Quá trình tìm hiểu thực tế về công tác thu chi hành chính sự nghiệp ở phòng tài chính kế hoạch Thành Phố Hải Dương em đã được tìm hiểu về các hoạt đông kinh tế của các phòng ban, hiểu được công tác hoạch toán kế toán và việc ghi chép theo dõi số liệu từ ban đầu đến khi thiết lập báo cáo quyết toán tài chính. Qua đó em đã vận dụng được giữa lý thuyết và chuyên môn, đối chiếu với tình hình thực tế phòng em đã sáng tỏ nhiều điều bổ ich cần thiết cho quá trình hoc tập của em tại trường. Phòng tài chính kế hoạch đã làm tôt công tác quản lý và phân phối quỹ quản lý ngân sách nhà nước theo đúng chế độ chính sách nhà nước quy định. Các số liệu chứng từ sổ sách đầy đủ rõ ràng mạch lạc giúp cho công tác hoạch toán kế toán, giám sát kiểm tra và đối chiếu thuận tiện.
111 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát thu chi tài chính tại phòng Tài Chính Kế Hoạch Thành Phố Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dự đoán trước được những biến động trong thu ngân sách trên cơ sở những căn cứ khoa học xác đáng để chủ động điều hòa thu, chi ngân sách nhà nước.
Năm 1997, Luật ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành và ngày 16-12-2002 Quốc hội khóa XI đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật ngân sách nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2004, phù hợp với việc triển khai các luật thuế mới (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) nhằm cải thiện tình hình phân cấp ngân sách, tạo thế ổn định và chủ động cho ngân sách địa phương.
Luật ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác về huy động và sử dụng nguồn vốn của ngân sách nhà nước đã tạo khuôn khổ pháp luật để đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. Việc áp dụng Luật ngân sách nhà nước đã đánh dấu bước tiến mới, nâng cao tính pháp quy trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, trong quan hệ tài chính giữa các cấp, các ngành.
Ngoài ra, Luật ngân sách nhà nước đã đề ra một số quan điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước mang tính định hướng XHCN. Những quan điểm này được thể hiện rõ trong mục tiêu và nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước. Mục tiêu của quản lý ngân sách nhà nước là "để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của nhà nước, tăng tích lũy để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại". Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước cũng được nêu cụ thể: "Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý gắn quyền hạn với trách nhiệm".
Luật ngân sách nhà nước đã thể hiện một sự thay đổi căn bản theo tư duy mới về quan điểm xây dựng, quản lý, điều hành, thực thi ngân sách nhà nước. Các quy trình ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh, hợp lý hóa và minh bạch hóa bằng các điều khoản pháp luật cụ thể:
- Về đối tượng chịu sự điều chỉnh, quản lý của ngân sách nhà nước, luật đã xác định rõ: "Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách các đơn vị hành pháp các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân".
- Về quản lý bội chi ngân sách, luật quy định: "Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách".
- Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, Luật ngân sách nhà nước đã xử lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo nguyên tắc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc. Còn ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, ổn định tỷ lệ điều tiết và số cấp bổ sung từ 3 - 5 năm. Nhờ đó đã tạo thế chủ động và đảm bảo tính độc lập tương đối của ngân sách địa phương. Một mặt, mở rộng quyền tự chủ để địa phương chủ động khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố trí chi tiêu hợp lý. Mặt khác, đảm bảo cho địa phương có đủ năng lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn.
+ Từ những phân tích và số liệu nêu trên cho thấy một thành công nổi bật nữa của quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ trong những năm đổi mới là đã quản lý được quan hệ thu, chi và thâm hụt ngân sách nhà nước.
Trước thời kỳ đổi mới, nguồn thu của ngân sách nhà nước ta từ thuế, phí, lệ phí và toàn bộ số thu khác trong nước cộng lại, thường không đảm bảo đủ chi thường xuyên, chứ chưa nói gì tới chi đầu tư phát triển. Do đó, bội chi ngân sách với tỷ lệ cao diễn ra liên tục từ năm này đến năm khác, buộc Nhà nước phải dựa vào việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn tới "lạm phát phi mã" đã xảy ra trong suốt một thời gian dài, gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng các chỉ số kinh tế vĩ mô. Vì thế, nền kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, xã hội mất lòng tin, nhiều tiêu cực về kinh tế - xã hội đã phát sinh, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Kể từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là từ những năm đầu thập niên 90 đến nay, chính phủ đã kiên quyết giữ nghiêm kỷ luật tài chính, hạn chế tiến tới xóa bỏ phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Các nguyên tắc thu, chi ngân sách lành mạnh được thiết lập, "ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thương xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bộ chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách".
Theo nguyên tắc này, bội chi ngân sách nhà nước nói chung đã được kiềm chế ở mức cho phép, cao nhất là 5% GDP. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000 bội chi ngân sách nhà nước ở vào khoảng 3,7% GDP, do Chính phủ kiên quyết cắt giảm chi tiêu nên mức thâm hụt đã giảm dần. Nếu như trong những năm 1986 - 1990, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu còn dựa vào phát hành tiền (57,9%), vay nợ nước ngoài (38,5%), vay trong nước (3,7%) thì từ năm 1992 - 2000, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đã được xử lý bằng các giải pháp vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và vay nước ngoài, chủ yếu là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế (ODA). Từ năm 1995 đến nay nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước chủ yếu là từ nguồn vay trong nước, trung bình của các giai đoạn này chiếm khoảng 70%, còn nguồn vay nước ngoài trung bình chiếm khoảng 30%. Nhờ đó mà giảm được áp lực tăng chỉ số giá tiêu dùng và khống chế được lạm phát ở mức một con số.
2. Về phía phòng
Những khiếm khuyết, bất cập trong hệ thống tài chính - tiền tệ ở nước ta hiện nay
1. Quá trình cải cách thuế ở nước ta trong những năm đổi mới đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng cũng còn nhiều khiếm khuyết, bất cập cả trong luật lệ lẫn trong hành thu và giám sát thu. Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay đã được cải cách rất cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều thứ thuế, phí trong ngân sách và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rất rườm rà, tản mạn, gây tiêu cực, thất thoát và không có tác dụng khuyến khích đầu tư của dân chúng.
