MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 7
1.1 DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 7
1.1.1 Khái niệm và vai trò của DNXL 7
1.1.2 Đặc điểm của DNXL 8
1.2 BẢO LÃNH CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNXL 14
1.2.1 Tổng quan về bảo lãnh của NHTM 14
1.2.2 Bảo lãnh của NHTM đối với DNXL 16
1.2.2.1 Sự cần thiết của hoạt động bảo lãnh đối với DNXL 16
1.2.2.2 Các loại hình bảo lãnh được áp dụng chủ yếu trong xây lắp 18
1.2.2.3 Quy trình bảo lãnh 20
1.3 CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXLL 23
1.3.1 Bảo lãnh DNXL và rủi ro 23
1.3.2 Chất lượng bảo lãnh đối với DNXL 26
1.3.2.1 Quan điểm về chất lượng bảo lãnh 26
1.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo lãnh của các DNXL 28
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng bảo lãnh của NHTM đối với các DNXL 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL CỦA SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 37
2.1 TỔNG QUAN VỀ SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 37
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 37
2.1.2 Mô hình tổ chức và quản lý 39
2.1.3 Những nét chính trong hoạt động kinh doanh 40
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI CÁC DNXL CỦA SGD 46
2.2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam hiện nay 46
2.2.2 Quy trình bảo lãnh củai SGD đối với DNXL 48
2.2.3 Chính sách bảo lãnh và biểu phí của SGD hiện nay 51
2.2.4 Thực trạng hoạt động bảo lãnh của các NHTM đối với lĩnh vực xây lắp 53
2.3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CÁC DNXL CỦA SGD 55
2.3.1 Phân tích các chỉ tiêu định lượng 55
2.3.2 Phân tích các chỉ tiêu định tính 61
2.3.3 Thực trạng chất lượng bảo lãnh đối với các DNXL tại SGD 62
2.3.3.1 Những kết quả đạt được 62
2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 64
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 68
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL CỦA SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 68
3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM 70
3.2.1 Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh đối với DNXL linh hoạt 70
3.2.2 Xây dựng chính sách giá hợp lý 71
3.2.3 Nâng cao chất lượng đồng thời kết hợp với quá trình mở rộng hoạt động bảo lãnh xây lắp đặc biệt với các DNXL nước ngoài. 72
3.2.4 Tăng cường kiểm tra và giám sát trước và sau khi bảo lãnh 72
3.2.5 Tiếp nhận và xử lý TSBD cẩn trọng và linh hoạt 73
3.2.6 Phát triển hoạt động tái bảo lãnh trong lĩnh vực xây lắp 74
3.2.7 Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng 74
3.2.8 Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ 75
3.3 KIẾN NGHỊ 76
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan nhà nước 76
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 77
3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 78
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHảO 81
Danh mục các chữ viết tắt
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: NGân hàng Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
ĐT&PT: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
BIDV: Tên viết tắt của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
SGD: Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
TSĐB: Tài sản đảm bảo
DNXL: Doanh nghiệp xây lắp
XDCB: Xây dựng cơ bản
BHXH: Bảo hiểm xã hội
Danh mục bảng biểu
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ quy trình bảo lãnh
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy của SGD
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện kế hoạch kinh doanh từ năm 2002-2006
Bảng 2.2: Kết quả huy động vốn
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Bảng 2.4: Kết quả hoạt động tín dụng
Bảng 2.5: Biểu phí bảo lãnh của SDG
Bảng 2.6: Doanh số bảo lãnh cơ cấu theo sản phẩm bảo lãnh
Bảng 2.7: Doanh số bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.8: Thu dịch vụ năm 2005-2006
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu doanh số bảo lãnh theo hình thức bảo lãnh
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hội nhập với khu vực và thế giới về kinh tế, văn hóa xã hội, ngành ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng có một vai trò và vị trí quan trọng, góp phần đưa nên kinh tế phát triển. Là một tổ chức tài chính, ngân hàng cung cấp một danh mục tài chính các dịch vụ tài chính đa dạng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trải qua các thời kỳ phát triển các dịch vụ của ngân hàng trở nên ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng các nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng, bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tiền gửi, bảo quản tài sản, cho vay . xuất hiện thêm những dịch vụ hiện đại khác như cho thuê tài sản, bảo lãnh, bao thanh toán . Do đặc điểm tương đồng về sản phẩm của các ngân hàng, để cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Trong đó, bảo lãnh là một dịch vụ quan trọng, góp phần nâng cao uy tín, tăng thu nhập cho ngân hàng mà chỉ phải trả một chi phi thấp và mức độ an toàn cao hơn so với hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng cơ bản vốn được coi là một lĩnh vực thế mạnh của SGD nói riêng và toàn bộ ngân hàng ĐT& PTViệt Nam nói chung. Đây cũng là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Quá trình tìm hiểu kỹ các hoạt động kinh doanh trong khi thực tập tại SGD ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, kết hợp với những lý luận đã được học tập tại trường đã giúp cho việc đưa ra kết luận về đề tài được lựa chọn, đó là: “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam”. Đề tài được giới hạn chỉ nghiên cứu những sản phẩm bảo lãnh chủ yếu được sử dụng cho các DNXL. Đề tài gồm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp.
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh đối với các doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế nên quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những sai sót, mong thầy cô giáo góp ý và bổ sung cho bài viết hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh đối với doanh nghiệp xây lắp của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỏi thời gian rất dài, rủi ro lớn gây ảnh hưởng tới uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng. Mặc dù hoạt động bảo lãnh là không phải cấp vốn nhưng trong một số trường hợp ngân hàng bảo lãnh cho DNXL dự thầu thì phải kèm theo một cam kết cấp hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp khi dự thầu.
Bảng 2.5: Biểu phí bảo lãnh của SDG
Bảo lãnh trong lĩnh vực xây lắp
15/2/2006- 3/42006
Mức phí (%/năm)
3/4/2006 đến nay
Mức phí (%/năm)
Đối với ký quỹ 100%
Đối với không kỹ quỹ hoặc ký quỹ nhỏ hơn 100%
KH nhóm A* , A
KH nhóm B+
Kh nhóm B-, C
1,2
1,2
1,4
1,6
1,5
1,5
1,7
1,9
Bảo lãnh ngoài lĩnh vực xây lắp
Đối với kỹ quỹ 100%
Đối với không kỹ quỹ hoặc ký quỹ nhỏ hơn 100%
KH nhóm A*, A
KH nhóm B+
KH nhóm B-, C
1,0
1,0
1,2
1,4
1,5
1,5
1,7
1,9
Mức phí tổi thiểu
200.000VND
250.000VND
(Nguồn do SGD cung cấp)
SGD xây dựng một biểu phí bảo lãnh chung có tính cạnh tranh áp dụng cho toàn hệ thống đồng thời có một biểu phí ưu đãi riêng đối với từng đối tượng khách hàng đặc biệt, khách hàng VIP. Các khách hàng đặc biệt có ưu đãi giảm phí như: TCT sông Đà (1,05%/năm), công ty đầu tư xây dựng và xuất nhập khẩu Việt Nam (1,05%/năm), TCT xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (1,2%/năm), công ty cổ phần đầu tư và thương mại (1,2%/năm), TCT lắp máy Việt Nam (1,2%/năm), TCT xây dựng Hà Nội (1,2%/năm)... Mức phí bảo lãnh này là tương đối hợp lý, có tính cạnh tranh so với các ngân hàng trên địa bàn và phù hợp với mục tiêu phát triển dịch vụ của BIDV. Tuy nhiên, so với các ngân hàng ngoài quốc doanh thì mức phí tối thiểu vẫn còn cao hơn như ngân hàng kỹ thương mức phí tối thiểu là 120.000 VND, phí bảo lãnh dao động từ 1,2% - 3%/năm tùy theo TSĐB, ngân hàng ACB với mức phí tối thiểu là 150.000 VNĐ và tỷ lệ phí dao động từ 0.035% - 0.12%/tháng tùy theo TSĐB. Xét về mặt cơ cấu thì đã có sự phân biệt mức phí đối với bảo lãnh có ký quỹ và không ký quỹ song vẫn còn chưa chi tiết tới từng loại TSĐB. Vì các TSĐB có rất nhiều dạng khác nhau và mức độ rủi ro của những tài sản là khác nhau. Đối với từng phương thức bảo lãnh tuy là có sự khác nhau về mức độ rủi ro (bảo lãnh dự thầu có độ rủi ro thấp hơn so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng) song vẫn chịu một tỷ lệ phí chung. SGD chưa có một sự ưu đãi rõ ràng, công khai mà chủ yếu dựa trên thỏa thuận với từng khách hàng
Thực trạng hoạt động bảo lãnh của các NHTM đối với lĩnh vực xây lắp
Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội Việt Nam tiếp tục ổn định với tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế đều đạt hoặc vượt kế hoạch. Đặc biệt năm 2006, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình cải cách, hội nhập và phát triển. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Năm 2006, tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đạt 8,17%, trong đó, ngành công nghiệp, xây dựng tăng trưởng vượt bậc 10,37% .
Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế tiếp tục phát triển theo hướng mạnh mẽ hơn. Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện các cam kết về giảm thuế theo lộ trình với AFTA vừa tạo thuận lợi vừa tạo ra những khó khăn không nhỏ trong cạnh tranh phát triển. Trong thời gian qua, các dự án xây lắp trong các lĩnh vự giao thông, nhà ở, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và khu chế xuất, bến cảng, sân bay dầu khí, hàng không, bưu điện... được triển khai rộng khắp ở các trung ương và địa phương có quy mô lớn, tốc độ phát triển nhanh. Nhu cầu về mở rộng doanh nghiệp, nhu cầu về nhà ở đang tăng cao đặc biệt là trong quá trình đô thị hóa. Tất cả tạo ra một thị trường rộng lớn cho lĩnh vực xây lắp phát triển và tất yếu cầu về bảo lãnh xây lắp tăng.
Tuy nhiên, hiện nay các NHTM vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường bảo lãnh đầy tiềm năng này. Doanh thu từ hoạt động cho vay vẫn chiếm tới hơn 70% tổng doanh thu. Lý do chủ yếu là bởi bản thân hệ thống ngân hàng Việt Nam còn yếu kém về công nghệ, trình độ quản lý và trình độ cán bộ thực hiện nghiệp vụ khả năn thẩm định công trình còn yếu kém. Ví dụ, TCT xây dựng công trình giao thông 5 của bộ giao thông vận tải là một doanh nghiệp có quy mô bảo lãnh lớn nhất tại ngân hàng Công thương nhưng đã bị thua lỗ do đã bỏ thầu quá thấp cho một loạt các dự án xây dựng đường giao thông gây rủi ro cho ngân hàng Công thương. Các điều kiện để được ngân hàng bảo lãnh còn quá khắt khe, khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể tiếp cận được. Đối tượng khách hàng lại tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, TCT, doangh nghiệp lớn (chiếm gần 90%), trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp vừa và nhỏ mới là những đối tượng có nhu cầu bảo lãnh lớn.
Lý do tiếp theo xuất phát từ sự không trung thực yếu kém năng lực thi công của các DNXL Việt Nam khiến cho ngân hàng khó có thể tin tưởng thực hiện bảo lãnh. Hiện nay, hiện tượng tiêu cực trong các công trình xây lắp đang tràn lan làm giảm chất lượng của công trình gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trước tiên là sự tiêu cực ở khâu đấu thầu công trình. Xuất phát từ những kẽ hở của luật doanh nghiệp, mới chỉ ban hành quy định về vốn điều lệ để thành lập DNXL mà chưa chú ý đến đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này. Muốn thực hiện những công trình kỹ thuật cao đòi hỏi những DNXL phải có một hệ thống máy móc lớn – đây chính là TSCĐ của doanh nghiệp. Như vậy, lợi dụng khe hở này, nhiều DNXL được thành lập nhưng trên thực tế họ không có máy móc thiết bị thực hiện công trình. Những DNXL này tham gia đấu thầu, và bằng những quan hệ của mình để trúng thầu (điều này phải kể đến những tiêu cực trọng quá trình xét tuyển thầu). Sau khi trúng thầu, họ bán gói thầu cho những DN khác thi công làm giảm số tiền thực sự đầu tư vào công trình, chất lượng công trình kém. Tiếp theo, là những hạn chế trong quá trình thực hiện thi công công trình. Các DNXL do chạy theo lợi nhuận, hoặc do những nguyên nhân trên làm số tiền thực sự để thi công thấp không đủ để bảo đảm những yếu tố kỹ thuật. Vì vậy trong quá trình thi công, xảy ra hiện tượng cắt xén nguyên vật liệu thi công, làm giảm chất lượng công trình. Cuối cùng, hạn chế về kinh nghiệm quản lý, trình độ công nghệ và sự giảm sút uy tín nên khi tiến hành các công trình lớn có kỹ thuật cao, các DNXL Việt Nam vẫn chỉ là thầu phụ cho các DNXL của nước ngoài.
Phân tích các chỉ tiêu định lượng
Quy mô và cơ cấu bảo lãnh.
Những số liệu sau có thể thấy rằng hoạt động bảo lãnh của SGD trong những năm qua có sự tăng trưởng.
Bảng 2.6: Doanh số bảo lãnh cơ cấu theo sản phẩm bảo lãnh
Đơn vị (tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tuyệt đối
Tuyệt đối
% tt so với 2004
Tuyệt đối
% tt so với 2005
Bảo lãnh dự thầu
250
194
-22,5
262
35,0
Bảo lãnh thực hiện HĐ
1.254
1.630
30,0
2.517
54,4
Bảo lãnh chất lượng SP
172
244
41,8
335
37,1
Bảo lãnh ứng trước
360
363
0,9
524
44,3
Bảo lãnh khác
571
698
22,2
1.213
73,8
Tổng bảo lãnh
2.607
3.129
20,0
4.850
55,0
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp tại SGD)
Năm 2005 doanh số bảo lãnh là 3.129 tỷ đồng tăng 20% so với năm 2004, năm 2006 có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 4.850 tỷ đồng tăng 55% so với năm 2005. Với mục tiêu là giảm quy mô bảo lãnh đối với DNXL nên các sản phẩm bảo lãnh của ngân hàng đối với DNXL vẫn giữ một mức độ tăng trưởng ổn định phù hợp với tốc độ tăng trưởng hoạt động bảo lãnh. Cụ thể dư nợ bảo lãnh thực hiện hợp đồng năm 2006 tăng 54,5% so với năm 2005. Ở đây là sự tăng trưởng về giá trị bảo lãnh chứ không có sự gia tăng số lượng DNXL được bảo lãnh. Vì thực tế, trong lĩnh vực xây lắp, các doanh nghiệp thường ít thích sự thay đổi ngân hàng bảo lãnh, họ tín nhiệm những ngân hàng truyền thống có uy tín. Mặt khác là do chính sách thắt chặt đối với bảo lãnh xây lắp, làm hạn chế khả năng thu hút các DNXL thực hiện bảo lãnh ở SGD. Với mức tăng trưởng về dư nợ bảo lãnh cao, song đối với bảo lãnh dự thầu là loại bảo lãnh ít có rủi ro xong mức tăng trưởng là thấp, tăng khoảng 35% so với năm 2005 nhưng so với năm 2004 chỉ tăng 4,8%. Sở dĩ như vậy là do chính sách thắt chặt quan hệ tín dụng và bảo lãnh đối với DNXL của Sở. Các hoạt động bảo lãnh khác đặc biệt là bảo lãnh thanh toán bắt đầu có sự tăng trưởng mạnh trong năm 2006, đạt 1.213 tăng 73,8% , tuyệt đối tăng 515 tỷ so với năm 2005
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của SGD)
Tuy số liệu trên đây không có sự bóc tách bảo lãnh của lĩnh vực xây lắp riêng trong từng sản phẩm bảo lãnh, nhưng có thể thấy rằng các sản phẩm bảo lãnh được sử dụng cho DNXL là chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các hoạt động bảo lãnh thường phát sinh tập trung vào các quý 3 và quý 4. Trong đó, bảo lãnh thực hiện hợp đồng có tỷ trọng lớn nhất, chiếm 47% trên tổng dư nợ bảo lãnh với số món bảo lãnh thực hiện hợp đồng tương đối lớn. Dư nợ bảo lãnh dự thầu chỉ chiếm 5% nhưng số món bảo lãnh dự thầu lớn, thường chiếm khoảng 44% -50% tổng số món bảo lãnh phát sinh tại SGD trong năm. Sở dĩ như vậy là do bảo lãnh dự thầu có thời hạn ngắn, giá trị bảo lãnh thấp thường không vượt quá 1% giá trị hợp đồng đấu thầu, rủi ro thấp. Nhu cầu khách hàng bảo lãnh dự thầu là rất lớn nhằm đáp ứng đủ điều kiện tham gia dự thầu theo quy định của luật xây dựng và nghị định 46/2005/NĐ-CP về các bước tiến hành đầu thầu. Khả năng ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán là rất thấp vì khi tham gia đấu thầu các nhà thầu đều mong muốn trúng thầu nên trường hợp bỏ thầu rất ít xảy ra.
