LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM 3
1.1.2.1. Vai trò của tín dụng ngắn hạn. 3
1.1.2.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn. 6
1.1.3 Phân loại cho vay gồm có 11
1.1.4.Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM 12
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 14
1.2.1 Dự án 14
1.2.1.1 Giai đoạn xác định dự án 15
1.2.1.2 Giai đoạn phân tích và lập dự án 15
1.2.1.3 Duyệt dự án 15
1.2.1.4. Thực hiện dự án 16
1.2.1.5. Nghiệm thu, tổng kết và giải thể. 16
1.2.2 Dự án đầu tư 16
1.2.3 Thẩm định dự án. 17
1.2.3.1. Khái niệm thẩm định dự án 17
1.2.3.2. Nội dung của thẩm định dự án bao gồm các nội dung sau 18
1.2.4 Thẩm định tài chính dự án 20
1.2.4.1 Khái niệm 20
1.2.4.2 Nội dung của thẩm định tài chính dự án. 20
1.2.4.3. Nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thẩm định tài chính dự án 21
1.2.4.4 Sự cần thiết nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay. 22
1.2.4.5 Các chỉ tiêu sử dụng để thẩm định tài chính trong cho vay dự án. 23
1.2.4.6 Xác định hiệu quả tài chính dự án 28
1.2.4.7 Đánh giá rủi ro trong dự án 28
1.2.4.8. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH HAI BÀ TRƯNG. 39
2.1 Giới thiệu khái quát chung về NHCT Hai Bà Trưng 39
2.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển 39
2.1.2 Bộ máy tổ chức hoạt động của NHCT Chinh nhánh Hai Bà Trưng. 40
2.1.3. Tình hình hoạt động của Chi nhánh ngân hàng công thương HBT trong một số năm gần đây 41
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn. 41
2.1.3.2. Hoạt động tín dụng 42
2.1.3.3. Hoạt động kinh doanh khác 44
2.1.3.4. Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh 46
2.1.3.5. Công tác tiền tệ kho quỹ 46
2.1.3.6. Công tác tổ chức lao động, tiền lương, hành chính - quản trị 46
2.1.3.7. Công tác thi đua khen thưởng 47
2.1.3.8. Công tác đoàn thể khác 47
2.2 Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM Việt Nam nói chung 47
2.3. Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án vay vốn tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng. 54
2.3.1 Các bước trong quy trình thẩm định tài chính dự án 54
2.3.1.1 Xem xét tổng thể DAĐT 54
2.3.1.2 Dự tính hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của Dự án đầu tư 61
2.3.2 Kết quả đạt được trong công tác thẩm định tài chính dự án tại NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng trong giai đoạn vừ qua. 65
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHCT CHI NHÁNH HAI BÀ TRƯNG 68
3.1 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng 68
3.2. Một số kiến nghị 70
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Viện ĐH Mở... Chi nhánh còn cho vay không có tài sản bảo đảm, cho vay ưu đãi đối với các cán bộ công nhân viên. Bên cạnh việc mở rộng hoạt động tín dụng, chi nhánh cũng đã chú trọng đến chất lượng tín dụng. Chi nhánh đã không ngừng mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản vay, không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng, kết hợp với trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định, đảm bảo hiệu quả các dự án cho vay nên vốn tín dụng của dự án có hệ số an toàn cao. Chi nhánh cũng đã tiến hành phân loại nợ xử lí các khoản nợ xấu theo Quyết Định 234/QĐ-NHCT37 và đã giảm nợ xấu một cách đáng kể, chỉ còn 0,07% cuối năm 2007. Để tăng trưởng dư nợ tín dụng, Chi nhánh đã quan tâm tìm kiếm các phương án, dự án có tính khả thi cao như: Dự án nhuộm cao áp của công ty dệt kim Đồng Xuân trị giá 351,7 ngàn USD; dự án đường bộ 3 trị giá 56 tỷ của Khu quản lí đường bộ 2; tham gia đồng tài trợ dự án đầu tư dây chuyền 2 nhà máy xi măng Bỉm Sơn, với mức đầu tư 300 tỷ VND…vv.
2.1.3.3. Hoạt động kinh doanh khác
Ngoài kinh doanh đối nội, hoạt động kinh doanh đối ngoại cũng đạt kết quả đáng khích lệ, hổ trợ tích cực cho việc tăng trưởng dư nợ. Chất lượng dịch vụ, trình độ năng lực của cán bộ nhân viên nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt yêu cầu trong việc thực hiện xử lý các nghiệp vụ, do vậy chi nhánh đã làm vừa lòng khách hàng, lượng khách hàng tới giao dịch ngày càng tăng. Đồng thời, hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng đóng góp một tỉ lệ không nhỏ trong thu nhập của Chi nhánh. Kết quả đạt được trong một số năm gần đây được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1.3.3: Hoạt động kinh doanh khác
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Thanh toán L/C nhập
25,6
15,90
21,65
32,132
Thanh toán L/C xuất
7,5
12,29
16,836
26,174
Thông báo L/C xuất
2,5
2,24
13,755
24,649
Doanh số mua ngoại tệ
23,8
21
26,97
42,34
Doanh số bán ngoại tệ
24
22
26,35
42,46
Lãi kinh doanh ngoại tệ (triệu VND)
186
205
411
374
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong giai đoạn 2004-2007 NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng L/C tăng lên rõ rệt qua các năm thể hiện sự tín nhiệm của các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn. Cùng với hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, thông báo L/C cũng có mức tăng vọt đáng kể, gấp 11 lần từ năm 2005 đến 2007, điều này chứng tỏ Chi nhánh đã thể hiện là một đối tác tin cậy với không chỉ các doanh nghiệp mà còn với các ngân hàng nước ngoài.
Hoạt động thanh toán trong thời gian qua cũng có những tiến bộ đáng khích lệ. Với khối lượng vốn luân chuyển lớn trong giao dịch thanh toán của các doanh nghiệp, tuy nhiên Chi nhánh chú trọng tổ chức tốt công tác thanh toán, nâng cao phong cách giao tiếp, thực hiện triển khai kịp thời ccs chương trình ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác và an toàn, việc giao dịch một cửa ngày càng ổn định và thuận lợi hơn nên đã giữ vững được uy tín đối với khách hàng.