2. Nợ nước ngoài mà Nhà nước vay trong điều kiện của nước ta hiện nay là cần thiết. Nhưng việc sử dụng nó có nơi, có lúc chưa đúng mục tiêu và không hiệu quả. Thậm chí không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, khó có khả năng trả nợ trong tương lai, nhưng vẫn được thụ hưởng từ những khoản nợ này. Tại đây còn có khiếm khuyết trong cơ chế tài chính nội tại và nhiều sơ hở ngay trong khâu đàm phán tài chính với nước ngoài và các khâu tiếp theo ở trong nước, gây cản trở lớn, làm chậm việc giải ngân.
3. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bị phân bổ dàn trải, không đầu tư tập trung dứt điểm công trình; không quan tâm đúng mức đến sự phát triển cân đối ngành, vùng, lãnh thổ. Nhiều trường hợp đã không quan tâm đúng mức và phân bổ vốn không tính đến việc kết hợp giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và bảo vệ môi trường.
4. Vấn đề phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, tuy đã được luật hóa, nhưng còn nhiều lúng túng. Có cấp ngân sách mà không có khả năng tạo ra hàng hóa và dịch vụ công cộng, do đó mà sự phân cấp này trở nên hữu danh vô thực. Trong phân cấp ngân sách dù đã cải tiến, song vẫn còn tình trạng biến tướng bao cấp "xin - cho" ở một mức độ nhất định, do quyền chủ động của ngân sách địa phương vẫn chưa được rõ ràng. Vì thế, đã tạo nên tâm lý ỉ lại, triệt tiêu ý thức chủ động của một số địa phương và ngành trong hệ thống công quyền.
5. Cấu trúc thị trường tài chính - tiền tệ của nước ta còn có những khiếm khuyết, bất cập trên nhiều mặt:
- Thị trường vốn dài hạn mới bước đầu hình thành và còn rất hạn hẹp, chưa phát huy được tác dụng trong nền kinh tế, do nhiều nguyên nhân từ phía nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính.
- Thị trường tiền tệ tuy đang phát huy tác dụng nhưng đã và đang bộc lộ sự bất cập là nguồn vốn VNĐ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, tổng dư nợ cho vay luôn cao hơn tổng vốn huy động. Có những nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế và trong bản thân các ngân hàng thương mại, khiến cho những ngân hàng này không sử dụng hết lượng ngoại tệ huy động được vào đầu tư mà phải gửi ra nước ngoài và chịu lỗ.
- Các ngân hàng thương mại của nước ta quá nhỏ bé về vốn. Riêng 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam thì chỉ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có vốn pháp định cao nhất là 5.000 tỷ VNĐ. Còn ở mức trung bình như Ngân hàng công thương Việt Nam thì chỉ có 2.500 tỷ VNĐ. Đây là một bất cập rất lớn, vì với vốn tự có ở mức như hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ có tỷ lệ vốn vào khoảng từ 2,5% đến 4% so với tổng tài sản "có". Trong khi thông lệ quốc tế đòi hỏi tỷ lệ này ít nhất phải không dưới 8%. Rõ ràng là với tỷ lệ này thì nội lực hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam không đảm bảo điều kiện cần và đủ để bước vào cuộc cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế mà thời gian không còn cho phép chờ đợi.
6. Trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn ở mức lạc hậu so với khu vực và quốc tế, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong những năm đổi mới vừa qua. Ngoài ra còn nhiều mặt hạn chế khác. Đó là:
- Thị trường tài chính - tiền tệ nước ta thiếu nghiêm trọng vốn đầu tư và vốn tín dụng dài hạn. Do đó, đang phải sử dụng một phần vốn tín dụng ngắn hạn để cho vay và đầu tư dài hạn. Điều này hàm chứa những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng dẫn tới khủng hoảng nợ.
- Tình trạng nợ xấu, trong đó bao gồm cả nợ quá hạn không thu hồi được, đang là gánh nặng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nước ta. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ở Việt Nam vẫn đang chịu sức ép của việc cho vay theo chỉ định ở một mức độ nhất định. Quyền chủ động của họ tuy đã được mở ra, nhưng mới chỉ là hình thức mà chưa đi vào thực chất.
- Ngân hàng nhà nước, nhất là các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chưa quản lý, điều hành một cách có hiệu lực và hiệu quả việc thực thi chính sách tiền tệ. Sở dĩ như vậy là do thị trường liên ngân hàng ở nước ta vừa mới hình thành, nên chưa phát triển sôi động. Từ đó không hình thành được "lãi suất cơ bản" một cách thực chất để giúp cho ngân hàng nhà nước trung ương chỉ đạo việc thực thi tốt chính sách tiền tệ. Mặt khác, cho đến nay ngân hàng nhà nước, đặc biệt là các chi nhánh ở địa phương vẫn chưa thực sự được chủ động và độc lập tương đối trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tổ chức của ngân hàng nhà nước còn cồng kềnh, có chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi nhu cầu thực tế và thông lệ quốc tế cho thấy không cần thiết phải như vậy.
Những phương hướng giải quyết
Từ những trình bày, phân tích trên tôi có một số kiến nghị như sau:
1. Cần làm cho mọi ngành, mọi cấp nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống tài chính - tiền tệ có vai trò rất trọng yếu, là xương sống của nền kinh tế. Trong đó tài chính nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hệ thống ngân hàng là "trung tâm thần kinh".
2. Trong chỉ đạo, quản lý, điều hành lĩnh vực tài chính - tiền tệ có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế, từ vĩ mô đến vi mô, từ vùng đến lãnh thổ, từ trung ương đến các cấp chính quyền và các bộ, ngành, các tụ điểm thị trường cần phải có sự phối, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan trong việc ban hành luật lệ, chính sách và giữa các ngành, các cấp để không xảy ra những trục trặc không đáng có trong quá trình đầu tư, làm hạn chế, triệt tiêu động lực hoặc để xảy ra tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".
3. Tiếp tục hoàn thiện các luật thuế theo phương châm vừa hiện đại vừa gọn nhẹ, có tác dụng khuyến khích thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng được thu ngân sách nhà nước, và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đồng bộ hóa các luật lệ liên quan đến môi trường đầu tư của hệ thống tài chính - tiền tệ. Tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam.
