và hỗ trợ của các thành phần trong xã hội.
Để thực hiện điều đó thì chất lượng tín dụng tại NHNo là vấn đề cần được chú trọng và giải quyết thoả đáng. Đây không phải là vấn đề mới nhưng trong quá trình thực hiện còn nhiều tồn tại và cần phải được hoàn thiện.
Chi nhánh NHNo Chí Linh thực hiện cho vay hộ nông dân trong thời gian qua đạt kết quả khá tốt, tạo điều kiện cho nông nghiệp cũng như kinh tế toàn huyện phát triển, đồng thời mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của chi nhánh, duy trì và từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần vào sự phát triển chung của toàn hệ thống. Nhưng hoạt động của ngân hàng còn nhiều khó khăn và bất cập mà không tự mình giải quyết được, phải chờ sự chỉ đạo của các ngân hàng cấp trên.
Trong chuyên đề này, tôi đã nêu những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay - hoạt động thu lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, cũng như khái niệm, các chỉ số cơ bản để đánh giá chất lượng hoạt động này. Đồng thời qua các số liệu thực tế về hoạt động của chi nhánh NHNo Chí Linh để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay hộ nông dân của chi nhánh. Từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cụ thể để góp phần hoàn thiện vấn đề cho vay hộ nông dân nói riêng và hoạt động cho vay ở NHNo Chí Linh nói chung.
Đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Chí Linh” là một đề tài khá rộng và phức tạp, do thời gian nghiên cứu và trình độ còn hạn chế nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong sự góp ý của các thầy, cô giáo, ban lãnh đạo NHNo Chí Linh và tất cả những người quan tâm đến đề tài này. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn và Ban lãnh đạo cũng như các cán bộ của NHNo_CL đã giúp đỡ em hoàn thành kỳ thực tập này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quản trị ngân hàng thương mại, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, NXB Tài Chính 2006, trang 24, 26, 32
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, PGS.TS Phan Thị Thu Hà
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, PGS.TS Lê Văn Tề, NXB Thống Kê 2007, trang 324.
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02.2005 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ số 1627 ngày 31/12/2001.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN
Quyết định số 148/1999/QĐ-TTg ngày 07/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/03/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 248/2000/QĐ-NHNN ngày 25/08/2000 của Ngân hàng nhà nước.
Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999.
Thông tư số 06/2000/TT-NHNN ngày 04/04/2000 của Ngân hàng Nhà nước.
Quyết định số 165/QĐ-HĐQT ngày 06/06/2005 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Quyết định số 636/QĐ-HĐQT ngày 22/062007 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Quyết định số 1300/QĐ-HĐQT ngày 03/12/2007 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Viêt Nam.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNo_CL : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh
NHTM : Ngân hàng thương mại.
QĐ : Quyết định
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TT : Thông tư
HTX : Hợp tác xã
NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
TCTD: Tổ chức tín dụng
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 137.doc