Về dịch vụ thẻ: số lượng thẻ ATM phát hành tính đến hết năm 2007 là 17781 thẻ, đây là một con số thể hiện sự cố gắng của Chi nhánh trong việc thu hút khách hàng sử dụng thẻ. Tuy nhiên, công nghệ dịch vụ thẻ hiện nay cũng là một nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển thẻ tại Chi nhánh, hệ thống máy ATM của các NHTM chưa có sự liên kết với nhau và chủ yếu là dùng thẻ để rút tiền mặt. Về mặt kĩ thuật, các máy ATM thường bị lỗi mạng, chất lượng máy hay xảy ra sự cố trục trặc về kỹ thuật, mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ còn ít… Cùng với dịch vụ thẻ ATM, dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế đã triển khai và thực hiện tại chi nhánh được 3 năm, các bộ phận liên quan cũng đã nhanh chóng nắm bắt quy trình nghiệp vụ để thực hiện nhanh chóng và ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, kết quả về phát hành thẻ tín dụng quốc tế và các cơ sở chấp nhận thẻ tín dụng của Chi nhánh còn hạn chế (thẻ TDQT năm 2007 chỉ đạt 15,85% kế hoạch, không thực hiện được phát triển cơ sở chấp nhận thẻ) đòi hỏi Chi nhánh cần phải quan tâm hơn nữa đến loại hình dịch vụ này.
2.1.3.4. Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh
Trong công tác tài chính kế toán, chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh và chế độ quy định. Đảm bảo tính kịp thời, chính xác trung thực, việc ghi chép sổ sách kế toán hợp lệ, hợp pháp. Phối hợp với nghiệp vụ tín dụng thu nợ, thu lãi kịp thời, chính xác. Thực hiện nghiêm túc các quy chế về quỹ đảm bảo thanh toán và ký quỹ bắt buộc, tiết kiệm chi tiêu theo kế hoạch NHCT Việt Nam.
2.1.3.5. Công tác tiền tệ kho quỹ
Công tác tiền tệ, kho quỹ luôn đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng, thu chi kịp thời đúng quy trình, không để xảy ra mất an toàn kho quỹ. Chủ động khai thác mọi nguồn thu tiền mặt nộp vào Ngân hàng, tổ chức thu tiền lưu động theo yêu cầu của khách hàng. Chấp hành nghiêm túc định mức tồn quỹ quy định. Trong năm 2007 phát hiện và thu hồi 3,5 triệu tiền giả nộp NHNN, thực hiện trả tiền thừa 190 món với tổng số tiền 516,8 triệu đồng. Quản lí tốt tài sản thế chấp và chứng từ có giá. Năm 2007:
* Tổng thu VND: 4450 tỷ đồng
* Tổng chi VND: 4350 tỷ đồng
* Tổng thu ngoại tệ: 35,3 triệu USD
* Tổng chi ngoại tệ: 34,7 triệu USD
2.1.3.6. Công tác tổ chức lao động, tiền lương, hành chính - quản trị
Về cơ bản đã thực hiện đúng cơ chế công khai minh bạch đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động. Công tác hành chính đã đáp ứng kịp thời nhu cầu điều kiện vật chất và phương tiện làm việc hợp lí, đúng chế độ cho người lao động, tạo điều kiện để các phòng ban hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác bảo vệ cơ quan đã được chú ý. Trong thời gian qua đã đảm bảo nội vụ an toàn tuyệt đối, không xảy ra cháy nổ, mất an toàn.
2.1.3.7. Công tác thi đua khen thưởng
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện theo hướng tích cực trên cơ sở vận hành quy chế thưởng tác nghiệp, cơ chế chi trả tiền lương kinh doanh phù hợp với đặc điểm của Chi nhánh và theo mục tiêu kinh doanh từng thời kì, nhằm từng bước gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động của từng phòng và từng người lao động. Thông qua cơ chế chi trả tiền lương, công tác thi đua khen thưởng đã có những kết quả rõ rệt, tác động tích cực động viên CBNV Chi nhánh thi đua lao động giỏi, nâng cao ý thức vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.
2.1.3.8. Công tác đoàn thể khác
Ban giám đốc đã chủ động phối hợp với Đảng ủy, Công đoàn trong việc quyết định các công việc quan trọng của hoạt động kinh doanh, công tác cán bộ, lao động tiền lương, v.v… Tạo mọi điều kiện cho Đảng viên, Đoàn viên Công đoàn và Thanh niên được học tập nâng cao nhận thức và thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ, quyền lợi của Đảng viên, Đoàn viên.
Công tác xã hội: Luôn quan tâm và tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm, tiếp tục thực hiện phụng dưỡng 2 mẹ Việt Nam anh hùng đến trọn đời, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ quỹ từ thiện, tích cực tham gia công tác xã hội.
Công tác An ninh tự vệ: Chi nhánh đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác an toàn tài sản, phòng chống các tệ nạn xã hội.
2.2 Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM Việt Nam nói chung
Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những đặc trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư cũng không đứng ngoài nguyên tắc này.
Sau Cách mạng Tháng Tám, tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Nha tín dụng, được thành lập năm 1951 theo Sắc lệnh số 15/SL ngày 06/05/1951, với 6 nhiệm vụ ban đầu, trong đó “Nắm vững 2 nhiệm vụ chính là: Phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hành chính sách tín dụng để phát triển sản xuất; phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh mậu dịch với mậu dịch”. Đây chính là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam. Hàng chục năm sau đó, NHNN Việt Nam với mạng lưới chi nhánh tỉnh/thành và quận/huyện trên toàn quốc là tổ chức tín dụng duy nhất và lớn nhất; NHNN vừa là cơ quan quản lý tiền tệ- tín dụng, vừa là tổ chức kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận.
Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên ngân hàng cho vay dường như không phải đắn đo, tính toán kỹ lưỡng vấn đề hiệu quả kinh tế. Tín dụng thực chất chỉ làm nhiệm vụ kiểm tra tiến độ và giải ngân kịp thời theo chỉ định của cấp trên. Trong điều kiện như vậy, vấn đề thẩm định dự án đầu tư của các ngân hàng không trở nên bức thiết và do đó, bộ phận thẩm định cũng không tồn tại trong tổ chức của các ngân hàng.
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới đáng kể cùng với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Mô hình tổ chức của ngành Ngân hàng có sự thay đổi căn bản, đó là sự tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng của NHNN với chức năng kinh doanh tiền tệ của các NHTM.
Pháp lệnh Ngân hàng được ra đời và đã được chuẩn hoá thành các luật về NHNN và các tổ chức tín dụng đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng được mở rộng và hoàn thiện; đặc biệt, tạo điều kiện cho các ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng:
- Đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh;
- Nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trước quyết định của mình trong hoạt động kinh doanh.
Xuất phát từ hai đặc điểm nêu trên của các ngân hàng trong thời kỳ sau đổi mới, bộ phận thẩm định của các ngân hàng ngày càng được khẳng định, phát triển mạnh và hoàn thiện hơn bởi những lý do sau:
Thứ nhất, ngành nghề kinh doanh đa dạng hơn, đối tượng, thành phần tín dụng cũng phong phú hơn. Nghiệp vụ tín dụng trở nên phức tạp và do đó, chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Chính vì vậy, tính chuyên môn hoá trong hoạt động này trở nên cấp thiết. Thẩm định dần trở nên quan trọng trong hoạt động tín dụng và thậm chí có xu hướng rõ rệt là tách ra trở thành một nghiệp vụ, một bộ phận riêng biệt so với tín dụng.