Khi trúng thầu, lập tức phát sinh nhu cầu bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhằm đảm bảo cho chủ đầu tư rằng chủ công trình sẽ thực hiện đúng các điều khoản trên hợp đồng cơ sở. Xét trên tổng doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm thì bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường chiếm tỷ trọng cao do giá trị của bảo lãnh thực hiện hợp đồng rất lớn, nhưng số lượng giao dịch thì thấp hơn so với bảo lãnh dự thầu. Chiếm tỷ lệ lớn tiếp theo là bảo lãnh tiền ứng trước và bảo lãnh bảo hành tuy hai loại bảo lãnh này không có tính bắt buộc cao như bao lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh tiền ứng trước thường phát sinh đồng thời với bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Cơ cấu bảo lãnh theo sản phẩm đối với các DNXL như vậy là hợp lý. Xét về chất lượng của các món bảo lãnh tương đối cao. Tính đến thời điểm 31/12/2006 ngân hàng vẫn chưa phải thực hiện nghĩa vụ trả thay cho khách hàng. Đây là một trong những dấu hiệu đáng mừng thể hiện sự nỗ lực và cố gắng trong từng bước thực hiện bảo lãnh.
Bảng số liệu sau cho ta thấy rõ sự chênh lệch rất lớn giữ doanh số bảo lãnh cho DNXL so với các doanh nghiệp khác. Doanh số bảo lãnh xây lắp năm 2006 chiếm 74% trên tổng doanh số bảo lãnh của ngân hàng, tăng 63,6% so với năm 2005. Sự tăng trưởng doanh số này chủ yếu là sự tăng về mặt giá trị bảo lãnh, số món bảo lãnh, ít có sự gia tăng đối với số lượng DNXL. Sở dĩ vậy là do SGD vốn có uy tín lớn trong lĩnh vực xây lắp, có đủ khả năng và kinh nghiệm thẩm định cũng như thông tin tài chính của các DNXL vì vậy trong nhiều trường hợp, chủ đầu tư chỉ đích danh ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho chủ thầu.
Bảng 2.7: Doanh số bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị (tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
% tt so với 2005
Xây lắp
2.190
70,0
3.584
73,9
63,6
Điện SXKD
848
27,1
951
19,6
12,1
KD thương mại
19
0,6
87
1,8
410,5
Dệt
22
0,7
10
0,2
-54,5
Các ngành khác
50
1,6
218
4,5
336,0
Tổng bảo lãnh
3.129
4.850
55,0
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp tại SGD))
Tuy nhiên, các DNXL được bảo lãnh hầu hết là các doanh nghiệp lớn, tổng công ty chiếm khoảng 95% trong tổng số. Do SGD đã chuyển giao nhóm khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các chi nhánh tách ra. Ngoài ra, nguyên nhân chủ yếu là do các DNXL hoạt động thường tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng, tình trạng nợ đọng trong XDCB khó có thể giải quyết nên SGD chủ yếu chỉ tiến hành bảo lãnh cho các doanh nghiệp lớn, đã có uy tín trong lĩnh vực xây lắp và có truyền thống quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp này ngân hàng thường cấp cho một hạn mức bảo lãnh nhằm đảm bảo sự linh hoạt và nhanh chóng hơn về thủ tục giải quyết khi doanh nghiệp phát sinh nhu cầu cấp bảo lãnh trong hạn mức cho phép. Trong năm 2006, SGD đã ký hợp đồng bảo lãnh hạn mức 450 tỷ đồng với TCT Lắp máy Việt Nam, 50 tỷ đồng với Công ty xây dựng số 4; 150 tỷ đồng với TCT xây dựng Hà Nội. Ngoài ra, SGD còn ký những hợp đồng bảo lãnh theo món có tiền gửi đảm bảo cho TCT xây dựng công trình giao thông 1, TCT kinh doanh Vinaconex... Đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp mới tỷ lệ kỹ quỹ thường là 100%. Ngoài ra SGD không có chính sách ưu đãi nào cho các DNXL khác.
Thu bảo lãnh
Bảng 2.8: Thu dịch vụ năm 2005-2006
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Thu
Tỷ trọng
Thu
Tỷ trọng
Thu
Tỷ trọng
% TT so với 2005
Phí bảo lãnh
9.450
38,6
9.168
35,8
22.539
45,5
145,8
Phí Dịch vụ thanh toán
7.747
31,6
10.257
40,1
15.445
31,2
50,6
Phí ủy thác đầu tư
2.091
8,5
1.681
6,6
1.317
2,7
-21,7
Thu ngân quỹ
-448
-1,8
-2.305
-9,0
-1.975
-4,0
-14,3
Thu KD vàng bạc
0
00,0
3.940
15,4
7.828
15,8
98,7
Thu dịch vụ thẻ ATM
60
0,2
65
0,2
121
0,2
86,4
LN KD ngoại tệ
4.832
19,7
2.572
10,0
3.845
7,8
49,5
Thu khác
770
3,1
221
0,9
393
0,8
77,8
Tổng thu dịch vụ
24.502
25.600
49.512
93,4
(Nguồn báo cáo tổng hợp tại SGD)
Trong những năm qua, phù hợp với mục tiêu của SGD và xu thế chung, SGD tăng chi phí đầu tư cho hoạt động dịch vụ chiếm 3% nguồn vốn huy động trong đó có hoạt động bảo lãnh, cụ thể là những chi phí gián tiếp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ hiện đại, thu hút khách hàng tham gia. Việc tăng chi phí cho hoạt động dịch vụ tỏ ra có hiệu quả. SGD đã giữ vững được số khách hàng truyền thống đồng thời thu hút được những khách hàng mới góp phần gia tăng thu nhập từ lĩnh vực dịch vụ. Thu bảo lãnh năm 2006 tăng trưởng vượt bậc so với năm 2005 góp phần không nhỏ vào sự tăng 93,4% thu dịch vụ năm 2006 so với năm 2005. Sở dĩ có sự tăng trưởng vượt bậc này là do sự tăng trưởng trong doanh số bảo lãnh phát sinh và cả sự gia tăng về mức phí bảo lãnh. Bên cạnh bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước và bảo lãnh chất lượng sản phẩm thì bảo lãnh khác điển hình là bảo lãnh thanh toán có sự tăng trưởng rõ rệt tăng 73,8% so với năm 2005. Mặt khác, SGD cũng mở rộng sang tiến hành bảo lãnh cho một số ngành khác như dược phẩm, du lịch, nhựa, sành sứ, thủy tinh.... Tuy nhiên, thu bảo lãnh đối với xây lắp trong năm 2006 vẫn tăng nhưng tăng rất ít sở dĩ như vậy là do chính sách thắt chặt bảo lãnh xây lắp của SGD.
Phân tích các chỉ tiêu định tính
Với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh, SGD đã xây dựng một quy trình nghiệp vụ và kế hoạch chất lượng đảm bảo được tiêu chí đơn giản hóa và nhanh chóng trong việc tiếp nhận, trả lời khách hàng.Cụ thể:
Thứ nhất, SGD đáp ứng dịch vụ bảo lãnh hoàn hảo theo yêu cầu của khách hàng với thời gian nhanh nhất. Thời gian cần thiết hoàn tất một dịch vụ ít nhất sau 1 đến 3 ngày và nhiều nhất từ 15 đến 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo yêu cầu. Thời gian tối đa cần thiết để nghiên cứu hồ sơ và yêu cầu khách hàng bổ sung (nếu có) là sau 02 ngày kể từ khi nhận hồ sơ khách hàng. Các loại bảo lãnh ngân hàng có thể đáp ứng sau từ 1 đến 3 ngày nhận hồ sơ khách hàng (đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu) gồm:
bảo lãnh dự thầu của các khách hàng truyền thống, thường xuyên có tín nhiệm.
Các loại bảo lãnh áp dụng hình thức bảo lãnh hạn mức đã được ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ký hợp đồng hạn mức bảo lãnh
Các loại bảo lãnh khác thuộc thẩm quyền giải quyết của chi nhánh (trừ bảo lãnh vay vốn) có thể đáp ứng nhanh nhất trong khoảng thời gian từ 3-5 ngày chậm nhất là 10 ngày. Nếu vượt thẩm quyền chi nhánh có thể đáp ứng nhanh nhất 10 ngày, chậm nhất 15 ngày.
Thứ hai, cán bộ nhân viên SGD có thái độ phục vụ văn minh lịch sự, hạn chế tối đa sự phàn nàn của khách hàng. Mỗi sự phàn nàn của khách hàng là một kinh nghiệm của ngân hàng. Mỗi một cán bộ bị khách hàng phàn nàn đều phải được kiểm điểm và thông báo lại với khách hàng.
Thứ ba, SGD thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh theo yêu cầu đòi tiền đầu tiên của bên nhận bảo lãnh; đảm bảo nguồn vốn để thực hiện trả thay cho khách hàng được bảo lãnh.
Cuối cùng, SGD thực hiện bảo lãnh cho 01 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Thực hiện tiêu chuẩn này, ngân hàng bảo lãnh cho 01 khách hàng có tổng dư nợ bảo lãnh tại tất cả các đơn vị thành viên tối đa không vượt quá 15% vốn tự có. Những khách hàng đã phát sinh tổng dư nợ lớn hơn phải có kế hoạch giảm dư nợ bảo lãnh. Một nhu cầu bảo lãnh mới phát sinh nếu vượt mức được ngân hàng thực hiện đồng bảo lãnh cùng với NHTM khác, ngân hàng ĐT&PT Việt Nam sẽ là người làm đầu mối với các tổ chức tín dụng để thực hiện đồng bảo lãnh
SGD đang từng bước thực hiện tốt những quy trình và kế hoạch chất lượng đề ra, và tiến hành thực hiện chế độ kiểm soát sự tuân thủ quy trình hoạt động bảo lãnh cũng như chất lượng hoạt động. Việc kiểm soát quy trình hoạt động được tiến hành trên cơ sở cán bộ tín dụng thu thập ý kiến khách hàng, đối chiếu tài khoản kế toán và đánh giá hàng tháng kết quả thực hiện. Việc kiểm soát chất lượng nghiệp vụ được thực hiện dựa trên cơ sở đánh giá lại doanh nghiệp thông qua hồ sơ, tình hình tài chính cũng như thông tin về tiến độ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của khách hàng và hợp đồng bảo lãnh từ phòng tín dụng.
Thực trạng chất lượng bảo lãnh đối với các DNXL tại SGD
Những kết quả đạt được
Lĩnh vực xây lắp luôn là một lĩnh vực mà SGD có ưu thế hơn so với bất kỳ một ngân hàng khác ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung trong những năm qua, chất lượng bảo lãnh đối với DNXL của SGD luôn được đánh giá cao, đạt được những sự tin cậy cần thiết của các DNXL Việt Nam hơn bất kỳ một ngân hàng nào khác tại địa bàn Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Hoạt động bảo lãnh đối với DNXL của SGD không ngừng tăng trưởng với tốc độ ổn định, hợp lý phù hợp với mục tiêu đề ra. Trong lĩnh vực xây dựng SGD ngày càng có uy tín cao, trong nhiều trường hợp được các chủ đầu tư tin tưởng yêu cầu các nhà thầu phải có bảo lãnh của SGD. Tính đến nay, hoạt động bảo lãnh chưa phát sinh rủi ro, SGD chưa phải thực hiện nghĩa vụ trả thay cho khách hàng. Điều này có ý nghĩa quan trọng, tạo được một hình ảnh tốt đẹp cho toàn bộ hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, hỗ trợ việc kích thích khách hàng sử dụng các sản phẩm khác của SGD. Sở dĩ SGD đạt được thành công này là do SGD vốn có tiềm lực tài chính vững mạnh, có nhiều uy tín và kinh nghiệm đối với lĩnh vực xây lắp nên tạo được sự tin tưởng cho chủ đầu tư. Mặt khác, các DNXL là đối tượng khách hàng tương đối trung thành với ngân hàng, thông thường họ chỉ thích làm việc với những ngân hàng đã từng có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp mình. Đặc biệt với kinh nghiệm và trình độ cán bộ cao giúp SGD có một công tác thẩm định và đánh giá hiệu quả của dự án tương đối tốt, góp phần hạn chế được rủi ro cho SGD. Thủ tục và trình tự bảo lãnh được xây dựng một cách rõ ràng khoa học. Đó là những yếu tố cần thiết để các doanh nghiệp cân nhắc lựa chọn ngân hàng bảo lãnh.
SGD đã xây dựng được một hệ thống xếp loại và tính điểm khách hàng giúp cho SGD có một cái nhìn toàn diện với khách hàng, dễ dàng đưa ra các phán quyết các yêu cầu của khách hàng. Trên cơ sở tính điểm khách hàng, SGD sẽ đưa ra hạn mức bảo lãnh mà SGD có thể chấp nhận được cho khách hàng này và SGD sẽ nhanh chóng đáp ứng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong công việc kinh doanh. Đối với những khách hàng truyền thống đạt loại tốt thì các khoản bảo lãnh ngắn hạn như bảo lãnh dự thầu thì SGD linh hoạt tiến hành mà không cần khách hàng ký quỹ. Đối với các món bảo lãnh mà doanh nghiệp kỹ quỹ 100% đã có sự giảm thiểu thời gian thẩm định và xét duyệt hồ sơ hơn so với các doanh nghiệp ký quỹ dưới mức 100%.
Với mục tiêu là giảm quy mô bảo lãnh đối với DNXL, SGD đã từng bước giảm thiểu được rủi ro không chỉ trong hoạt động bảo lãnh mà còn trong hoạt động cho vay. Tuy giảm quy mô nhưng SGD vẫn đảm bảo được sự tăng trưởng trong mức thu phí của ngân hàng. Xét về cơ cấu bảo lãnh, ngân hàng đã thành công trong việc tiến hành bảo lãnh trọn gói cho các DNXL, do đó giảm được chi phí và hạn chế phần nào được rủi ro. Đối với công tác phòng ngừa rủi ro bảo lãnh đã được SGD quan tâm thích đáng. Đối với mỗi khoản bảo lãnh khi phát hiện thấy nguy cơ rủi ro thì đều được trích lập dự phòng ngay lập tức theo quy định. Thường kỳ các cán bộ thực hiện bảo lãnh theo dõi phân tích đánh giá về tình hình doanh nghiệp và mức độ tiến triển của công trình để nhanh chóng phát hiện rủi ro và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động bảo lãnh của SGD đang từng bước được hoàn thiện và phát triển song vẫn còn mắc phải những hạn chế cần phải được khắc phục trong thời gian tới. Sau đây là một số hạn chế còn tồn tại:
Quy mô bảo lãnh còn hạn chế so với khả năng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của chi nhánh trong khi nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp đang tăng nhanh.Tính đến nay, hoạt động bảo lãnh tại SGD chưa phát sinh một nghiệp vụ nào ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ trả thay cho khách hàng. Đây là một tín hiệu hoạt động bảo lãnh có hiệu quả chất lượng cao. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng các dự án, công trình có dấu hiệu rủi ro thì thường không được chấp nhận bảo lãnh. Các doanh nghiệp được bảo lãnh chủ yếu là các doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng, các doanh nghiệp lớn, TCT, doanh nghiệp nhà nước. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận tỷ lệ thuận với rủi ro, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Tất nhiên, hoạt động ngân hàng phải đặt sự an toàn lên trước nhưng trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận. SGD không chấp nhận rủi ro thì vô hình dung đã bỏ qua cơ hội kinh doanh làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, bỏ qua một lượng khách hàng tiềm năng. Đặc biệt đối với các DNXL, do sự đặc thù về quá trình sản xuất và sản phẩm xây lắp nên các DNXL thường phải chịu nhiều rủi ro hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác, ít có doanh nghiệp nào được xếp hạng A trong bảng chấm điểm của Sở. Vì vậy các DNXL có quy mô nhỏ và vừa (thưòng là những doanh nghiệp tư nhân) không thể đáp ứng những yêu cầu để bảo lãnh của ngân hàng đặc biệt là về điều kiện kỹ quý và TSĐB.
