Đất nước Việt Nam đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới đã mở ra cho nhiều cơ hội cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực, trong đó không thể không nói tới ngân hàng – một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Việt Nam đang bắt đầu thực hiện những cam kết mở cửa khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Chính vì thế yêu cầu đặt ra cho các NHTM là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng đối với các DNNN trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Mối quan tâm này không ngoại trừ Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Trong những năm qua hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng đã đạt một số kết quả đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cho ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó hoạt động tín dụng đối với các DNNN vẫn còn một số hạn chế cần giải quyết. Hy vọng với những giải pháp và kiến nghị được nêu trong bài viết sẽ góp phần giúp Chi nhánh giải quyết được phần nào những vướng mắc còn tồn tại ở trên.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng–Tài chính, đặc biệt thầy giáo PGS.TS. Lê Đức Lữ cũng như sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ trong Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp nhà nước tại chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng tín dụng của Chi nhánh, nó sẽ không đảm bảo rằng Chi nhánh thực sự đạt được hiệu quả cho vay cao vì rủi ro tương đối lớn. Một trong những mục tiêu hoạt động tín dụng của Chi nhánh trong những năm gần đây là tăng tỷ lệ dư nợ cho vay có TSĐB, đặc biệt đối với các DNNN. Như vậy Chi nhánh không những không đạt được mục tiêu mà còn có xu hướng giảm tỷ lệ cho vay có TSĐB đối với các DNNN, thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
Biều đồ 2.5. Cơ cấu dư nợ cho vay DNNN có TSĐB
Đơn vị: Tỷ đồng
* Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNN
Vòng quay vốn tín dụng thể hiện tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng lớn thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu chuyển nhanh, tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh hàng hóa. Cùng một lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế, nếu tốc độ vòng quay vốn tín dụng DNNN nhanh thì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu về vốn cho DNNN. Như vậy đây cũng là chỉ tiêu phản ánh đúng chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với các DNNN nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng DNNN của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong 3 năm 2005, 2006, 2007 như sau:
Bảng 2.8: Vòng quay vốn tín dụng DNNN
Đơn vị: vòng/năm
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh số thu nợ DNNN (tỷ đồng)
553.758
419.220
589.322
Dư nợ cho vay DNNN (tỷ đồng)
880
778
781
Vòng quay vốn tín dụng DNNN
0.63
0.53
0.75
(Nguồn số liệu Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2005-2007)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy tốc độ luân chuyển vốn tín dụng DNNN của Chi nhánh chưa có sự ổn định. Năm 2005, tốc độ luân chuyển là 0.63 vòng/năm, đến năm 2006 tốc độ giảm xuống còn 0.53 vòng/năm thể hiện sự đáp ứng nhu cầu về vốn cho DNNN còn hạn chế. Sang năm 2007 tình hình thay đổi có khả quan hơn, vòng quay vốn tín dụng DNNN đã vượt mức so với năm 2005 là 0.14 vòng/năm. Sở dĩ có được tốc độ luân chuyển nhanh như vậy là do trong năm công tác thu hồi nợ đạt hiệu quả. Xem xét chỉ tiêu này cho thấy chất lượng tín dụng DNNN của Chi nhánh cũng chưa thực sự hiệu quả.
* Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN
Trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm thì tín dụng đối với các DNNN là chủ yếu và giữ vai trò quan trọng vì nó mang lại phần lớn lợi nhuận cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Cùng với hoạt động cho vay, Chi nhánh còn cung cấp các dịch vụ ngân hàng đi kèm cho đối tượng khách hàng là DNNN như dịch vụ thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, chuyển tiền trong và ngoài nước, mở các loại thẻ rút tiền…Mặc dù hiện nay các hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh chưa thể đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng nói chung và các DNNN nói riêng, tuy nhiên hàng năm hoạt động dịch vụ cũng đã đóng góp một phần không nhỏ cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Cụ thể như sau:
Bảng 2.9: Tình hình lợi nhuận tín dụng DNNN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Lợi nhuận của Chi nhánh
68
61
65
Lợi nhuận tín dụng DNNN
56.2
50.2
53.3
Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN
82.6%
82.3%
82%
(Nguồn số liệu Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2005-2007)
So sánh tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng DNNN qua các năm có thể thấy tỷ lệ này hầu như không thay đổi, luôn dao động ở mức 82%. Tỷ lệ này là rất cao cho thấy mức độ quan trọng của tín dụng DNNN trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh, đồng thời thể hiện chất lượng tín dụng DNNN của Chi nhánh là tốt.
Nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động dịch vụ, trong những năm gần đây Chi nhánh luôn cố gắng hoàn thiện hơn nữa cả về số lượng và chất lượng dịch vụ nhằm đảm bảo phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm mang tính truyền thống, Chi nhánh còn triển khai một số các dịch vụ ngân hàng đa dạng, hiện đại với nhiều tiện ích nhằm tối đa hóa lợi ích cả khách hàng lẫn ngân hàng.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM.
2.3.1. Những kết quả đạt được
Nhìn chung hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng DNNN nói riêng của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong những năm qua đã có những chuyển biến tương đối tích cực.
Qua các chỉ tiêu về doanh số cho vay, dư nợ cho vay, doanh số thu nợ, tỷ trọng doanh số cho vay, tỷ trọng dư nợ cho vay DNNN, có thể thấy Chi nhánh đã bước đầu thực hiện tốt chủ trương, chính sách về việc mở rộng tín dụng các DN vừa và nhỏ, giảm tín dụng các DNNN. Với các DNNN, Chi nhánh chỉ tập trung vào một số ngành trọng yếu, có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Doanh số cho vay DNNN, dư nợ cho vay DNNN đã có những chuyển biến theo hướng có lợi hơn cho ngân hàng, từng bước giảm về chiều rộng và tăng về chiều sâu. Cơ cấu tín dụng DNNN cũng thay đổi phù hợp hơn với tình hình huy động vốn, tín dụng DNNN trung và dài hạn có xu hướng giảm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng cho Chi nhánh.
Công tác thu hồi nợ các khoản vay của DNNN cũng được Chi nhánh thực hiện tương đối tốt, chỉ tiêu hệ số thu nợ tăng dần qua các năm và luôn đạt trên 71%. Đặc biệt với các khoản nợ đọng là những khoản nợ xấu đã phát sinh từ lâu, hầu hết khách hàng không còn tồn tại, không có TSĐB, các khoản nợ liên quan đến các vụ án nhưng Chi nhánh đã bằng các biện pháp tích cực, quyết liệt trong những năm qua thu về gần đạt chỉ tiêu NHCT Việt Nam giao, góp phần tăng lợi nhuận cho Chi nhánh. Đây thực sự là nỗ lực không chỉ của các cán bộ tín dụng mà còn là nỗ lực của ban lãnh đạo trong Chi nhánh.
