Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng

Tăng trưởng tín dụng bền vững là mục tiêu quan trọng của các Ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng. Muốn đạt được điều đó ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án vì kết quả thẩm định chính là thước đo quan trọng hàng đầu để ngân hàng đưa ra các quyết định tài trợ đúng đắn. Tuy nhiên thẩm định tài chính dự án hiện nay tại các ngân hàng còn chứa đựng nhiều hạn chế, đòi hỏi các ngân hàng cần có sự nghiên cứu và có những giải pháp khắc phục để nâng cao hơn chất lượng công tác này. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, luận văn “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng.” đã đề cập được những vấn đề sau: Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định dự án của Ngân hàng thương mại, nội dung, chất lượng và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thứ hai, luận văn đã đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó. Thứ ba, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án dựa trên định hướng cho vay của chi nhánh đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng. Đồng thời luận văn cũng đưa ra những kiến nghị với Chính phủ, NHNN, NHCTVN và Bộ xây dựng để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chi nhánh trong quá trình thực hiện thẩm định tài chính dự án có hiệu quả. Với kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những người có kinh nghiệm quan tâm đến đề tài này để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn

doc85 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lấy từ nguồn khấu hao và lợi nhuận để lại mà không có con số dẫn chứng giá trị bộ phận nguồn khấu hao và phần lợi nhuận để lại hiện tại là bao nhiêu, có thực sự đảm bảo đủ phần giá trị tham gia vào dự án hay không. Đa số báo cáo thẩm định còn mang tính liệt kế các chỉ tiêu mà không phân tích, so sánh, kết nối một cách khoa học. Điều này làm hạn chế cho khâu tái thẩm định và xét duyệt cho vay. Chất lượng các quyết định cho vay dự án Mặc dù hoạt động tín dụng đã đạt được kết quả nhất định trong thời gian qua, phần nào thể hiện chất lượng tốt của các quyết định cho vay dự án nói chung và dự án xây dựng nói riêng. Phần lớn các dự án đầu tư của các công ty thuộc ngành xây dựng tại ngân hàng đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số dự án của khách hàng gặp khó khăn khi thực hiện do các quyết định tài trợ của ngân hàng về thời gian cho vay, thời gian và kế hoạch thu nợ, kế hoạch giải ngân…chưa thật sự hợp lý, khiến ngân hàng phải có những điều chỉnh bắt buộc: gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn nợ… thậm chí có dự án được thẩm định là có hiệu quả nhưng khi đi vào hoạt động lại bị thua lỗ triền miên khiến ngân hàng không thể thu hồi nợ, có khả năng gây mất vốn, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, ví dụ như dự án đầu tư thiết bị xây dựng của công ty đường 122. Hiện nay nợ quá hạn của dự án này bị xếp vào nợ nhóm 4. Việc cung cấp các tư vấn cho khách hàng Quá trình thẩm định đã giúp các cán bộ tín dụng có một cái nhìn toàn diện, sâu sắc về tất cả các yếu tố của dự án, do đó có khả năng tư vấn cho khách hàng để dự án có thể hoạt động hiệu quả hơn. Với mong muốn có được những phân tích và tư vấn sâu hơn của ngân hàng về các vấn đề liên quan đến dự án, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính như: sự biến động của tỷ giá, lãi suất, lạm phát… của khách hàng, trên thực tế những tư vấn cho khách hàng đối với các dự án mà ngân hàng cung cấp chưa thực sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Để nâng cao chất lượng tư vấn, ngoài những đánh giá chủ quan về tình hình thực tế, cán bộ tín dụng còn phải dựa trên các kết quả phân tích bằng phương pháp toán học và thống kê mang tính chuyên nghiệp cao hơn. 2.4.2.2. Nguyên nhân Chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình vẫn còn chứa đựng một số hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau từ phía bản thân ngân hàng (nguyên nhân chủ quan) và những nguyên nhân từ bên ngoài ngân hàng (nguyên nhân khách quan) * Những nguyên nhân từ phía ngân hàng - Nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ cán bộ Thứ nhất, chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định chưa cao Đội ngũ cán bộ trẻ, năng động là một ưu thế của ngân hàng. Tuy nhiên do chưa làm nhiều nên các cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong công tác thẩm định, ảnh hưởng đến thời gian và chất lượng thẩm định. Mặc dù đa số cán bộ đều có trình độ đại học hoặc trên đại học nhưng phần lớn cán bộ chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp trong lĩnh vực thẩm định dự án. Mặt khác, để làm tốt công tác thẩm định tài chính dự án, ngoài kiến thức kinh tế như hiểu biết về các tác động thị trường, đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp,…còn cần phải có kiến thức kỹ thuật trong các lĩnh vực. Nhưng các cán bộ tín dụng tại ngân hàng đều tốt nghiệp các trường khối kinh tế nên rất khó khăn khi xác định các yếu tố kỹ thuật như tính hợp lý của công suất thực tế của máy, các thông số kỹ thuật của thiết bị, … từ đó dẫn đến việc xác định doanh thu và chi phí của dự án chưa được chính xác. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Hiện tại, để thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật ngân hàng thường thuê các kỹ sư bên ngoài để đánh giá, đối với các dự án đã được cấp có thẩm quyên phê duyệt thì ngân hàng thường dựa luôn vào các kết luận về kỹ thuật đã được phê duyệt, việc thẩm định kỹ thuật trong trường hợp này chỉ mang tính hình thức. Thứ hai, công tác đào tạo cán bộ còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Với đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, năng động, nhiệt tình nhưng phần đông chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp trong lĩnh vực thẩm định dự án nhưng hiện nay ngân hàng vẫn chưa tổ chức được nhiều khóa đào tạo chuyên sâu về công tác thẩm định tài chính. Hơn nữa, công tác thẩm định tài chính ngoài kiến thức kinh tế, đòi hỏi cán bộ tín dụng còn phải có kiến thức trong các lĩnh vực khác như kiến thức kỹ thuật, pháp luật của ngành mà dự án đầu tư. Đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng yêu cầu cán bộ tín dụng phải nắm bắt được các thông số kỹ thuật, các quy chế đầu tư, đấu thầu cũng như các quy định riêng cho ngành xây dựng như định mức ca máy,… Tuy nhiên trên thực tế các văn bản này cũng chưa được ngân hàng tổ chức hướng dẫn, phổ biến cụ thể nên cán bộ gặp