Biểu phí bảo lãnh và mức ký quỹ và TSĐB chưa được hợp lý tuy trong từng thời kỳ ngân hàng đã có sự điều chỉnh biểu phí cho phù hợp với thị trường. Tuy nhiên giá mới chỉ được xác định chủ yếu là dựa vào biến động chung của thị trường và mối tương quan so sánh giữ các ngân hàng mà chưa có phương hướng căn bản. Hiện nay mức phí thu với các khách hàng là như nhau theo biểu phí cố định không phân biệt mức ký quỹ hay đảm bảo, và không phân biệt hình thức bảo lãnh. Tỷ lệ TSĐB trên doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm còn tương đối cao. Điều này chứng tỏ ngân hàng qua thận trọng trong việc bảo lãnh đối với DNXL, TSĐB và mức ký quỹ vẫn còn được xem như là điều kiện kiên quyết để tiến hành bảo lãnh.
SGD đã xây dựng được một hình ảnh uy tín cao đối với các chủ đầu tư và chủ thầu Việt Nam, song vẫn chưa có uy tín cao đối với các chủ đầu tư và chủ thầu nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là mặc dù có kinh nghiệm trong việc thẩm định các dự án trong lĩnh vực xây lắp tuy nhiên vẫn còn yếu kém trong khâu quản lý và giám sát công trình. Mặt khác, SGD chưa có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các ngân hàng quốc tế có uy tín để xử lý nghiệp vụ bảo lãnh cho các đối tác liên doanh đồng thời có khả năng thu thập thông tin về đối tác nước ngoài. Đây là một trong những khó khăn, cần phải có giải pháp khắc phục kịp thời đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều DNXL nước ngoài sẽ thâm nhập thị trường Việt Nam. Những doanh nghiệp này sẽ là đối tượng khách hàng có nhiều tiềm năng trong tương lai.
Thông tin về khách hàng còn gặp nhiều hạn chế, gây khó khăn cho quá trình xét duyệt cán bộ thực hiện bảo lãnh – đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế quy mô bảo lãnh của SGD và đây cũng là một trong những khó khăn mà các ngân hàng Việt Nam đang mắc phải. Những thông tin thường được thu thập chủ yếu do khách hàng cung cấp. Các DNXL nhiều khi muốn được trúng thầu thường cung cấp những thông tin sai lệch, đưa ra mức chi phí thấp để được xét duyệt. Đề đánh giá được một các chính xác những thông tin đó, đòi hỏi cán bộ xét duyệt phải có trình độ cao.
Tại SGD vẫn còn có một số trường hợp khách hàng phàn nàn về phong cách phục vụ của cán bộ thực hiện hay thủ tục thực hiện còn phức tạp và rườm rà gây khó khăn cho khách hàng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và hình ảnh của SGD. Mặt khác, khi tiến hành thẩm định các hồ sơ của DNXL, các cán bộ thực hiện còn nặng về tâm lý DNXL có rủi ro cao nên còn thiếu sự linh hoạt trong sự đánh giá. Các cán bộ thường yêu cầu nhiều hồ sơ và thủ tục phức tạp, rườm ra không cần thiết hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác khi xét duyệt. Nhiều trường hợp, DNXL có báo cáo tài chính không đẹp do có những khoản nợ tồn đọng cao nhưng khả năng thi công công trình cao bị từ chối bảo lãnh do các cán bộ chưa tìm hiểu kỹ càng, bóc tách các thông tin để có sự đánh giá tổng quan hơn.
Sở dĩ có những hạn chế trên là do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan:
Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện bảo lãnh chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.Việc đào tạo cán bộ chủ yếu là đào tạo tại chỗ, tự nghiên cứu, học hỏi các cán bộ có kinh nghiệm. Các cán bộ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng giao tiếp, thuyết phục khách hàng và xử lý tính huống, kỹ năng Marketing khách hàng.
Thông tin khách hàng bị hạn chế về cả lượng và chất. Các thông tin bên ngoài phục vụ cho công tác thẩm định quyết định bảo lãnh hầu hết đều do chính khách hàng cung cấp hoặc từ một số nguồn khác trên phương tiện thông tin đại chúng... Hiện nay SGD vẫn chưa có bộ phận chuyên trách tập hợp nhưng thông tin các nhân riêng của khách hàng, chưa có một hệ thống mua thông tin của các tổ chức chuyên gia đánh giá, cung cấp thông tin để thực hiện công tác Marketing một cách hiệu quả.
Thủ tục bảo lãnh vẫn còn rườm rà thiếu tính linh hoạt. Doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin bảo lãnh phải tuân theo những thủ tục rườm rà, mất khá nhiều thời gian. Khi thẩm định các cán bộ thực hiện chỉ chú trọng phân tích báo cáo tài chính và khả năng ký quỹ của khách hàng mà ít để ý tới khả năng thực hiện công trình, mặc dù đây mới là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá.
Nguyên nhân khách quan:
Môi trường kinh tế và pháp lý đang có nhiều biến động do Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế với thế giới. Pháp luật bảo lãnh vẫn còn đang tiếp tục được hoàn thiện thường xuyên thay đổi và chưa thống nhất với thông lệ quốc tế, vì vậy gây khó khăn cho các cán bộ thực hiện hoạt động bảo lãnh. Nhà nước còn lỏng lẻo trong quá trình quản lý việc thành lập doanh nghiệp, gây ra tình trạng thành lập doanh nghiệp tràn lan, hoạt động trái pháp luật, tình trạng doanh nghiệp ma. Về việc quy hoạch triển khai các dự án được phê duyệt một cách ồ ạt, triển khai nhưng vẫn chưa huy động đủ nguồn lực gây rủi ro rất lớn đối với các DNXL. Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cửa được triển khai chậm, thủ tục công chứng không rõ ràng và thống nhất cũng là những vật cản làm chậm tốc độ phát triển hoạt động bảo lãnh của ngân hàng.
Các DNXL được bảo lãnh thường là các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn nặng tư tưởng bảo thủ làm ăn kém hiệu quả. Hiện tượng tiêu cực trong xây lắp công trình đang tràn lan làm giảm chất lượng công trình làm giảm sút uy tín. Các DNXL ngoài quốc doanh thì chưa quen với nghiệp vụ bảo lãnh và nếu có thì cũng ít có khả năng tiếp cận với bảo lãnh của ngân hàng do không đủ điều kiện TSĐB. Hiện nay xuất hiện những thủ thật lừa đảo ngân hàng như lập hợp đồng hóa đơn tính giá đầu ra lớn hơn giá đầu vào, làm hai hệ thống sổ sách tạo ra lãi giả, lập hợp đồng hóa đơn khống hoặc nâng giá trị vật tư hàng hóa tài sản để làm TSĐB xin bảo lãnh, sử dụng một kho hàng để thế chấp vay vốn hoặc xin bảo lãnh nhiều nới... gây khó khăn cho công tác thẩm định của ngân hàng.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH ĐỐI VỚI DNXL TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM
Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh đối với DNXLcủa SGD ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Năm 2007, hoạt động kinh doanh của SGD sẽ tập trung vào ba nhiệm vụ chính là: tăng tốc phát triển; cải cách triệt để trong quản trị điều hành lẫn tác nghiệp, gắn với đầu tư khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên tiến cùng nguồn lực sẵn có, đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh tiến dần theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; cổ phần hóa thành công. Để đạt được những mục tiêu trên, hội đồng quản trị ngân hàng BIDV đã đặt ra các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh chính năm 2007 như sau: tổng tài sản tăng ≥ 20%, nguồn vốn tăng ≥ 19%, tín dụng tăng ≥ 18%, thu dịch vụ ròng tăng tối thiểu 84%, chênh lệch thu chi tăng tối thiểu 49%, lợi nhuận trước thuế tăng tối thiểu 88%, dự phòng rủi ro đảm bảo trích đủ quy định, nợ xấu theo Điều 7 QĐ 493 phấn đấu ≤ 5%. SGD cũng đề ra những giải pháp cụ thể để hoàn thành các chỉ tiêu đó.
