Một là, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước với hoạt động tín dụng.
Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính Ngân hàng của Nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp nói riêng của các ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động này thực sự lành mạnh và hiệu quả.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, Nhà nước cần phải tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của các ngân hàng. Nhà nước nên ủy quyền cho cho NHNN phải có trách nhiệm trong việc lập các tổ thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tín dụng.
Hai là, quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.
Bộ tài chính nên xem xét hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán nhất quán, đưa ra quy chế bắt buộc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung cần được chuẩn hóa về số lượng chỉ tiêu và cách tính từng chỉ tiêu phù hơp chế độ hạch toán kế toán theo quy định.
Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong khi đó, công ty kiểm toán còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm, vì vậy Nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp đều phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực, đầy đủ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải ban hành quy chế bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp.
Việc kiểm toán phải tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình thẩm định của Ngân hàng. Nhà nước cũng cần quy định rõ các biện pháp chế tài xử lý nghiêm trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối: để nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp này vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy cán bộ thẩm định mới có được những thông tin trung thực nhất, thiết thực cho quá trình thẩm định, phòng ngừa rủi ro do thiếu thông tin. Qua đó, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính đối với khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng.
Ba là, cần có quy chế buộc các doanh nghiệp phải lập và nộp đầy đủ các BCTC.
BCTC phải đảm bảo mức độ trung thực, chuẩn xác. Nếu có sai phạm sẽ bị sử phạt nghiêm minh. Đồng thời, các doanh nghiệp phải cập nhật chế độ kế toán mới nhất để cung cấp các BCTC đảm bảo đúng quy định.
72 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam- Chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh đến 30/06/07
Tổng doanh thu: 46.738.060.902 VNĐ
Lãi (lỗ): 11.884.691.084 VNĐ
Mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh chính: Xây dựng các công trình dân dụng, thủy điện, cung ứng nhân lực Quốc tế.
Thị trường, tình hình tiêu thụ: Trong nước.
Qua quá trình phân tích, cán bộ tín dụng của ngân hàng đã đưa ra nhận xét chung về tình hình tài chính của công ty như bảng 4.
Bảng 4: Bảng tổng hợp các chỉ tiêu tài chính trong ba năm 2005-2007 của Công ty cổ phần Sông Đà 909
Đơn vị: triệu VNĐ
Các chỉ tiêu tuyệt đối
31/12/05
31/12/06
30/06/07
Doanh thu
50.672
62.121
46.738
Lợi nhuận
1.812
3.237
11.884
Vốn chủ sở hữu
7.919
10.796
22.237
Các khoản phải thu
15.651
10.361
27.699
Hàng tồn kho
23.079
15.181
12.316
Nợ phải trả khách hàng
18.945
10.813
7.667
Tổng giá trị tài sản
63.462
53.187
66.444
TSLĐ
45.128
37.357
54.146
( Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005-2007 của công ty cổ phần Sông Đà 909)
Tính đến ngày 30/06/2007 công ty đạt doanh thu trên 46 tỷ đồng bằng 75% doanh thu cả năm 2006, lợi nhuận đạt gần 12 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần lợi nhuận cả năm 2006. Nguyên nhân của sự ra tăng rất mạnh của lợi nhuận là do sang năm 2007, công ty được phê duyệt điều chỉnh giá của toàn bộ khối lượng đã thi công từ năm 2004 của công trình bóc phủ mỏ đá bản Pênh thuộc công trình thủy điện Sơn LA. Lợi nhuận 6 tháng đầu năm tăng mạnh do đó vốn chủ sở hữu cũng tăng lên 22,2 tỷ đồng do lợi nhuận chưa phân phối tăng. Các khoản phải thu cũng tăng từ 10,3 tỷ năm 2006 lên 27,7 tỷ đồng(tăng 169%) do vẫn còn rất nhiều khối lượng nghiệm thu đang chờ duyệt điều chỉnh giá từ chủ đầu tư. Phải trả khách hàng giảm từ 10,8 tỷ đồng năm 2006 xuống còn 7,7 tỷ(giảm 29%) do khối lượng công trình được thanh toán nhiều công ty có nguồn để giảm áp lực nợ từ bạn hàng. Hàng tồn kho không có biến động lớn duy trì ở mức 13-15 tỷ đồng cho thấy tiến độ nghiệm thu từ chủ đầu tư là tương đối nhanh và ổn định. Tổng tài sản đến ngày 30/06/2007 là 66,4 tỷ đồng (tăng 25% so với cuối năm 2006).
Chỉ số
Công thức tính
Năm 2005
Năm
2006
Khả năng sinh lời
+ Tốc độ tăng trưởng doanh thu
DT năm nay- DT năm trước
DT năm trước
15%
22%
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận
LNST năm nay-LNST năm trước
LNST năm trước
43%
79%
+ Hệ số LNST
LNST
Doanh thu
3.6%
5.2%
+ ROA
LNST
Giá TB của tổng tài sản
3%
6%
+ ROE
LNST
Giá trị trung bình của VCSH
30%
35%
+ Tỷ lệ chi phí quản lý
Chi phí quản lí và bán hàng
Doanh thu
7%
8%
Tính thanh khoản
+ Hệ số thanh toán hiện tại
TSLĐ + Đầu tư ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
0.99
1.03
+ Hệ số thanh toán nhanh
Tiền+ Đầu tư chứng khoán ngắn hạn+ Các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
0.48
0.61
Hiệu quả quản lý
+ Số ngày khoản phải thu
360* giá trị bình quân các khoản phải thu
Doanh thu
96
75
+ Số ngày phải trả
360* giá trị bình quân các khoản phải trả
Giá vốn hàng bán
149
232
+ Số ngày hàng tồn kho
360* giá trị trung bình các khoản tồn kho
Giá vốn hàng bán
214
149
+ Vòng quay tài sản có
Doanh thu
Giá trị trung bình của tổng tài sản có
0.8
1.07
+ Vòng quay VLĐ
Doanh thu
Tài sản lưu động
1.12
1.66
Rủi ro tài chính
+ Hệ số đòn bẩy
Tổng dư nợ
Vốn chủ sở hữu
7.01
3.93
+ Hệ số Nợ ngắn hạn/ Tổng nợ
Nợ ngắn hạn
Tổng nợ
0.61
0.66
Đánh giá tốc độ tăng trưởng, qui mô tăng trưởng.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của công ty vào loại tốt trong ngành xây dựng cơ bản. Điều này thể hiện qua việc doanh thu tăng từ 50,6 tỷ năm 2005 lên 62 tỷ năm 2006 ( tăng 22%), lợi nhuận tăng mạnh từ 1,8 tỷ năm 2005 lên 3,2 tỷ năm 2006 (tăng 79%). Tốc độ tăng lợi nhuận tăng nhiều hơn tốc độ tăng doanh thu cho thấy doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả, Có thể dự kiến mức độ tăng doanh thu của doanh nghiệp hàng năm vào khoảng trên đươi 20%
Đánh giá tình lành mạnh trong cơ cấu tài chính doanh nghiệp
Với việc kinh doanh có hiệu quả, vòng quay vốn lưu động nhanh, đầu tư mua sắm tài sản cố định đúng nguồn, tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn nên tình hình tài chính của công ty là lành mạnh, cân đối.