nhiều lúng túng khi tra cứu và thực hiện thẩm định. - Nguyên nhân xuất phát từ công tác tổ chức thẩm định Công tác tổ chức thẩm định tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình chưa thực sự hiệu quả. Chi nhánh hiện chưa có phòng ban riêng, công tác thẩm định được thực hiện bởi các cán bộ tín dụng của phòng khách hàng 1, phòng khách hàng 2 và phòng khách hàng cá nhân. Các dự án vẫn do từng cán bộ thẩm định riêng biệt nên phải thực hiện tất cả các khâu do đó mất nhiều thời gian khiến thời gian thẩm định thường bị kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Hơn nữa cán bộ tín dụng một mặt phải đảm nhiệm công tác tín dụng bình thường mặt khác vừa phải tiến hành công tác thẩm định dự án nên kết quả thẩm định còn gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra, công tác thu thập và xử lý thông tin tại chi nhánh ngân hàng còn yếu. Cán bộ tín dụng phân tích chủ yếu dựa trên nguồn thông tin do khách hàng cung cấp (thường mang tính chủ quan của khách hàng), chưa có nhiều nỗ lực trong việc tìm kiếm nguồn thông tin bên ngoài. Bên cạnh đó, thông tin thu thập được chưa được xử lý bằng phương pháp toán học hay thống kê mà phần lớn chỉ dưới dạng liệt kê ví dụ để so sánh, do đó tính chính xác chưa cao. Thông tin thu thập chủ yếu phục vụ cho từng dự án đơn lẻ riêng biệt, chưa có phương pháp lưu trữ thống kê để làm cơ sở nghiên cứu, tham khảo khi so sánh với các dự án khác, gây hạn chế cho công tác thẩm định. Tóm lại, vấn đề thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng như vậy gây ra sự lãng phí thời gian và nguồn lực trên giác độ toàn ngân hàng. - Nguyên nhân xuất phát từ phương pháp thẩm định Thứ nhất, việc thẩm định tổng vốn đầu tư ban đầu còn chưa hiệu quả. Thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng vì nó vừa đảm bảo dự án có đủ vốn để đầu tư đồng thời cũng là cơ sở đầu tiên giúp ngân hàng xác định mức tài trợ cần thiết. Muốn tổng vốn đầu tư được xác định chính xác thì cán bộ tín dụng phải đưa được hết các chi phí cần thiết của dự án vào phân tích. Tuy nhiên trên thực tế do thẩm định không đầy đủ các chi phí nên nhiều dự án khi thực hiện có mức vốn đầu tư cao hơn nhiều so với dự tính. Với dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tại chi nhánh chủ yếu là đầu tư vào thiết bị thì ngoài chi phí mua thiết bị, không thể không tính đến chi phí xây lắp và chi phí dự phòng. Nhưng vẫn có những dự án ngân hàng không tính toán đủ các thành phần trên. Ví dụ Dự án đầu tư thiết sản xuất đá xây dựng của Công ty sản xuất vật liệu và xây dựng công trình 1, ngân hàng tính toán tổng vốn đầu tư chỉ gồm chi phí mua thiết bị, do đó tổng đầu tư thực tế của dự án cao hơn mức thẩm định này là một điều dễ hiểu. Hầu hết cán bộ tín dụng thẩm định chỉ mới dừng ở mức xem xét các chi phí là đủ hay chưa, có được chấp nhận hay không. Do chưa có hệ thống lưu trữ thông tin nên sự phân tích chưa dựa vào phương pháp thống kê thực tế nào, vì vậy mặc dù đã có cố gắng trong việc tìm hiểu thị trường và so sánh dự án khác nhưng việc thẩm định chi phí đầu tư còn chứa đựng nhiều ý kiến chủ quan của người thẩm định. Với các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, việc thẩm định tổng vốn đầu tư càng sơ lược hơn vì cán bộ tín dụng cho rằng mức vốn này đã hợp lý. Trong khi đó, sự phê duyệt nhiều khi chỉ mang tính pháp lý, chủ trương với các chi phí dự tính thiếu căn cứ giải trình thỏa đáng. Một số dự án không đưa phần vốn lưu động ròng vào tổng mức đầu tư. Mặc dù các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng chủ yếu đầu tư vào thiết bị thi công, nhưng bên cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp đầu tư vào máy móc phục vụ sản xuất. Với các dự án này, tổng mức đầu tư ban đầu nên đưa thêm phần đầu tư vốn lưu động ròng. Ví dụ Dự án của Công ty sản xuất và thi công công trình 1 đầu tư thêm hai máy rung…nhằm tăng khối lượng đá xây dựng, đáp ứng nhu cầu xây dựng ngày càng tăng. Sau khi đầu tư, theo dự tính, nhu cầu vốn lưu động cho sản xuất của công ty tăng lên hơn gấp đôi, do đó để dự án có thể đi vào khai thác công ty cần đầu tư thêm một lượng vốn lưu động ban đầu. Do đó khi thẩm định tổng vốn đầu tư lẽ ra ngân hàng nên yêu cầu khách hàng bổ sung, nhưng cán bộ tín dụng đã không làm dẫn đến vốn đầu tư sai lệch với thực tế. Một số dự án lại đưa chi phí trả lãi vay trong thời gian thi công vào tổng mức vốn đầu tư vì ngân hàng cho rằng trong thời gian đầu cho vay, dự án chưa đi vào hoạt động thì khách hàng chưa có thu nhập, trường hợp khách hàng không có nguồn khác để trả nợ thì ngân hàng cho vay để trả lãi trong những tháng đầu tiên. Tuy nhiên điều này là chưa thực sự hợp lý vì tổng vốn đầu tư là toàn bộ chi phí cần thiết để mua sắm các tài sản có khả năng sinh lời trong tương lai và đưa tài sản đó vào hoạt động. Lãi vay phải trả ngân hàng không tham gia vào quá trình đó vì vậy không nên đưa nó vào tổng vốn đầu tư. Vốn đầu tư được tài trợ bởi nhiều nguồn: vốn tự có của doanh nghiệp, vốn đi vay, vốn ngân sách cấp cho dự án, …cán bộ tín dụng phải thẩm định tính khả thi của các nguồn trên để có thể xác định chính xác mức tài trợ hợp lý và kế hoạch giải ngân phù hợp. Tuy nhiên, rất ít dự án được giải trình về việc thẩm định tính khả thi của nguồn vốn tự có tham gia dự án trên cơ sở phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Hầu hết báo cáo thẩm định chỉ nêu ra phần vốn tự có tham gia tài trợ được lấy từ những bộ phận nào trong vốn chủ sở hữu mà không nêu rõ giá trị của các nguồn này có thực sự đáp ứng được phần vốn này hay không. Mặt khác, tỉ lệ vốn chủ sở hữu tham gia dự án mà ngân hàng yêu cầu khách hàng hiện nay phải đạt được 30% là quá cao. Trong khi đó, ngân hàng Ngoại Thương chỉ yêu cầu 15%. Điều này có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của ngân hàng đối với các dự án có tính khả thi nhưng vốn chủ sở hữu tham gia không đến 30%. Tất cả những yếu tố trên làm cho việc xác định tổng mức đầu tư ban đầu không chính xác. Trong khi đó chỉ tiêu này lại vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng đến dòng tiền cũng như một loạt chỉ tiêu tài chính khác. Từ đó làm giảm chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án. Thứ hai, việc xác định các yếu tố đầu vào còn thiếu chính xác. Các yếu tố của chi phí biến đổi như giá cả nhiên liệu, chi phí tiền điện,…là các yếu tố thường xuyên biến động do lạm phát, tỷ giá,…Do đó khi tính toán phương án kinh doanh của doanh nghiệp không nên cố định các yếu tố này trong cả đời dự án. Ngoài ra, phần lớn các cán bộ tín dụng chỉ chú trọng đến các chi phí trực tiếp mà bỏ qua phần chi phí quản trị chung phân bổ cho dự án trong doanh nghiệp. Thứ ba, thẩm định dòng tiền chưa hợp lý. Vốn đầu tư ban đầu nhiều dự án không chi ra tại cùng một thời điểm mà có thể rải rác theo tiến độ của dự án nên nếu tính tất cả ở năm 0 là đều không hợp lý. Khi tính toán dòng tiền đầu tư ngân hàng phải xem xét thời điểm giải ngân của mình để quy về giá trị hiện tại tại thời điểm năm 0, để từ đó quy giá trị tổng vốn đầu tư của dự án bỏ ra về năm 0 là trên thực tế bao nhiêu theo phương pháp chiết khấu luồng tiền. Hầu hết các dự án được thẩm định tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đều bỏ qua dòng thu hồi từ tài sản cố định vào năm cuối. Một số dự án có tính đến dòng thu hồi nhưng rất nhỏ, không đúng với thực tế. Với đặc điểm dự án đầu tư của các công ty thuộc ngành xây dựng tại chi nhánh là chủ yếu đầu tư vào các thiết bị thi công, mà những tài sản cố định này lại có thời gian sử dụng rất lâu so với thời gian khấu hao nên giá trị thanh lý sau khi dự án kết thúc là không nhỏ. Do đó, với các dự án này, nếu bỏ qua dòng thu hồi sau đầu tư làm mất tính chính xác của dòng tiền. Thứ tư, việc xác định lãi suất chiết khấu còn chưa chính xác Để áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền của dự án thì phải xác định chính xác dòng tiền ròng của dự án và lãi suất chiết khấu. Cơ sở để lựa chọn lãi suất chiết khấu là phân tích rủi ro và khả năng sinh lời của dự án. Tuy nhiên việc xác định lãi suất chiết khấu tại chi nhánh hiện nay chưa có căn cứ khoa học chính xác, lãi suất chiết khấu được tính bằng lãi suất cho vay đối với dự án. Lãi suất cho vay của ngân hàng được xác định theo công thức sau: Lãi suất cho vay = Lãi suất huy động vốn bình quân + Chi phí quản lý và chi phí khác + Lợi nhuận mục tiêu + Phần bù rủi ro tín dụng Hiện tại lãi suất cho vay dự án tại chi nhánh được xác định bằng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VNĐ 12 tháng trả lãi sau cộng với tối thiểu 2.5%. Trong 2,5% này bao gồm chi phí quản lý và chi phí khác, lợi nhuận mục tiêu và phần bù rủi ro tín dụng. Mặc dù quy định 2,5% là mức tối thiểu nhưng gần như tất cả các dự án đều chỉ cộng thêm ở mức này, hầu như không có sự án nào có lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VNĐ 12 tháng quá 2,5%. Vì bộ phận chi phí quản lý và chi phí khác và lợi nhuận mục tiêu tính cho mỗi khoản vay là như nhau, do đó khi các dự án đều có lãi suất cho vay = lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VNĐ 12 tháng + 2,5% nghĩa là vô tình ngân hàng đã đánh giá mức độ rủi ro của các dự án được phê duyệt là như nhau. Điều này không thể đúng được vì với các dự án dù có cùng ngành đầu tư nhưng có thời gian, quy mô đầu tư khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau. Việc xác định lãi suất chiết khấu chưa hợp lý làm ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu tài chính, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tại chi nhánh nói riêng. Thứ năm, hệ thống các chỉ tiêu áp dụng đánh giá hiệu quả tài chính còn chưa đầy đủ. Hiện tại ngân hàng chỉ mới sử dụng các chỉ tiêu NPV, IRR, điểm hòa vốn, thời gian hoàn vốn. Đó mới chỉ là những chỉ tiêu cơ bản khi xem xét mặt tài chính của dự án. Tuy nhiên với những dự án phức tạp, quy mô lớn cán bộ cần áp dụng thêm các chỉ tiêu khác để có sự bổ trợ nhằm phân tích toàn diện và sâu sắc hơn. Ví dụ, với chỉ tiêu NPV và IRR chỉ cho thấy mức độ hoàn vốn của dự án chứ chưa phản ánh được hiệu quả sinh lời trên mỗi đồng vốn đầu tư của dự án, vì vậy để so sánh các dự án có quy mô và thời gian khác nhau ngân hàng nên sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu như B/C, PI,… Bên cạnh đó các chỉ tiêu được tính toán nhưng lại thiếu sự phân tích so sánh với chỉ tiêu chung của ngành hay các dự án tương tự đã xét duyệt đầu tư nên chưa mang tính thuyết phục cao. Thứ sáu, các bảng tài chính được lập chưa đầy đủ và chính xác. Khi thẩm định dự án, cán bộ tín dụng chỉ lập báo cáo kết quả kinh doanh và một số bảng dự trù tài chính trung gian như khấu hao, lãi vay, chi phí, doanh thu…mà chưa lập bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho cả đời dự án. Vì vậy, chưa thể đánh giá dự án một cách toàn diện và chính xác cả đời sống của dự án. Thứ bảy, phân tích rủi ro của dự án còn sơ sài. Việc phân tích rủi ro của dự án chỉ mới dừng ở phương pháp phân tích độ nhạy thông qua việc xem xét ảnh hưởng đối với chỉ tiêu NPV và IRR khi có một biến số thay đổi, chưa phù hợp với thị trường luôn biến động, đa dạng và phức tạp như hiện nay. Để đánh giá rủi ro của dự án được chính xác và phù hợp với thực tế hơn, cán bộ tín dụng cần phân tích độ nhạy của dự án khi có nhiều biến số cùng thay đổi. Ngoài ra, ngân hàng nên thực hiện phân tích trên cơ sở các tình huống khác nhau để có những nhận định đầy đủ và tổng quát hơn về các khả năng rủi ro của dự án, giúp cho việc đánh giá độ an toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý dự án tốt hơn. - Nguyên nhân xuất phát từ cơ sở vật chất Trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh ngân hàng Công Thương Ba Đình còn thiếu. Mỗi cán bộ tín dụng tuy đã có một máy tính riêng giúp cho việc lưu trữ thông tin và thẩm định dự án, tuy nhiên nhu cầu thu thập thông tin chưa thực sự được đáp ứng vì việc kết nối Internet vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc kết nối chỉ mới thực hiện giữa các máy trong hệ thống ngân hàng, còn kết nối Internet chỉ được áp dụng đối với một số máy theo quy định. Ngoài ra, chương trình phần mềm hiện đại hóa ngân hàng chỉ mới được triển khai trong nghiệp vụ hạch toán kế toán chứ chưa có chương trình phần mềm hiện đại phục vụ riêng cho công tác thẩm định. * Những nguyên nhân bên ngoài ngân hàng Bên cạnh những nguyên nhân mang tính chủ quan, những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh còn do những nguyên nhân mang tính khách quan sau: Thứ nhất, cơ chế chính sách Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, nhất quán. Để tiến hành thẩm định các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng, cán bộ tín dụng cần tra cứu và áp dụng rất nhiều các quy định về nghiệp vụ ngân hàng, kế toán, quản lý đầu tư xây dựng…nhưng hệ thống các văn bản này còn có sự chồng chéo, thiếu nhất quán hoặc chưa bao quát hết các tình huống xảy ra trong thực tế. Đặc biệt đối với ngành xây dựng là một ngành sử dụng nguồn lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn, có phạm vi ảnh hưởng đến xã hội và kinh tế rộng nên