Đối với hoạt động bảo lãnh DNXL, SGĐ đề ra những mục tiêu sau:
Tăng tỷ trọng thu nhập từ phí bảo lãnh trong tổng thu nhập của ngân hàng, góp phần cơ cấu lại nguồn thu nhập giữa hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ.
Đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh trong đối tượng khách hàng bảo lãnh nhằm thực hiện tốt chính sách phân tán rủi ro của ngân hàng, mở rộng và xây dựng mối quan hệ với khách hàng, nâng cao vị thế và uy tín đối với thị trường tài chính quốc tế.
Về cơ cấu khách hàng, giảm bảo lãnh đối với DNXL tăng tỷ trọng bảo lãnh với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Không ngừng hoàn thiện quy trình bảo lãnh, nâng cao chất lượng công tác thẩm định bảo lãnh. Ứng dụng công nghệ hiện đại để góp phần hoàn thành tốt tiêu chuẩn chất lượng trong hoạt động bảo lãnh (theo ISO 9000)
Theo chính sách của SGD hiện nay là giảm bảo lãnh đối với các doanh nghiệp chỉ đơn thuần hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay khi mà ngành xây dựng đang có nhiều tiềm năng phát triển thì chính sách này tỏ ra không phù hợp với xu hướng muốn trở thành một ngân hàng bán buôn của SGD. Nền kinh tế phát triển tạo ra hai xu hướng, những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần hợp tác với nhau phát triển hiệu quả trong lĩnh vực vừa và nhỏ phù hợp với quy mô của mình, các doanh nghiệp lớn đủ tiềm lực thì phát triển mạnh mẽ trở thành những tập đoàn lớn. Quá trình mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp lớn đòi hỏi phải xây dựng nhà xưởng mới đảm bảo phù hợp với sự gia tăng sản xuất. Quá trình đô thị hóa tại Việt Nam cũng làm nhu cầu nhà ở tại Hà Nội tăng nhanh (theo thống kê gần đây nhất thì cầu về nhà cao hơn cung về nhà ở khoảng 4 lần), điều này tạo điều kiện cho việc phát triển các khu trung cư, đô thị mới. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì cở sở hạ tầng cũng phải dần dần được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển, nhà nước ta đã đang và sẽ triển khai những công trình thi công trọng điểm tầm cơ quốc gia. Như vậy cầu về công trình xây dựng sẽ tăng lên trong những năm sắp tới.
Hơn nữa, sau khi gia nhập WTO, chúng ta cho phép mở rộng thị trường, tạo không gian rộng lớn hơn cho ngày càng nhiều DNXL trong nước tiến vào thị trường quốc tế và xuất khẩu lao động. Khi nhận thầu công trình ở nước ta, các DNXL nước ngoài do thiếu nguồn nhân lực, chưa thông thạo pháp luật Việt Nam nên nhất định phải hợp tác với các DNXL của ta, từ đó tạo cho các DNXL chúng ta có thêm cơ hội hợp tác hùn vốn với doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua hùn vốn hợp tác, các DNXL Việt được trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật thi công tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp chúng ta nhanh chóng chuyển đổi cơ chế kinh doanh. Xét về toàn bộ là nâng cao được trình độ của các doanh nghiệp thi công xây dựng trong nước. Các doanh nghiệp nước ngoài nhận thầu công trình ở nước ta làm cho lực lượng lao động Việt có thêm nhiều cơ hội nhận được việc làm. Đồng thời, trong điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, tố chất của công nhân sẽ được nâng cao.
Cuối cùng, xây lắp vẫn là lĩnh vực mà ngân hàng có uy tín cao. Việc giảm cho vay và bảo lãnh cho lĩnh vực xây lắp và chuyển sang lĩnh vực rất có thể làm cho SGD gặp nhiều khó khăn, mất đi một lượng khác hàng lớn. Đồng thời đây là thời điểm mà các DNXL cần sự hỗ trợ hơn bao giờ hết để có thể nâng cao khả năng thì công và cạnh tranh với các DNXL của nước ngoài.
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh DNXL của SGD Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh đối với DNXL linh hoạt
Một chính sách phát triển tốt sẽ giống như một kim chỉ nam dẫn đường cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Vì vậy, SGD cần nhận thức được tầm quan trọng của nó. Thường kỳ, SGD xây dựng cho mình một chiến lược, kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh phù hợp với tình hình thực tế của Sở trên cơ sở đảm bảo thực hiện những mục tiêu mà hội sở chính đã đề ra. Các kế hoạch cần được vạch ra một cách càng chi tiết, rõ ràng đảm bảo được tính thống nhất, tập trung, kiên quyết trong chỉ đạo điều hành và thực hiện phân cấp ủy quyền rõ người, rõ việc, rõ thời gian tiến độ thực hiện. Đảm bảo sự đoàn kết nhất trí cao từ ban giám đốc đến toàn bộ cán bộ tạo ra sức mạnh tổng hợp để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mặc khác, các kế hoạch cần bám sát và tuân thủ chỉ đạo chặt chẽ của NHNN và Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Vì vậy SGD cần xem xét lại vai trò và khả năng phát triển của các DNXL trong tương lai xây dựng mục tiêu phù hợp cho hoạt động bảo lãnh trong lĩnh vực này.
Xây dựng chính sách giá hợp lý
Hiện nay, chính sách giá của các NHTM Việt Nam nói chung và SGD nói riêng vẫn thường được xây dựng dựa trên những biến động chung của thị trường và mối tương quan so sánh giữa các ngân hàng mà chưa có phương hướng căn bản. Nói cách khác, chung thường được điều chỉnh thụ động và chủ yếu là do tác động của các yếu tố ngoại tố. Nguyên nhân là do sự hạn chế về trình độ cán bộ ngân hàng, chính sách về giá vẫn bị xem là thứ yếu, công tác theo dõi thống kê các yếu tố chưa đầy đủ và thiếu tính hệ thống, chưa có phương pháp và công cụ điều chỉnh quá trình hình thành giá theo diễn biến thị trường, thiếu tiêu chí đánh giá mức độ tác động đến giá dịch vụ.
Trong khi đó, chính sách giá của các ngân hàng lại phụ thuộc rất nhiều và các những nội tố để xây dựng một quy trình thực hiện sản phẩm chi tiết với mục tiêu tối ưu hóa chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng. Những nhân tố nội tố bao gồm: mục tiêu của ngân hàng, chi phí tạo sản phẩm, loại hình khối lượng dịch vụ, khả năng điều hành hoạt động, chiến lược của ngân hàng....
Vì vậy trong thời gian tới, SGD cần sớm chuyên nghiệp hóa công tác xây dựng mức phí bảo lãnh. Mức phí bảo lãnh đưa ra phải dựa trên cơ sở những biến động của cả ngoại tố và nội tố, đồng thời phải tính đến sự khác biệt về mức độ rủi ro giữa các hình thức bảo lãnh, và các TSBĐ. Có như vậy, SGD mới có một mức phí một mặt, phù hợp với chất lượng hoạt động bảo lãnh, mặt khác đảm bảo được sự cân bằng lợi ích của SGD và khách hàng từ đó tạo nền móng vững chắc cho chính sách giá của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng đồng thời kết hợp với quá trình mở rộng hoạt động bảo lãnh xây lắp đặc biệt với các DNXL nước ngoài.