5. Đồng thời với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, cần phải cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng Nhà nước nắm quyền chi phối 51% vốn và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại. Chỉ với phương sách này mới nâng cao được năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
6. Cần đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện "thị trường mở" theo phương châm hiện đại hóa. Trên cơ sở đó mà thực thi chức năng quản lý, điều tiết thị trường tài chính - tiền tệ bằng cách "bơm" tiền vào hay "hút" tiền ra khỏi lĩnh vực lưu thông theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và tín hiệu của thị trường một cách hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cũng trên cơ sở này mà góp phần kiềm soát lạm phát tiền tệ ở mức hợp lý có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
7. Tiếp tục làm trong sạch và lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiếp tục hoàn thành dứt điểm việc xử lý nợ xấu còn tồn đọng.
8. Cần thực thi một hệ thống giải pháp thiết thực, đồng bộ để tạo niềm tin của dân chúng đối với VNĐ. Bởi lẽ đã một thập niên VNĐ về căn bản giữ được giá trị ổn định, song người dân vẫn chưa yên tâm với nó, nên ít dùng nó để đầu tư vốn dài hạn. Cũng vì lý do này nên tình trạng đô la hóa vẫn tồn tại và tiếp diễn trong nền kinh tế nước ta
3. Về phía các cơ quan thanh tra nhà nước
Khó khăn, thuận lợi
Qua đánh giá tổng quát của đơn vị thanh tra cho thấy, về cơ bản các doanh nghiệp được thanh tra vẫn giữ được thế chủ động trong xu thế hội nhập, đồng thời khẳng định được chính mình trên thị trường trong và ngoài nước. Điều đó đã được biểu hiện cụ thể ở nhiều mặt như sản lượng sản phẩm tăng, giá thành hạ, doanh thu tăng hơn nhiều lần, ổn định việc làm cho người lao động và tạo việc làm mới cho nhiều lao động v.v. Đặc biệt, tại 4 Tổng công ty được thanh tra này cho thấy bước chuyển biến tích cực trong các hoạt động quản lý tài chính; thực hiện đổi mới quản lý tài chính doanh nghiệp, đề cao kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thì vẫn còn quá nhiều những vấn đề đã tồn tại cần giải quyết như vấn đề đầu tư, quản lý tài chính vốn, báo cáo doanh thu, thu mua nguyên vật liệu. Về, đầu tư: Hầu hết các doanh nghiệp muốn đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại với nguồn vốn vay ngân hàng trong nước hoặc vay nước ngoài. Nhưng quá trình triển khai các dự án thường bị vướng mắc bởi vấn đề trình tự thủ tục xét duyệt đầu tư XDCB kéo dài nên xảy ra tình trạng tiến độ đầu tư kéo dài, ứ đọng vốn, doanh nghiệp phải trả lãi vay ngân hàng với số tiền lên tới hàng tỷ đồng, thậm chí mất cơ hội đầu tư.
Thứ hai là quản lý tài chính, vốn. Tình hình nợ xấu vẫn còn nhiều khoản có khả năng mất hết vốn Nhà nước.
Thứ ba là báo cáo doanh thu, chi phí lỗ lãi có dấu hiệu không chuẩn xác
Thứ tư là vấn đề thu mua, sử dụng nguyên vật liệu chưa sát với nhu cầu thực tế, tình trạng quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến thừa, không bảo quản lâu được nên nguyên vật liệu bị kém, mất phẩm chất, thậm chí bị bỏ phí.
Những phương hướng giải quyết
- Cơ quan tài chính, cơ quan thu ngân sách, cơ quan Kho bạc Nhà nước, đơn vị dự toán các cấp theo chức năng nhiệm vụ được phân công có trách nhiệm tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra kế toán thường xuyên, định kỳ đối với các đơn vị, cá nhân có nghĩa vụ thu nộp ngân sách, đơn vị sử dụng ngân sách các cấp
- Tất cả các đơn vị dự toán và các cấp ngân sách phải thực hiện nghiêm túc những quy định về công tác kế toán và quyết toán ngân sách nhà nước, phải lập quyết toán ngân sách nhà nước theo đúng mẫu biểu và thời hạn quy định. Nếu đơn vị chậm nộp, ngoài việc phải chịu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, thống kê theo quy định; cơ quan tài chính tạm đình chỉ hoặc yêu cầu Kho bạc Nhà nước đồng cấp tạm đình chỉ cấp kinh phí cho đến khi đơn vị nộp báo cáo quyết toán năm, trừ một số khoản chi cấp thiết như lương, phụ cấp lương, trợ cấp, học bổng học sinh sinh viên.
- Việc kiểm toán quyết toán năm của các đơn vị dự toán và ngân sách các cấp do cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện theo quy định tại Điều 66 của Luật Ngân sách nhà nước và Điều 78 của Nghị định số 60/2003/NĐ- CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ. Khi nhận được kiến nghị của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét xử lý đúng theo quy định của pháp luật trước khi Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương và thông báo cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
PHẦN III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT TÀI CHÍNH TẠI PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ HOẠCH THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
1. Phương hướng hoạt động của Phòng tài chính KH Thành Phố Hải Dương
1.1. Vai trò của KVKTTN
a) Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Tư nhân hoá DNNN ở các nước chuyển đổi ngày càng tăng trong thời kỳ này. Trong giai đoạn 1990-1999, việc thực hiện tư nhân hoá thu được khoảng 250 tỷ USD. Phần doanh thu này chủ yếu có được từ việc tư nhân hoá các ngành kết cấu hạ tầng, ngành viễn thông và năng lượng, ở khu vực sản xuất thứ nhất, bao gồm các ngành dầu mỏ, khai khoáng, nông nghiệp và lâm sản. Các DNNN lớn được tư nhân hoá gần đây tập trung ở các ngành dầu khí và khí ở Ba Lan và Nga. Việc tư nhân hoá này đã tạo nên sự gia tăng trong tỷ lệ đóng góp vào GDP.
b) Giải phóng lực lượng sản xuất, tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
KVKTTN có thể được coi là nhân tố quan trọng và mang tính quyết định trong việc giải quyết các vấn đề việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Sự phát triển của KVKTTN có thể được xem như một công cụ có chức năng làm giảm chi tiêu của Chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh do thất bại trong quá trình tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Tỷ lệ việc làm và giá trị gia tăng được nắm giữ bởi các DNNN nhỏ (chính sách ít hơn 50 công nhân), đại diện cho các DNNN mới sẽ phân chia khu vực kinh tế chuyển đổi thành 2 nhóm. Ở các nước như Cộng hoà Séc, Hungari, Lithuania và Ba Lan, khối doanh nghiệp mới tăng trưởng rất nhanh, hiện nay chiếm khoảng hơn 50% lượng việc làm và khoảng 55-65% giá trị gia tăng.