Thứ hai, tính tự chịu trách nhiệm ngày càng cao và tiến tới hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quyết định cho vay của các ngân hàng, trong điều kiện rủi ro tăng lên theo quy mô và mức độ phức tạp của hoạt động tín dụng, đã khiến cho các ngân hàng phải có một bộ phận thẩm định đối với những khoản cho vay lớn để có cách nhìn khách quan, toàn diện, giảm thiểu rủi ro nhờ hạn chế được những quyết định thiếu chính xác do cảm tính, do quan hệ quen thuộc hoặc do trình độ hạn chế của cán bộ tín dụng về một lĩnh vực kỹ thuật nào đó...
Trong thực tế, công tác phân công quản lý khách hàng của các NHTM Việt Nam hiện nay đều rất ít có sự phân công cán bộ tín dụng theo ngành nghề kinh tế. Cán bộ tín dụng làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm song không đi chuyên sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành hẹp. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi nộp hồ sơ xin vay kèm báo cáo nghiên cứu khả thi, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá thường đòi hỏi chi phí cao, các ngân hàng đa phần không thực hiện. Biện pháp chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tìm hiểu thông tin thông qua các cơ quan quản lý ngành mà doanh nghiệp hoạt động hoặc Tổng cục Đo lường chất lượng để xác minh. Song, các cơ quan quản lý tầm vĩ mô không theo sát được hoạt động của các đơn vị kinh doanh nên trong nhiều trường hợp cũng không thể đưa ra ý kiến chính xác. Nếu cán bộ ngân hàng không có kiến thức chuyên môn của riêng mình về chuyên ngành cần thẩm định trong dự án của khách hàng sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho doanh nghiệp hoặc ngược lại, bị doanh nghiệp thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho vay.
Trên thực tế tại hầu hết các NHTM Việt Nam, phòng thẩm định chỉ có vai trò tham mưu cho ban giám đốc ra quyết định tín dụng đối với các dự án lớn và tư vấn đầu tư cho khách hàng, tức là chỉ được phân công, còn phân quyền, phân nhiệm rất hạn chế.
Trong mô hình này, phòng thẩm định thuộc khối đơn vị chức năng (không trực tiếp kinh doanh). Khối các phòng tín dụng là nơi nhận hồ sơ xin vay và giao dịch trực tiếp với khách hàng. Nếu các hồ sơ xin vay có vốn vay lớn hơn một mức nhất định (10 tỷ đồng chẳng hạn) hoặc thời hạn dài (trên 10 năm- không kể các dự án do ban giám đốc chỉ định) thì được chuyển sang phòng thẩm định. Phòng thẩm định nghiên cứu, phân tích hồ sơ, cho ý kiến tham mưu trình ban giám đốc quyết định cho vay hay không. Nếu cho vay, phòng tín dụng tiến hành giải ngân và theo dõi tiến độ thực hiện. Sau khi dự án kết thúc, phòng thẩm định thu thập số liệu được theo dõi từ phòng tín dụng để có tư liệu về tỷ suất đầu tư, lợi nhuận dự án... làm tài liệu tham khảo.
Cách thức phân chia nhiệm vụ giữa các phòng như trên dựa theo quy trình cho vay: Phân tách bộ phận trực tiếp giao dịch với bộ phận thẩm định kinh tế- kỹ thuật dự án, hai bộ phận này đều có nhiệm vụ trợ giúp ban giám đốc ra quyết định cho vay và theo dõi quá trình thực hiện. Ưu điểm nổi bật của nó là phân tách các công đoạn và nhiệm vụ trong quá trình cho vay, tránh những rủi ro về đạo đức khi người thẩm định thông đồng với khách hàng, cố ý làm sai lệch kết quả đánh giá (cần phải khách quan) về dự án. Tuy nhiên, cách phân công này vẫn có tính chất quản lý hệ thống hơn là chuyên môn hoá theo định hướng thị trường. Chính vì vậy mà nó có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, việc không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng sẽ hạn chế những quan sát thực tiễn và nhận định trực quan của cán bộ thẩm định về khách hàng và dự án. Vai trò của người thẩm định vô cùng quan trọng, cả trong phân tích định tính và phân tích định lượng, ở đó cán bộ thẩm định cần tiến hành từ việc gặp gỡ, phỏng vấn khách xin vay vốn, đến thăm tại chỗ... để rút ra những nhận định cần thiết về độ chính xác của thông tin. Ở cách phân chia nhiệm vụ trên, phòng thẩm định chỉ đánh giá dựa trên hồ sơ do khách hàng cung cấp, vì vậy khó tránh khỏi chủ quan, giấy tờ, không sát với tình hình thực tế các doanh nghiệp.
Thứ hai, khi phòng tín dụng nhận hồ sơ và theo dõi dự án, phòng thẩm định đánh giá dự án có thể nảy sinh các nhận định ngược chiều dự án. Mâu thuẫn về nhận định nảy sinh do phòng tín dụng giao dịch thực tế với khách hàng, có thể đánh giá khác so với kết luận của phòng thẩm định rút ra từ việc phân tích các hồ sơ, giấy tờ được chuyển đến. Việc tham mưu cho ban giám đốc ra quyết định cho vay trong trường hợp này (phải đưa ra một hội đồng tín dụng) khó đi đến sự nhất trí, đặc biệt đối là đối với những khách hàng lần đầu đến giao dịch.
Thứ ba, phòng thẩm định chỉ có chức năng tham mưu chứ không có chức năng quyết định tín dụng ở một mức cụ thể nào. Trong khi đó, cán bộ thẩm định, với kiến thức và kinh nghiệm của mình, rất am hiểu về ngành nghề mình phụ trách, nếu được trực tiếp gặp gỡ khách hàng, hoàn toàn có khả năng đưa ra phán quyết tín dụng ở một mức độ hợp lý.
Thứ tư, một dự án lớn về bản chất có thể có quy mô lớn hơn hoặc thời gian dài hơn mức quy định do phòng tín dụng quyết định và sẽ phải chuyển đến phòng thẩm định, song nếu được chia nhỏ thành nhiều dự án con sẽ thuộc thẩm quyền thẩm định và quyết định của phòng tín dụng. Khi đó, mức quy định “số vốn trên 10 tỷ hoặc thời gian vay trên 10 năm” sẽ trở nên hình thức. Ngân hàng khó theo dõi tình hình tổng thể của dự án lớn ban đầu.