Như đã phân tích ở trên, các DNXL trong tương lai có tiềm năng phát triển rất lớn. Đây là mảnh đất màu mỡ mà SGD có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác nên dễ dàng gặt hái nhiều thành công. SGD cần tập trung phát triển trong tương lai. Đặc biệt sau khi nước ta gia nhập WTO, chúng ta cho phép mở rộng thị trường, thì tất yếu sẽ có những DNXL nước ngoài vào Việt Nam. Những doanh nghiệp nước ngoài này có kinh nghiệm phong phú và chế độ quản lý nội bộ doanh nghiệp chặt chẽ, năng lực thi công tốt. Bảo lãnh cho những doanh nghiệp này sẽ mang lại sự an toàn hơn cho ngân hàng đồng thời đem lại một nguồn thu nhập lớn. Vì vậy SGD cần có biện pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh để xây dựng được hình ảnh uy tín tốt đối với các DNXL nước ngoài. Mở rộng bảo lãnh song song với việc đảm bảo chất lượng bảo lãnh của ngân hàng. Khi làm việc với các DNXL nước ngoài SGD cần xây dựng cho mình một tác phong làm việc chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ trình độ chuyên môn cao có khả năng giao tiếp ngoại ngữ tốt, quy trình nghiệp vụ tốt. Đồng thời cần phải có sự cẩn trọng xem xét kỹ lưỡng về quyền hạn, trách nhiệm và điều kiện phát sinh nghĩa vụ trả thay cho khách hàng khi ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
Tăng cường kiểm tra và giám sát trước và sau khi bảo lãnh
Định kỳ, SGD cần kiểm tra và đánh giá lại giá trị TSBĐ và thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định. Phòng kiểm tra nội bộ yêu cầu các cán bộ được giao nhiệm vụ kiểm soát các giao dịch tín dụng duyệt ngay trong ngày các chứng từ bảo lãnh do giao dịch viên chuyển sang, để đảm bảo ngày giao dịch trên chứng từ bảo lãnh và ngày hạch toán các bút toán của giao dịch đó khớp đúng. Các cán bộ kiểm soát cần theo dõi thường xuyên và xuất các hợp đồng bảo lãnh hết hiệu lực đúng thời hạn ghi trong hợp đồng...
Tiếp nhận và xử lý TSBD cẩn trọng và linh hoạt
SGD cần tiếp tục duy trì sự linh hoạt trong việc quy định tỷ lệ kỹ quỹ và TSĐB. Tùy từng loại sản phẩm bảo lãnh, tùy từng xếp hạng doanh nghiệp mà có mức ký quỹ phù hợp. Đối với những DNXL xếp loại A, sử dụng bảo lãnh dự thầu thì mức yêu cầu ký quỹ có thể bằng 0. SGD có thể linh hoạt kết hợp kỹ quỹ ở một tỷ lệ nhất định với các biện pháp bảo đảm tài sản khác như đảm bảo bằng số tiền gửi tài khoản ngân hàng hoặc tài sản thế chấp khác dễ dàng phát mại khi rủi ro xảy ra. Đối với hồ sơ về TSĐB thì cần kiểm tra kỹ xác nhận của cơ quan công chứng nhà nước, cần giữ bản gốc của các giấy tờ sở hữu, giấy nộp thuế trước bạ, giấy cấp đất, cam kết thế chấp tài sản cho ngân hàng để phòng ngừa khách hàng lừa đảo. Công tác đánh giá tài sản thế chấp phải đảm bảo đến giá trị hiện tại và dự đoán những biến động.
Khi có rủi ro xảy ra cần xử lý linh hoạt TSĐB, tìm mọi biện pháp phù hợp ít gây tổn thất cho khách hàng và đảm bảo ngân hàng thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên ký quỹ và TSĐB chỉ là những biện pháp phòng bị rủi ro xảy ra, không phải là điều kiện kiên quyết để ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng. Khi thẩm định, các cán bộ thẩm định còn cần chú ý tới khả năng thực hiện công trình của DNXL. Trong quá trình bảo lãnh, SGD cần không ngừng kiểm tra giám sát đôn đốc doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng. Nếu thầy có rủi ro SGD cần tư vấn giúp đỡ doanh nghiệp, nếu không thể cứu vãn thì cần có biện pháp xử lý kịp thời để giảm thiểu tối đa mức thiệt hại.
Phát triển hoạt động tái bảo lãnh trong lĩnh vực xây lắp
Hiện nay, ở Việt Nam hoạt động tái bảo lãnh chưa được phát triển, nhưng có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai đặc biệt là khi có sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài. Thực hiện tái bảo lãnh giúp cho ngân hàng đa dạng dịch vụ giảm chi phí, tăng thu nhập và hạn chế rủi ro trong xây lắp, nâng cao chất lượng bảo lãnh và mở rộng được đối tượng khách hàng. Khi thực hiện tái bảo lãnh, rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp DNXL vi phạm hợp đồng và người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả thay nhưng ngân hàng không đủ khả năng thì ngân hàng nhận tái bảo lãnh sẽ phải chịu trách nhiệm. Để đóng vai trò làm ngân hàng tái bảo lãnh thì SGD phải xây dựng cho mình một uy tín lớn. Để đóng vai trò là một ngân hàng được tái bảo lãnh đòi hỏi SGD có uy tín và xây dựng được quan hệ tốt với các ngân hàng có uy tín cao ở Việt Nam và trên thế giới
Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng
SGD cần tiếp tục tập trung đẩy mạnh công tác khách hàng, tập trung chiến lược Marketing, tiến hành phân đoạn thị trường, hình thành hồ sơ khách hàng từ đó tập hợp những thông tin cá nhân riêng của khách hàng để thực hiện công tác Marketing một cách hiệu quả.
Về quy trình bảo lãnh, cán bộ thực hiện hoạt động bảo lãnh cần có sự linh hoạt hơn trong quá trình thực hiện. Bảo lãnh đối với khách hàng truyền thống, hoặc giá trị bảo lãnh nhỏ thì có thể giảm bớt một số thủ tục thẩm định rườm rà.
Về nhân tố con người: cần tập trung đào tạo cán bộ. Đây là một trong những vấn đề cốt yếu đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ, chăm sóc và duy trì tốt các mối quan hệ và sự ủng hộ khách hàng. Trước tiên, SGD cần tổ chức các buổi tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ. Với trình độ chuyên môn giỏi sẽ giúp các cán bộ thẩm định dự án công trình được chính xác, bóc tách được những số liệu sai sự thật sớm phát hiện những rủi ro tiềm ẩn. Nên nhớ rằng, công tác thẩm định tốt là điều kiện quyết định để SGD có thể phát triển hoạt động bảo lãnh. Ngoài việc nâng cao chất lượng chuyên môn cần tập trung đào tạo cho cán bộ các kỹ năng giao tiếp, khả năng thuyết phục khách hàng, trình độ ngoại ngữ. Một mặt để duy trì khách hàng, mặt khác duy trì uy tín của SGD, tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ được va chạm, cọ sát với thị trường, thực hiện đánh giá thị trường, và đánh giá doanh nghiệp, nâng cao kỹ năng giao tiếp, phục vụ khách hàng.
Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, SGD cần thường xuyên cập nhập những công nghệ mới, lựa chọn và ứng dụng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của SGD. Toàn bộ hệ thống SGD cũng như Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cần nối mạng với nhau, đồng thời phải tạo ra được mối quan hệ tốt với những công ty tin học khác để có được sự hỗ trợ kỹ thuật khi cần thiết và có thể yêu cầu họ giúp đỡ trong việc hoàn chỉnh các chương trình phần mềm phức tạp. Phòng Điện toán cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thành tốt việc cài đặt chương trình bảo mật thông tin cho SGD.
Kiến nghị
Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan nhà nước
Tạo ra một môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh mới chỉ được hình thành và phát triển trong thời gian gần đây nên việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ đồng bộ và thông nhất là một yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của hệ thống NHTM. Việc xây dựng hành lang pháp lý đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ ngành có liên quan như Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNH...
