LỜI MỞ ĐẦU
Nằm trong khu vực được coi là năng động nhất trên thế giới,Việt Nam có được những thuận lợi để phát triển, hội nhập cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải rất linh hoạt và năng động để tiêp thu những thành tựu tiên tiến cũng như kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới.Trong đó Ngân hang là một trong những ngành kinh tế tài chính quan trong bậc nhất trong việc phát triển của nền kinh tế.Tuy hoạt động Ngân hang ở nước ta gặp nhiều khó khăn và còn nhiều vấn đề tồn tại nhất là trong khâu tín dụng của các NHTM.Tín dụng là hoạt động kinh doanh cơ bản của NHTM nhưng chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối quan tâm của các cấp lãnh đạo,các cấp quản lí va điêu hành hệ thống Ngân hang.
Là một trong các Ngân hang thương mại quốc doanh lớn nhất hiện nay,Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua đã có những bước phát triển lớn mạnh không ngừng.Tuy nhiên trong lĩnh vực tín dụng và đặc bịêt là tín dụng ngắn hạn Ngân hàng gặp không ít khó khăn.Bởi vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn là vấn đề mà Ngân hàng cần đặc biệt quan tâm.
Xuất phát từ lý do trên trong thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội em đã chọn đề tài "Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội’’ làm chuyên đề tốt nghiệp.
Bố cục của chuyên đề ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo gồm 3 phần:
Chương 1: cơ sớ lí luận về chất lượng tín dụng ngắn hạn
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN 2
1.1. Tổng quan về tín dụng ngắn hạn 2
Khái niệm và phân loại 2
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngắn hạn: 4
1.1.3 Các hình thức tín dụng ngắn hạn: 6
1.2. Chất lượng tín dụng ngắn hạn 9
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá: 11
1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính: 11
1.2.2.2 Nhóm các chỉ tiêu định lượng: 12
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn 14
a. Các nhân tố thuộc về NHTM 14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 22
2.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 22
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương 22
2.1.2 Tổ chức bộ máy 23
2.1.2.1 cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội hiện nay 23
2.1.2.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 25
2.1.3 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 27
2.1.3.1 Đánh giá các mặt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 27
2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 33
2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh 33
2.2.2 Qui trình tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 34
2.2.3 Kết quả đạt được và các hoạt động của phòng tín dụng 41
2.2.3.1 Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 41
2.3.3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN 44
2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 50
2.3.1. Kết quả đạt được 50
2.3.2 Những hạn chế 51
CHƯƠNGIII 55
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 55
3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong năm 2008 55
3.2 Định hướng hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đến năm 2008 56
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 57
3.3.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng: 57
3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ngắn hạn 59
3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án 60
3.3.4 Đảm bảo thực hiện tốt quy trình cho vay 62
3.3.5.Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ cho vay 63
3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát và quản lý các khoản cho vay 65
3.3.7.Giải pháp đẩy mạnh hoạt động maketing Ngân hàng 66
3.4 Kiến nghị 68
3.4.1 Đối với Nhà Nước 69
3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước 70
KẾT LUẬN. 73
Danh mục tài liệu tham khảo 74
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
06 : tổng dư nợ đạt 4274000 triệu ( trong đó tín dụng ngắn hạn chiếm 74,7% tương ứng với số tiền là 3192171,2 triệu , tín dụng dài hạn chiếm 22,3% tương ứng với số tiền là 1081828,8 triệu) thì đều không bằng. Điều này được giải thích là do : tới năm 2005 ngân hàng Ngoại thương HN bao gồm 5 chi nhánh là Cầu giấy, Ba đình, Chương dương, Thành công và Hà nội; sang năm 2006 ngân hàng Ngoại thương HN đã tách 3 chi nhánh Cầu giấy, Ba đình, Chương dương ra làm 3 chi nhánh độc lập, nó chỉ bao gồm 2 chi nhánh là Thành công và Hà nội. Tiếp theo sang năm 2007 ngân hàng Ngoại thương HN tiếp tục tách chi nhánh Thành công ra thành 1 chi nhánh độc lập và ngân hàng Ngoại thương HN hiện nay chỉ là chi nhánh Hà Nội cũ của nó trước kia( ở 344 Bà Triệu. Nhưng ta lại thấy tổng lượng tín dụng của ngân hàng Ngoại thương HN năm 2006 lại lớn hơn tổng lượng tín dụng của nó năm 2005 (cho dù là bao gồm ít chi nhánh hơn ), điều này là do 2 chi nhánh Thành công và Hà nội là 2 chi nhánh lớn nhất trong 5 chi nhánh trên khối lượng tín dụng được thực hiện ở 2 chi nhánh này lớn hơn rất nhiều so với 3 chi nhánh còn lại.