Việc trao quyền quyết định ở một mức nhất định sẽ khai thác được năng lực và tính chủ động, sáng tạo của cán bộ thẩm định (điều kiện thứ ba của thực hiện chuyên môn hoá). Hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là hệ thống ngân hàng duy nhất có áp dụng quy trình quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 trên các mặt nghiệp vụ chính được chọn: Tín dụng ngắn- trung- dài hạn, thẩm định, bảo lãnh, thanh toán trong nước và quốc tế. Mục đích áp dụng là chuẩn hoá và văn bản hoá các quy trình nghiệp vụ; thực hiện cải cách hành chính, đổi mới phong cách, hình thành nề nếp làm việc khoa học và thống nhất. Cùng với việc áp dụng quy trình thẩm định chuẩn ISO 9001 thì việc kiểm soát và quy trách nhiệm cá nhân trở nên dễ thực hiện hơn. Khi xảy ra gây thiệt hại, ngân hàng có thể xem xét cán bộ thẩm định có thực hiện đúng quy trình và các nguyên tắc thẩm định không, từ đó, xác định được lỗi chủ quan hay cố ý của người thẩm định. Vì vậy, tuy bản chất của quy trình ISO không nói lên chất lượng công việc nhưng là điều kiện tiền đề hết sức quan trọng cho việc phân công, phân quyền, phân nhiệm, phục vụ cho hướng đi chuyên môn hoá hoạt động của ngân hàng.
Hiện nay, hầu hết các NHTM Việt Nam không có sự phân tách bộ phận thẩm định riêng như một phòng kinh doanh độc lập mà tổ chức công tác thẩm định theo mô hình phòng tín dụng kiêm luôn chức năng thẩm định. Ưu điểm của mô hình này là cán bộ tín dụng vừa có chức năng thẩm định, vừa được quyền quyết định tín dụng ở một mức phán quyết nhất định. Tại các NHTM có chức năng tín dụng bao gồm thẩm định, cán bộ tín dụng được phân quyền kèm theo với phân công, đồng thời cũng chịu trách nhiệm lớn hơn về các khoản tín dụng do mình phụ trách.
Tuy nhiên, việc tổ chức nghiệp vụ tín dụng bao gồm quá nhiều công việc như vậy cũng có một số hạn chế sau: Một là, cán bộ tín dụng không chuyên sâu vào một ngành nghề nào; hai là, nếu cơ chế quản lý cán bộ không chặt dễ dẫn đến việc cán bộ thoả hiệp với khách hàng để tư lợi; nếu quá chặt thì khó đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng; ba là, gây nên tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng. Phần trên đã phân tích kỹ vào 2 hạn chế đầu tiên. Hạn chế thứ ba được thể hiện ở chỗ một cán bộ tín dụng trong mô hình tổ chức không có bộ phận thẩm định phải thực hiện tất cả các công việc sau: Tìm kiếm, giao dịch trực tiếp, nhận đơn xin vay của khách hàng; kiểm tra tính xác thực, đầy đủ và phù hợp của các hồ sơ và điều kiện xin vay trên giấy tờ và thực tiễn; thẩm định, kiểm tra đối tượng vay vốn và tính khả thi của dự án; kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đôn đốc khách hàng trả lãi và gốc đầy đủ, đúng hạn. Thực hiện xong (và chính xác) các khâu công việc đó (trừ thu nợ phải đợi kỳ đáo hạn) mất một khoảng thời gian trung bình từ 20- 30 ngày đối với dự án nhóm A; từ 15- 20 ngày đối với dự án nhóm B (trong điều kiện thuận lợi thông thường). Song nếu món vay càng nhiều, địa bàn càng rải rác thì khối lượng công việc càng lớn, và tất nhiên, thời gian để hoàn thành công việc phải dài hơn. Tình trạng quá tải như vậy gây nên sự căng thẳng đối với cán bộ tín dụng, họ phải làm thêm công việc tại nhà, hoặc phải bỏ bớt các công việc, hoặc thực hiện các khâu trong quy trình qua loa, có tính hình thức. Tuy nhiên, với số dư nợ định mức bình quân trên 10 tỷ đồng/cán bộ tín dụng áp dụng tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, được coi là cao nhất so với các NHTM của Việt Nam, thì con số tương ứng là 40- 50 tỷ tại các chi nhánh NHTM nước ngoài mà chất lượng tín dụng vẫn cao hơn các NHTM Việt Nam, không khỏi nảy sinh câu hỏi: “Biện pháp nào có thể vừa nâng cao mức tăng trưởng tín dụng vừa đảm bảo an toàn hệ thống?”
2.3. Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án vay vốn tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng
2.3.1 Các bước trong quy trình thẩm định tài chính dự án
2.3.1.1 Xem xét tổng thể DAĐT
+) Xem xét, đánh giá sơ bộ theo các nội dung quan trọng của DAĐT
Mục tiêu đầu tư của DAĐT là gì?
Khách hàng thực sự có cần thiết đầu tư?
Quy mô đầu tư thế nào?
Cơ cấu sản phẩm và dịch vụ đầu ra của DAĐT ra sao?
Phương án tiêu thụ sản phẩm như thế nào?
Quy mô vốn đầu tư là bao nhiêu? Cơ cấu vốn đầu tư?
Kế hoạch kinh doanh dự kiến thực hiện từ những nguồn vốn nào?
Thời gian dự kiến thực hiện dự án bao lâu?
+) Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm DAĐT
Tình hình nhu cầu trên thị trường về sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án như thế nào?
Mô tả sản phẩm DAĐT
Những đặc tính của nhu cầu sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án là gì?
Tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định như thế nào?
Tổng nhu cầu hiện tại về sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án là bao nhiêu?
Tổng nhu cầu trong tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án được dự tính là bao nhiêu?
Mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường nội địa và khả năng sản xuất sản phẩm là bao nhiêu?
Bao nhiêu phần trăm về khả năng sản phẩm dự án có thể bị thay thế bởi các sản phẩm khác có cùng công dụng.
+) Đánh giá về cung sản phẩm
Năng lực sản xuất và cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng bao nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu. Liệu việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn?
Mức độ biến động dự đoán của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối tượng khác tham gia vào thị trường sản phẩm dịch vụ đầu ra của dự án như thế nào?
Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua là bao nhiêu? dự kiến khả năng nhập khẩu trong nước thời gian tới là bao nhiêu?
Tổng mức cung dự kiến và tốc độ tăng trưởng về tổng cung sản phẩm, dịch vụ này là bao nhiêu?
+) Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Trên cơ sở đánh giá tổng quan về quan hệ cung cầu sản phảm của dự án, xem xét, đánh giá về các thị trường mục tiêu của sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án là thay thể hàng nhập khẩu, xuất khẩu hay chiếm lĩnh thị trường nội địa của các nhà sản xuất khác. Việc định hướng này có hợp lý không.
Để đánh giá về khả năng đạt được các mục tiêu thị trường, cán bộ thẩm định cần thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm phương án đối với:
Thị trường nội địa:
Hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của phương án so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế nào, có ưu điểm gì không
Sản phẩm có phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, xu hướng tiêu thụ hay không
Giá cả so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường như thế nào, có rẻ hơn không, có phù hợp với xu hướng thu nhập, khả năng tiêu thụ hay không.