Nếu căn cứ vào chỉ tiêu nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh thì có thể nói Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là chi nhánh đạt chất lượng tín dụng cao nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam, đặc biệt là chất lượng tín dụng DNNN. Nợ quá hạn toàn Chi nhánh trong 2 năm 2005, 2006 là 1.081 tỷ đồng và 0.063 tỷ đồng, rất nhỏ so với 1000 tỷ đồng doanh số cho vay và không có nợ quá hạn DNNN. Năm 2007 Chi nhánh hoàn toàn không có nợ quá hạn. Để đạt được kết quả này là nhờ nỗ lực của Chi nhánh trong việc thực hiện các biện pháp sàng lọc khách hàng, nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng, kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn cho khoản vay, kiên quyết rút dần dư nợ đối với khách hàng có biểu hiện yếu kém về tài chính , hoạt động kém hiệu quả và không thể không kể đến công tác thu hồi nợ của cán bộ tín dụng.
Với các chỉ tiêu về vòng quay vốn tín dụng DNNN, tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN có thể thấy chất lượng tín dụng DNNN của Chi nhánh cũng ngày càng được hoàn thiện. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng DNNN của Chi nhánh trong những năm qua tuy vẫn chưa có sự ổn định nhưng ở mức tương đối cao thể hiện thời gian thu hồi vốn nhanh của khoản cho vay, cho thấy DNNN sử dụng vốn vay có hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Tuy chủ trương của NHCT Việt Nam là giảm tỷ trọng cho vay DNNN, nâng cao tỷ trọng cho vay các DN vừa và nhỏ nhưng nhìn vào chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN trong tình hình lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng của Chi nhánh có thể thấy DNNN vẫn là khách hàng chủ chốt của Chi nhánh.
Những kết quả đạt được ở trên không thể không nói đến yếu tố con người trong hoạt động tín dụng. Trong những năm qua cán bộ nhân viên ngân hàng đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt là các cán bộ tín dụng. Theo đánh giá chung thì DNNN được coi là khách hàng khó tính nhất trong số các khách hàng của ngân hàng. Tuy nhiên với nghiệp vụ chuyên môn giỏi cộng thêm thái độ phục vụ tận tình, phong cách giao dịch văn minh, lịch sự Cán bộ tín dụng của Chi nhánh đã tạo được ấn tượng và uy tín với khách hàng DNNN. Điều này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Để đạt được những kết quả trên là nhờ sự chỉ đạo, điều hành, động viên và khuyến khích kịp thời của lãnh đạo Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, lãnh đạo NHCT Việt Nam, cùng với tinh thần nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn thể các cán bộ nhân viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay các DNNN. Ban Giám đốc đã thường xuyên nắm bắt những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của Ngân hàng cấp trên về tín dụng DNNN và xu hướng phát triển của nền kinh tế, từ đó kịp thời đưa ra những định hướng đúng đắn nhằm khắc phục những khó khăn, khai thác tối đa lợi thế riêng có, phát triển và từng bước nâng cao chất lượng tín dụng toàn Chi nhánh nói chung và chất lượng tín dụng DNNN nói riêng.
Mặc dù trong những năm qua chất lượng tín dụng DNNN tại Chi nhánh đã được đảm bảo ở một mức độ nhất định, nhưng bên cạnh đó có thể nói vẫn còn những hạn chế.
2.3.2. Những hạn chế
Trước hết phải nói đến là tỷ trọng doanh số cho vay và dư nợ DNNN mặc dù đã có xu hướng giảm theo chiều hướng tích cực song vẫn còn khá cao so với định hướng NHCT Việt Nam đưa ra và chưa phù hợp với yêu cầu thực tế của thị trường hiện nay. Chính vì thế việc cân đối cơ cấu tín dụng DNNN cũng chưa được đảm bảo. Doanh số và dư nợ cho vay vẫn tập chủ yếu vào một số khách hàng DNNN lớn như Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty lương thực miền Bắc, Tổng công ty điện lực dầu khí Việt Nam, Công ty hóa chất mỏ…Trong cơ cấu dư nợ cho vay DNNN thì tỷ lệ dư nợ trung dài hạn vẫn còn khá cao. Mặt khác các tỷ trọng này vẫn chưa có sự ổn định, hầu hết các chỉ tiêu về quy mô và cơ cấu tín dụng DNNN đều giảm vào năm 2006 và tăng nhẹ vào năm 2007 chứ không có sự tăng đều hoặc giảm đều. Điều này cho thấy công tác tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Chi nhánh nói chung và chất lượng tín dụng DNNN nói riêng.
Mặc dù cho vay thu hồi nợ với mức tương đối cao nhưng hầu hết các khoản cho vay đối với các DNNN của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đều không có tài sản đảm bảo. Đây là hạn chế lớn nhất trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có tài sản đảm không những giảm mà còn tăng dần trong 3 năm 2005, 2006, 2007. Tuy đây không phải là chỉ tiêu chính để đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh nhưng trước những biến đổi bất thường của nền kinh tế hiện nay, đặc biệt là thị trường tài chính thì việc cho vay không có tài sản là vấn đề rất đáng lo ngại. Điều này có thể khiến cho chất lượng tín dụng của Chi nhánh giảm sút.
Quy trình tín dụng đối với các DNNN đã có nhiều thay đổi theo hướng cụ thể hơn song vẫn chưa có quy trình tín dụng riêng cho từng đối tượng khách hàng DNNN hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau, dẫn đến công tác tín dụng chưa đạt hiệu quả tối đa.
Hoạt động tín dụng DNNN còn đơn điệu, các hoạt động dịch vụ đi kèm chưa được tập trung đúng mức, kết quả còn khiêm tốn, còn hạn chế trong việc cung cấp những sản phẩm mang tính khép kín, trọn gói đối với từng đối tượng khách hàng DNNN khác nhau, thiếu sản phẩm ngân hàng mang tính hiện đại mà yêu cầu hiện nay trong hệ thống ngân hàng là rất cần thiết.
Về cán bộ tín dụng của Chi nhánh, tuy đã có nhiều nỗ lực trong công tác nhưng vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhiều đòi hỏi cao trong cơ chế thị trường hiện nay, đó là còn thiếu kinh nghiệm thực tế, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa phát huy hết tính sáng tạo của bản thân.