Bảng 1: tín dụng phân theo thời hạn
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Ngắn hạn
2602837
3192171,2
1983681
%
74%
74,7%
77,7%
Trung & dài hạn
915119
1081828,8
596319
%
26%
25,3%
22,3%
Tổng
3518028
4274000
2553000
Phân loại tín dụng theo loại tiền cho vay :
Nói chung tỷ lệ cho vay bằng tiền VND qua các năm tương đối ổn định : năm 2005 dư nợ cho vay bằng VND chiếm 48,6% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1710532 triệu đồng, năm 2006 con số này chiếm 48,6% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1710532 triệu đồng, năm 2007 dư nợ cho vay bằng VND chiếm 48,6% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1710532 triệu đồng. Tương tự như nợ cho vay bằng VND, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ qua các năm cũng tương đối ổn định : năm 2005 dư nợ cho vay bằng ngoại tệ chiếm 51,4% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1807496 triệu đồng, năm 2006 con số này chiếm 50,9% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 2175466 triệu đồng, năm 2007 dư nợ cho vay bằng ngoại tệ chiếm 51,3% tổng dư nợ tương ứng với số tiền 1309869 triệu đồng.
Bảng 2 :Bảng phân loại tín dụng theo loại tiền cho vay
Đơn vị : triệu đồng
Dư nợ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Bằng VND
1710532
2098534
1243311
%
48,6
49,1
48,7
Bằng ngoại tệ(quy đổi)
1807496
2175466
1309689
%
51,4
50,9
51,3
Tổng
3518028
4274000
2553000
Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế :
Ngân hàng Ngoại thương HN luôn cho vay thành phần doanh nghiệp Nhà Nước với tỷ lệ lớn nhất : năm 2007 là 59,7% tương ứng với số tiền là 1322975 triệu đồng; năm 2006 là 52,9% tương ứng với số tiền là 2257717,7 triệu đồng; năm 2005 là 55,6% tương ứng với số tiền là 1956459,6 triệu đồng. Sau đó là đến thành phần Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn với các con số : năm 2007 với tỷ lệ 19,7% tương ứng với số tiền là 502941 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 22,5% tương ứng với số tiền là 960019,7 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 26,8% tương ứng với số tiền là 1046107,8 triệu đồng. Thành phần hợp tác xã : năm 2007 với tỷ lệ 9,8% tương ứng với số tiền là 250194 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 8% tương ứng với số tiền là 343965,5 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 5% tương ứng với số tiền là 175900,9 triệu đồng. Với đầu tư nước ngoài các con số là: năm 2007 với tỷ lệ 10,3% tương ứng với số tiền là 331890 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 13,3% tương ứng với số tiền là 561297,3 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 6,5% tương ứng với số tiền là 224960,75 triệu đồng. Thành phần đối tượng khác vay với tỷ lệ : năm 2007 với tỷ lệ 5,7% tương ứng với số tiền là 145000 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 3,5% tương ứng với số tiền là 151000 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 6,1% tương ứng với số tiền là 144599,7 triệu đồng.
Bảng 3 : bảng tín dụng phân theo thành phần kinh tế:
Đơn vị : triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Doanh nghiệp Nhà Nước
1956459,6
2257717,7
1322975
%
55,6
52,9
59,7
2
Công ty cổ phần, TNHH
1046107,8
960019,7
502941
%
26,8
22,5
19,7
3
Hợp tác xã
175900,9
343965,5
250194
%
5
8
9,8
4
Đầu tư nước ngoài
224960,75
561297,3
331890
%
6,5
13,3
10,3
5
Các đối tượng khác
114599,7
151000
145000
%
6,1
3,5
5,7
Tổng
3518028
4274000
2553000
2.3.3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN
Nói về thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN, ta có thể thấy một nét nổi bật là nợ quá hạn năm 2007 giảm suống một các manh mẽ so với những năm trước : năm 2005 nợ quá hạn chiếm 2,74% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 96510 triệu đồng, sang năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ có giảm tuy nhiên là không nhiều 2,46%, nhưng tới năm 2007 con số này chỉ còn 0,75%, đây là một điều rất đáng mừng, nó cho thấy các khoản nợ của ngân hàng Ngoại thương HN rất lành mạnh.