lượng văn bản liên quan là rất lớn, gây khó khăn cho cán bộ thẩm định. Ngoài ra, các văn bản lại thay đổi thường xuyên nên việc cập nhật và nắm vững chúng là điều không dễ. Từ đó dẫn đến khả năng rủi ro cho ngân hàng vì khi chính sách thay đổi làm cho hiệu quả của dự án có thể bị thay đổi theo chiều hướng xấu. Chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án vì thế cũng bị ảnh hưởng. Thứ hai, nguồn thông tin cho công tác thẩm định tài chính dự án còn hạn chế. Hiện nay, các dự án được thẩm định chủ yếu dựa trên nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Trong khi đó, các báo cáo tài chính doanh nghiệp lại chưa thực sự phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc thẩm tra lại tính chính xác của nguồn thông tin này tuy đã được ngân hàng quan tâm nhưng thực tế là rất khó vì mỗi dự án có khối lượng thông tin là rất lớn trong khi thời gian để cán bộ thẩm định chỉ có giới hạn. Nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế và chưa được cập nhật theo yêu cầu. Nguồn thông tin trên mạng chưa được khai thác một cách hiệu quả. Mặt khác, nước ta cũng chưa có những chế tài phù hợp xử lý việc cung cấp sai thông tin, do đó mức độ tin cậy của nhiều nguồn tin nhìn chung là chưa cao, đặc biệt là nguồn thông tin trên mạng còn thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, vì một doanh nghiệp thường có quan hệ tín dụng với rất nhiều ngân hàng do đó để nắm rõ khách hàng cần tìm hiểu thông tin không chỉ ở một ngân hàng. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh khốc liệt nên sự hợp tác giữa các ngân hàng yếu, các ngân hàng thường giữ bí mật thông tin về khách hàng đối với các ngân hàng khác, gây ra kẽ hở cho doanh nghiệp lợi dụng. Trường hợp đầu tư trùng lặp do thiếu thông tin vẫn còn xảy ra. Thứ ba, trình độ lập dự án của khách hàng còn hạn chế Do kinh nghiệm và năng lực lập dự án của nhiều chủ đầu tư còn hạn chế nên vẫn còn những dự án lập thiếu căn cứ khoa học, không cung cấp đủ thông tin cần thiết về dự án. Khi thẩm định cán bộ tín dụng phải thu thập và xử lý lại làm mất nhiều thời gian, công sức, khiến thời gian thẩm định bị kéo dài. Hơn nữa, dự án thường lập theo hướng có lợi cho khách hàng để thuyết phục ngân hàng cho vay nên số liệu không chính xác, ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án. Thứ tư, môi trường kinh tế xã hội Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập nên còn chứa đựng nhiều bất ổn. Vì vậy việc dự báo các yếu tố trong tương lai của dự án thường gặp khó khăn, thiếu chính xác. Dẫn đến kết quả thẩm định khó sát với thực tế nếu dự án hoạt động trong thời gian dài. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH 3.1. Định hướng trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng 3.1.1. Định hướng hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình Phát huy các kết quả đã đạt được và để góp phần xây dựng chi nhánh ngày càng lớn mạnh, ngân hàng luôn chủ động đề ra mục tiêu mở rộng hoạt động tín dụng với phương châm “ An toàn và hiệu quả”. Để đẩy mạnh công tác tín dụng, chi nhánh đề ra chiến lược thu hút khách hàng, chủ động tìm kiếm các khách hàng tiềm năng đồng thời duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống với những ưu đãi về lãi suất, phí và dịch vụ. Để nâng cao chất lượng tín dụng bảo đảm an toàn vốn, bên cạnh viêc tiếp tục khai thác khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, ngân hàng tiền hành song song việc phân tích đánh giá, chọn lọc, xếp hạng khách hàng vay vốn để xác định giới hạn tín dụng hợp lý cho từng đơn vị vay vốn trước khi ký hợp đồng tín dụng, thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ, chính sách pháp luật của nhà nước. Trong quá trình cho vay phải thườgn xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính doanh nghiệp để có các biện pháp xử lý kịp thời. Mở rộng tín dụng đi kèm nâng cao chất lượng tín dụng là hai nội dung chính để thực hiện tăng trưởng tín dụng bền vững. Đây là quan điểm và cũng là định hướng chung trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình trong thời gian tới. 3.1.2. Định hướng trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng. Trong năm qua, do giá nguyên liệu đầu vào trong một số ngành tăng giảm bất thường như phôi thép, xăng dầu, phân bón,…nợ nần dây dưa, kéo dài, đặc biệt vốn không được thanh toán kịp thời trong lĩnh vực XDCB, đã tiềm ẩn nhiều rủi ro trong đầu tư tín dụng nhất là đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng. Trước tình hình đó, để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng bền vững, một mặt đối với các doanh nghiệp đang có vấn đề về nợ, ngân hàng tiến hành phân tích từng khoản nợ xấu và bám sát từng khoản thu của doanh nghiệp để thu nợ và hạn chế cho vay đối với những doanh nghiệp này.Mặt khác, tiếp tục khai thác các doanh nghiệp có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, chủ động tìm kiếm, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh đồng thời thường xuyên nắm bắt tình hình hoạt động, phân tích tài chính của các doanh nghiệp vay vốn. Đặc biệt công tác thẩm định đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng cần được chú trọng để đảm bảo mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này một cách an toàn, hiệu quả nhất. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình Giảm thời gian và chi phí thẩm định nhưng vẫn đảm bảo các quyết định cho vay đúng đắn trên cơ sở các báo cáo thẩm định chính xác, khoa học là những nội dung cần thiết để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Muốn vậy ngân hàng cần thực hiện những giải pháp sau: 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay. Vấn đề nhận thức rất quan trọng vì nhận thức chi phối hành động, do đó ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án từ khâu thẩm định chung cho đến thẩm định chi tiết. Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án vì thế là một đòi hỏi tất yếu, đầu tiên cho việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của chất lượng thẩm định tài chính dự án, ban lãnh đạo sẽ có những quyết định đúng đắn kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, vật chất, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ thẩm định tốt dự án. Nhận thức đầy đủ về mối quan hệ khăng khít giữa lợi ích ngân hàng và hiệu quả thẩm định dự án sẽ giúp cán bộ thẩm định có trách nhiệm cao với công việc của mình, áp dụng đúng quy trình nghiệp vụ, thực hiện đầy đủ các khâu cần thiết cho kết quả thẩm định dự án cao nhất có thể. Việc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chất lượng thẩm định dự án còn được thể hiện ở vai trò quyết định của kết quả thẩm định tài chính đối với việc cho vay dự án của ngân hàng. Những yếu tố khác như uy tín doanh nghiệp và tài sản thế chấp là những yếu tố bổ trợ sau kết quả thẩm định tài chính dự án, không nên quá chú trọng vào vấn đề tài sản thế chấp như hiện nay ở nhiều ngân hàng. Tóm lại, vấn đề nhận thức ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm đình tài chính dự án, vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định trước hết cần nâng cao nhận thức của cán bộ về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay. 3.2.2. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định tài chính dự án. Để chuyên môn hóa công tác thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng Công thương Ba Đình nên thành lập phòng “Thẩm định dự án” riêng, chứ không nên để cán bộ phòng tín dụng kiêm nhiệm như hiện nay. Phòng này sẽ chỉ chuyên làm nhiệm vụ thẩm định các dự án và trên cơ sở đó cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, lập dự án cho khách hàng. Trong phòng nên phân thành những tổ thẩm định theo các loại dự án, ví dụ như tổ chuyên thẩm định về cho vay thương nghiệp, tổ chuyên thẩm định về cho vay xây dựng cơ bản, tổ về cho vay công nghiệp… Việc chuyên môn hoá công tác thẩm định sẽ tạo điều kiện đào tạo kiến thức chuyên môn, thực hiện quy trình thẩm định khoa học, có như vậy công tác thẩm định dự án mới phát huy hiệu quả, chất lượng thẩm định tài chính dự án mới được nâng cao. Bên cạnh đó, để chủ động và đánh giá có hiệu quả thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật, làm cơ sở xác định chính xác hơn doanh thu và chi phí dự tính của dự án, ngân hàng nên có một tổ tư vấn kỹ thuật với nhiệm vụ chuyên tư vấn cho cán bộ thẩm định và hội đồng tín dụng những yếu tố thuộc lĩnh vực kỹ thuật. 3.2.3. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án. Với những hạn chế còn tồn tại trong phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần hoàn thiện một số nội dung sau: Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và nguồn tài trợ. Vì vai trò quan trọng của tổng đầu tư nên công tác thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được thực hiện kỹ lưỡng, ngay cả đối với các dự án đã được phê duyệt tổng mức đầu tư của cấp có thẩm quyền. Tất cả các chi phí đầu tư phải có căn cứ hợp lý dựa trên tham khảo các dự án tương tự, thông tin ngành, thông tin thực tế của doanh nghiệp. Mức dự phòng cho các chi phí cần được xác định hợp lý trên cơ sở phân tích các yếu tố có thể tác động đến dự án như lạm phát, biến động tỷ giá,… Hiện nay theo thông tư số 03/2005/ TT – BXD tổng dự toán của 1 công trình xây dựng gồm đầy đủ các khoản mục sau: chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí dự phòng, chi phí quản lý dự án và một số chi phí khác của dự án. Với các dự án đầu tư vào thiết bị thi công cần tính toán đầy đủ các chi phí sau: chi phí mua sắm thiết bị (giá mua, chi phí vận chuyển, lưu kho lưu bãi (nếu có), chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ (nếu có)…), chi phí lắp đặt thiết bị và thí nghiệm, chi phí dự phòng. Trường hợp khách hàng là công ty cung cấp nguyên vật liệu xây dựng, trình dự án đầu tư sản xuất mà không có vốn lưu động ròng thì ngân hàng nên bổ sung thêm phần chi phí này vào tổng vốn đầu tư của dự án. Việc xem xét tính khả thi của các nguồn tài trợ khác cũng cần được thẩm định kỹ hơn, đặc biệt là nguồn vốn chủ sở hữu. Hiện nay Ngân hàng Công thương Việt Nam quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án phải đạt mức 30%. Đây là tỷ lệ lớn vì vậy tính khả thi của nguồn này có ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi của tổng vốn đầu tư, do đó cán bộ tín dụng cần thẩm định kỹ càng dựa trên sự phân tích tình hình tài chính cụ thể của doanh nghiệp, cần chỉ rõ phần vốn chủ đầu tư tham gia được lấy từ bộ phận nào của vốn chủ sở hữu, hiện tại số dư của các bộ phận này có thực sự đủ để đáp ứng lượng vốn cần thiết tham gia dự án hay không. Về thẩm định kế hoạch kinh doanh của dự án trên phương diện tài chính. Vì việc tính toán các chi phí trong lĩnh vực xây dựng có sự điều chỉnh của các quy định của Bộ xây dựng (như chi phí nhân công, chi phí máy thi công, phương pháp tính khấu hao...) nên khi thẩm định yếu tố chi phí cán bộ tín dụng phải chú ý đến các văn bản này. Bên cạnh đó không thể thiếu việc so sánh với mức giá cả hiện tại trên thị trường, với các đơn vị khác trong ngành xây dựng khi thẩm định tính hợp lý của doanh thu, chi phí của dự án. Đồng thời với các yếu tố xác định phức tạp do liên qua đến lĩnh vực kỹ thuật, ngân hàng cần thuê tư vấn hoặc tham khảo các dự án tương tự đã đi vào hoạt động. Về thẩm định dòng tiền của dự án. Hiện tại để việc tính toán dòng tiền dự án được chính xác hơn, cán bộ thẩm định cần tính đến dòng tiền thu hồi sau đầu tư, nhất là đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại chi nhánh. Hầu hết các dự án này đầu tư vào thiết bị máy móc thi công và được tính khấu hao hết vào năm cuối của dự án. Tuy nhiên trên thực tế tuổi thọ của các máy móc này dài hơn rất nhiều so với vòng đời của dự án, vậy nên sau khi dự án kết thúc phần thu hồi từ thanh lý tài sản có giá trị đáng kể, do đó ảnh hưởng đến độ chính xác của dòng tiền. Mặt khác, đối với các dự án có vốn đầu tư dàn trải trong nhiều năm thì cán bộ thẩm định nên xác định lượng vốn cụ thể chi ra trong các năm đó rồi quy về năm 0, không nên đưa tất cả vốn đầu tư vào thời điểm năm 0. Về xác định tỷ lệ chiết khấu. Theo nguyên tắc nhất quán giữa việc áp dụng lãi suất chiết khấu và cách xác định dòng tiền, với dòng tiền dự án hàng năm là lợi nhuận sau thuế và khấu hao thì lãi suất chiết khấu áp dụng cho dự án là lãi suất bình quân tài trợ cho dự án. Do chi phí vốn chủ sở hữu cao hơn lãi vay của ngân hàng nên mức lãi suất bình quân này cũng sẽ cao hơn mức lãi cho vay của ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay việc xác định lãi suất cho vốn chủ sở hữu còn nhiều khó khăn, vì vậy ngân hàng có thể lấy lãi suất cho vay dự án cộng thêm một phần bù rủi ro nhất định. Nhưng để có sự thống nhất về mức phần bù rủi ro đối với mỗi dự án cần có quy định cụ thể về lĩnh vực đầu tư, quy mô và thời gian thực hiện dự án. Với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro như xây dựng thì lãi suất chiết khấu áp dụng trong thẩm định nên bằng lãi suất cho vay cộng với mức phần bù cao nhất có thể. Trường hợp lãi suất chiết khấu được xác định