Đánh giá sự hợp lý của các hệ số tài chính
Hệ số thanh toán của công ty ở mức tương đối tốt và có chiều hướng tốt dần. Hệ số thanh toán hiện tại năm 2005 là 0.99, năm 2006 là 1,03. Hệ số thanh toán nhanh duy trì ở mức 0,48 năm 2005, năm 2006 đã cải thiện một cách rõ rệt lên 0,61
Các hệ số lợi nhuận sau thuế, ROA(lợi nhuận trên tổng tài sản) và ROE(lợi nhuận trên VCSH) đều tăng đáng kể trong 2 năm qua. ROA tăng từ 3% năm 2005 lên 6% năm 2006, tỷ lệ này của ROE lần lượt là 30% và 35%. Cả ROE và ROA đều ở mức rất sáng sủa so với mức trung bình của ngành. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản và vốn chủ sở hữu của công ty là rất tốt.
Các chỉ số phải thu, phải trả của công ty trong những năm gần đây là ổn định và biến đổi theo hướng có lợi cho đơn vị. Giá trị các khoản phải thu trong năm 2005 là 15,6 tỷ đồng , năm 2006 giảm xuống còn 10,3 tỷ cho thấy công tác nghiệm thu thanh toán từ chủ đầu tư tốt, không bị nợ đọng xây dựng cơ bản, các khoản phải trả là 10,8 tỷ đồng năm 2005, tăng lên 18,9 tỷ đồng (tăng 79%) cho thấy uy tín của công ty trong quan hệ mua bán với nhà cung ứng tốt và ngày , mua càng có uy tín hơn.
Hàng tồn kho của công ty năm 2005 là 23 tỷ đồng, năm 2006 là 15,1 tỷ đồng(giảm 34%), mức giảm tương đối lớn cho thấy công tác nghiệm thu của chủ đầu tư cho đơn vị là rất tốt, không bị tình trạng chờ đợi, duyệt điều chỉnh thiết kế, giá… từ đó tăng hiệu quả kinh doanh.
Việc kinh doanh của công ty cho hiệu quả tốt còn thể hiện ở một loạt các chỉ tiêu số ngày phải thu, số ngày hàng tồn kho ngày càng có xu hướng giảm, vòng quay số ngày phải trả tăng. Trong khi đó, vòng quay tài sản và vòng quay vốn lưu động cao và ổn định qua các năm cho thấy hiệu quả trong sử dụng tài sản và vòng quay vốn lưu động.
Hệ số đòn bẩy của công ty ở mức vừa phải 7.01 năm 2005 và có xu hướng giảm mạnh năm 2006(giảm còn 3,93) cho thấy mức độ tự chủ về mặt tài chính của công ty được cải thiện rõ rệt. Hệ số nợ ngắn hạn ổn định ở mức 0.61 năm 2005 và 0.66% năm 2006.
Song song với việc phân tích tài chính công ty qua các báo cáo tài chính, từ nguồn thông tin của công ty, của các đối tác của công ty cổ phần sông Đà 909 các thông tin kinh tế, xã hội chung của ngành nghề kinh doanh, cán bộ tín dụng ngân hàng đã đưa ra nhận xét chung về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh:
Công ty là nhà thầu có uy tín trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao thông dân dụng và công nghiệp. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây ở trạng thái tốt, công ty đã trúng thầu nhiều công trình hiệu quả, có nguồn vốn tốt như thuỷ điện Sesan 4, thủy điện Pleikrong và đặc biệt là thủy điện Sơn La do đó hiệu quả hoạt động của công ty ở mức cao, tăng trưởng ổn định.
Tổng số cán bộ hiện tại của công ty là 730 lao động thường xuyên được bố trí vào 6 phòng ban nghiệp vụ, 6 đội tổng hợp, 3 xí nghiệp và chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Trụ sở chính của công ty tại tòa nhà đường Phạm Hùng, Hà Nội.
Công ty đã đầu tư nhiều máy móc thiết bị phục vụ thi công như: ô tô Ben, xe tải phục vụ vận chuyển(67 chiếc), máy ủi các loại(1 chiếc), máy xúc đào các loai(16 chiếc), cần trục (5 chiếc) và các loại máy đầm, máy cắt, máy chuyên dùng trong thi công thủy điện. Với năng lực và thiết bị như trên, công ty cổ phần sông Đà 909 đã trúng thầu và thi công đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình lớn như thủy điện Sơn La, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Pleikrrong, Sean, đường bộ 1A, đường 10 Thái Bình. Sản lượng thực hiện hàng năm trung bình trên 60 tỷ đồng.
Với các bên cung cấp sản phẩm, dịch vụ: Công ty có quan hệ với khoảng 20 nhà cung cấp, đây chính là các bạn hàng truyền thống nhiều năm, có quan hệ thương mại phát sinh thường xuyên, chuyên cung cấp cho công ty các nguyên vật liệu, phục vụ thi công như xi măng, sắt thép, thép dự ứng lực… Phương thức thanh toán chủ yếu là tiền mặt và chuyển khoản. Đối với các nguyên liệu như xi măng, sắt thép, công ty thường được bạn hàng cho trả chậm khoảng 3- tháng tùy loại kể từ khi nhận hàng, có thời điểm lên tới 7-8 tháng. Một số nhà cung cấp chính: Công ty kim khí Hà Nội, Công ty TNHH Nam Vang(cung cấp thép), công ty TNHH Hồ Gươm(cung cấp xăng dầu), Công ty TNHH Hưng Tiến(cung cấp thiết bị, phụ tùng máy xúc…)…
Với các bên mua/ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ: Công ty thường nhận thầu các công trình ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, tuy nhiên các công trình trúng thầu của công ty thường tập trung ở các công trình thủy điện. Phương thức thanh toán của chủ đầu tư thường là ứng trước từ 5-15% giá trị hợp đồng kinh tế. Số còn lại thanh toán theo tiến độ nghiệm thu các hàng mục.
Như vậy, qua việc phân tích tình hình tài chính của công ty, cán bộ tín dụng đã đánh giá tình hình tài chính của công ty là lành mạnh, công ty đang trên đà tăng trưởng và phát triển. Hơn nữa, công ty CP sông Đà 909 còn là khách hang lâu năm của chi nhánh, quan hệ vay trả tốt, có quan hệ trả nợ. Việc cấp tín dụng cho công ty xét trên phương diện tài chính là hợp lí, vừa đáp ứng được nhu cầu vốn cho công ty, vừa tăng thu nhập cho ngân hàng. Cuối cùng, ngân hàng đã đồng ý cho công ty cổ phần sông Đà 909 vay số tiền là 2.975.000.000 VNĐ( hai tỷ chín trăm bảy năm triệu đồng). Thời hạn cho vay là 45 tháng kể từ ngày bên vay rút khoản vốn đầu tiên. Mức lãi suất cho vay được điều chỉnh theo thông báo là suất của ngân hàng ngoại thương từng thời kì. Tài sản thế chấp cho khoản vốn vay chính là tài sản hình thành từ vốn vay- 05 xe Ben của dự án, trị giá 4.200.000.000 tại thời điểm ban đầu mới nhập.