Đối với hệ thống công nghệ được sử dụng trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng DNNN nói riêng mặc dù Chi nhánh đã trang bị một số hệ thống máy tính tương đối hiện đại nhưng vẫn chưa có sự đồng bộ. Việc hoạt động không ổn định của hệ thống máy tính cũng làm giảm chất lượng tín dụng của Chi nhánh như ảnh hưởng đến việc truy cập, theo dõi thông tin của khách hàng từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời.
Trong những năm qua mô hình Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại Chi nhánh đã bộc lộ những hạn chế đó là Giám đốc Chi nhánh vừa chỉ đạo hoạt động kinh doanh, vừa chỉ đạo quản lý công tác kiểm tra theo cơ chế phân cấp và ủy quyền nên công tác kiểm tra thiếu tính độc lập, thiếu tính khách hàng. Mặt khác cán bộ làm công tác kiểm tra tại Chi nhánh còn phải thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc phân công, quyền lợi vật chất và tinh thần đều bị chi phối, dẫn đến công tác kiểm tra nhiều khi còn mang tính hình thức, thiều tác dụng thúc đẩy chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng.
2.3.3. Nguyên nhân
Đứng trên góc độ của NHCT Hoàn Kiếm, có thể nói những hạn chế trong chất lượng tín dụng DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm xuất phát từ những nguyên nhân sau:
2.3.3.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Xuất phát từ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng DNNN của NHTM và những hạn chế của Chi nhánh trong thời gian qua, có thể thấy được những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất: Nguyên nhân của việc tỷ trọng tín dụng DNNN vẫn ở mức cao là do Chi nhánh chưa thực hiện tốt chủ trương chính sách của NHCT Việt Nam, Chi nhánh chưa quen với việc điều chỉnh cơ cấu tín dụng sang các DN vừa và nhỏ, giảm tín dụng cho các DNNN vì lâu nay DNNN là khách hàng luôn chiếm vị trí chủ chốt trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Mặt khác chính sách, định hướng của Chi nhánh đối với hoạt động tín dụng DNNN còn có yếu điểm là mới chỉ mang tính chất ngắn hạn và phụ thuộc, được thể hiện qua các văn bản chỉ đạo tín dụng của NHCT Việt Nam và NHNN trong từng thời kỳ. Trong khi đó để hội nhập và phát triển thành một chi nhánh ngân hàng hiện đại thì NHCT Hoàn Kiếm cần chủ động hơn nữa trong việc đưa ra các chính sách tín dụng mang tính dài hạn, đặc biệt là cho đối tượng khách hàng DNNN - đối tượng khách hàng chính của ngân hàng.
Thứ hai: Một nguyên nhân cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng DNNN của Chi nhánh đó là quy trình tín dụng của Chi nhánh, mặc dù đã có những thay đổi đáng kể song vẫn chưa thực sự phù hợp với tình hình hiện nay, còn mang tính cứng nhắc. Chi nhánh chưa có quy trình tín dụng riêng cho từng đối tượng khách hàng DNNN hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau, do đó chất lượng cho vay chưa đạt hiệu quả tối đa.
Thứ ba: Nguyên nhân của tình trạng cho vay DNNN không có tài sản đảm bảo chiếm tỷ lệ cao là do các DNNN đều là khách hàng truyền thống của Chi nhánh trong nhiều năm qua, uy tín tương đối lớn trên thị trường và là đối tượng được nhiều ngân hàng khác chú ý tới. Do đó để cạnh tranh với các ngân hàng khác, khoản vay của các DNNN thường chỉ cần đảm bảo bằng uy tín, hoặc nếu có tài sản đảm bảo thì giá trị của nó cũng nhỏ hơn nhiều so với khoản vay. Mặt khác do Chi nhánh chưa có cơ quan chuyên môn trong việc định giá TSĐB nên TSĐB thường được đánh giá không sát với giá trị thực của nó, do đó việc xác định mức cho vay cũng chưa được phù hợp. Các DNNN thường vay với số tiền rất lớn nên khi có sự biến động gây bất lợi cho các DNNN, khả năng trả nợ của họ sẽ giảm và ngân hàng chính là người phải chịu phần lớn rủi ro này. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng đây lại những khách hàng chủ yếu mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh hàng năm, do đó cần có các giải pháp thích hợp để vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn cho Chi nhánh, đồng thời vẫn giữ chân được những khách hàng quan trọng.
Thứ tư: Hoạt động tín dụng DNNN còn đơn điệu có thể có nguyên nhân từ chiến lược kinh doanh của Chi nhánh, Chi nhánh chưa thể đáp ứng kịp những yêu cầu của thị trường, đồng thời các chiến lược mà Chi nhánh vạch ra không còn phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường nên khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng bạn. Với sự phát triển của xã hội hiện nay, khách hàng quan tâm ngày càng nhiều hơn đến các dịch vụ đi kèm hoạt động tín dụng như dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác quản lý và đầu tư, các dịch vụ ngân hàng điện tử… Tuy nhiên các dịch vụ này còn rất ít tại Chi nhánh, điều này làm giảm sức hút đối với khách hàng. Các DNNN vay vốn tại Chi nhánh làm ăn không hiệu quả, không có khả năng trả nợ, nếu được sự hỗ trợ, tư vấn của Ngân hàng trong công tác quản lý và đầu tư thì có thể hoạt động có hiệu quả hơn, tăng khả năng thanh toán cho Ngân hàng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng của Chi nhánh.
Thứ năm: Với hạn chế về yếu tố con người trong hoạt động tín dụng DNNN thì nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn đội ngũ cán bộ đều có tuổi đời rất trẻ với số năm kinh nghiệm chưa nhiều do đó còn thiếu kinh nghiệm thực tế và tính chuyên nghiệp chưa cao. Những nguyên nhân này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Thứ sáu: Hệ thống công nghệ thông tin chưa đồng bộ cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Công tác đầu tư cho hoạt động công nghệ thông tin của Chi nhánh vẫn chưa thực sự được chú trọng, hệ thống công nghệ phục vụ cho hoạt động tín dụng chưa thể theo kịp với các ngân hàng bạn như Techcombank, Vietcombank… Do đó khả năng thu hút khách hàng cũng hạn chế, thông tin thu thập cho hoạt động tín dụng chưa kịp thời và chính xác.