c) Sử dụng hiệu quả nguồn lực
KVKTTN, đặc biệt là khu vực được tư nhân hoá có ảnh hưởng lớn đến tốc độ cơ cấu lại. Tăng trưởng năng suất lao động trung bình ở các nước chuyển đổi trong thời kỳ 1992-1995 là 7,2% hàng năm đối với các hãng tư nhân, nhưng lại là -0,3% đối với các DNNN. Nói cách khác, quá trình tư nhân hoá là nguyên nhân chính của việc gia tăng năng suất ở các nước chuyển đổi.
d) Đóng góp vào công tác đào tạo bồi dưỡng
KVKTTN có vai trò rất lớn trong đóng góp vào việc đào tạo, bồi dưỡng các nhà doanh nghiệp trẻ cho đất nước. Nếu như ở thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Hungari chi tiêu cho nghiên cứu giảm sút, số lượng các nhà khoa học, kỹ sư nghiên cứu và việc tiến hành các dự án giảm từ 17.550 xuống còn 10.405, thì đến năm 1997 đã tăng lên 27% các nhà khoa học của Hungari làm việc trong KVKTTN, 35% khu vực kinh tế nhà nước và 38% ở bậc đại học. Một thực tế nổi bật, đó là đầu tư vào công tác giáo dục đào tạo trong khu vực tư nhân là rất lớn và việc tư nhân hoá các khu vực chiến lược của nền kinh tế như năng lượng và viễn thông đóng vai trò rất quan trọng trong việc khôi phục lại trạng thái ban đầu (Viện Nghiên cứu thế giới – 2000).
e) Đóng góp vào ngân sách nhà nước
Chính phủ thu được một khoản ngân sách lớn hơn từ khu vực doanh nghiệp được tư nhân hoá do các hãng tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn so với các DNNN đặc biệt trong các ngành cạnh tranh. Thâm hụt ngân sách giảm trong suốt quá trình này. Ở những nước thu nhập thấp với ít hãng tư nhân hoá thường có một khoản thâm hụt ngân sách đáng kể. Còn đối với những nước thu nhập trung bình và cao, tư nhân hoá làm giảm phần chuyển nhượng ròng sang các DNNN, và phần chuyển nhượng này sẽ dương khi Chính phủ bắt đầu thu thuế từ KVKTTN. Như vậy, việc kết hợp quá trình tư nhân hoá với các yếu tố khác dẫn đến kết quả giảm mạnh nợ quốc gia, góp phần thúc đẩy và ổn định nền kinh tế.
g) Tạo phúc lợi kinh tế-xã hội
KVKTTN, đặc biệt là khu vực DNNN được tư nhân hoá đã đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình tạo phúc lợi kinh tế-xã hội. Một thí dụ điển hình là tiến hành tư nhân hoá một Công ty độc quyền nhà nước hoạt động không hiệu quả, kết quả là tăng lợi ích doanh nghiệp, tăng thu nhập đối với các cổ đông, thậm chí tăng lương đối với công nhân, mở rộng cơ hội việc làm, tạo nguồn thu ngân sách nhà nước.
Các quốc gia chuyển đổi đã trải qua một thời gian dài trên 10 năm với những cải cách thành công và tiến xã trên nhiều lĩnh vực: ngân hàng, tài chính và lĩnh vực doanh nghiệp. Sự khôi phục kinh tế nhanh và bền vững sau cuộc suy thoái kinh tế là phần thưởng mà họ đã nhận được cho thành tựu quản lý kinh tế hiệu quả, góp phần không nhỏ là sự phát triển KVKTTN.
Các nước chuyển đổi nói chung và Việt Nam nói riêng ngày nay đang phải đối mặt với nhiều thử thách mới do tác động của toàn cầu hoá nền kinh tế và thị trường, sự thay đổi công nghệ liên tục và nhu cầu cạnh tranh. Vì vậy, nhà nước đã có những chính sách thích hợp để thúc đẩy một khu vực kinh tế năng động và góp phần không nhỏ vào mục tiêu phát triển đất nước - KVKTTN. Thông qua việc thực hiện luật cạnh tranh hiệu quả, Chính phủ có thể tác động lên doanh nghiệp, khuyến khích sự linh động và phân bổ hiệu quả nguồn lực, đồng thời có chức năng quan trọng trong kiểm soát đối với từng địa phương trong việc khuyến khích cạnh tranh có hiệu quả lớn ở khu vực tư nhân.
1.2. Phương hướng hoạt động của phòng TCKH TP HD
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp. Quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Thu hút mạnh hơn vốn đầu tư của khu vực dan doanh và vốn đầu tư nước ngoài. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Chuẩn bị các điều kiện để đáp ứng tốt yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Khai thác tối đa các lợi thế và hạn chế các mặt bất lợi do mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ tăng trưởng. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết. Tạo mọi điều kiện thuận lợi tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ cao từ bên ngoài.
Đẩy mạnh hoạt động xã hội hoá trong các lĩnh vực văn hoá – xã hội, tạo sự chuyển biến trong việc nâng cao mức sống nhân dân, nhất là phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao. Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội bền vững, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc như xoá đói, giảm nghèo, việc làm, chống AIDS và các tệ nạn xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Phát huy dân chủ cơ sở, tăng cường đối thoại giữa chính quyền địa phương với cộng đồng doanh nghiệp và dân cư.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát tài chính tại Phòng tài chính kế hoạch Thành Phố Hải Dương
2.1. Giải pháp về phía nhà nước
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành chính sách kinh tế đối ngoại nhất quán của Nhà nước, với mục tiêu chính là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của đất nước trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học - công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho nước ta phát triển ngày càng nhanh và bền vững hơn.
Với vai trò của mình, Nhà nước đã và đang thực hiện từng bước nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ. Nhà nước với tư cách là chủ thể chính trong hội nhập kinh tế quốc tế, vừa ký kết các hiệp định kinh tế đối ngoại dưới hình thức đa phương và song phương, vừa tham gia các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư khoa học - kỹ thuật với từng nước.