Thị trường nước ngoài
Sản phẩm có khả năng đạt được các yêu cầu về tiêu chuẩn để xuất khẩu hay không?
Quy cách, chất lượng mẫu mã, giá cả có những ưu thế như thế nào so với những các sản phẩm cùng loại trên thị trường dự kiến xuất khẩu?
Thị trường dự kiên xuất khẩu có bị hạn chế bởi hạn ngạch không?
Sản phẩm cùng loại của Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường xuất khẩu dự kiến chưa, kết quả như thể nào?
+) Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối
Sản phẩm của phương án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân phối không?
Mạng lưới phân phối của sản phẩm phương án đã được xác lập chưa, mạng lưới phân phối có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không?
Ước tính chi phí thiết lập mạng lưới phân phối là bao nhiêu?
Khách hàng sẽ áp dụng phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay như thế nào?
Nếu việc tiêu thụ chỉ dựa vào một số đơn vị phân phối thì cần có nhận định xem có thể gây ra việc bị ép giá hay không?
+) Đánh giá, dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của phương án
Theo những ước định nói trên thì mức độ sản xuất và tiêu thụ hàng năm của khách hàng vay vốn là bao nhiêu?
Khách hàng liệu có thể kịp thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu phương án có nhều loại sản phẩm để phù hợp với tình hình thị trường?
Mức độ biến động vê giá bán sản phẩm này trên cơ sở tháng/quý/năm là bao nhiêu?
+) Đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của dự án
Khách hàng cần bao nhiêu nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm
Có bao nhiêu nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào? họ là những khách hàng có quan hệ từ trước hay mới thiết lập? khả năng cung ứng và mức độ tín nhiệm của họ như thế nào?
Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên nhiên liệu đầu vào (nếu có) như thế nào?
Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào, tỷ giá trong trường hợp phải nhập khẩu?
Đối với các dự án phải gắn với vùng nguyên liệu thì khả năng xây dựng vùn nguyên liệu ra sao?
+) Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật
Địa điểm xây dựng
Xem xét, đánh giá địa điểm có thuận lợi về mặt giao thông không? gần nguồn nguyên liệu không? điện nước và thị trường có gần không, có nằm trong quy hoạch hay không?
Cơ sở vật chất hạ tầng hiện có của địa điểm đầu tư thế nào, đánh giá so sánh về chi phí đầu tư so với các dự án tường tự ở địa điểm khác
Địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư của dự án cũng như ảnh hưởng đến giá thành, sức cạnh tranh nếu xa thị trường nguyên vật liệu, tiêu thụ.
Quy mô sản xuất và sản phẩm của dự án
Công suất thiết kế dự kiên là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng tài chính, trình độ quản lý, địa điểm, thị trường tiêu thụ hay không
Sản phẩm của dự án là sản phẩm mới hay đã có trên thị trường
Quy cách, phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như thế nào
Yêu cầu kỹ thuật, tay nghề để tạo ra sản phẩm có cao không
Công nghệ thiết bị
Quy trình công nghệ có tiên tiến, hiện đại không, ở mức độ nào của thế giới
Công nghệ có phù hợp với trình độ hiện tại của Việt Nam không, lý do lựa chọn công nghệ này
Phương thức chuyển giao công nghệ có hợp lý không, có đảm bảo cho chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ được hay không.
Xem xét đánh gia về số lượng, công suất, quy cách, chủng loại, danh mục máy móc thiết bị và tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
Trình độ tiên tiến của thiết bị, khi cần thiết phải thay đổi sản phẩm thì thiết bị này có đáp ứng được không
Giá cả thiết bị và phương thức thanh toán có hợp lý không
Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị có phù hợp với tiến độ thực hiện dự án dự kiến không
Uy tín của các nhà cung cấp thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có chuyên sản xuất các thiết bị của dự án hay không.
Quy mô, giải pháp xây dựng
Xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án không, có tận dụng được cơ sở vật chất hiện có hay không
Tổng dự toán của từng hạng mục công trình, có hạng mục nào không cần thiết hoặc chưa cần thiết không
Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp với thực tế hay không
Vấn đề hạ tầng cơ sở: giao thông, điện nước
Môi trường, phòng cháy chữa cháy
+) Đánh giá về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện dự án
Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành của chủ đầu tư dự án. Đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận, điều hành công nghệ, thiết bị mới của dự án
Xem xét năng lực, uy tín của nhà thầu: tư vấn, thi công, cung cấp thiết bị - công nghệ
Khả năng ứng xử của khách hàng thế nào khi khi thị trường dự kiến bị mất
Đánh giá về nguồn nhân lực của dự án: số lượnglao động dự án cần, đòi hỏi về tay nghề, trình độ kỹ thuật, kế hoạch đào tạo và khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho dự án.
+) Thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn
Tổng vốn đầu tư dự án
Trong phần này, cán bộ thẩm định phải xem xét, đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã được tính toán hợp lý chưa, cần xem xét các yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự phòng việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ nếu dự án có sử dụng ngoại tệ. Tuy nhiên, trên cơ sở những dự án tương tự đã thực hiện và được Ngân hàng đúc rút ở giai đoạn thẩm định dự án sau đầu tư (về suất vốn đầu tư, về phương án công nghệ, về các hàng mục thực sự cần thiết và chưa thực sự cần thiết trong giai đoạn thực hiện đầu tư) cán bộ thẩm định sau khi so sánh nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ một nội dung nào phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét. Từ đó đưa ra cơ cấu vốn hợp lý để làm cơ sở xác định mức tài trợ tối đa mà Ngân hàng nên tham gia vào dự án.
Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án
Cán bộ thẩm định phải xem xét, đánh giá về tiến độ thực hiện dự án và nhu cầu cho từng giai đoạn như thế nào, có hợp lý hay không. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong từng giai đoạn thực hiện dự án để đảm bảo tiến độ thi công.
Việc xác định tiến độ thực hiện, nhu cầu vốn làm cơ sở cho việc dự kiến tiến độ giải ngân, tính toán lãi vay trong thời gian thi công và xác định thời gian vay trả.
+) Đánh giá hiệu quả tài chính dự án
Trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính dự án, có hai nhóm chỉ tiêu cần thiết phải đề cập
Nhóm chỉ tiêu về suất sinh lời của dự án: NPV, IRR, ROE (đối với dự án có vốn tự có tham gia)
Nhóm chỉ tiêu về khả năng trả nợ
Nguồn trả nợ hàng năm
Thơi gian hoàn trả vốn vay
DSCR (chỉ số đánh giá khả năng hoàn trả nợ dài hạn của dự án)
+) Phân tích rủi ro của dự án
Rủi ro về tiến độ thực hiện (đối với dự án xây dựng): Hoàn tất dự án không đúng thời hạn, không phù hợp với các thông số và tiêu chuẩn thực hiện.