Thứ bảy: Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Chi nhánh vẫn chưa đạt yêu cầu, nhiều khi còn mang tính hình thức, do đó đã không thực sự phát huy hiệu quả của công tác, không phát hiện kịp thời các sai phạm và các hành vi tiêu cực trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và tín dụng DNNN nói riêng.
2.3.3.2. Nguyên nhân từ các DNNN
Trong những năm qua sự biến động của nền kinh tế đã gây ra nhiều khó khăn cho các DNNN như việc mở cửa thị trường tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp kinh doanh trong cùng lĩnh vực, những điều kiện khách quan do thiên tai, bão lụt, dịch bệnh xảy ra liên tiếp đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng DNNN của Chi nhánh. Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu vẫn là từ chính các DNNN, đó là trình độ lãnh đạo, quản lý của các DNNN còn hạn chế, nhận thức chưa thống nhất, chưa đầy đủ về vai trò của DNNN về chủ trương sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN, một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của DNNN chưa đáp ứng yêu cầu, kém năng lực phẩm chất, thiếu trách nhiệm trong công việc. Các DNNN hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận thu được thấp không đủ trả nợ cho Chi nhánh, do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh.
2.3.3.3. Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh nói chung và chất lượng lượng tín dụng DNNN nói riêng. Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi, đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập WTO tháng 11/2006 và được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tháng 10/2007. Trước môi trường hội nhập đó, ngành ngân hàng nói chung, Chi nhánh NHCT nói riêng và ngay cả các DNNN cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Chi nhánh đã chịu sức ép của cạnh tranh, đẩy cao chi phí từ đó làm giảm lợi nhuận thu được, kéo theo sự suy giảm của chất lượng tín dụng. Đối với các DNNN, trước ngưỡng cửa hội nhập buộc các DNNN phải đi lên bằng chính đôi chân của mình chứ không thể dựa dẫm vào Nhà nước như “đứa trẻ” trước đây. Do vậy trong thời gian đầu “tập tễnh bước đi”, các DNNN không thể không tránh khỏi những khó khăn. Đó là khó khăn trong cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, thái độ phục vụ, các dịch vụ đi kèm…Những yếu tố này đã khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN không đạt hiệu quả, từ đó dẫn đến tình trạng không trả được nợ cho Chi nhánh, làm giảm chất lượng tín dụng của Chi nhánh.
Mặt khác cơ chế chính sách liên quan đến tín dụng của NHNN và các ngành liên quan trong những năm qua chưa có sự đồng bộ, nhất quán, thiếu ổn định cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng DNNN của Chi nhánh, gây khó khăn và rủi ro cho ngân hàng trong quá trình thực hiện.
Từ những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên, em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM
Thứ nhất: Thực hiện chiến lược giảm tỷ trọng tín dụng DNNN, tăng tỷ trọng tín dụng ngoài quốc doanh, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chiến lược này cũng nằm trong chiến lược chung của toàn Chi nhánh. Do vậy mục tiêu trong năm 2008 của Chi nhánh là tỷ trọng dư nợ cho vay DNNN đạt 65%. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng DNNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và có vai trò không thể thay thế. Do đó chỉ chú trọng cung cấp tín dụng cho các DNNN hoạt động trên các lĩnh vực đang có nhu cầu cấp thiết hiện nay.
Thứ hai: Thực hiện một quy trình tín dụng chuẩn cho hoạt động tín dụng các DNNN, đồng thời đưa ra các chính sách tín dụng một cách rõ ràng, cụ thể đối với nhóm khách hàng là DNNN.
Thứ ba: Đánh giá lại quan hệ tín dụng của các khách hàng là DNNN hiện đang có quan hệ tín dụng tại Chi nhánh để nắm bắt những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời có những bước đi kịp thời trong công tác tín dụng đảm bảo hoạt động tín dụng được an toàn và hiệu quả.
Thứ tư: Tăng cường cho vay có tài sản đảm bảo đối với các DNNN. Việc tăng tỷ trọng này không chỉ có ý nghĩa đối với Chi nhánh mà còn tạo động lực để các DNNN tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Tăng cường cho vay ngắn hạn đối với các DNNN, giảm bớt cho vay trung dài hạn. Kiên quyết rút dần dư nợ đối với những DNNN có biểu hiện tài chính yếu kém và hoạt động kém hiệu quả. Tiếp tục phát huy hiệu quả trong công tác thu nợ của Chi nhánh, luôn đảm bảo không có nợ quá hạn DNNN.
Thứ sáu: Tiếp tục chú trọng công tác đào tạo cán bộ tín dụng về chuyên môn nghiệp vụ, về văn hóa giao tiếp trong kinh doanh ngân hàng, thực hiện dưới hình thức khuyến khích có thưởng tạo phong trào sôi nổi trong toàn Chi nhánh.
Từ những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh, đồng thời dựa trên định hướng chiến lược hoạt động tín dụng DNNN của Chi nhánh trong thời gian tới, sau đây xin nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tín dụng DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM
3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển tín dụng DNNN một cách rõ ràng, hợp lý.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào trước khi bắt tay vào hoạt động kinh doanh đều phải có những định hướng cụ thể cho hoạt động đó. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng vậy, để tiến hành hoạt động tín dụng đối với các DNNN một cách có hiệu quả thì đầu tiên Chi nhánh cần xây dựng chiến lược phát triển chung, trên cơ sở chiến lược đó tiếp tục triển khai theo hướng cụ thể và chi tiết hơn. Chiến lược phát triển tín dụng DNNN cần được xây dựng trong dài hạn, đảm bảo tính ổn định trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
Mặc dù hiện nay Chi nhánh cũng đã có chiến lược phát triển cho tín dụng DNNN nhưng nhìn chung chưa cụ thể, rõ ràng và chưa đủ so với nhu cầu cấp thiết của hoạt động tín dụng DNNN hiện nay. Việc xây dựng chiến lược phát triển cũng như việc xây dựng các mục tiêu, cần có sự rõ ràng, cụ thể. Ví dụ như đối với việc đề ra chiến lược tăng cường cho vay DNNN có tài sản đảm bảo, không thể đơn thuần nói một cách chung chung là tăng cường như vậy mà phải đưa ra con số cụ thể cần đạt tới, ví dụ: Chiến lược đến năm 2010 Chi nhánh phải đảm bảo tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có TSĐB đạt trên 65%. Tương tự như vậy với việc xây dựng chiến lược về cơ cấu doanh số cho vay, dư nợ cho vay DNNN, doanh số thu nợ…Bên cạnh đó Chi nhánh cần xây dựng cơ cấu dư nợ cho vay DNNN theo từng ngành nghề, lĩnh vực và từng vùng cụ thể để hạn chế rủi ro cho việc tập trung quá vào một số ngành hàng, hoặc có thể Chi nhánh sẽ bỏ sót những ngành hàng nhiều tiềm năng trong tương lai. Đây cũng là một trong những giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho Chi nhánh, nâng cao chất lượng hoạt động.