Đánh giá chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long
Những kết quả đã đạt được
Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 của chi nhánh, đến 31/12/2006 chi nhánh có quan hệ tín dụng với 31 đơn vị, với tổng mức dư nợ là 477 tỷ đồng(trong đó: dư nợ VNĐ là 314 tỷ và dư nợ ngoại tệ là 10,17 triệu USD), dư nợ quá hạn là 75,4 tỷ đồng, chiếm 16% tổng dư nợ.
Với phương châm tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, Ban lãnh đạo Chi nhánh đã có những biện pháp cụ thể chỉ đạo các phòng nghiệp vụ có liên quan tìm kiếm khách hàng, tìm hiểu khách hàng qua các kênh thông tin và phân tích thông tin của khách hàng mới đặt quan hệ tín dụng, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, cũng như có dự án khả thi để đầu tư, vì vậy qua một năm chi nhánh đã tiếp cận và cho vay thêm 35 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động hiệu quả với tổng dư nợ đạt 180 tỷ đồng, và tính đến nay, số lượng đơn vị có quan hệ tín dụng với chi nhánh lên tới 70 đơn vị, tăng 125% so với năm 2006, góp phần tăng doanh số cho vay và dư nợ. Cụ thể:
Bảng 5: Tổng hợp công tác tín dụng tại NHNT- chi nhánh Thăng Long
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2006
% tăng/giảm
1/ Doanh số cho vay qui ra VNĐ
2.180,5 tỷ
690,6 tỷ
Tăng 215,7%
2/ Doanh số thu nợ qui ra VNĐ
1.614,0 tỷ
746,7 tỷ
Tăng 116,2 %
3/ Dư nợ
+ Dư nợ cho vay VNĐ
484,3 tỷ
314 tỷ
Tăng 54,2%
-Ngắn hạn
314,5 tỷ
273 tỷ
Tăng 15,2%
-Trung, dài hạn
169,8 tỷ
41 tỷ
Tăng 314,1%
+Dư nợ cho vay ngoại tệ
34,75 triệu USD
10,1 triệu USD
Tăng 244,1%
-Ngắn hạn
12,37 triệu USD
9,2 triệu USD
Tăng 34,5%
-Trung, dài hạn
0,81 triệu USD
0,9 triệu USD
Giảm 10,0%
-Dư nợ cho vay đồng tài trợ
21,57 triệu USD
0
*Tổng dư nợ qui ra VNĐ
1.044 tỷ VNĐ
477 tỷ VNĐ
Tăng 119%
-T/ đó tỷ lệ nợ quá hạn qui ra VNĐ
73, 8 tỷ VNĐ
75,4 tỷ VNĐ
Giảm 2,1%
Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
7%
16%
Giảm 9%
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2006-2007)
Quan sát bảng số liệu tổng hợp về tình hình tín dụng cho thấy, chỉ một năm sau khi hoạt động độc lập, các chỉ số về qui mô dư nợ tín dụng đều tăng rõ rệt, nhất là tăng qui mô cho các khoản vay trung và dài hạn, chỉ riêng có dư nợ cho vay trung và dài hạn ngoại tệ là giảm 10%. Tỷ lệ nợ quá hạn tuy mới chỉ giảm nhẹ( giảm 2,1%) nhưng so với tổng dư nợ thì đã giảm đáng kể. Điều nay đã phản ánh nỗ lực của ngân hàng trong việc thu hồi nợ từ doanh nghiệp và đẩy mạnh hoạt động tăng qui mô sử dụng vốn.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Qua tìm hiểu quá trình phân tích cụ thể tại chi nhánh và đối chiếu với các qui trình, nội dung, phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp có thể đánh giá được rằng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh Thăng Long là chưa tốt, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống chỉ tiêu sử dụng để đánh giá khả năng tài chính doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa tổng quát
Ngân hàng mới chỉ tính toán những hệ số tài chính để phục vụ cho việc xếp hạng tín dụng, CBTD không phân tích hoặc phân tích sơ sài nhóm hệ số khả năng hoạt động, cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư, khả năng sinh lời. Các chỉ tiêu khá quan trọng bị bỏ qua như: khả năng thanh toán ngay, tỷ suất tự tài trợ, tỷ suất tự tài trợ TSCĐ, hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay, hiệu suất sử dụng TSCĐ, hệ số nợ dài hạn. Những tỷ số này quan trọng bởi nó phản ánh rõ hơn tình hình TCDN.Qua xem xét ví dụ phân tích tài chính tại công ty cổ phần Sông Đà 909 thấy rõ những bất cập này.
Ngoài ra, Chi nhánh còn không đưa ra những đánh giá đầy đủ về nội dung cần thiết khác như: phân tích điểm hòa vốn, phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đây là những chỉ tiêu nói lên sự an toàn về doanh thu trong hoạt động sản xuất kinh doanh dưới góc độ tài chính và nói lên việc luân chuyển và sử dụng tiền tệ hợp lý cũng như vốn điều lệ thực có tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu tài chính sử dụng mới chỉ đánh giá một cách chung nhất, chưa có hệ thống chỉ tiêu phù hợp với từng khoản vay, từng thời kỳ xin vay nên việc đánh giá đôi khi không cho kết quả chính xác vì thế rất có thể có một khách hàng lớn bị bỏ qua một cách đáng tiếc.
Thứ hai, phương pháp đánh giá các chỉ tiêu tài chính chưa toàn diện.
Mặc dù CBTD đã đưa ra được những đánh giá về sự biến động lên xuống của các chỉ tiêu nhưng những đánh giá đó không được so sánh đánh giá với những doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Chi nhánh đã không có sự so sánh tương quan ngành. Đây cũng là hạn chế của các NHTM nói chung bởi việc lựa chọn hợp lý một nhóm doanh nghiệp đang xét để so sánh là việc làm không hề đơn giản. Hơn nữa so
sánh, phân tích từng chỉ tiêu riêng lẻ có thể cho những kết quả không giống nhau, và không phản ánh được mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các chỉ tiêu.
Trong quá trình phân tích Chi nhánh không sử dụng đến các phương pháp phân tích tỷ trọng báo cáo tài chính. Do đó, không nhìn nhận được các tác động trực tiếp do cơ cấu vốn và tình hình đầu tư tài chinh của doanh nghiệp đem lại. Từ đó có thể dẫn những đánh giá thiếu chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba, thời gian phân tích còn dài.
Hiện nay, số lượng thông tin mà Chi nhánh nắm giữ, lưu trữ của các doanh nghiệp còn rất ít, mới chỉ có của một số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài với chi nhánh. Các doanh nghiệp mới có quan hệ tín dụng lần đầu tiên thường mất một khoảng thời gian khá dài để có thể nhận được trả lời của Ngân hàng là có đồng ý hay không đồng ý cho vay. Thông thường với các khoản vay ngắn hạn, thời gian này là hai tuần, còn các dự án đề nghị được vay vốn trung và dài hạn thì thời gian này còn dài hơn. Ngay cả đối với các doanh nghiệp đã có mối quan hệ tín dụng lâu dài với chi nhánh thì việc phân tích cũng không hề nhanh chóng, nhất là khi doanh nghiệp tiến hành các dự án trong các lĩnh vực kinh doanh mới, diễn biến thị trường phức tạp khó lường. Hơn nữa, hiện nay Chi nhánh cũng chưa có một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành nào để có thể đối chiếu so sánh, hỗ trợ cho việc đưa ra quyết định tín dụng nhanh chóng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay rất cao
Tổng kết năm 2006, dư nợ quá hạn của chi nhánh là 75, tỷ đồng, chiếm 16% tổng dư nợ, đây là tỷ lệ nợ quá hạn cao nhất hệ thống NHNT. Dư nợ quá hạn cao và đều ở tình trạng khó đòi, các khoản nợ có giá trị tài sản đảm bảo thấp dẫn đến khoản vay có tiềm ẩn rủi ro cao. Đây chính là khó khăn lớn nhất đối với chi nhánh trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động độc lập.