Một thực thể kinh tế nữa đang ngày càng trở nên mạnh hơn và lũng đoạn nền kinh tế thế giới, đó là các tập đoàn kinh tế đa quốc gia và xuyên quốc gia. Ở nước ta, việc mất thị phần ngay cả trên thị trường nội địa cũng đã xảy ra đối với nhiều doanh nghiệp. Trong bối cảnh như vậy, để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, kể cả nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế. Chúng ta cần phải có các giải pháp phù hợp để đối phó với các nguy cơ này. Cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ trên thế giới đang có những bước tiến nhảy vọt đáng kể. Những biến đổi đáng kể về chất của tiến bộ khoa học đã và đang làm thay đổi dần vị trí, vai trò của các chủ thể trong những mối quan hệ kinh tế - xã hội theo hướng kết hợp và cởi mở hơn. Trong bối cảnh đó, với tư cách là người quản lý nền kinh tế đất nước, vai trò của Nhà nước cần được điều chỉnh lại theo chiều hướng tích cực, sao cho có hiệu quả và đảm bảo phù hợp với những thay đổi trên.
Kinh tế tri thức mà đứng đầu là các lĩnh vực công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, đã góp phần quan trọng tạo ra sự tăng trưởng kinh tế vượt trội ở các nước có nền kinh tế phát triển. Điều đáng chú ý ở đây là, khác với các nền kinh tế truyền thống, nguồn lực chủ yếu mà kinh tế tri thức dựa vào là tri thức của con người chứ không phải sức lao động và tài nguyên. Do đó, để việc quản lý nền kinh tế tri thức cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong thời đại ngày nay được nhạy bén, kịp thời và thực sự khoa học, thì vai trò của Nhà nước cần được nâng lên ở tầm cao mới, đảm bảo cho việc quản lý Nhà nước được thực hiện với năng lực, trí tuệ cao và phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Như vậy, trước những thực thể kinh tế và những yếu tố kinh tế nêu trên đang tồn tại và phát triển khách quan trong một xu thế toàn cầu hoá về kinh tế không thể cưỡng lại, thì những thách thức - đồng thời là khó khăn phải vượt qua - đối với nền kinh tế nước ta là không nhỏ. Nhưng những thách thức đó cũng chính là cơ hội mà nước ta cần nắm bắt lấy để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế hiện nay so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Sứ mệnh của nhiệm vụ này chắc chắn được giao cho không ngoài ai khác là Nhà nước, với vai trò kinh tế phải không ngừng được tăng cường. Thực tế của việc tăng cường này chính là nhằm tạo dựng nên Nhà nước pháp quyền, qua đó đảm bảo một môi trường chính trị và xã hội dân chủ, cho phép mọi người dân có thể bày tỏ được quan điểm và chính kiến cũng như các ý tưởng sáng tạo của mình. Do đó, ở nước ta hiện nay, để phát triển được một nền kinh tế hiện đại, cần có nhiều nhân tố, nhưng điều kiện tiên quyết không thể thiếu được là phải có Nhà nước pháp quyền thực sự dân chủ, trong đó vấn đề nâng cao vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần hết sức được quan tâm. Đây cũng chính là yêu cầu cần thiết, đảm bảo cho Nhà nước ta kết hợp và quản lý có kết quả nền kinh tế thị trường ngày càng dựa nhiều trên tri thức, khoa học - công nghệ và sự cạnh tranh quốc tế, qua đó thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước theo tình thần Đại hội IX của Đảng là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, các đoàn thể và giám sát trực tiếp của nhân dân, đối với sự chỉ đạo, điều hành, triển khai công tác cải cách hành chính của Uỷ ban nhân dân các cấp và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính các sở, ngành, các cấp.
- Ủy ban nhân dân thành phố, Giám đốc các sở, ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn phải coi cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo quyết liệt. Tăng cường công tác kiểm tra, gắn với khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong triển khai thực hiện cải cách hành chính: Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cấp trên trực tiếp về kết quả cải cách hành chính và những đánh giá của tổ chức, công dân về chất lượng phục vụ của cơ quan, đơn vị mình.
- Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị. Sự chỉ đạo cải cách hành chính phải gắn chặt với sự chỉ đạo cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ từ thành phố tới các địa phương, cơ sở; đồng bộ giữa các sở, ngành, nhất là các sở, ngành có nhiệm vụ liên quan.
- Phải huy động và bố trí đủ cán bộ, công chức có năng lực, trách nhiệm triển khai thực hiện các nội dung đã đề ra. Nâng cao năng lực nghiên cứu và tổ chức thực hiện của các cơ quan có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức triển khai công tác cải cách hành chính. Bố trí nguồn lực tài chính cần thiết từ ngân sách nhà nước và tranh thủ các nguồn tài trợ để xây dựng, thực hiện các nội dung cụ thể đã xác định.
- Tăng cường công tác giáo dục tuyên truyền, phổ biến thông tin về cải cách hành chính và pháp luật liên quan để mọi cán bộ, công chức và người dân nhận thức đầy đủ, giám sát thực hiện. Hàng năm, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ngành tiến hành việc sơ kết, rút kinh nghiệm và lập kế hoạch triển khai cho năm sau. Đưa nội dung công tác cải cách hành chính vào nội dụng thi đua hàng năm, có phê bình nghiêm khắc, khen thưởng kịp thời; xây dựng và nhân các điển hình tiên tiến về công tác cải cách hành chính.
2.2. Giải pháp về phía phòng tài chính kế hoạch
a) Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức
+ Trên cơ sở kết quả tổng điều tra đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để từng bước chuyển sang quản lý cán bộ, công chức bằng hệ thống mạng tin học. Hoàn thiện việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức theo hướng phân cấp quản lý về nhân sự đi liền với phân cấp về nhiệm vụ và phân cấp về tài chính.
+ Theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ, UBND TP, nghiên cứu, xác định lại cơ cấu cán bộ, công chức hợp lý, phù hợp với khối lượng và chất lượng công việc, nhiệm vụ của từng cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, làm cơ sở cho việc định biên và xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức của thành phố. + Thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức có bổ sung mới và quy chế mới về đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức để nâng cao chất lượng hoạt động công vụ.