Bảng 4 : Bảng nợ quá hạn
Đơn vị :triệu đồng
Năm
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ lệ(%)
2005
3518028
96510
2,74
2006
4274000
105140,4
2,46
2007
2553000
19913,4
0,78
Nợ quá hạn phân theo nhóm nợ
Nói chung nợ quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5 qua các năm đều giảm và từ năm 2006 tới năm 2007 thì giảm mạnh, cá biệt nợ nhóm 2 và nhóm 3 năm 2006 lại tăng hơn năm 2005( Nợ nhóm 2 năm 2005 chiếm 1,4% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 52320,5 triệu đồng, sang năm 2006 con số này là 1,47% tương ứng với số tiền là 62807,8 triệu đồng. Nợ nhóm 3 năm 2005 chiếm 0,82% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 25895,8 triệu đồng, sang năm 2006 con số này là 1,47% tương ứng với số tiền là 62807,8 triệu đồng, cao hơn so với năm 2005) điều này là do sang năm 2006 Ngân hàng Ngoại thương thực hiện quy trình tín dụng mới (quy trình 90) đi kèm với quy trình này là bộ phận quản lý rủi ro được tách ra khỏi phòng tín dụng cũ và hoạt động độc lập, đã hạn chế việc gia hạn nợ, cơ cấu lại các khoản nợ đối với các khoản nợ không đảm bảo theo quy định. Đồng thời bộ phận quản lý rủi ro có xu hướng thêm các điều kiện như lịch kiểm tra vốn vay, tài sản đảm bảo…. vì vậy nợ quá hạn có xu hướng tăng từ năm 2005 sang năm 2006. Nhưng sang năm 2007 thì nợ nhóm 2 và nhóm 3 đã giảm mạnh ( nợ nhóm 2 chiếm 0,4% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 10211 triệu đồng (giảm 1,007% so với năm 2006), nợ nhóm 3 chiếm 0,26 % tổng dư nợ tương ứng với số tiền 6637,8(giảm 0,64% so với năm 2006)). đây là sự cố gắng lỗ lực rấy lớn của toàn thể ngân hàng Ngoại thương HN nói chung và của cán bộ bộ phận tín dụng nói chung. Con số của nợ nhóm 4 :năm 2005 – chiếm 0.42 % tổng dư nợ tương ứng với 14775,7 triệu đồng, năm 206 – chiếm 0,4% tổng dư nợ tương ứng với 17096 triệu đồng, năm 207 – chiếm 0,1% tổng dư nợ tương ứng với 2553 triệu đồng. Nợ nhóm 5 : năm 2005 – chiếm 0.1 % tổng dư nợ tương ứng với 3518 triệu đồng, năm 206 – chiếm 0,09% tổng dư nợ tương ứng với 3846,6triệu đồng, năm 207 – chiếm 0,02% tổng dư nợ tương ứng với 510,6 triệu đồng.
Bảng 5 : bảng phân loại nợ theo nhóm
Đơn vị :triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nợ nhóm 1
2516569
4151783,6
2533086,6
%
80,1
97,1
99,22
Nợ nhóm 2
52320,5
62807,8
10211
%
1,4
1,47
0,4
Nợ nhóm 3
25895,8
38466
6637,8
%
0,82
0,9
0,26
Nợ nhóm 4
14775,7
17096
2553
%
0,42
0,4
0,1
Nợ nhóm 5
3518
3846,6
510,6
%
0,1
0,09
0,02
Tổng
3518028
4274000
2553000
Phân loại nợ quá hạn theo loại nợ (ngắn hạn và dài hạn)
Theo tiêu chí này thì nợ quá hạn các năm theo nợ ngắn hạn và dài hạn tương đối ổn định ; nợ quá hạn theo nợ ngắn hạn : năm 2005 là 81577 triệu đồng tương ứng với 84,5% tổng nợ quá hạn, năm 2006 là 86215,1 triệu đồng tương ứng với 82% tổng nợ quá hạn, năm 2007 là 16587,9 triệu đồng tương ứng với 83,3% tổng nợ quá hạn. Nợ quá hạn theo nợ ngắn hạn qua các năm đều lớn hơn rất nhiều lần so với nợ quá hạn theo nợ nợ dài hạn vì nợ ngắn hạn theo các năm cũng lơn hơn rất nhiều lần so với nợ dài hạn.
Bảng 6 : phân loại nợ quá hạn theo loại nợ
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Ngắn hạn
81577
86215,1
16587,9
%
84,5
82
83,3
Dài hạn
14933
18925,3
3325,5
%
15,5
18
16,7
Tổng
96510
105140,4
19913,4
Nợ quá hạn phân theo loại tiền
Nợ quá hạn theo loại nợ cho vay bằn VND năm nào cũng rất cao và con số tương đối có xu hướng tăng theo các năm : năm 2005 là 85,7% trong tổng nợ quá hạn(tương ứng với số tiền 82730 triệu đồng), năm 2006 là 89,5% trong tổng nợ quá hạn(tăng 3,8% so với năm 2005)(tương ứng với số tiền 94100,7 triệu đồng), năm 2007 là 89,7% trong tổng nợ quá hạn(tăng 0,2% so với năm 2006)(tương ứng với số tiền 17862,3 triệu đồng). Nợ quá hạn theo nợ cho vay bằng VND luôn cao hơn rất nhiều so với nợ quá hạn theo nợ cho vay bằng ngoại tệ điều này chứng tỏ các khoản nợ cho vay bằng ngoại tệ lành mạnh hơn rất nhiều so với các khoản cho vay bằng VND.