Năm 2007, dư nợ quá hạn của Chi nhánh tính đến ngày 31/12/2007 là 73,8 tỷ qui ra VNĐ, giảm 2,1% so với tời điểm 31/12/2006, tỷ lệ giảm không đáng kể, về con số tuyệt đối chỉ giảm được 2,4 tỷ đồng trong tổng số 75,8 tỷ nợ quá hạn năm 2006. Như vậy tình trạng nợ quá hạn lớn, kéo dài và khó thu hồi đang là vấn đề cấp thiết tại Chi nhánh
2.3.2.2. Nguyên nhân
Qua việc tìm hiểu nguyên nhân từ phía ngân hàng, năm 2007 dư nợ quá hạn giảm không đáng kể là do các hợp đồng tín dụng của các đơn vị thuộc Tổng Công ty Cầu Thăng Long vay từ những năm trước đã được điều chỉnh kì hạn nợ nhiều lần, đến nay hết thời hạn điều chỉnh kì hạn nợ theo qui định, và chi nhánh chuyển hết sang nợ quá hạn.
Qua việc tồn tại nhiều khoản nợ phải điều chỉnh kì hạn nợ, tỷ lệ nợ quá hạn vần còn cao( năm 2007: 7%) và hầu hết các khoản nợ quá hạn là khó đòi, tài sản đảm bảo có giá trị thấp đã thể hiện chất lượng tín dụng chưa cao. Nguyên nhân của thực trạng trên có thể đánh giá trên hai mặt:
Nguyên nhân khách quan
Một số doanh nghiệp có Báo cáo tài chính chưa được kiểm toán làm cho độ tin cậy của báo cáo tài chính chưa được cao. Khách hàng đã cung cấp cho ngân hàng những thông tin chưa chính xác về tình hình tài chính của công ty dẫn đến kết quả thẩm định dự án đầu tư, kết quả phân tích tài chính công ty chưa chính xác. Ngoài ra, hiện chi nhánh đã phát hiện nhiều trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích ban đầu dẫn đến mất khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi.
Các dự án chưa thực sự khả thi hoặc trong tiến trình thi công chủ đầu tư không hoàn vốn đúng tiến độ gây ảnh hưởng đến việc hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng.
Trong thời kì mới, nhất là từ khi Việt Nam ra nhập WTO, tình hình kinh tế xã hội biến đổi mạnh mẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, làm họ thiếu vốn trong kinh doanh, chây ì trong trả nợ.
Nguyên nhân chủ quan
Ngoài các nguyên nhân khách quan đã nêu trên, thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp còn nhiều yếu điểm, thể hiện ở chất lượng tín dụng chưa tốt của chi nhánh trong thời gian qua cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan tác động.
Đầu tiên phải kể đến việc Chi nhánh mới tách ra hoạt động độc lập được 1 năm. Phần lớn các khoản tín dụng đang ở trong tình trạng nợ quá hạn hay nợ xấu là do quá trình hoạt động từ trước để lại, nay các khỏn nợ này đến thời hạn xử lý gây ra khó khăn và ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như chất lượng tín dụng của chi nhánh.
Thứ hai, qui trình tín dụng mới- qui trình 90 chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 1 năm, đó là khoảng thời gian chưa đủ để cải thiện chất lượng tín dụng
Qui trình phân tích tài chính, trong đó qui trình phân tích tài chính doanh nghiệp đang còn thiếu nhiều nội dung, chưa lập và phân tích bảng tài trợ cũng như báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến độ chính xác trong đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp vay vốn, đặc biệt là với các khoản vay ngắn hạn hay các khoản vay trung và dài hạn sắp đến thời điểm đáo hạn.
Về phương pháp phân tích tài chính khách hàng, Chi nhánh mới chỉ sử dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh, chưa sử dụng phương pháp phân tích Dupont, phương pháp này mới thực sự chỉ ra tác động thực của nợ vay à tài sản đến các chỉ tiêu tổng hợp là ROA và ROE. Đây cũng là một hạn chế rất lớn bởi chỉ khi doanh nghiệp vay và sử dụng nợ hiệu quả, mới có nguồn tin cậy để trả nợ cho ngân hàng.
Về chất lượng CBTD, đội ngũ cán bộ tại chi nhánh nhìn chung còn mỏng, phải đảm đương một khối lượng công việc khá lớn, mỗi CBTD phải đảm phải phụ trách một số lượng khách hàng lớn. Vì vậy, các tính toán còn mang tính máy móc và chưa thực sự đi sâu vào nội dung phân tích. Hơn nữa, các khách hàng của chi nhánh hầu hết lại các doanh nghiệp, có kết cấu tài chính phức tạp nên cần phải có thời gian tìm hiểu kĩ càng và cần cán bộ tín dụng am hiểu nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh khác nhau. Các cán bộ tại chi nhánh hiện nay hầu hết đang còn rất trẻ, chưa thể đáp ứng được nhu cầu này. Ngược lại, CBTD có kinh nghiệm nhưng tuổi cao nên khó đào tạo. Bên cạnh đó, CBTD nhiều khi còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không đi sâu đi sát đơn vị vay vốn, chấp hành không nghiêm túc các cơ chế, quy chế nghiệp vụ…đã làm cho chất lượng phân tích tín dụng bị giảm xuống. Bởi với một hệ thống chỉ tiêu hoàn thiện nhưng người thực thi không hiểu hay không thực hiện thì hệ thống chỉ tiêu ấy cũng trở nên vô nghĩa. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, đòi hỏi CBTD phải có năng lực chuyên môn thực sự, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc của mình.
Về kinh phí cấp cho việc phân tích tín dụng đang còn hạn hẹp. Chi nhánh chưa đủ điều kiện để xây dựng một bộ dữ liệu riêng về các công ty và về từng ngành nghề khác nhau. Việc phân tích trong điều kiện thông tin còn hạn chế hoặc phải lấy từ nhiều nguồn khác nhau cũng dễ dẫn đến sự thiếu chính xác.
Như vậy, chương 2 của luận văn đã đi sâu vào việc tìm hiểu nghiệp vụ phân tích tài chính doanh nghiệp của Chi nhánh, những thành quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế, tồn tại cần được khắc phục. Chương 3 của luận văn sẽ đề cập đến những giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Chi nhánh
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG - CHI NHÁNH THĂNG LONG
3.1. Định hướng và mục tiêu hoạt động của NHNT- chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn từ 2008 đến 2010
Căn cứ vào mục tiêu hoạt động của toàn hệ thống NHNT Việt Nam, đó là: “ Xây dựng Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhât, duy trì vai trò chủ đạo tài Việt Nam và trở thành một trong 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á(sau kể Nhật Bản vào năm 2015-2020, và có phạm vi hoạt động quốc tế.”