+ Thực hiện tinh giảm biên chế trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp để thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức, viên chức không đủ năng lực, trình độ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tạo điều kiện đổi mới, trẻ hoá, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
+ Tổ chức thí điểm thi tuyển chọn để bổ nhiệm trưởng phòng, phó trưởng phòng các sở, ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã; nghiên cứu đề xuất qui trình đơn giản và hiệu quả hơn về bổ nhiệm cán bộ. + Đổi mới, nâng cao năng lực của các cơ quan và cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý cán bộ, công chức, công vụ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ
+ Tiếp tục triển khai chế độ tiền lương mới và các chế độ, chính sách đãi ngộ khác của Chính phủ đối với cán bộ, công chức, viên chức.
+ Xây dựng, ban hành thực hiện một số chế độ đãi ngộ của địa phương nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức hiện có; thu hút những người giỏi và tâm huyết về công tác tại địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
+ Đánh giá lại công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; xây dựng và triển khai kế hoạch có tính chiến lược về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước. Triển khai những đổi mới nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng nâng cao kiến thức, kỹ năng hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức theo chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Kết hợp đào tạo chính qui với các hình thức đào tạo không chính qui, đào tạo trong nước và gửi đi đào tạo ngoài nước. Khuyến khích cán bộ, công chức tự học tập có sự giúp đỡ của Nhà nước. + Triển khai tổ chức lại hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; điều chỉnh sự phân công giữa các cơ sở đào tạo; tạo điều kiện để có thể chủ động đào tạo một bộ phận nhân lực phục vụ bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức
+ Các ngành, các cấp chính quyền thành phố tiếp tục triển khai có hiệu quả Quyết định số 3203/QĐ-UB về việc áp dụng một số biện pháp hạn chế, tiến tới chấm dứt tệ gây phiền hà, sách nhiễu tiêu cực trong cán bộ, công chức các cơ quan hành chính nhà nước thành phố.
+ Tăng cường các biện pháp giáo dục cán bộ, công chức về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm, tận tuỵ với công việc. Triển khai thực hiện phương pháp khoa học đánh giá kết quả công tác của cán bộ, công chức theo hướng dẫn của Chính phủ.
+ Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; triển khai áp dụng chế độ thanh tra, kiểm tra công vụ ở các cấp, kể cả chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và của cá nhân công chức theo quy định của Chính phủ. + Triển khai thực hiện Qui chế công vụ, gắn với thực hiện Qui chế dân chủ, công khai, minh bạch những nội dung quy định phải được công khai trong các cơ quan hành chính nhà nước. Triển khai tuyên truyền, học tập Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãnh phí; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
b) Cải cách tài chính công
- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các Bộ, Sở, Ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
- Trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, thực hiện đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, xoá bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cách tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi mới hệ thống định mức chi tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.
- Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới, như: Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, xóa bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài chính công, tất cả các chỉ tiêu tài chính đều được công bố công khai.
2.3. Giải pháp tăng Nhiều nguồn thu tài chính còn bỏ ngỏ
Nhiều tiềm năng vốn chưa được khai thác
Hiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn nhưng mức đáp ứng còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong và ngoài nước chưa được khai thác tốt, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn ngắn hạn, trung và dài hạn), thị trường dịch vụ tài chính, bảo hiểm, tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán... phát triển chưa đồng bộ, còn ở trình độ thấp, qui mô nhỏ bé, chất lượng dịch vụ chưa cao, chưa tạo ra sự hấp dẫn để trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển.
Hiện nguồn thu ngân sách chưa triệt để bởi còn những hiện tượng chậm trễ trong thu thuế, gian lận hoàn thuế, vi phạm pháp luật về thu nộp ngân sách... Đặc biệt, công tác quản lý và sử dụng đất đai từ khâu quy hoạch sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất, chuyển nhượng đất đai còn thất thoát lãng phí và chưa tận thu hết.
Bên cạnh đó, các qui định về quản lý thu thuế tuy đã có, nhưng chưa được hệ thống hoá và nâng lên thành luật nên hiệu quả thực thi chính sách pháp luật về thuế, phí và lệ phí còn có hạn chế đối với cả cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế. Chính quyền các địa phương chưa có quy định chung về thu thuế đối với các loại thuế được giao cho địa phương như thuế đối với quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế môn bài đối với cá nhân và hộ kinh doanh, lệ phí trước bạ nhà đất...
Phân chia ngân sách còn bất hợp lý
Đánh giá về việc thực hiện thu chi ngân sách trong thời gian qua. Theo báo cáo của ngành Tài chính, cơ chế tài chính hiện chưa thực sự tách bạch giữa cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp, giữa đơn vị sự nghiệp và DN. Chính vì vậy, đã gây mất công bằng, bất hợp lý không chỉ giữa các khu vực này với khu vực khác, mà còn giữa đơn vị này với đơn vị khác trong cùng khu vực.
Việc quản lý tài sản Nhà nước hiện chưa phân định giữa tài sản của Chính phủ Trung ương và tài sản của chính quyền địa phương cũng như chưa có tiêu chí xác định tài sản quốc gia, tài sản của cấp tỉnh, tài sản cấp huyện, tài sản cấp xã. Điều này đã dẫn đến sự nhầm lẫn trong xác định tài sản của chính quyền các cấp. Việc phân cấp quản lý ngân sách hiện nay dựa trên phân cấp kinh tế - xã hội nên vẫn còn sự chưa ăn khớp giữa phân cấp ngân sách với phân cấp quản lý biên chế, phân cấp giáo dục, phân cấp y tế, phân cấp nông, lâm nghiệp dẫn đến tình trạng ''tiền không đi liền với việc'' hoặc gây trở ngại cho quá trình phân cấp ngân sách nhà nước.
Quá trình phân chia ngân sách hiện nay chưa có các qui định cụ thể về nội dung, thủ tục kiểm tra tài chính, chưa có sự phân định giữa thanh tra và kiểm tra tài chính. Tình trạng chồng chéo giữa thanh tra tài chính và Kiểm toán nhà nước, chưa phân định giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về tài chính dẫn đến nhiều bất cập.