Biện pháp giảm thiểu rủi ro: Khách hàng đã có giải pháp gì giảm thiểu rủi ro
Rủi ro về thị trường: rủi ro hàng hóa sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu thị trường, thiếu sức cạnh tranh về giá cả, chất lưọng, mẫu mã, công dụng…
Rủi ro về môi trường và xã hội: Dự án có thể gây tác động tiêu cực đối với môi trường và dân cư xung quanh
Rủi ro kinh tế vĩ mô: bao gồm các rủi ro phát sinh từ môi trường kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất…
Ngân hàng phải xem xét xem khách hàng đã có những biện pháp giảm thiểu rủi ro: Khách hàng đã có giải pháp gi giảm thiểu rủi ro, những biện pháp dó có khả thi không?
2.3.1.2 Dự tính hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của Dự án đầu tư
Việc phân tích và thẩm định dự án có thể được khái quát qua sơ đồ sau:
Xác định
mô hình dự án
Phân tích và ước tính
số liệu cơ sở dự tính
Thiết lập các bảng tính
thu nhập và chi phí
Thiết lập báo cáo kết quả
kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Lập báo cáo cân đối
Bước 1: Xác định mô hình dự án đầu tư
Từ báo cáo khả thi, cán bộ thẩm định xác định mô hình dự án thuộc loại nào trong loại dưới đây:
Dự án xây dựng mới (do yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án được tách biệt rõ ràng nên có thể dễ dàng xác định được hiệu quả của dự án)
Dự án mở rộng nâng cao công suất (hiệu quả dự án được tính toán dựa trên cơ sở đầu ra là công suất tăng thêm, đầu vào là tiện ích, bán thành phẩm được sử dụng từ dự án hiện hữu va đầu vào mới cho phần công suất tăng thêm)
Dự án đầu tư chiều sâu, hợp lý hóa quy trình sản xuất (hiệu quả dự án được tính toán trên cơ sở đầu ra là chi phí tiết kiệm được hay doanh thu tăng thêm thu được từ việc đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra là các chi phí cần thiết để đạt được mục tiêu về đầu ra.
Dự án kết hợp đầu tư chiều sâu, hợp lý hóa quy trình sản xuất và mở rộng nâng cao công suất (hiệu quả của việc đầu tư dự án được tính toán trên cơ sở chênh lệch giữa đầu ra, đầu vào lúc trước khi đầu tư và sau khi đầu tư. Để đơn giản hóa việc tính toán, đối với các dự án mà giá trị trước khi đầu tư không chiếm tỷ lệ lớn trong tổng giá trị dự án sau khi đầu tư thì dự án trước khi đầu tư xem là đầu vào của dự án sau khi đầu tư theo giá trị thanh lý)
Việc xác định mô hình nói trên sẽ giúp tính toán được những khoản thu nhập và chi phí của những giá trị mới được tạo ra và do đó sẽ biết được hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án đầu tư.
Bước 2: Phân tích và ước định số liệu cơ sở tính toán
Trên cơ sở:
Những phân tích đánh giá ở về thị trường, cung, cầu về sản phẩm của dự án nói trên
Báo cáo khả thi của dự án đầu tư
Báo cáo tài chính dự tính cho ba năm sắp tới và cơ sở tính toán
Cán bộ thẩm định tiến hành ước tính các chỉ tiêu quan trọng nhất của dự án
Sản lượng tiêu thụ
Giá bán
Doanh thu
Nhu cầu vốn lưư động
Chi phí bán hàng
Các chi phí nguyên vật liệu đầu vào
Chi phí nhân công, quản lý
Khấu hao
Chi phí tài chính
Thuế các loại, v.v..
Bước 3: Thiết lập các bảng tính thu nhập và chi phí
Lập các bảng tính trung gian như:
Bảng tính sản lượng và doanh thu
Bảng tính chi phí hoạt động
Bảng tính chi phí nguyên vật liệu
Lịch khấu hao
Tính toán lãi vay vốn trung dài hạn
Bảng tính nhu cầu vốn lưu động
Bước 4: Thiết lập báo cáo kết quả kinh doanh và báo báo lưu chuyên tiền tệ
Lập báo cáo kết quả kinh doanh
Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tính toán khả năng trả nợ của dự án; phân tích độ nhạy và phân tích viễn cảnh
Dòng tiền của một dự án được chia làm 3 nhóm
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy một chiều:
Từ các thông số ban đầu và kết quả tính toán, lựa chọn một nhân tố có khả năng ảnh hưởng nhất tới hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án.
Lập bảng với các cột bao gồm nhân tố đã lựa chọn, NPV và IRR trong đó bao gồm phương án cơ sở với NPV và IRR tính được ở phần trên
Sử dụng Table thuộc data của Excel để tính toán các giá trị của NPV và IRR tương ứng cho các trường hợp thay đổi của nhân tố nói trên
Phân tích độ nhạy hai chiều:
Chọn hai nhân tố giả định có khả năng ảnh hưởng lớn nhất
Chọn NPV hoặc là IRR là cơ sở phân tích
Các bước còn lại làm như phân tích độ nhạy một chiều
Phân tích viễn cảnh
Đưa ra các viễn cảnh có thể mà dự án đầu tư có thể thực hiện được, ví dụ chọn khả năng sản xuất có thể xảy ra so với công suất thiết kế của dự án. Thông thường chọn ra ba viễn cảnh, lần lượt chọn 1, 2, 3. Ứng với từng viễn cảnh là các tỷ lệ của khả năng sản xuất so với công suât thiết kế theo từng năm của dự án đầu tư.
Chọn viễn cảnh số 1 và là khả năng có thể xảy ra nhất với NPV tính được ở phần trên.
Lập bảng tính với NPV tính được ở phần trên
Sử dụng chức năng Table thuộc data để tính NPV của hai trường hợp còn lại.
Tính ra giá bán sản phẩm, số sản phẩm tương ứng .v.v.. của 3 viễn cảnh.
Bước 5: Lập bảng cân đối kế hoạch
Bảng này sẽ cho biết tóm lược tình hình tài chính của dự án và tính các chỉ số của dự án.
2.3.2 Kết quả đạt được trong công tác thẩm định tài chính dự án tại NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng trong giai đoạn vừ qua
Theo sự chỉ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam, trong những năm gần đây, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đã chú trọng tới hoạt động đầu tư cho vay theo dự án và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tình hình cho vay theo dự án được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2.1 Tình hình cho vay theo dự án
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Dư nợ cho vay theo dự án
112.600
135.580
166.560
Tổng số các dự án
325
336
380
Nguồn: Báo cáo tín dụng NHCT Hai Bà Trưng
Tuy tổng số dự án tăng không cao nhưng dư nợ cho vay theo dự án lại tăng qua các năm, điều này cho thấy quy mô dự án ngày càng lớn, nếu như năm 2005, dư nợ đối với cho vay theo dự án là 112600 triệu đồng thì đến năm 2006 đã tăng lên 135580 triệu đồng và năm 2007là 166560 triệu đồng. Dư nợ tăng chứng tỏ cho vay theo dự án đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của Ngân hàng tuy nhiên điều này cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho công tác đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, nhất là cho vay theo dự án.