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam xác định chiến lược phát triển tập trung vào các nội dung:
Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa toàn diện mọi hoạt động- bắt kịp với trình độ của khu vực và trên thế giới.
Tranh thủ thời cơ, phát huy mọi lợi thế của sẵn có của NHNT cũng như của các cổ đông mới- phát triển mở rộng lĩnh vực hoạt động một cách hiệu quả theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Căn cứ vào tình hình thực tế, chi nhánh xây dựng phương hướng, chiến lược cho các năm tiếp theo, cụ thể năm 2008 như sau:
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện công tác tổ chức của chi nhánh, xây dựng đề án trình TW tách Phòng Kế toán thanh toán và dịch vu thành: Phòng kế toán tài chính, Phòng kinh doanh dịch vụ, Phòng thanh toán quốc tế, phù hợp với qui mô và sự tăng trưởng của chi nhánh, bố trí đủ nguồn lực cán bộ, lãnh đạo của các phòng, sắp xếp, bố trí đủ người, đủ lực để mở thêm ba phòng giao dịch trong năm 2008, cũng như tăng cường các phòng nghiệp vụ mới thành lập, đảm bảo đủ khả năng thực hiện tốt các chương trình, mục tiêu năm 2008 cũng như định hướng phát triển lâu dài của Chi nhánh.
Tìm địa điểm và chuẩn bị thủ tục cho việc mở thêm ba phòng giao dịch.
Tiếp tục nghiên cứu và tranh thủ ý kiến của các phòng ban TW để triển khai, xây dựng mạng lưới khách hàng, tăng cường các chính sách khách hàng như khuyến mại, miễn, giảm phí, ... để duy trì các khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, đa dạng hóa đối tượng khách hàng. Đặc biệt chú trọng công tác phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tập trung đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tập trung xử lí nơ tồn đọng, kiên quyết không để những khoản vay mới phát sinh nợ quá hạn, phấn đấu đến cuối năm 2008 giảm dư nợ quá hạn xuống dưới mức 5% tổng dư nợ.
Tiếp tục các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, hoàn chỉnh kiến thức cho cán bộ công nhân viên trong toàn Chi nhánh, để mỗi cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long là một cán bộ đa năng ở mọi lĩnh vực, đồng thời cũng là cán bộ có khả năng làm công tác marketing tốt. Phấn đấu mỗi cán bộ là một tuyên truyền viên, đó chính là nền tảng trong việc quảng bá thương hiệu và sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
Tập trung, tìm kiếm các dự án mới để đầu tư, đồng thời mở rộng bán lẻ, khuyến khích cán bộ phòng quan hệ khách hàng, tìm kiếm, lựa chọn phát triển khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ vay kinh doanh cá thể và tiêu dùng phấn đấu đưa tổng dư nợ năm 2008 lên 1.490 tỷ đồng(tăng 43% so với năm 2007).
Đồng thời với việc mở rộng đầu tư tín dụng, tập trung công tác huy động vốn, tìm kiếm khách hàng có nguồn tiềm năng để phấn đấu huy động vốn năm 2008 đạt 1,435 tỷ(tăng 25%).
Kế hoạch lợi nhuận năm 2008 phấn đấu đạt 15 tỷ đồng.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của chi nhánh NHNT Thăng Long
3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin
Nguồn thông tin là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. Thông tin đây đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về phía khách hàng, từ đó có những quyết định phù hợp trong việc đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Thông tin càng nhiều, càng tin cậy càng có khả năng đánh giá chính xác năng lực tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân hàng nắm bắt được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, những biến động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra những biện pháp kịp thời, nhằm điều chỉnh các hoạt động, tránh những rủi ro, thiệt hại và ổn định kinh tế phát triển. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác thu thập thông tin.
Đối với nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp, Chi nhánh cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết nội dung những thông tin mà ngân hàng yêu cầu được cung cấp. Đồng thời cũng nêu và đề ra chính sách hỗ trợ, những ưu đãi có thể đối với doanh nghiệp xin vay vốn có báo cáo tài chính đã được kiểm toán.Bên cạnh đó, ngân hàng cần thường xuyên cử cán bộ tín dụng xuống doanh nghiệp xin vay, tăng cường phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để kiểm tra, đối chiếu thông tin, nhận biết các dấu hiệu phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh một cách xác thực.
Trong thời gian tới Chi nhánh cần phải đầu tư, hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin , để có nguồn thông tin đa dạng, phong phú cho phép cán bộ tín dụng cũng như các phòng có liên quan khai thác thông tin một cách có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo nội bộ, xây dựng hệ thống thu thập, xử lí và lưu trữ dữ liệu riêng, phục vụ cho công tác phân tích. Việc lưu trữ dữ liệu và các thông tin về khách hàng đã hoặc đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng cần được tiến hành và cập nhât đầy đủ, thường xuyên và phân loại khoa học để tiện cho việc tra cứu. Đồng thời phải thiết lập hệ thống thu thập thông tin từ các nguồn khác như các loại báo: Thời báo kinh tế, tạp chí Ngân hàng,…hay thu thập thông tin từ các ngành kinh tế kĩ thuật cũng như về tình hình kinh tế, xã hội. Ngân hàng cũng cần tăng chi phí cho việc thu thập thông tin, kể cả việc mua thông tin có chất lượng cao.
3.2.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay, Chi nhánh đang dùng hai phương pháp phân tích tài chính là phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh. Tuy hai phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện xong phương pháp tỷ số thể hiện bất cập khi các tỷ số tăng giảm trái chiều dẫn đến những kết luận trái ngược nhau. Để biết chỉ tiêu nào có ý nghĩa quyết định cần xem xét tầm quan trọng của từng chỉ số và mối liên hệ của các chỉ số bằng phương pháp Dupont. Bản chất của phương pháp này là tách các tỷ số thành tích của các chuỗi tỷ số có mối liên hệ nhân quả với nhau. Phương pháp này cho phép phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu tổng hợp như ROA, ROE.
Từ đây có thể nhận biết được các nhân tố làm thay đổi ROA, ROE và có hướng phát triển thích hợp để nâng cao các tỷ số này của doanh nghiệp.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong phần phân tích rủi ro khách hàng, nên có sự bổ sung thêm những hướng dẫn cụ thể đối với dự án vay vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các số liệu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ là phản ánh một cách chính xác nhất nguồn ngân lưu thực tế của doanh nghiệp, cho thấy dòng tiền ra vào thực tế của doanh nghiệp qua từng tháng, quí và năm. Điều này phản ánh rõ nét nhất khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ kết hợp với báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp còn giúp ngân hàng có thêm nhiều thông tin thực tế về doanh nghiệp hơn. Chẳng hạn, việc xác định chênh lệch giữa doanh thu và thực thu của doanh nghiệp, chi phí và thực chi của doanh nghiệp cho thấy khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại, khả năng thu hồi tiền bán hàng của doanh nghiệp. Các thông tin này bổ sung một cái nhìn chính xác về tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp cũng như mức độ tín nhiệm của các bạn hàng đối với doanh nghiệp đó. Do đó, Chi nhánh cần nghiên cứu, bổ sung nội dung phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào nội dung phân tích tài chính trong cho vay.