Ngoài ra, cơ cấu đầu tư hiện nay chưa hợp lý, tính dàn trải trong chi đầu tư chưa hết, hiệu quả đầu tư còn thấp; thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn nghiêm trọng; đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng thấp. Bao cấp trong ngân sách chưa được xoá bỏ triệt để; chi tiêu ngân sách, chi tiêu hành chính còn lãng phí, thiếu hiệu quả; chi ngân sách cho một số lĩnh vực phục vụ nhu cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục, y tế chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết.
3. Các Kiến nghị
3.1. Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu trình Chính phủ ban hành một số nội dung, giúp địa phương trong công tác đăng ký kinh doanh ở những vấn đề còn khó khăn nêu tại điểm 2.1, 2.2. Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang có Báo đầu tư, vậy nên dành trang riêng cho việc đăng bố cáo thành lập, giải thể doanh nghiệp ở các địa phương, nhằm giảm bớt lệ phí đăng bố cáo thành lập và giải thể, đồng thời cũng nhằm thống kê, thông báo danh sách các doanh nghiệp thành lập, giải thể trên toàn quốc để các địa phương biết. thuận tiện cho việc quản lý.
3.2. Kiến nghị với UBND tỉnh
Việc ban hành các quyết định có hiệu quả, phù hợp với thực tế, có giá trị thực thi là chức năng cơ bản của bộ máy nhà nước. Khắc phục tính chủ quan, duy ý chí, ban hành nhiều quy định, quyết định, không tính đến các điều kiện và hiệu quả thực thi làm giảm lòng tin của nhân dân và mất đi tính nghiêm minh của cơ quan ban hành quy định. Đồng thời phải tính đến khả năng điều hành thực thi, tránh gây lãng phí, làm cho các quy định có sức sống trong xã hội. Để được như vậy cần xây dựng cơ chế lập và điều phối chính sách có hiệu quả tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng tính kỷ luật nhằm loại bỏ những quyết định không có khả năng tài chính, không có khả năng thực thi.
Tăng cường vai trò, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát tài chính - ngân sách nhà nước.
- Hoàn chỉnh Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy hệ thống Thanh tra Tài chính nhằm xác định rõ chức năng của Thanh tra Tài chính; Phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tài chính với Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Nhà nước.
Quy định mối quan hệ giữa Thanh tra Bộ Tài chính với các cơ quan kiểm tra, thanh tra trong toàn ngành, tránh trùng lắp, chồng chéo, phát huy hiệu quả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính. Thực hiện tốt chức năng thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
- Đổi mới phương pháp, hoàn thiện các quy chế công tác, quy trình nghiệp vụ thanh tra, phúc tra và kết luận, kiến nghị thanh tra.
Tăng cường cán bộ, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ Thanh tra Tài chính.
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và tổ chức bộ máy thực hiện giám sát tài chính đối với hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh và hệ thống thị trường tài chính.
Tổ chức công tác giám sát, phân tích việc dịch chuyển các luồng vốn để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, đặc biệt là các luồng vốn ngắn hạn; Thực hiện giám sát nhiều chiều qua các công cụ tài chính - tiền tệ; Kiểm soát giới hạn vay nợ.
Thu thập, phân tích và xử lý các dữ liệu kinh tế - tài chính vĩ mô (cán cân thương mại, cán cân thanh toán, cân đối ngân sách, nợ nước ngoài, tỷ giá hối đoái, lãi suất...), đánh giá tình hình kinh tế - tài chính vĩ mô, dự báo xu hướng phát triển để đề ra các giải pháp kịp thời, ngăn chặn các nguy cơ khủng hoảng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tài chính bắt buộc hàng quí và hàng năm đối với các đơn vị, các doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống cảnh báo nguy cơ mất an toàn về tài chính đối với các doanh nghiệp; Trước mắt thí điểm cho từng khu vực doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một cơ chế giám sát chung cho các doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán, quyết toán NSNN. Thực hiện kiểm toán nội bộ trong các đơn vị, cơ quan sử dụng kinh phí NSNN. Nghiên cứu thiết lập hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn vốn từ NSNN.
Thực hiện công khai tài chính - ngân sách các cấp, các đơn vị thụ hưởng ngân sách; Hoàn thiện hệ thống kiểm soát chi NSNN, trong đó coi trọng kiểm soát trước từ khâu lập dự toán đến khâu sử dụng kinh phí NSNN.
Đề cao tính công khai, minh bạch của quá trình ra quyết định mà vẫn bảo toàn tính tập trung cần thiết cho quá trình thảo luận dân chủ thẳng thắn. Kết hợp tính dự báo định hướng chính sách trong điều kiện biến đổi để duy trì sự cân đối, bình ổn, không sa vào những công việc sự vụ lúng túng, trì trệ.
Đưa công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước:
a. Đào tạo nguồn nhân lực:
Đào tạo lãnh đạo và cán bộ, công chức của tất cả các đơn vị thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh để vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin điện tử diện rộng, với mục tiêu:
- Bổ sung kiến thức, phương pháp luận cho lãnh đạo cơ quan và lãnh đạo tỉnh nhằm xây dựng các đường lối, chủ trương và các chính sách cần thiết để hỗ trợ việc phát triển bền vững các hệ thống thông tin điện tử trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ, công chức ở các bộ phận tác nghiệp có trình độ tin học nhất định, bảo đảm vận hành các ứng dụng trên mạng diện rộng phục vụ trực tiếp cho hệ thống thông tin điều hành.
- Đào tạo chuyên viên tin học có đủ khả năng tiếp nhận, triển khai và phát triển hệ thống thông tin.
* Các đối tượng đào tạo được chia thành 4 nhóm:
- Nhóm cán bộ lãnh đạo Sở, ngành tỉnh và UBND huyện, thị: Gồm những cán bộ lãnh đạo và quản lý các cơ quan trong hệ thống quản lý nhà nước tại các Sở, Ban ngành tỉnh và UBND huyện, thị, có đủ thẩm quyền quyết định các chủ trương, chính sách nhằm đưa vào thực tiễn các hệ thống thông tin điện tử phục vụ cải cách hành chính hoặc nêu ra và xác nhận các yêu cầu, các chỉ tiêu cần phải đạt được của các hệ thống này; trực tiếp chỉ đạo, quản lý và kiểm sát quá trình triển khai tại đơn vị của mình.