Một chiến lược phát triển tín dụng đúng đắn, hợp lý có nghĩa là xét trong môi trường hiện tại và xu hướng trong tương lai nó phải phù hợp và đảm bảo tính hiệu quả cao. Môi trường ở đây bao gồm cả môi trường vĩ mô và vi mô. Cả hai yếu tố trên đều tác động trực tiếp và gián tiếp lên hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng. Do đó Chi nhánh cần luôn luôn tổ chức thu thập thông tin một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời để từ đó xây dựng một chiến lược phát triển hoạt động tín dụng DNNN luôn bám sát với những thay đổi của môi trường, có như vậy mới đảm bảo nâng cao chất lượng tín dụng DNNN.
3.2.2. Xây dựng quy trình tín dụng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và đảm bảo lợi ích cho ngân hàng.
Quy trình tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế sai sót, hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng của từng khoản vay. Hiện nay Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã có quy trình tín dụng khá chi tiết riêng cho đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế, đó là “Quy trình cho vay theo dự án đầu tư đối với khách hàng là tổ chức kinh tế - Mã số QT.05.01”, tuy nhiên vẫn chưa có quy trình cụ thể cho mỗi loại DNNN hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Chi nhánh cần phải xây dựng một quy trình tín dụng vừa đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc an toàn, vừa linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời cần xem xét với mỗi loại khách hàng khác nhau, những khách hàng có quan hệ vay vốn lâu dài, lành mạnh với ngân hàng để áp dụng một quy trình tín dụng sao cho linh hoạt, đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng cũng cần áp dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau phù hợp với từng dự án của các DNNN, đảm bảo phục vụ khách hàng tốt hơn.
3.2.3. Hạn chế cấp tín dụng không có TSĐB và nâng cao chất lượng TSĐB
Hiện nay ở Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm việc cấp tín dụng DNNN không có TSĐB vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn như đã trình bày ở phần thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh. Việc cho vay không có TSĐB hoặc có TSĐB nhưng giá trị nhỏ hơn nhiều so với vốn vay khiến nguy cơ ngân hàng gặp phải rủi ro là rất cao, nhất là trong tình trạng thị trường có nhiều biến động hiện nay ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hầu hết khách hàng tại Chi nhánh đều là những khách hàng truyền thống, có uy tín lâu năm với ngân hàng, do đó việc đề xuất giải pháp cấp tín dụng có TSĐB cũng cần phải nghiên cứu một cách kỹ càng nếu không sẽ có thể làm giảm số lượng khách hàng. Giải pháp trước mắt là Chi nhánh cần hạn chế cấp tín dụng không có TSĐB đối với những DNNN có tình hình kinh doanh không ổn định, hoạt động trên các ngành nghề dễ gặp phải rủi ro trong thời điểm hiện nay. Đối với những DNNN là khách hàng truyền thống, lâu năm của Chi nhánh thì có thể tạm thời bảo đảm bằng uy tín, tuy nhiên về lâu dài Chi nhánh có thể yêu cầu DNNN có đảm bảo bằng tài sản khi vay vốn nhưng ở mức thấp, sau đó nâng dần yêu cầu lên. Như vậy mới không tạo sự đột ngột cho khách hàng, nhiều trường hợp khách hàng chưa thể xoay sở kịp sẽ dẫn đến khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng khác.
Một vấn đề đặt ra trong cho vay có TSĐB tại Chi nhánh là làm sao nâng cao được chất lượng TSĐB. Trên thực tế việc định giá các TSĐB thường khó chính xác, nhất là TSĐB đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và công trình giao thông. Nếu dựa vào giá trị còn lại trên báo cáo tài chính của khách hàng thì có thể gặp phải trường hợp sau đây: DNNN có tình hình tài chính tốt thường khấu hao nhanh để được nhanh đổi mới nâng cấp thiết bị, dẫn đến giá trị còn lại trên báo cáo tài chính nhỏ hơn giá thị trường của thiết bị. Như vậy muốn định giá TSĐB một cách chính xác nhằm nâng cao chất lượng TSĐB, Chi nhánh có một trong hai giải pháp sau:
Thứ nhất: Chi nhánh sẽ đề nghị khách hàng thuê cơ quan thẩm định chuyên nghiệp. Biện pháp này gây tổn thất một lượng phí nhất định, do đó đôi khi khách hàng sẽ từ chối thực hiện gây khó khăn trong công việc thẩm định TSĐB.
Thứ hai: Chi nhánh sẽ yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản đó và mời công ty bảo hiểm đó cùng thực hiện công tác thẩm định TSĐB. Hiện nay NHCT cũng đã thiết lập quan hệ hợp tác với Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Châu Á. Công ty bảo hiểm có bộ phận chuyên thẩm định giá trị tài sản bảo hiểm do đó việc xác định giá trị TSĐB sẽ sát với giá trị thực của tài sản hơn. Giá trị tài sản được công ty bảo hiểm xác định sẽ làm căn cứ định giá giữa Chi nhánh và khách hàng DNNN. Như vậy quan hệ hợp tác này vừa đảm bảo lợi ích cho Chi nhánh vừa đảm bảo lợi ích cho cả công ty bảo hiểm.
3.2.4. Hỗ trợ các DNNN trong công tác quản lý và đầu tư
Như đã nói ở phần hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNN của Chi nhánh, hiện nay hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng DNNN nói riêng còn mang tính đơn điệu, có nghĩa là các hoạt động dịch vụ đi kèm chưa có hoặc chưa được chú trọng. Như ta biết, với bất kỳ một doanh nghiệp nào đều cần có người đứng ra quản lý và đầu tư, tuy nhiên những người này không phải lúc nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy nếu như có sự hợp tác, hỗ trợ của chính ngân hàng cho vay trong công tác quản lý và đầu tư thì hiệu quả hoạt động của các DNNN sẽ được nâng cao hơn, lợi ích này không chỉ có chính các doanh nghiệp được hưởng mà còn cho cả ngân hàng. Điều này nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Hoạt động của ngân hàng được xem là hoạt động liên quan đến nhiều ngành nghề nhất trong nền kinh tế. Do đó khi hoạt động kinh doanh đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu mọi biến động của thị trường liên quan đến hoạt động của mình. Đây là một lợi thế của ngân hàng trong việc thực hiện công tác hỗ trợ các DNNN trong quản lý và đầu tư. Mặt khác ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết nhiều về thị trường tài chính nên trong nhiều trường hợp sẽ giúp ích rất nhiều cho các DNNN trong quản lý và đầu tư. Trái lại các DNNN thường chỉ có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh của mình, còn trong quản lý ít nhiều vẫn còn chịu ảnh hưởng từ thời kỳ bao cấp nên công tác tổ chức quản lý thường yếu hơn. Một khi các DNNN hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Vì vậy giải pháp này được thực hiện bằng cách Chi nhánh phải kết hợp cung cấp tín dụng với các dịch vụ đi kèm như tư vấn đầu tư, quản lý tài chính.