Các dự án có vay vốn ở Chi nhánh đều là các dự án có quy mô nhỏ, tổng vốn đầu tư không lớn, vốn vay tại Ngân hàng chủ yếu dưới 10 tỷ. Mặc dù vậy, công tác thẩm định tại Chi nhánh vẫn luôn được chú trọng nhằm hạn chế đến mức tối thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với Ngân hàng. Có thể kể ra một số dự án lớn mà Ngân hàng tài trợ trong một vài năm trở lại đây:
Dự án nhuộm cao cao cấp của công ty dệt kim Đông Xuân trị giá 315,7 ngàn USD.
Dự án đường bộ 3 trị giá 56 tỷ của Khu quản lý đường Bộ 2.
Tham gia đồng tài trợ dự án đầu tư đây truyền 2 nhà máy xi măng Bỉm Sơn, với mức đầu tư 300 tỷ.
Dự án thuộc công ty than Hòn Gai 80 tỷ.
Công ty dệt 8/3
Dự án của công ty xây lắp thương mại I.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên, Ngân hàng vẫn còn một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, về nhân lực: Khi gặp những dự án liên quan nhiều đến yếu tố kỹ thuật thì cán bộ tín dụng của ngân hàng sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí hơn bởi vì phần lớn cán bộ tín dụng la tốt nghiệp các ngành kinh tế. Yêu cầu đặt ra là khi tiếp xúc với các khách hàng có những dự án xây liên quan đến các yếu tố kỹ thuật, cán bộ thẩm định phải có sự hiểu biết về kỹ thuật, và không được keo dài thời gian thẩm định để đưa ra kết luận cho dự án. Do vậy ngân hàng đã hướng đến nhiều dạng khách hàng có những dự án ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đồng thời phải đảm bảo rằng khi tiếp cận với bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào, ngân hàng cũng có những cán bộ có đủ khả năng, trình độ để thẩm định hiệu quả những dự án trong lĩnh vực ấy, nhằm hạn chế tối thiểu rủi ro xảy ra trong quá trình cho vay theo dự án.
Thứ hai, cũng là một vấn đề nữa về mặt nhân lực đó là: trong xu hướng phát triển mạnh mẽ hiện nay, nhu cầu về nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng là vô cùng cao. Sự phát triển, mở rộng của các ngân hàng thương mại đã phần nào thu hút những cán bộ chủ chốt, có nhiều kinh nghiệm của ngân hàng. Đồng thời quá trình trẻ hoá đội ngũ cán bộ công nhân viên đã phần nào làm giảm sút đi kinh nghiệm nhân lực so với mặt bằng chung, làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Thứ ba, một yếu tố rât quan trong trong quá trình thẩm định tài chính dự án đó là nguồn số liệu đầu vào của dự án. Khi mà chức năng chuyên môn chưa được phân định rõ ràng trong công tác thẩm định, chưa có phòng ban cụ thể, việc thẩm định vẫn là của các cán bộ tín dụng thì các cán bộ tín dụng phải trực tiếp đi thu thập số liệu. Nếu có sai sót xảy ra thì rủi ro là rất lớn.
Thứ tư: Khi mà kinh tế càng phát triển, các ngành nghề càng đa dạng thì các dự án cũng đa dạng tương ứng. Vì vậy Ngân hàng chưa thu thập đủ các mô hình phân tích của các dạng dự án đầu tư. Do vậy, khi gặp những dự án thuộc những ngành nghề lạ thì ngân hàng chưa có một bộ khung chung để thẩm định các dự án thuộc lĩnh vực đấy. yêu cầu đặt ra cho ngân hàng là cần phải thu hút hơn nữa các dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo ra được những mô hình phân tích thẩm định đa dạng, như thế những dự án tương tự về sau sẽ giảm thiểu được chi phí và thời gian thẩm định.
Thứ năm, ngân hàng vẫn tính toán chủ yếu trên những phần mềm office cơ bản, khi gặp một số hàm phức tạp sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng chưa có phần mềm về giả định mô hình, phần mềm thẩm định như một số ngân hàng hiên đại nước ngoài.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH HAI BÀ TRƯNG
3.1 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng
Để hạn chế những thiếu sót và có thể nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng em xin đưa ra một số giải pháp sau:
- Áp dụng các phương pháp thẩm định tiến tiến: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư của NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng trước hết hướng tới nhóm giải pháp về phương pháp thẩm định. Ngân hàng nên áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại, ví dụ như sử dụng phần mềm thẩm định, đồng thời chú ý tới việc đánh giá hiệu quả tài chính, giá trị thời gian của tiền cũng như lựa chọn lãi suất chiết khấu và phương pháp tính khấu hao phù hợp.
- Về mặt tổ chức điều hành của ngân hàng đối với hoạt động thẩm định dự án, nhằm thực hiện tốt quá trình chuyên môn hoá hoạt động thẩm định, qua đó nâng cao chất lượng thẩm định, ngân hàng nên quan tâm hàng đầu tới nhóm giải pháp về tổ chức điều hành. Việc tổ chức, quản lý điều hành công tác thẩm định cần được chú trọng với quy trình thẩm định chặt chẽ vì đây là khâu quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác thẩm định của ngân
hàng.
Các dự án được đưa đến Ngân hàng có quy mô, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau. Việc bổ nhiệm, phân công cán bộ cần phải dựa vào khả năng, thực lực của mỗi người, đồng thời phải có sự kết hợp chặt chẽ, cùng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để phát huy hơn nữa trình độ, kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ nhằm đạt được hiệu quả trong công tác thẩm định. Vì vậy, việc phân công công tác phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định và kết quả của mỗi dự án mà người đó đảm nhiệm vì như thế, trách nhiệm của cán bộ thẩm định mới ngày được nâng cao. Ngân hàng nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư; thực hiện chuyên môn hoá trong công tác, tách bộ phận thẩm định ra khỏi tín dụng và bản thân nghiệp vụ thẩm định cũng cần được chuyên môn hoá theo ngành, lĩnh vực kinh tế và thời hạn của dự án.
- Giải pháp về thu thập, phân tích thông tin liên quan đến việc thẩm định dự án đầu tư: Nhằm khắc phục rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng, ngân hàng cần tăng cường hệ thống thông tin nội bộ cũng như thu thập các thông tin từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, NHCT cần hình thành mối quan hệ về thẩm định với các Ngân hàng khác để khai thác thông tin được thuận lợi, tất cả các ngân hàng cùng giám sát được một khách hàng và có điều kiện để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án.
- Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: Con người là nhân tố trung tâm chi phối, ảnh hưởng quyết định đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định thì trước hết phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ với các điều kiện như: Trình độ học vấn, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu này, NHCT cần tập trung vào một số vấn đề như việc tuyển dụng cán bộ; bồi dưỡng cán bộ và chính sách đãi ngộ. Ngân hàng
nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm, ý thức, tinh thần trách nhiệm vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ.
Điều quan trọng là các cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và luôn có ý thức vươn lên để hoàn thành tốt công việc được giao. Chính vì vậy, ngân hàng phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tuy nhiên, cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra đội ngũ cán bộ thẩm định, xem xét và thuyên chuyển những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc sang làm công việc khác. Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người.
Nhằm nâng cao chất lượng thẩm định, tận dụng kinh nghiệm, kiến thức của những người đi trước, ngân hàng nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học, qua đó tập hợp các đề xuất, ý kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ cập và áp dụng trong toàn hệ thống. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch chung, ngân hàng cần xây dựng một chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm.
Bên cạnh những giải pháp trên, ngân hàng cũng nên phát triển hệ thống trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng như công tác thẩm định dự án đầu tư.
3.2. Một số kiến nghị
Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp.Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung, NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng nói riêng, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau
* Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tăng cường hơn nữa vai trò điều hành, quản lý của mình. Thực hiện tốt vai trò tham mưu quản lý, điều hành thông qua việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, quy định, hướng dẫn rõ ràng thay vì thực hiện chức năng xử lý từng trường hợp cụ thể.
Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam cần phải tích cực phối hợp, trao đổi với các Chi nhánh nói chung và Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng. Đặc biệt là việc thẩm định các dự án vay vốn vượt quá thẩm quyền phán quyết của Chi nhánh để đẩy nhanh thời gian thẩm định dự án, tránh tình trạng dự án được thông qua ở chi nhánh nhưng khi trình lên trung ường thì bị chậm trong khâu tái thẩm định.
Để đảm bảo quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn thì NHCT Việt Nam cũng cần phải thực hiện chặt chẽ hơn nữa việc kiểm soát đối với Hội sở chính cũng như các chi nhánh về nghiệp vụ này, bao gồm 3 giai đoạn:
- Kiểm soát trước: Giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể: Các điều kiện vay vốn Ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa? Hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đầy đủ và hợp lệ chưa: đã thu thập đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến dự án chưa?
- Kiểm soát trong: có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục… nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này.
- Kiểm soát sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã
được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước.
Ngân hàng Công thương Việt Nam với tư cách là Ngân hàng cấp trên của NHCT Hai Bà Trưng cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trong nước cũng như quốc tế để có thể cung cấp được nguồn thông tin cho công tác thẩm định, đảm bảo thông tin được cập nhật nhanh chóng, thường xuyên, chính xác; đồng thời thu thập, học hỏi kinh nghiệm cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định của chi nhánh. Bên cạnh đó, NHCT cũng cần coi trọng công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng các hình thức đào tạo cán bộ phù hợp gắn với phát triển nghiệp vụ. Dự kiến trong năm 2006 Ngân hàng sẽ khởi công xây dựng Trường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của mình tại Hà Nội, việc này cần được xúc tiến nhành chóng.
Một điều quan trọng nữa là NHCT Việt Nam cũng cần tạo điều kiện cho các chi nhánh đầu tư trang thiết bị máy móc, hiện đại hóa, tin học hóa các giao dịch và nghiệp vụ. NHCT cũng phải xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh, lề lối làm việc kỷ cương trong toàn hệ thống.
* Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành
- Đề nghị NHNN phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Tổng cục Thống kê... xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án.
- Đề nghị các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án.
- Nhà nước cần quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì thoát ly khỏi chức năng quản lý Nhà nước để tập trung vào công tác quản lý xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
- Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án.
* Đối với NHNN
- NHNN cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ cho các NHTM và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, NHNN cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định.
- Đề nghị bộ phận thẩm định các NHTM Việt Nam phối hợp với nhau để trao đổi kinh nghiệm và thông tin. Đặc biệt, xu hướng hiện nay là các ngân hàng cho vay đồng tài trợ những dự án quy mô lớn, việc hợp tác sẽ tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong việc thẩm định.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, lĩnh vực ngân hàng tài chính là lĩnh vực hội nhập mạnh mẽ nhất, đòi hỏi các ngân hàng trong nước cần có một hướng đi đúng đắn để giữ vững chỗ đứng của mình trên thị trường. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ các ngành nghề khác cũng như các dự án đầu tư đa dạng của nhiều ngành nghề. Khi đó hẩm định tài chính dự án sẽ là một khâu vô cùng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định
tài chính dự án có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng, và xu thế phát triển của nền kinh tế. Quá trình nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn bộ trong hoạt động và quản lý của hệ thống tài chính, tiền tệ hệ thống luật pháp và các ngành kinh tế.
Trong tín dụng nói chung, thì cho vay tài trợ dự án là rất quan trọng nhất là trong bối cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, cũng như NHCT-HBT. Do đó việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là rất cần thiết đối với chi nhánh. Tuy nhiên, với thời gian thực tập và nghiên cứu tại Chi nhánh là không nhiều, kiến thức chuyên môn còn hạn chế và chưa có kinh nghiêm thực tế, chỉ dựa nhiều vào tài liệu thu thập được nên bài viết của em có thể còn nhiều hạn chế. Rất mong các thầy cô, các cán bộ trong Chi nhánh NHCT- HBT tận tình chỉ bảo, giúp đỡ. Cuối cùng, em xin cám ơn thầy giáo hướng dẫn và các cán bộ công tác tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề nghiên cứu của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS. Lưu Thị Hương. NXB Thống Kê 2005.
Giáo trình Thẩm định tài chính dự án – PGS.TS. Lưu Thị Hương. NXB Tài Chính 2004.
Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS. Phan Thị Thu Hà. NXB Thống Kê 2004.
Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Vũ Duy Hào. NXB Thống kê 1998.
Sách Dự án đầu tư - Lập & Thẩm định hiệu quả tài chính – ThS. Đinh Thế Hiển. NXB Tp Hồ Chí Minh
Sổ tay tín dụng NHCT Việt Nam 2004.
Quy trình thẩm định dự án đầu tư – NHCT Việt Nam.
Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Tài chính, Tạp chí Tiền tệ và thị trường tài chính, Tạp chí Kinh tế phát triển các năm 2002, 2003, 2004, 2005.
Trang web của Học viện Ngân hàng
Thẩm định Tài chính và rủi ro tín dụng, TS. Nguyễn Minh Kiều, NXB Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHCT : Ngân hàng Công thương
NH : Ngân hàng
TCTT : Tài chính Tiền tệ
HBT : Hai Bà Trưng
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 140.doc