Ngoài ra, khi phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp, nếu không đem so sánh với các chỉ số trung bình của ngành thì kết quả phân tích chưa mang tính hiệu quả. Chỉ khi các tỷ số tài chính của doanh nghiệp được so sánh trực tiếp với các chỉ số trung bình ngành mới thấy được hiệu quả kinh doanh cũng như vị thế của doanh nghiệp trong ngành. Việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính cho các ngành nghề khác nhau là một việc rất khó, đòi hỏi nhiều chi phí, công nghệ và thời gian, đông thời cũng phải liên tục theo dõi và cập nhật. Tuy nhiên, nếu có thể thực hiện được thì sẽ tạo ra hiệu quả rõ rệt trong việc đem lại kết quả phân tích tài chính chính xác đối với doanh nghiệp.
Một nội dung nữa cần bổ sung trong việc phân tích các tỷ số tài chính của doanh nghiệp đó là phân tích tính xu hướng của các tỷ số. Đây là nội dung rất quan trọng, nhất là việc phân tích đối với các khoản cho vay trung và dài hạn. Tình hình kinh tế biến đổi sẽ tác động rất lớn đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt thì các tỷ số về tài chính cũng có xu hướng biến đổi phù hợp với dự báo về thị trường và ngược lại. Việc phân tích nội dung này đòi hỏi phải phân tích hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều năm, phân tích kinh doanh ngành và cả cái nhìn nhạy bén của cán bộ tín dụng, do đó, ngân hàng cần nhanh chóng có kế hoạch hoàn thiện, bổ sung nội dung này.
3.2.4. Thực hiện chuyên môn hóa phân tích và quản lý khách hàng
Phân tích tài chính khách hàng có tính chất quyết định chất lượng của hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp xin vay vốn rất đa dạng về lĩnh vực kinh doanh và các BCTC càng lúc càng phức tạp. Thế nhưng trình độ và năng lực của CBTD là có hạn. CBTD dù giỏi đến đâu cũng không thể am hiểu sâu sắc về mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề kinh doanh được. Chính vì vậy, Chi nhánh cần phải phân công rõ ràng cho CBTD theo loại hình kinh doanh, theo ngành nghề kinh doanh. Giải pháp là:
Một là, Chi nhánh nên thống kê, tập hợp những doanh nghiệp trên cơ sở phân loại theo nhóm ngành nghề kinh doanh, theo loại hình kinh doanh.
Việc phân loại này sẽ làm nổi bật lên đặc trưng ngành kinh doanh. Cần có một bộ phận chuyên trách thực hiện công việc này. Hiện nay Chi nhánh đã hướng dẫn CBTD phân loại doanh nghiệp theo các nhóm ngành nghề theo: lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực thương mại - dịch vụ. Nhưng sản xuất kinh doanh luôn biến đổi, do vậy việc phân loại không phải là gọi tên mà cần được diễn ra thường xuyên, quan trọng hơn là phải xây dựng được các chỉ tiêu tài chính phù hợp với ngành theo thời gian.
Hai là, phân công cho từng CBTD hoặc từng nhóm CBTD phân tích và quản lý nhóm doanh nghiệp đã được phân loại.
Việc phân công phải tiến hành một cách nghiêm túc, rõ ràng theo năng lực, sở trường của CBTD. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và kết quả đạt được của CBTD để đánh giá và phân công lại nếu cần.
Khi đã phân công buộc CBTD phải chấp hành đúng nhóm khách hàng mình đảm nhiệm và thực hiện đúng quy trình, nội dung phân tích của từng loại hình doanh nghiệp.
Nếu thực hiện được sự chuyên môn hoá trong phân tích và quản lý khách hàng thì sẽ tạo ra được sự năng động và tinh thần trách nhiệm của CBTD. Mỗi CBTD sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về từng loại hình, từng lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó CBTD sẽ phân tích TCDN chính xác hơn, nhanh chóng hơn, chất lượng hơn.
3.2.5. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp
Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để có đội ngũ cán bộ đáng tin cậy,Chi nhánh cần chú trọng từ khâu nuôi dưỡng, tuyển dụng và đào tạo cán bộ ngân hàng. Hiện nay đội ngũ cán bộ của Chi nhánh phần lớn còn rất trẻ nên kinh nghiệm chưa nhiều, cần thiết phải thường xuyên học hỏi và nâng cao trình độ. Đội ngũ cán bộ trẻ cũng là một lợi thế của Chi nhánh so với các Chi nhánh và ngân hàng khác cùng địa bàn, chắc chắn đội ngũ đó sẽ từng bước đưa ngân hàng phát triển vững mạnh. Để có được kết quả này và để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển hoạt động tín dụng trong thời gian tới ngân hàng cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, xây dựng chính sách tuyển dụng hợp lý.
Việc tuyển dụng phải được tổ chức một cách nghiêm túc, đảm bảo chất lượng và nên có kế hoạch tuyển dụng theo định kỳ nhất định.
Hai là, Ban giám đốc nên chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, thường xuyên tiến hành kiểm tra, sàng lọc đội ngũ cán bộ.
Giáo dục cho CBTD phải có đạo đức nghề nghiệp, có trách nhiệm và lương tâm với nghề của mình, kiên định trong công việc không dễ dàng bị mua chuộc tha hoá trong cơ chế thị trường, không chán nản, buông xuôi công việc khi gặp khó khăn…Khi cán bộ tín dụng vi phạm kỷ luật cần có các biện pháp xử lí như cảnh cáo hoặc cho thôi việc để làm gương cho người khác.
Ba là, tổ chức đào tạo cho cán bộ để nâng cao chuyên môn của họ. Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp cần bồi dưỡng cho CBTD kiến thức về kế toán doanh nghiệp, phân tích hoạt động kinh doanh, nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, tài trợ dự án…. Mỗi cán bộ phải thực sự vững về nghiệp vụ kế toán mới kiểm tra được mức độ chính xác của các số liệu trên bảng cân đối kế toán. Chi nhánh nên tổ chức chuơng trình đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể cho từng phòng, ban của mình sao cho việc phân tích đánh giá tài chính của khách hàng mang tính thống nhất. Thêm vào đó Chi nhánh cần tìm hiểu về năng lực sở trường của từng cán bộ để bồi dưỡng, đề bạt, bố trí và quản lý, sử dụng cán bộ phù hợp nhằm phát huy tốt nhất khả năng của mỗi người, mang lại được hiệu quả cao trong công việc.
Chi nhánh cũng nên có chính sách khuyến khích cán bộ ngân hàng tự học tập kiến thức chuyên môn, tin học, ngoại ngữ, các điều luật….bằng cách hỗ trợ kinh phí hoặc tạo điều kiện về thời gian.
Bốn là, cần có chính sách lương bổng và khen thưởng hợp lý dành riêng cho CBTD.