3.2.5. Tiếp tục chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng
Một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng đó chính là yếu tố con người. Đối với một ngân hàng để hoạt động tín dụng có hiệu quả, hạn chế rủi ro và thực hiện được mục tiêu đặt ra thì ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng với chuyên môn giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng giao tiếp với khách hàng. Trong những năm qua Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng đã có những nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng tuy nhiên trước những đòi hỏi ngày càng cấp thiết hiện nay của thị trường thì cần có những giải pháp cụ thể hơn, đó là:
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ tín dụng:
Trong công tác quản lý, Chi nhánh phải thường xuyên quan tâm xác định đúng nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng; kiên quyết không sử dụng những cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, không công tâm, kém năng lực…; quản lý cán bộ trong công việc, trong sinh hoạt một cách chặt chẽ, khoa học; có biện pháp chủ động, tích cực giáo dục cán bộ tín dụng không để họ bị lôi cuốn vào những vấn đề tiêu cực của xã hội, bị lôi cuốn của đồng tiền mà hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
- Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ tín dụng phải được coi là thường xuyên, liên tục trong toàn Chi nhánh. Công tác đào tạo cần tập trung vào một số vấn đề như tăng cường hình thức đào tạo tập trung, kết hợp hình thức tập huấn tại chỗ giúp cán bộ tín dụng nắm bắt một số nghiệp vụ trong thời gian ngắn như: tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong công tác tín dụng, văn bản, quy trình nghiệp vụ; phát động phong trào tự nghiên cứu, tự nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn để tránh tụt hậu trước sự thay đổi của nền kinh tế; tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi hàng năm trong toàn Chi nhánh kèm theo giải thưởng để khích lệ tinh thần.
Cùng với việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng thì công tác tuyển dụng cán bộ tín dụng mới phải đảm bảo thực hiện tốt, đúng quy định của ngành, đặc biệt cần có sự công bằng trong khâu tuyển dụng. Tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ tín dụng cần có là tiêu chuẩn tư cách đạo đức, tiêu chuẩn chuyên môn, tiêu chuẩn về thể chất.
- Chi nhánh phải có chính sách sàng lọc, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ tín dụng.
Hàng năm Chi nhánh cần thực hiện việc rà soát, đánh giá phân loại cán bộ tín dụng để có hướng đào tạo, bổ sung kịp thời, đồng thời qua việc phân loại cán bộ để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng tạo nên một đội ngũ cán bộ tín dụng mạnh toàn diện và sức cống hiến cao.
- Thực hiện đổi mới chính sách đãi ngộ cán bộ tín dụng
Càng trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động hiện nay thì chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tín dụng càng có ý nghĩa quan trọng vì đây có thể coi là đội ngũ có sự cống hiến nhiều nhất, chịu áp lực nhiều nhất do công việc mang tính rủi ro cao, có như vậy họ mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài của mình. Song song với chính sách đãi ngộ thì Chi nhánh cần thực hiện cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh đảm bảo tính kỷ luật, kỷ cương trong ngân hàng; tạo ra bầu không khí thi đua, khuyến khích sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn, hiệu quả.
3.2.6. Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng phù hợp với tiến trình phát triển
Trong thời đại ngày nay, NHTM cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác không thể hoạt động mà không có sự có mặt của hệ thống công nghệ. Đối với Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng vậy, công nghệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng. Nó giúp ngân hàng tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác, nâng cao chất lượng tín dụng. Nhận thức được vai trò quan trọng đó, trong những năm qua Chi nhánh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm đổi mới, hiện đại hóa công nghệ trong hoạt động của mình để theo kịp sự phát triển chung. Cụ thể Chi nhánh đã tham gia dự án INCAS – dự án hiện đại hóa ngân hàng năm 2004, trang bị nhiều máy tính hiện đại, kết nối mạng Internet toàn Chi nhánh…Tuy nhiên nếu so sánh với các ngân hàng khác thì công nghệ của chi nhánh chưa thể theo kịp như Techcombank, Vietcombank...Như vậy Chi nhánh cần có biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa công nghệ trong ngân hàng, từng bước đuổi kịp các ngân hàng bạn. Cụ thể:
- Đổi mới trang bị công nghệ một cách đồng bộ trong toàn Chi nhánh, tránh tình trạng một số trang thiết bị nhập về mặc dù rất hiện đại nhưng chưa có sự gắn kết phù hợp nên chưa sử dụng tối đa hiệu quả của nó, gây lãng phí. Đồng thời Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa đến việc hòa nhập hệ thống thông tin liên ngân hàng đảm bảo hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn.
- Hiện nay dịch vụ ngân hàng điện tử tại Chi nhánh còn rất ít và số lượng khách hàng sử dụng cũng không đáng kể. Để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thị trường thì Chi nhánh cần xúc tiến mở thêm nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử, bên cạnh đó phải có các hình thức giới thiệu sản phẩm đến khách hàng.
- Đi kèm với việc trang bị hệ thống công nghệ hiện đại, Chi nhánh cần quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực trong sử dụng công nghệ. Có nhiều trường hợp công nghệ nhập về hiện đại nhưng cán bộ tín dụng không sử dụng được hoặc sử dụng chưa hết chức năng của nó. Để cán bộ tín dụng thích ứng với những yêu cầu đó, Chi nhánh cần mở các lớp đào tạo một cách bài bản để nâng cao kỹ năng sử dụng, ứng dụng trang thiết bị công nghệ có hiệu quả.