- Nhóm cán bộ CNTT : Gồm những cán bộ phụ trách CNTT và chuyên viên tin học, có nhiệm vụ tham gia xây dựng và quản lý các dự án CNTT, trực tiếp thực hiện tiếp nhận các chuyển giao công nghệ, quản trị, vận hành và bảo trì các hệ thống thông tin điện tử.
- Nhóm cán bộ kiêm nhiệm CNTT Gồm những cán bộ kiêm nhiệm CNTT tại các đơn vị (Sở, Ban ngành tỉnh và UBND huyện, thị, xã, phường, chi cục...). Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, còn phụ trách CNTT tại đơn vị như khắc phục sự cố máy tính, các thiết bị tin học, duy trì hệ thống thông tin và hỗ trợ người sử dụng ...
- Nhóm người sử dụng: Gồm những người làm việc trên các hệ thống thông tin điện tử, thực tế là lãnh đạo, cán bộ, công chức tham gia các hoạt động quản lý HCNN; trực tiếp cập nhật hoặc khai thác thông tin qua các hệ thống được xây dựng trong đề án này.
b. Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Tiếp tục triển khai dự án xây dựng và mở rộng mạng diện rộng tỉnh nhằm xây dựng mạng máy tính có khả năng phục vụ và đáp ứng yêu cầu quản lý hành chính nhà nước của các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đồng thời kết nối (đường truyền tốc độ cao: X25,ISDN...) với mạng diện rộng của Chính phủ (CPNet) cũng như với quốc tế. Hệ thống mạng của Trung tâm tích hợp dữ liệu có khả năng phục vụ các ứng dụng và hệ thống cơ sở dữ liệu. Cụ thể như sau:
- Các hệ thông tin tác nghiệp nhằm giải quyết nhu cầu trao đổi thông tin giữa các cơ quan Nhà nước.
- Các cơ sở dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch và dự báo chiến lược, quản lý ngân sách và thanh toán tài chính, quản lý tiềm lực khoa học, công nghệ, tài nguyên, môi trường thiên nhiên và xã hội, dân số, lao động và tổ chức cán bộ cung cấp thông tin cho hệ thống hỗ trợ ra quyết định của các cấp lãnh đạo.
- Các dịch vụ công nhằm nâng cao năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, mối quan hệ trao đổi thông tin giữa cơ quan Nhà nuớc với nhân dân và doanh nghiệp.
c. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý HCNN:
Trên cơ sở kết quả đạt được giai đoạn 2001-2005, trong giai đoạn 2006-2010 cần tiếp tục thực hiện một số nội dung sau:
- Tiếp tục hoàn thiện các chương trình ứng dụng hiện đang vận hành như quản lý văn thư, chương trình quản lý hồ đăng ký kết hôn, quản lý hồ sơ cải chính hộ tịch, quản lý hồ sơ giao nhận con nuôi, quản lý hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở,.…
- Tiếp tục triển khai 03 phần mềm dùng chung gồm: Hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế - xã hội, hệ quản lý công văn và hồ sơ công việc và trang thông tin điện tử phục vụ điều hành.
KẾT LUẬN
Phòng tài chính kế hoạch Thành Phố Hải Dương là một đơn vị hành chính sự nghiệp với chức năng phân phối và chức năng giám đốc chỉ tiêu quản lý quỹ ngân sách của nhà nước. Trong điều kiện tương đối khó khăn, do đặc điểm là thành phố trung tâm, kinh tế văn hoá của tỉnh, Thành Phố Hải Dương và là một Thành phố mới được thành lập nhưng được sự giúp đỡ tận tình của các ngành liên quan. Phòng tài chính kế hoạch Thành Phố Hải Dương đã được trang bị khá đầy đủ về vất chất, điều kiện giao thông rất thuận tiện trong khi đó phòng hoạt động nhờ vào kinh phí ngân sách cấp đảm bảo hoạt động thường xuyên của các đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn thành phố.
Quá trình tìm hiểu thực tế về công tác thu chi hành chính sự nghiệp ở phòng tài chính kế hoạch Thành Phố Hải Dương em đã được tìm hiểu về các hoạt đông kinh tế của các phòng ban, hiểu được công tác hoạch toán kế toán và việc ghi chép theo dõi số liệu từ ban đầu đến khi thiết lập báo cáo quyết toán tài chính. Qua đó em đã vận dụng được giữa lý thuyết và chuyên môn, đối chiếu với tình hình thực tế phòng em đã sáng tỏ nhiều điều bổ ich cần thiết cho quá trình hoc tập của em tại trường. Phòng tài chính kế hoạch đã làm tôt công tác quản lý và phân phối quỹ quản lý ngân sách nhà nước theo đúng chế độ chính sách nhà nước quy định. Các số liệu chứng từ sổ sách đầy đủ rõ ràng mạch lạc giúp cho công tác hoạch toán kế toán, giám sát kiểm tra và đối chiếu thuận tiện.
Sau một thời gian được tìm hiểu và nghiên cứu về công tác hoạch toán kế toán của phòng tài chính kế hoạch, khi đi sâu vào ngiên cứu về thu chi ngân sách em đã thấy rõ và hiểu rõ hơn về công tác kế hoạch thu chi hành chính sự nghiệp nói riêng.Với sự giúp đỡ của Cán bộ trong phòng Tài Chính Kế Hoạch và sự hướng dẫn tận tình của Thầy Giáo Vũ Anh Trọng, tôi đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả thu chi kiểm soát tài chính tại Phòng Tài Chính Kế Hoạch Thành Phố Hải Dương nhằm góp phần hoàn thiện hiệu quả hoạt động của Phòng.
Do thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế nên bài báo cáo này không trành khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và Cán bộ trong Phòng Tài Chính Kế Hoạch để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài quyết toán tài chính năm 2005 của phòng tài chính kế hoạch thành phố Hải Dương.
Kế hoạch thu chi ngân sách tài chính năm 2006 của phòng tài chính kế hoạch thành phố Hải Dương.
Sách tham khảo: quản lý nhà nước đối với tài chính tiền tệ
Quản lý ngân sách Dịch: Lê Tuyên
Quyết định 1959/2004/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Dương.
Số 18/2005/CT-TTg của Thủ Tướng chính phủ.
Số: 55/2004/TT-BTC thông tư hướng dẫn dự toán ngân sách nhà nước của bộ tài chính.
Quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ.
Quản lý ngân sách.
Tài chính trong nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển ỏ Việt Nam.
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32331.doc