Đây là một chính sách thiết thực nhất để thúc đẩy CBTD tích cực chủ động trong tìm kiếm khách hàng và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Điều này đã động viên đội ngũ cán bộ nỗ lực hơn rất nhiều trong công tác và ngày càng gắn bó với ngân hàng của mình.
Năm là, thường xuyên chăm sóc sức khoẻ và đời sống tinh thần cho cán bộ nhân viên đặc biệt là CBTD.
Do vậy hoạt động của đoàn thể cần thường xuyên duy trì nhất là hoạt động của Công đoàn. Ngân hàng có thể thực hiện y tế cộng đồng bằng việc khám sức khoẻ định kỳ cho toàn thể nhân viên. Tổ chức nghỉ lễ, nghỉ tết vui tươi lành mạnh, tổ chức đi du lịch để cán bộ thư giãn và tăng thêm sự hiểu biết giữa các nhân viên. Động viên thăm hỏi gia đình để CBTD yên tâm công tác và yêu nghề, yêu Ngân hàng của mình hơn.
3.2.6. Một số giải pháp khác
Để công tác phân tích tài chính khách hàng ngày càng tốt hơn, Ngân hàng cần tiếp tục quan tâm đến những vấn đề sau:
Một là, giải pháp xây dựng chiến lược khách hàng hiệu quả
Chính sách khách hàng hiệu quả có nghĩa là Ngân hàng vừa phải củng cố và phát triển khách hàng truyền thống vừa phải mở rộng khách hàng mới. Xây dựng chiến lược khách hàng là cơ sở tiền đề cho công tác phân tích, đánh giá khách hàng. Nếu quan hệ của ngân hàng và doanh nghiệp tốt đẹp và bền vững thì việc cho vay trở nên đơn giản hơn nhiều. Cũng như thế, việc phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu cả ngân hàng và khách hàng đều cố gắng hết sức vì lợi ích chung. Thông qua mối quan hệ thân thiết, ngân hàng có điều kiện tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp làm công tư vấn giúp các doanh nghiệp phân tích, xem xét về mặt tài chính giúp doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội kinh doanh. Đây là cách tốt nhất để ngân hàng thu thập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác, đầy đủ làm cơ sở để ngân hàng thực hiện tốt công tác phân tích doanh nghiệp trước khi ra quyết định cho vay.
Hai là, giải pháp xây dựng thương hiệu mạnh
Trong suốt quá trình hoạt động kể từ ngày thành lập tới nay, VCB luôn luôn là thương hiệu ngân hàng tốt nhất trong khối các NHTM Nhà nước. Đó là lợi thế rất lớn của cả hệ thống VCB nói chung cũng như của Chi nhánh VCB Thăng Long nói riêng.Trong thời kì đất nước hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay, việc tập trung đầu tư xây dựng một thương hiệu mạnh của quốc gia và rộng hơn là của khu vực đang là mục tiêu cần hướng đến của VCB. Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi nhân viên, mỗi chi nhánh của VCB phải là một hạt nhân đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu. Xây dựng một thương hiệu mạnh yêu cầu nhiều yếu tố tổng hợp từ đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra nhiều lợi thế cạnh tranh… và quan trọng nhất vẫn là yếu tố nguồn nhân lực có chất lượng cao và thái độ phục vụ khách hàng tận tâm, uy tín. Do đó, Ban giám đốc chi nhánh cần coi mục tiêu xay dựng thương hiệu là mục tiêu xuyên suốt mọi thời kì để có thể đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, hiệu quả cho Chi nhánh.
Ba là, hàng năm Chi nhánh cần tổng kết đánh giá những kết quả đạt được, những vướng mắc, tồn tại và rút ra những bài học kinh nghiệm qua công tác thẩm định doanh nghiệp của năm trước, cụ thể là công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Công tác đánh giá lại các thành quả đã thực hiện được cũng như tìm kiếm các vướng mắc, các thiếu sót trong công tác phân tích tài chính khách hàng là vô cùng quan trọng. Thực hiện công tác đánh giá tốt sẽ hoàn chỉnh được nghiệp vụ của CBTD cũng như nâng cao được chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp có tính chất gợi ý nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng nói chung và chất lượng phân tích tài chính trong hoạt động tín dụng của NHNT Việt Nam- chi nhánh Thăng Long. Các DN có kết quả hoạt động kinh doanh tốt và có phương án sản xuất kinh doanh khả thi thị trường mục tiêu sẽ được Chi nhánh đặc biệt chú trọng trong hoạt động đầu tư vốn tín dụng. Với Chi nhánh trong giai đoạn hiện nay việc hoàn thiện và nâng cao công tác thẩm định tín dụng nói chung và phân tích doanh nghiệp nói riêng có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với sự phát triển vững mạnh của Chi nhánh.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan
Nhà nước với các chính sách của mình quản lý, chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Có thể thấy rằng bất cứ một sự thay đổi nào trong các chính sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng tới toàn xã hội. Những chính sách này được các Bộ, Ngành có liên quan thiết lập thành những văn bản cụ thể và ban hành xuống từng cơ quan, đơn vị. Ngành ngân hàng vốn được coi là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm đối với các chính sách vĩ mô đó. Các hoạt động ngân hàng luôn bị chi phối bởi các chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước. Chính vì thế để nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống Ngân hàng bản thân các ngân hàng phải nỗ lực phấn đấu dưới sự giúp đỡ của Nhà nước, Chính phủ và sự phối kết hợp chặt chẽ của các bộ ngành liên quan. Sự giúp đỡ phối hợp của các cơ quan hữu quan đó vô cùng quan trọng cũng vô cùng quan trọng giúp ngân hàng hoàn thiện công tác khách hàng trong đó có phân tích tài chính doanh nghiệp:
Một là, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước với hoạt động tín dụng.
Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính Ngân hàng của Nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp nói riêng của các ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động này thực sự lành mạnh và hiệu quả.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, Nhà nước cần phải tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của các ngân hàng. Nhà nước nên ủy quyền cho cho NHNN phải có trách nhiệm trong việc lập các tổ thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tín dụng.
Hai là, quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.
Bộ tài chính nên xem xét hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán nhất quán, đưa ra quy chế bắt buộc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung cần được chuẩn hóa về số lượng chỉ tiêu và cách tính từng chỉ tiêu phù hơp chế độ hạch toán kế toán theo quy định.
Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong khi đó, công ty kiểm toán còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm, vì vậy Nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp đều phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực, đầy đủ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải ban hành quy chế bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp.
Việc kiểm toán phải tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình thẩm định của Ngân hàng. Nhà nước cũng cần quy định rõ các biện pháp chế tài xử lý nghiêm trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối: để nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp này vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy cán bộ thẩm định mới có được những thông tin trung thực nhất, thiết thực cho quá trình thẩm định, phòng ngừa rủi ro do thiếu thông tin. Qua đó, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính đối với khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng.
Ba là, cần có quy chế buộc các doanh nghiệp phải lập và nộp đầy đủ các BCTC.
BCTC phải đảm bảo mức độ trung thực, chuẩn xác. Nếu có sai phạm sẽ bị sử phạt nghiêm minh. Đồng thời, các doanh nghiệp phải cập nhật chế độ kế toán mới nhất để cung cấp các BCTC đảm bảo đúng quy định.