bằng lãi suất cho vay tại chi nhánh hiện nay thì dòng tiền hàng năm phải được tính = LNST + KHCB + lãi vay phải trả cho ngân hàng trong năm tương ứng. Thống nhất về quan điểm lãi suất chiết khấu sẽ giúp ngân hàng tính toán hợp lý hơn về khả năng trả nợ của khách hàng, và có thể so sánh được các dự án với nhau. Về hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính. Bên cạnh các chỉ tiêu cơ bản đang áp dụng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn vay, điểm hoà vốn trung bình năm, ngân hàng cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu hỗ trợ như hệ số hoàn vốn có hiệu chỉnh, tỷ lệ lợi ích chi phí, chỉ số doanh lợi, điểm hoà vốn cả đời dự án vì ý nghĩa tương ứng của từng chỉ tiêu (đã được trình bày trong chương I ). Mặc dù không thể đánh giá dự án nếu chỉ có các chỉ tiêu này nhưng sự có mặt của chúng đi kèm với các chỉ tiêu cơ bản sẽ giúp việc đánh giá dự án được chính xác hơn. Về lập bảng dự trù tài chính. Ngoài bảng báo cáo kết quả kinh doanh như hiện nay, ngân hàng cần lập thêm các bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán cả đời dự án để việc đánh giá dự án được toàn diện hơn. Các bảng trung gian cũng nên lập đầy đủ tạo điều kiện cho khâu tái thẩm định, tư vấn, xét duyệt cho vay. Về phân tích rủi ro dự án. Trong thực tế rất ít khi có trường hợp một yếu tố đầu vào thay đổi, vì vậy với phương pháp phân tích độ nhạy đang sử dụng hiện nay, ngân hàng nên xem xét sự biến động của các chỉ tiêu tài chính dự án dưới sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều yếu tố đầu vào thường được cố định bởi các hợp đồng cung cấp thì dự án vẫn khá an toàn. Mặt khác, phương pháp phân tích độ nhạy không được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất nên khó có thể lượng hoá được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong những trường hợp tốt nhất và xấu nhất so với cơ sở. Vì vậy để đánh giá rủi ro dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, ngân hàng nên áp dụng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng. Tóm lại, để chất lượng thẩm định tài chính dự án được tốt hơn, ngân hàng cần chú trọng hơn đến việc xây dựng một hệ thống nội dung và phương pháp thẩm định tài chính hoàn thiện hơn. 3.2.4. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho công tác thẩm định. Ngân hàng cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn từ khách hàng, thông tin nội bộ ngân hàng, thông tin từ trung tâm tín dụng NHNN, báo chí, Internet,…Nếu chỉ dựa vào một nguồn thông tin thì độ chính xác không cao. Với nhiều nguồn bổ sung cho nhau sẽ mang lại thông tin tổng hợp và đầy đủ hơn. Tuy nhiên số liệu của các nguồn thông tin có thể chênh lệch nhau, khi đó cán bộ sẽ có sự chắt lọc, điều chỉnh để tạo ra nguồn thông tin tổng hợp hợp lý nhất. Đồng thời ngân hàng cần có biện pháp xử lý thông tin hiệu quả hơn. Việc phân tích thông tin phải được xem xét, đánh gía dựa trên các phương pháp toán học và thống kê để kết quả được chính xác, phù hợp với xu hướng diễn ra trên thực tế. Những thông tin thu thập được phải được lưu trữ lại làm cơ sở thống kê cho nhiều dự án sau đó. Tránh tình trạng phải đi thu thập lại các thông tin đó khi có dự án tương tự, gây lãng phí nguồn lực và thời gian. 3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Năng lực của cán bộ thẩm định là nhân tố mang tính chất quyết định đối với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nhân tố này đóng vai trò trung tâm ở tất cả các khâu từ thu thập và xử lý thông tin, phân tích thẩm định, lập báo cáo và ra quyết định cho vay. Vì vậy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi tất yếu. Trước hết ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng hợp lý để tuyển chọn được đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao. Khi bố trí công việc, cần ưu tiên những cán bộ có chuyên môn giỏi, có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, có kinh nghiệm trong công tác tín dụng và có đạo đức tốt. Ngân hàng nên tổ chức các khoá học đào tạo ngắn hạn với sự giảng dạy của các chuyên gia trong và ngoài nước có uy tín từ các bộ, ban, ngành, trường đại học…để cán bộ không chỉ nắm vững lý thuyết mà hiểu rõ thực tế, không chỉ hiểu biết một lĩnh vực mà nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng yêu cầu cán bộ thẩm định không những phải nắm rõ các văn bản liên quan mà còn phải có kiến thức kỹ thuật tốt, giúp ngân hàng chủ động hơn trong quá trình tiến hành công tác thẩm định. Thường xuyên tổ chức học tập, rút kinh nghiệm trong công tác này qua các dự án đã thẩm định, đặc biệt là những dự án kém hiệu quả phải gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ…để cán bộ có thể rút ra những bài học bổ ích. Thường xuyên tổ chức rà soát đánh giá đội ngũ cán bộ thẩm định để có những điều chỉnh hợp lý kịp thời đảm bảo chất lượng và số lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu. Ngân hàng cần có cơ chế đãi ngộ hợp lý cho các cán bộ làm công tác thẩm định dự án như phương tiện, trợ cấp kinh phí cho việc đi lại, tìm hiểu thông tin, …Để khuyến khích cán bộ thẩm định thực hiện tốt công tác của mình, ngân hàng cần có chế độ lương thưởng hợp lý, tạo động lực vật chất cho việc phát huy chất xám của cán bộ. Đồng thời ngân hàng nên có những quy định xử lý nghiêm khắc những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, gian dối, mưu lợi cá nhân gây thất thoát vốn cho ngân hàng. 3.2.6. Tăng cường trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định dự án. Hiện nay ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ tín dụng một máy tính cá nhân. Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ thẩm định khi thực hiện công việc ngân hàng cần xây dựng một phòng tra cứu thông tin về thị trường, khách hàng, pháp luật. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần tiến hành nghiên cứu xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác thẩm định tài chính dự án để tiết kiệm thời gian, đảm bảo thực hiện đầy đủ các phân tích theo yêu cầu của chương trình, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong ngân hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ Chính phủ cần thiết lập một hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán trong lĩnh vực đầu tư và hoạt động ngân hàng, có những chính sách đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động của các công ty tư vấn đầu tư, tài chính là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay. Vì vậy Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ các doanh nghiệp này hoạt động để làm nhiệm vụ giúp đỡ các doanh nghiệp và cả ngân hàng trong lĩnh vực đầu tư, tạo nên tính chuyên nghiệp và hiệu quả. Cần đẩy mạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập trong nền kinh tế vì đây là những cơ quan có thể cung cấp các thông tin tương đối chính xác giúp ích rất nhiều cho các cơ quan quản lý, cho các ngân hàng và đối với cả doanh nghiệp. Nhà nước cần có chế tài xử lý thích hợp với việc doanh nghiệp thực hiện sai chế độ kế toán, tài chính hoặc cố tình cung cấp thông tin sai lệch để nâng cao tính chính xác nguồn thông tin từ khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thẩm định dự án. Việc xây dựng quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước cũng như cho từng ngành phải đảm bảo tính hợp lý và ổn định, tránh sự trùng lặp. Một chính sách kinh tế ổn định sẽ góp phần hạn chế sự thay đổi nằm ngoài dự tính của các biến số, giúp việc thẩm định rủi ro dự án được chính xác hơn. Chính phủ cần chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thống kê. Các cơ quan này cần hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm cần công bố các thông tin về định mức trung bình của các ngành, các lĩnh vực… để giúp ngân hàng có cơ sở để so sánh, đánh giá. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có sự chỉ đạo kịp thời bằng các văn bản, quy định sự phối hợp trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện dự án, cần tạo ra cơ chế gắn kết quả của dự án với các ý kiến thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, đặc biệt là các dự án phải qua nhiều cấp phê duyệt như dự án của các doanh nghiệp xây dựng tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần cụ thể hóa các luật ngân hàng, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các văn bản, quy phạm dưới luật (như Nghị định, Thông tư, các văn bản hướng dẫn) trong đó hướng dẫn cụ thể hơn nữa về hai luật Ngân hàng, cần sửa đổi những nội dung bất hợp lý, không phù hợp với thực tế hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (TRR), cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp loại doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án. NHNN cần nâng cao vai trò của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) bằng cách quy định việc cung cấp thông tin của các NHTM phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ, chính xác về khác hàng, tích cực thu thập thông tin từ các nguồn khác như Tổng cục thống kê, các Bộ, ban ngành… hoặc mua thông tin của các tổ chức thông tin quốc tế, nhằm tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho các NHTM. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành quy trình, nội dụng thẩm định dự án thống nhất trên cơ sở nội dung thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của các ngân hàng thương mại cho phù hợp với thực tiễn của nước ta đồng thời hòa nhập với thông lệ quốc tế. Hiện nay, do chưa có sự thống nhất giữa các hệ thống ngân hàng thương mại về quy trình thẩm định dự án cũng như các tiêu chuẩn của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính …dẫn đến khi thẩm định cùng một dự án sẽ có những kết quả khác nhau. Ví dụ, do lãi suất chiết khấu tại các hệ thống ngân hàng khác nhau xác định khác nhau nên với cùng một dự án thẩm định ở các ngân hàng khác nhau có thể cho kết quả các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại khi tiến hành đồng tài trợ cho các dự án lớn. Vì vậy, để thuận tiện cho công tác thẩm định, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đưa ra quy trình và nội dung thẩm định thống nhất cho hệ thống ngân hàng thương mại phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Tư vấn cho các ngân hàng thương mại những thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, những ngành kinh tế mũi nhọn, giúp có hướng đầu tư đúng đắn. Hướng dẫn các NHTM tăng cường hợp tác trong việc cung cấp thông tin khách hàng lẫn nhau nhằm hạn chế lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông tin không cân xứng. Bên cạnh đó, NHNN cần có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ với Bộ Xây dựng để xây dựng hệ thống tiêu thức và phân loại doanh nghiệp thống nhất, tránh tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng các Ngân hàng đánh giá, xếp loại khách hang khác nhau, gây khó khăn cho công tác thẩm định, cho vay cũng như công tác quản lý, trao đổi thông tin khách hàng giữa các ngân hàng. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam Về quy trình tín dụng, Ngân hàng Công thương Việt Nam nên bám sát thực tiễn để hoàn thiện quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay, từ đó chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện quy trình, quy chế trước đó. Cần hỗ trợ tốt hơn trong việc cung cấp thông tin cho các chi nhánh. Tại Việt Nam hiện nay, các ngân hàng thương mại thường kiểm tra thông tin từ hai nguồn cơ bản là trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và trung tâm phòng ngừa rủi ro TRP của các ngân hàng thương mại. Thực chất nguồn thông tin này là do báo cáo từ các chi nhánh của các ngân hàng thương mại tập hợp lại nên thông tin mà các ngân hàng thương mại lấy để đối chiếu là chưa cập nhật, chưa khách quan và chưa có tính thuyết phục. Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, NHCT VN đã xây dựng phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên để phòng này có được những thông tin chính xác, kịp thời, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần trang bị mạng lưới thông tin hiện đại cho toàn hệ thống, từ cấp cơ sở lên trên. Qua đó mà thông tin của từng khách hàng có quan hệ với ngân hàng đều được kiểm tra, cập nhập. Nhưng đây mới chỉ giải quyết được khâu kiếm thông tin về khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng. Đối với khách hàng lần đầu có quan hệ thì phòng phòng ngừa rủi ro phải tiến hành trao đổi thông tin với các ngân hàng thương mại khác đã có quan hệ với khách hàng hay các cơ quan tư pháp, các tổ chức phi ngân hàng… Ngân hàng Công thương Việt Nam phải tích cực phối hợp với các chi nhánh để thẩm định các dự án vay vốn vượt quyền phán quyết của chi nhánh. Giữa chi nhánh và Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tích cực trao đổi thông tin với nhau, cần tinh giảm các thủ tục để đẩy nhanh thời gian thẩm định dự án, tránh tình trạng dự án đã được thông qua ở cấp chi nhánh nhưng khi trình lên Ngân hàng Công thương Việt Nam lại bị chậm trễ trong khâu tái thẩm định. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần nắm bắt các chủ trương, kế hoạch của Nhà nước, của các Bộ ngành, kịp thời phổ biến cho các chi nhánh, từ đó xác định đúng đắn phương hướng hoạt động, đặc biệt là đối với hoạt động cho vay các dự án mang tính chiến lược. Ngân hàng Công thương Việt Nam cần làm tốt công tác đào tạo cán bộ. Ngân hàng Công thương Việt Nam phải không ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ của toàn hệ thống để đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hiện đại hóa ngân hàng. Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày để cán bộ ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn. Hơn nữa, vì hoạt động tài trợ cho dự án chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, xã hội…Các yếu tố này cần đưa ra để tranh luận về nguyên nhân, xu hướng diễn biến và hậu quả tác động của nó đến dự án đầu tư như thế nào. Do đó Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo, các lớp tập huấn nghiệp vụ để các cán bộ có dịp gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, giúp các chi nhánh nâng cao năng lực trong công tác thẩm định tài chính dự án. Đi đôi với công tác đào tạo chuyên môn Ngân hàng cũng cần chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp, tác phong, phương pháp làm việc nhằm tạo lập đội ngũ cán bộ toàn diện cho toàn hệ thống. 3.3.4. Kiến nghị đối với Bộ xây dựng Theo điều lệ quản lý đầu tư xây dựng của Nghị định số 52/CP của chính phủ, các dự án đầu tư trước khi trình lên ngân hàng thì đều phải xin phê duyệt của các đơn vị chủ quản. Để tránh các thủ tục phức tạp gây mất thời gian cho chủ đầu tư, Bộ xây dựng cần xem xét giảm bớt các thủ tục không cần thiết gây phiền hà cho chủ đầu tư. Bên cạnh đó, Bộ xây dựng nên có các quy định gắn kết trách nhiệm thẩm định với kết quả thực hiện dự án, có như vậy công tác xét duyệt dự án mới được thực hiện nghiêm túc, sự cần thiết và tính khả thi của dự án mới được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi phê duyệt. Do việc lập và quản lý chi phí, điều chỉnh dự toán công trình xây dựng cơ bản được thực hiện theo các thông tư của Bộ xây dựng nên đề nghị Bộ xây dựng cần xem xét, sửa đổi để một số quy định được hợp lý hơn. Ví dụ, trong thông tư số 03/2005/TT-BXD của Bộ xây dựng về hướng điều chỉnh dự toán công trình xây dựng, quy định tổng dự toán không bao gồm vốn lưu động ban đầu cho sản xuất là chưa phù hợp với thực tế vốn đầu tư cần thiết để dự án có thể đi vào hoạt động. Đồng thời phải có các văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng khi áp dụng. Đề nghị Bộ phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, nâng cao chất lượng thẩm định dự án nhất là về mặt thị trường, công nghệ kỹ thuật, kinh tế - xã hội, làm cơ sở cho ngân hàng thẩm định tài chính. Ngoài ra Bộ xây dựng cũng cần có hệ thống lưu trữ và thu thập thông tin, cần công khai hóa thông tin, xây dựng những chuẩn mực cho các ngành. 3.3.5. Kiến nghị với chủ dự án đầu tư Để giúp cho ngân hàng có thể nâng cao chất lượng thẩm định dự án,cần có sự hợp tác giữa chủ đầu tư và ngân hàng. Chủ đầu tư cần phải cung cấp đầy đủ những tài liệu cần thiết cho ngân hàng đúng như quy định, đảm bảo chính xác, trung thực. Ngược lại, với kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của mình, ngân hàng có thể tư vấn cho nhà đầu tư việc lập dự án chính xác, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các chủ đầu tư cần nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, cần nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Chủ đầu tư cần nghiêm chỉnh chấp hành việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định của các văn bản pháp luật vì khâu lập dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự thành công của dự án sau này. Nếu một dự án được lập cẩn thận sẽ giúp khi phân tích dự án có thể đưa ra quyết định đầu tư chính xác, đồng thời chỉ ra được những rủi ro có thể xảy ra để chủ dự án có biện pháp hạn chế rủi ro khi thực hiện dự án. Các chủ dự án phải tuân thủ nghiêm túc những cam kết với ngân hàng, khi thực hiện dự án cần đảm bảo thực hiện đúng những nội dung trong dự án, nếu có sửa đổi gì hay có những trục trặc thì cần phối hợp với ngân hàng để có biện pháp giải quyết hợp lý. KẾT LUẬN Tăng trưởng tín dụng bền vững là mục tiêu quan trọng của các Ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng. Muốn đạt được điều đó ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án vì kết quả thẩm định chính là thước đo quan trọng hàng đầu để ngân hàng đưa ra các quyết định tài trợ đúng đắn. Tuy nhiên thẩm định tài chính dự án hiện nay tại các ngân hàng còn chứa đựng nhiều hạn chế, đòi hỏi các ngân hàng cần có sự nghiên cứu và có những giải pháp khắc phục để nâng cao hơn chất lượng công tác này. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, luận văn “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng.” đã đề cập được những vấn đề sau: Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định dự án của Ngân hàng thương mại, nội dung, chất lượng và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thứ hai, luận văn đã đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó. Thứ ba, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án dựa trên định hướng cho vay của chi nhánh đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng. Đồng thời luận văn cũng đưa ra những kiến nghị với Chính phủ, NHNN, NHCTVN và Bộ xây dựng để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chi nhánh trong quá trình thực hiện thẩm định tài chính dự án có hiệu quả. Với kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những người có kinh nghiệm quan tâm đến đề tài này để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, ĐHKTQD, NXB Tài chính. 2. PTS Vũ Duy Hào, TS Đàm Văn Huệ, ThS Nguyến Quang Ninh (1997), Quản trị tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD 3. PGS. TS Lưu Thị Hương (2003), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD, NXB Thống kê 4. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng 5. Nguyễn Văn Đáng, Quản lý dự án xây dựng, NXB Tổng hợp Đồng Nai 6. Chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2003, 2004, 2005 7. Thông tư số 03/2005/ TT – BXD ngày 4 /3/ 2005 của Bộ xây dựng, Hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng cơ bản 8. Thông tư số 04/ 2005/ TT – BXD ngày 01/ 04/ 2005 của Bộ xây dựng, Hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình 9. Nghị định số 16/ 2005/ NĐ – CP ngày 07/02/ 2005 của Chính phủ, Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36376.doc
Tài liệu liên quan