3.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ là không thể thiếu được trong hoạt động quản lý, điều hành của ngân hàng, nhất là trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang bước đầu hội nhập, từng bước vận hành theo cơ chế thị trường. Để hoạt động tín dụng của Chi nhánh đạt hiệu quả cao nhất thiết phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể kịp thời phát hiện những sai sót về mặt nghiệp vụ, từ đó có những điều chỉnh nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra, đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả và giữ vững được kỷ cương, kỷ luật tạo tiền đề để Chi nhánh phát triển bền vững.
Trong những năm qua công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của Chi nhánh cũng đã được tiến hành thường xuyên, toàn diện tuy nhiên chất lượng chưa được cao. Một số trường hợp mới chỉ kiểm tra, kiểm soát mang tính chiếu lệ, chỉ đạo theo từng đợt Công văn, Chỉ thị của cấp trên, thiếu tính chủ động. Để công tác kiểm tra, kiểm toán phát huy được vai trò của nó trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với các DNNN nói riêng cần có một số biện pháp như sau:
- Tiếp tục xây dựng, thiết lập một bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoàn chỉnh.
- Thực hiện công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở tất cả các khâu của quá trình cho vay. Hiện nay Chi nhánh đã có Quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn và trả nợ của khách hàng (QT.35.03 – NHCT), trong đó quy định trách nhiệm cụ thể của mỗi cán bộ trong việc thực hiện ở cả 3 bước: trước khi giải ngân, trong khi giải ngân và sau khi giải ngân.
- Chi nhánh cần nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ kiểm tra bằng cách kiên quyết xử lý những cán bộ tín dụng có những hành vi tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm phương hại đến uy tín của ngân hàng. Đồng thời cũng cần có biện pháp đánh giá chất lượng công việc để có chế độ đãi ngộ hợp lý, đảm bảo phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
- Tiến hành công tác kiểm tra, kiểm toán một cách chủ động, thường xuyên. Cách tốt nhất Chi nhánh nên lên lịch cho công tác kiểm tra, bên cạnh đó thỉnh thoảng tiến hành các cuộc kiểm tra đột xuất để tạo sự khách quan.
3.3. KIẾN NGHỊ
Chất lượng hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, gồm những nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan thuộc về phía bản thân ngân hàng, còn nhân tố khách quan lại là vấn đề về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và những chính sách của các cơ quan cấp trên trực tiếp, của Đảng và Nhà nước. Vì vậy để thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng tín dụng DNNN thì không những cần sự nỗ lực của Chi nhánh mà cần phải có sự phối hợp từ phía các ban ngành, các cấp có liên quan. Sau đây là một số kiến nghị tới các cấp trên liên quan nhằm giúp Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nâng cao chất lượng tín dụng trong giai đoạn hiện nay.
3.3.1. Kiến nghị với các DNNN
DNNN luôn được coi là thành phần kinh tế chủ chốt, là động lực giúp các thành phần kinh tế phát triển theo, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh… Tuy nhiên trên thực tế cả hai phương diện kinh doanh và lợi ích xã hội, các DNNN vẫn chưa phát huy được hết sức mạnh của mình. Nhiều DNNN hiện nay vẫn có tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự viện trợ từ Ngân sách Nhà nước. Do vậy để hoạt động tín dụng đối với DNNN thực sự có hiệu quả thì đối với DNNN cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bằng cách:
- Nhanh chóng thực hiện cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhằm tạo tính độc lập và nâng cao trách nhiệm cho chính các DNNN.
- Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy tổ chức và đổi mới hoạt động sao cho đơn giản, gọn nhẹ mà vẫn đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đây là điều tất yếu mà DNNN phải thực hiện nếu muốn tồn tại hiện nay.
- Yếu tố con người có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Các DNNN cần phải có các chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
3.3.2. Kiến nghị với NHCT Việt Nam
Thứ nhất: NHCT Việt Nam cần có những thay đổi trong cơ chế, chính sách tín dụng theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các Chi nhánh thực hiện, tránh tình trạng cơ chế hay chính sách chỉ mang tính chung chung rất khó cho các Chi nhánh thực hiện. Đối với các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì cần có những chính sách tín dụng cụ thể và phải căn cứ vào tình hình biến động cụ thể ở từng thời kỳ mà đưa ra những chính sách phù hợp nhất.
Thứ hai: Phát triển mạng lưới thông tin rộng khắp tới các chi nhánh để đảm bảo chuyển tải thông tin một cách kịp thời về những chiến lược phát triển của đất nước, những thay đổi trong cơ chế, chính sách của NHNN cũng như NHCT Việt Nam…Đồng thời NHCT Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả hơn chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Chi nhánh và phòng ngừa rủi ro.
Thứ ba: Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, tập huấn nâng cao chất lượng cán bộ trong toàn hệ thống NHCT Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng. Thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo, các cán bộ tín dụng có thể nêu lên những hạn chế trong các khâu của quy trình tín dụng, những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ của mình, từ đó Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam cần cố gắng tiếp thu và có những hướng sửa đổi kịp thời.
Thứ tư: Đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong các Chi nhánh theo hướng đồng bộ. Đồng thời tổ chức các lớp học nâng cao kỹ năng sử dụng, ứng dụng các thiết bị công nghệ và phần mềm hiện đại chuẩn bị triển khai.
Thứ năm: Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động tín dụng của các chi nhánh. Đưa ra các hình thức xử lý cụ thể cho từng trường hợp, từng đối tượng nếu vi phạm các quy chế, chính sách của NHCT Việt Nam cũng như của NHNN, Chính phủ; kiên quyết xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay NHCT Việt Nam đã có Quyết định số 107/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 11/5/2005 ban hành “Quy chế tổ chức hoạt động của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ NHCT Việt Nam”.