Bốn là, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước
Như ta đã biết rõ vai trò của các doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng. Việc khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp bao gồm tạo cơ sở hành lang pháp lý thuận lợi, tìm thị trường đầu vào, đầu ra cho các doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế hợp lý của Nhà nước cũng tạo thuận lợi cho sự phát triển các doanh nghiệp . Đồng thời Ngân hàng với vai trò là người tài trợ vốn cho các doanh nghiệp sẽ có cơ hội để thực hiện tốt vai trò của mình.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC
Trung tâm cung cấp thông tin do NHNN quản lý là trung tâm thông tin tín dụng CIC. CIC được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết định số 68/1999/QĐ-NH ngày 27/02/1999. sự hoạt động của CIC đã bổ sung thêm một kênh thông tin, phần nào cải thiện được tình trạng thiếu thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng. Song hiện nay nguồn thông tin từ cơ quan này còn khá sơ sài và không cập nhật thường xuyên.
Dịch vụ thông tin của CIC đã được thương mại hóa nên chất lượng phục vụ ngày càng tăng. tuy nhiên riêng đối với các DN đặc biệt là các DN vừa và nhỏ từ CIC còn chưa nhiều, nhiều khi là rất ít hoặc hầu như không có. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của CIC có thể xem xét một số biện pháp sau:
Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động của CIC. Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và thường xuyên đào tạo, hoàn thiện đội ngũ cán bộ của CIC
Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về các tác nghiệp như: nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu nhập, các tiêu thức đánh giá phân tích. Ngoài ra NHNN cần ban hành các quy định bắt buộc các N HTM khai thác, tham gia vào CIC, coi đó là quyền lợi nghĩa vụ của mình. Nên mở rộng các thành viên trong đó có các doanh nghiệp
Tăng cường áp dụng những tiến bộ trong lĩnh vực thông tin để nâng cao hoạt động thu thập thông tin tín dụng
Thứ hai, kiến nghị NHNN định hướng cho hoạt động tín dụng và hỗ trợ về mặt nghiệp vụ.
NHNN quản lý hoạt động của các NHTM thông qua việc ban hành các văn bản, quy định về mặt hoạt động tín dụng đối với các NHTM. Từ đó các NHTM có cơ sở sắp xếp, điều chỉnh hoạt động tín dụng của mình trong đó có công tác thẩm định tín dụng doanh nghiệp sao cho phù hợp với định hướng tín dụng của NHNN
Thêm vào đó, NHNN cần giúp đỡ NHTM để đào tạo đội ngũ nhân viên, đồng thời trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm thẩm định doanh nghiệp. NHNN nên tổ chức các hội thảo hàng năm của toàn ngành về công tác thẩm định để các ngân hàng báo cáo và trao đổi kinh nghiệm. Sự giúp đỡ của NHNN còn thể hiện ở chỗ NHNN thường xuyên tổ chức các khoá học cho các cán bộ thẩm định của ngân hàng do các chuyên gia giỏi phụ trách như chuyên gia IMF, WB giảng dạy
Thứ ba, xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành
NHNN cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. NHNN cùng các cơ quan hữu quan cùng phối hợp để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành hợp lý. Có như thế kết quả cuối cùng của công tác phân tích, thẩm định tài chính của cán bộ thẩm định mới thực sự chính xác
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị để góp phần vào việc tháo gỡ dần những khó khăn chung của NHTN- chi nhánh Thăng Long nói riêng và hệ thống NHTM nói chung nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ngành ngân hàng, cạnh tranh và phát triển sánh vai với các nước trên thế giới.
KẾT LUẬN
Việt Nam đã ra nhập vào WTO, “sân chơi” lớn nhất của thị trường quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập chúng ta phải dần mở cửa các ngành kinh tế của đất nước. Đó là thách thức lớn đối với chúng ta bởi mở cửa là đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh và rủi ro, nhưng cũng mang lại nhiều cơ hội để phát triển và hội nhập. Chấp nhận thách thức để vươn lên là bước đi đúng đắn nhằm xây dựng nền kinh tế vững mạnh trong tương lai. Nằm trong chiến lược hội nhập kinh tế nói chung, ngành Ngân hàng và các tổ chức tài chính cũng đang đứng trước nhiều khó khăn do áp lực về cạnh tranh.Trình độ phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao như Ngân hàng-tài chính của chúng ta còn rất yếu kém, kinh nghiệm quản trị không thể so sánh với các Ngân hàng lớn trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm qua.Hơn nữa, chúng ta còn đang tồn tại nhiều những rào cản và bất cập trong hệ thống pháp lý cũng như sự níu kéo, kìm hãm do nền kinh tế chưa phát triển đưa lại.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như muốn phát triển mạnh và bền vững, các NHTM Việt Nam cần nhanh chóng có những thay đổi chiến lược ngay lúc này nhằm quản trị hiệu quả những rủi ro có thể gây nên hiện tượng phá sản, vỡ nợ Ngân hàng. Muốn vậy, hoạt động quản tri rủi ro tín dụng phải được quan tâm chú ý hàng đầu bởi đây là khâu bị đánh giá là yếu nhất của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là nhóm các NHTM NN. Bởi vậy, việc nghiên cứu về các rủi ro tín dụng của Ngân hàng và các biện pháp hạn chế rủi ro như “ Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của NHTM” là rất cấp thiết. Việc nghiên cứu và ứng dụng kịp thời các biện pháp hữu hiệu sẽ giúp hạn chế các rủi ro tín dụng, giúp các Ngân hàng tồn tại an toàn và vững chắc.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS. TS Lưu Thị Hương; PGS. TS Vũ Duy Hào- Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- Đại học Kinh tế quốc dân.
PGS. TS Vũ Duy Hào –PGS.TS Đàm Văn Huệ, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB. Thống kê, 1998.
PGS. TS. Phan Thị Thu Hà- Giáo trình Ngân hàng Thương mại- Đại học kinh tế quốc dân.
Giáo trình Tín dụng Ngân hàng- Tập thể biên soạn- Học viện Ngân hàng.
Peter S Rose- Quản trị Ngân hàng Thương mại- NXB Tài chính- Đại học kinh tế quốc dân.
Trình Bá Tửu, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam- Phòng chống rủi ro tín dụng- Kinh nghiệm của các Ngân hàng Thái Lan- Tạp chí Ngân hàng- Số chuyên đề năm 2005.
Phan Đức Quang- Vụ tổng kiểm soát Ngân hàng Nhà nước- Kiểm soát các rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các Ngân hàng thương mại trong quá trình hội nhập- Tạp chí tài chính và Ngân hàng quốc tế- Số 11 tháng 6 năm 2006- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Lê Khắc Chí- Những vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam- Tạp chí ngân hàng- Số 16- tháng 8 năm 2006.
Trần Bùi Quốc Tuệ- Một số ý kiến góp phần mở rộng cho vay có hiệu quả và góp phần hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM- Tạp chí Ngân hàng- Số 5/2005.
Tài liệu tập huấn qui trình tín dụng mới của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam-tháng 6/2006.
Báo cáo thường niên năm 2006,2007-Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003-2007- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long.
Website www.vcb.com
Website www.sbv.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28573.doc