Để có sự thông thoáng, an toàn hiệu quả hơn trong hoạt động bảo lãnh đối với DNXL cần phải tạo ra một môi trường pháp lý chặt chẽ cho lĩnh vực XDCB. Thứ nhất, chính phủ cần ban hành luật xây dựng để quy định cụ thể về pháp lý hoạt động này, tạo điều kiện thuận lợi cho DNXL hoạt động có hiệu quả, hạn chế những rủi ro khách quan. Nợ đọng trong lĩnh vực XDCB là rất lớn, ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và DNXL, Chính phủ cần quyết định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và người quyết định đầu tư, phê duyệt dự án. Khi mở thầu thì phải bố trí đủ vốn để thực hiện dự án, tránh làm trước chạy vốn sau, hay vừa làm vừa chạy vốn, chưa có vốn đã mở thầu, việc đầu tư tràn lan, phân tán không hiệu quả trong XDCB. Đối với các đơn vị vay vốn ngân hàng để thi công chính phủ nên có biện pháp cho dãn thời gian vay và cấp bù lãi suất. Thứ hai, đề nghị nhà nước có chính sách thuế và BHXH đối với doanh nghiệp nhà nước còn nợ trong lĩnh vực xây lắp do các doanh nghiệp thường bị thanh toán chậm, nhỏ giọt trong nhiều năm trong khi các doanh nghiệp này vẫn phải nộp BHXH và thuế đầy đủ. Thứ ba, cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đứng ra làm tổng thầu khi có đủ năng lực. Hiện nay, các nhà thầu Việt Nam đặc biệt là các Tổng công ty có đủ năng lực thi công nhưng vẫn đang phải thầu phụ cho các nhà thầu nước ngoài nên dẫn đến quyền lợi cho các doanh nghiệp bị thua thiệt, uy tín bị hạn chế. Thứ tư, có cơ chế để thành lập liên doanh, liên kết ngân hàng – nhà thầu để đảm bảo sức mạnh cho các nhà thầu (nhà thầu có khả năng thi công, ngân hàng cung cấp tài chính, dịch vụ) từ đó khẳng định vị trí của các nhà thầu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thứ năm, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp luật về hoạt động bảo lãnh phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh, như vậy mới tránh được những tranh chấp khi rủi ro bảo lãnh xảy ra. Cuối cùng, trong luật doanh nghiệp quy định về việc thành lập DNXL ngoài vốn điều lệ cần cho thêm những chỉ tiêu về giá trị TSCĐ của DNXL để tránh việc thành lập những DNXL ma hoặc những doanh nghiệp chuyên đấu thầu sử dụng quan hệ để trúng thầu và bán gói thầu cho một doanh nghiệp khác thi công làm giảm chi phí thực tế cho công trình ảnh hưởng tới chất lượng công trình.
Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào muốn phát triển tối đa thì phải nằm trong một môi trường kinh doanh thuận lợi, đặc biệt đối với kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Do vậy, chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường theo đúng nghĩa. Chính phủ cần mạnh dạn cải cách các chính sách kinh tế còn khắt khe không khuyến khích phát triển. Các chính sách mở cửa kích thích đầu tư hợp tác kinh tế trong nước và ngoài nước cũng cần tiếp tục được triển khai, cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ với nhau. Các chủ thể kinh tế cần phải có được vị trí bình đẳng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, tạo động lực cho họ tập trung phát triển có chiến lược và hiệu quả hơn.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong bối cảnh thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu với khu vực và thế giới thì việc hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế là hết sức cấp thiết.
Đầu tiên, để giải quyết những vướng mắc đã được nêu ra khi áp dụng giới hạn tối đa được cho hoạt động cho vay và bảo lãnh, một số nước trên thế giới chỉ đưa ra một giới hạn chung cho từ 20% - 40% trên vốn tự có của TCTD. Quy định này tỏ ra có hiệu quả giúp cho các TCTD: thứ nhất, sẽ giải quyết được những bất cập trong việc quy định hai giới hạn riêng biệt. Thứ hai, giúp cho các TCTD linh hoạt hơn trong việc quyết định cho vay hay bảo lãnh cho khách hàng nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba, giúp cho việc quản trị rủi ro của TCTD được chặt chẽ và sát với thực tiễn hơn. Vì vậy, NHNN nên xem xét việc đưa ra một giới hạn chung cho cả nghiệp vụ cho vay và bảo lãnh, kết hợp với quản trị rủi ro đối với từng loại hình bảo lãnh.
Tiếp theo, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) NHNN cần phát huy hơn nữa vai trò hỗ trợ, cung cấp thông tin của doanh nghiệp cho NHTM trong quá trình thẩm định dự án và quản lý các khoản bảo lãnh. Đồng thời, NHNN cần kiểm tra giám sát hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Kịp thời phát hiện các sai sót vương mắc trong quá trình thực hiện và có biện pháp điều chỉnh xử lý kịp thời.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Xây dựng và hoàn thiện chính sách tín dụng nói chung và chính sách bảo lãnh nói riêng, thống nhất trong toàn hệ thống làm cơ sở và kim chỉ nam cho hoạt động bảo lãnh.
Tập trung công tác đào tạo cán bộ: tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao trình độ của cán bộ ngân hàng. Ngoài việc nâng cao chất lượng chuyên môn cần tập trung đào tạo cho các bộ các kỹ năng giao tiếp, khả năng thuyết phục khách hàng để duy trì khách hàng, mặt khác duy trì uy tín của BIDV trong hệ thống ngân hàng.
Tiếp tục công tác hiện đại hóa công nghệ ngân hàng toàn bộ hệ thống, ứng dụng công nghệ hiện đại, thực hiện mối liên kết chặt chẽ giữa các chi nhánh qua mạng Internet, qua đó cũng dễ dàng cho công tác truyền tin và cập nhật thông tin khi cần thiết. Hiện nay, ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã triển khai thành công dự án hiện đại hóa tại tất cả các chi nhánh trên toàn quốc, cơ sở dữ liệu đã được tập trung toàn bộ tại hội sở chính nhưng việc khai thác sử dựng dữ liệu tại SGD còn hạn chế, các đơn vị vẫn thực hiện gửi dữ liệu lên hội sở chính để tổng hợp báo cáo toàn ngành. Hội sở chính cần sớm triển khai khai thác dữ liệu hiệu quả từ kho dữ liệu của hệ thống, nhằm giảm thiểu chi phí thời gian nhặt số liệu tại các chi nhánh.
Kết luận
Phát triển các dịch vụ tài chính được xem là sự lựa chọn không thể tránh khỏi đối với các NHTM Việt Nam hiện nay trước thách thức của tiến trình hội nhập. Không nằm ngoài xu hướng, SGD đang không ngừng nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ của mình trong đó là có dịch vụ bảo lãnh đối với DNXL – đây được coi lĩnh vực mà SGD có nhiều uy tín. Trong những năm gần đây, hoạt động của những DNXL đang gặp rất nhiều khó khăn, câu hỏi đặt ra làm sao để tiếp tục bảo đảm được chất lượng bảo lãnh cho các doanh nghiệp này? SGD đang từng bước cố gắng để tìm ra những giải pháp để vừa có thể đáp ứng nhu cầu của các DNXL vừa đảm bảo được lợi nhuận cũng như uy tín của ngân hàng. Để thực hiện song song hai mục tiêu này đòi hỏi cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ phận, của từng nhân viên thực hiện. Cho đến nay những gì mà SGD đã đạt được đó là vẫn đảm bảo mức an toàn cho hoạt động bảo lãnh của SGD đồng thời đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các DNXL lớn có uy tín. Tuy nhiên SGD còn cần phải tiếp tục tìm ra và mạnh dạn áp dụng các giải pháp mới để khắc phục những vấn đề khó khăn còn tồn tại. Đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNXL Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để phát triển và sự xuất hiện của các DNXL nước ngoài, hai yếu tố này sẽ tạo ra những nhu cầu lớn bảo lãnh cho lĩnh vực xây lắp. SGD cần nắm bắt được xu thế mới xây dựng cho mình một chính sách bảo lãnh hợp lý, đặc biệt hoạt động tái bảo lãnh bấy lâu bị bỏ ngỏ cần phải có sự quan tâm để phát triển. Muốn vậy thì giải pháp trước mắt là SGD cần phải xây dựng uy tín của mình không chỉ đối với DNXL Việt Nam mà cả nước ngoài thông qua sự nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và công nghệ của SGD.
Tài liệu tham khảo
Frederic S. Mishkin, 2001, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
GS. TS. Lê Văn Tư, 2002, Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
PGS. TS. Phan Thị Thu Hà (chủ biên), 2006, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê.
PGS. TS. Thái Bác Cẩn, 2002, Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, NXB Tài chính.
Hội nghị triển khai kế hoạch kinh doanh năm 2006,2007 của SGD
Quy trình bảo lãnh 09/2001 – Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Sổ tay tín dụng của BIDV
QĐ 283/2000/NNNN, QĐ26/2006/NHNN, Luật đấu thầu
Các số tạp chí ngân hàng 2004, 2005, 2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CDNang cao chat luong HDBL doi voi DN xay lap.doc