Thứ sáu: Thực hiện công tác thông tin quảng bá, giới thiệu về NHCT, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, từ đó giúp các chi nhánh thu hút thêm được nhiều khách hàng. Việc đăng các quảng cáo, giới thiệu có thể thực hiện qua các hệ thống thông tin như truyền hình (dưới dạng quảng cáo đơn thuần, hoặc tài trợ cho các chương trình…), báo, đài, mạng internet…
3.3.3. Kiến nghị với NHNN
Với vai trò là ngân hàng trung tâm của các NHTM và hệ thống tài chính trong mỗi quốc gia, NHNN thực hiện một số công việc quan trọng cho các NHTM như: cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ cho các NHTM, chế tài các vụ vi phạm luật lệ ngân hàng; quy định mức dự trữ bắt buộc các NHTM phải thi hành; thanh tra, kiểm soát các NHTM; quản lý đối với toàn hệ thống; mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ; tái cấp vốn cho các NHTM dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu GTCG, cho vay thế chấp, ứng trước…Qua đó có thể thấy hầu hết mọi động thái của NHNN đều có ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM, đặc biệt là các NHTM Nhà nước trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với các DNNN nói riêng thì NHNN cần có các biện pháp, chính sách sau:
- NHNN cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ các quy định hiện nay về chế độ tín dụng và ban hành một hệ thống văn bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất cả các quy định về loại hình hoạt động tín dụng để các ngân hàng tiện tra cứu. Mặt khác NHNN cần nghiên cứu một quy trình tín dụng chung thực sự đơn giản, dễ áp dụng, không quá chi tiết và tạo khoảng mở . Trên cơ sở quy trình chung đó, các ngân hàng có thể có những quy trình tín dụng riêng cho đơn vị của mình, hạn chế sự can thiệp sâu của NHNN, tạo sự chủ động cho các ngân hàng trong kinh doanh tín dụng.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các NHTM nhằm sớm phát hiện những ngân hàng nào đang gặp khó khăn để có biện pháp xử lý kịp thời. NHCT Việt Nam là một TCTD thuộc hệ thống NHNN Việt Nam, do đó chịu sự thanh tra, kiểm tra của Thanh tra NHNN Việt Nam. Để công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả thì không thể không kể đến đội ngũ cán bộ thanh tra của NHNN. NHNN cần phải xây dựng một đội ngũ thanh tra giỏi về chuyên môn và có tư cách đạo đức tốt, đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành một cách khách quan, trung thực, có chất lượng.
- NHNN cần đưa ra biện pháp quyết liệt bắt buộc các NHTM tăng vốn chủ sở hữu trong những năm tới nhằm phòng chống rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao chất lượng tín dụng.
3.3.4. Kiến nghị với Chính phủ
- Chính phủ cần tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường xã hội ổn định, lành mạnh giúp các NHTM cũng như các DNNN yên tâm hoạt động kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các NHTM với nhau.
Chính phủ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp bằng cách hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất, xây dựng hệ thống văn bản Luật không gây khó khăn nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp…
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của các NHTM. Đặc biệt trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động nằm ngoài dự đoán của các nhà phân tích. Để có được môi trường kinh tế ổn định trước những biến động đó đòi hỏi Nhà nước cần phải xây dựng, sử dụng đồng bộ và có hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
- Mặt khác Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN, các NHTM Nhà nước hiện nay. Với hình thức là công ty cổ phần, các doanh nghiệp nói chung trong đó có NHTM, sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, tránh được tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại Nhà nước, hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí một số lượng lớn vốn của Nhà nước.
- Nhà nước cũng cần khuyến khích các DNNN huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nhằm mục đích tạo cơ chế linh hoạt. Trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các DNNN, Nhà nước nên bỏ quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước nhằm đảm bảo tính độc lập hơn trong hoạt động của doanh nghiệp.
Trên đây là một số kiến nghị tới các cơ quan cấp trên có liên quan đến hoạt động của các NHTM nói chung và Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nói riêng nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trong ngân hàng.
KẾT LUẬN
Đất nước Việt Nam đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới đã mở ra cho nhiều cơ hội cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực, trong đó không thể không nói tới ngân hàng – một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Việt Nam đang bắt đầu thực hiện những cam kết mở cửa khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Chính vì thế yêu cầu đặt ra cho các NHTM là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng đối với các DNNN trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Mối quan tâm này không ngoại trừ Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Trong những năm qua hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng đã đạt một số kết quả đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cho ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó hoạt động tín dụng đối với các DNNN vẫn còn một số hạn chế cần giải quyết. Hy vọng với những giải pháp và kiến nghị được nêu trong bài viết sẽ góp phần giúp Chi nhánh giải quyết được phần nào những vướng mắc còn tồn tại ở trên.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng–Tài chính, đặc biệt thầy giáo PGS.TS. Lê Đức Lữ cũng như sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ trong Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê.
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê.
David Cox, Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại
TS. Nguyễn Văn Tiến, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, NXB Thống Kê
Peter Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính
PGS.TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống Kê.
Luật DNNN năm 2003
Tạp chí Thời báo kinh tế, tạp chí ngân hàng.
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng 1627/2001/QĐ-NHNN và Quy chế 127/2005/QĐ-NHNN sửa đổi.
Quyết định 493 và Quyết định 18 bổ sung Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
Sổ tay tín dụng NHCT Hoàn Kiếm năm 2004
Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm năm 2005, 2006, 2007.
Quy định cho vay đối với các tổ chức kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 072/QĐ-HĐQT-NHCT35 ngày 3/4/2006 của Hội đồng quản trị NHCT.
Quy trình kiểm tra, giám sát vốn vay, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng trong hệ thống NHCT số QT.35.03
Các trang web: www.sbv.gov.vn, www.diendandoanhnghiep.com.vn, www.vietnamnet.com
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. NHTM : Ngân hàng thương mại
2. NHNN : Ngân hàng Nhà nước
3. NHCT : Ngân hàng Công thương
4. TCTD : Tổ chức tín dụng
5. DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
6. CV : Cho vay
7. CVNQD : Cho vay ngoài quốc doanh
8. DN : Doanh nghiệp
9. WTO : Tổ chức thương mại thế giới
10. TSĐB : Tài sản đảm bảo
11.GTCG : Giấy tờ có giá
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn …………………………………….… 30
Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng …………………………………………… 31
Bảng 2.3: Cơ cấu doanh số cho vay DNNN ………………………………38
Biều đồ 2.1. Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế ………………….39
Biều đồ 2.2. Doanh số cho vay DNNN phân theo kỳ hạn ………………...40
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay DNNN ………………………………. ...41
Biều đồ 2.3. Cơ cấu dư nợ cho vay của Chi nhánh …………………..........42
Biều đồ 2.4. Dư nợ cho vay DNNN phân theo kỳ hạn ……………………43
Bảng 2.5: Tỷ trọng doanh số thu nợ DNNN ……………………………..43
Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn …………………………………………..45
Bảng 2.7: Tình hình dư nợ cho vay DNNN có TSĐB ……………………46
Biều đồ 2.5. Cơ cấu dư nợ cho vay DNNN có TSĐB ……………………..47
Bảng 2.8: Vòng quay vốn tín dụng DNNN ……………………………….48
Bảng 2.9: Tình hình lợi nhuận tín dụng DNNN …………………………..49
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28588.doc