Bảng 7 : Nợ quá hạn phân theo loại tiền
Đơn vị : triệu đồng
Nợ quá hạn
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
VND
82730
94100,7
17862,3
%
85,7
89,5
89,7
Ngoại tệ quy đổi ra VND
13780
11039,7
2051,1
%
14,3
10,5
10,3
Tổng
96510
105140,4
19913,1
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Bảng 8 : trích lập quỹ dự phòng rủi ro Đơn vị : triệu đồng
Năm
Tổng phải trích
Tổng đã trích
Còn thiếu
2005
108689,41
108689,41
0
2006
57719,37
57719,37
0
2007
22772,76
22662
110,76
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung :
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ theo quy định tại điều 6 và điều 7 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc Ngân hàng Nhà Nước, quy định này để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản tín dụng suy giảm.
Qua bảng trên ta thấy năm 2005 và năm 2006 ngân hàng Ngoại thương Hà nội thực hiện đầy đủ về quy định trích lập dự phòng rủi ro (năm 2005 trích lập 108689 triệu đồng, năm 2006 trích lập 57719,37 triệu đồng). Nhưng năm 2007 việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội chưa được đầy đủ cụ thể là ngân hàng phải trích lập 22772,76 triệu đồng nhưng hiện tại ngân hàng mới trích lập được 22662 triệu đồng còn thiếu 110,76 triệu đồng.
2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong năm qua tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Tín dụng ngắn hạn không chỉ tăng trưởng về quy mô mà còn nâng cao dần về chất lượng. Điều này thể hiện rõ rệt qua quy mô dư nợ cho vay ngắn hạn tăng, vòng quay vốn cho vay tăng, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ khó đòi giảm nhanh chóng qua các quý. Điều này chứng tỏ rằng vốn vay của Ngân hàng phát huy được tác dụng, doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả và còn cho thấy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phát triển, đem lại ngày càng nhiều thu nhập. Để đạt được những kết quả trên, chi nhánh đã thực hiện nhiều biện phát, chính sách tích cực, phù hợp với từng thời kỳ phát triển với phương châm “chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng bền vững”.
Từ những chỉ tiêu trên đây có thể thấy, về cơ bản, hoạt động tín dụng tại phòng tín dụng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đa số các chỉ tiêu đều hoàn thành đúng kế hoạch. Cụ thể:
Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm“ Hiệu quả & an toàn „. Với nỗ lực của các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.553 tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006, đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1,49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vay vốn tại Chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,78% tổng dư nọ.
- Cho vay trung dài hạn: chiếm 22,3% tổng dư n
- Cho vay ngắn hạn: chiếm 77,7% tổng dư nọ
Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, Chi nhánh đang mở rộng thêm loại hình cho vay thể nhân với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn: mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân – gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng,.... Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.
2.3.2 Những hạn chế
Mặc dù hoạt động tín dụng ngắn hạn năm qua đạt được kết quả đáng kể nhưng chất lượng ngắn hạn chưa cao. Những hạn chế đó biểu hiện như sau:
Về phía Ngân hàng
+ Việc tuân thủ quy trình nghiệp vụ cho vay có lúc bị bỏ qua, nhất là trong khâu thẩm định tín dụng. Trong tín dụng ngắn hạn, thời gian và thời cơ kinh doanh là một yếu tố quan trọng đối với cả doanh nghiệp và Ngân hàng do vậy cán bộ tín dụng đôi khi bỏ qua một số bước trong phân tích tín dụng, dẫn đến tiềm ẩn các rủi ro cho Ngân hàng.
+ Vòng quay vốn của Chi nhánh chưa đạt mức chung của toàn hệ thống. Điều này cho thấy chi nhánh còn hạn chế trong khâu tính toán kỳ hạn trả nợ, chưa xác định được tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp và sự kết hợp về sự kết hợp về tốc độ chu chuyển của từng doanh nghiệp trong hệ thống các doanh nghiệp - khách hàng, để thiết lập vòng quay vốn tối ưu. Vòng quay vốn chưa cao còn cho thấy công tác thu hồi nợ chưa tốt. Vòng quay vốn là một chỉ tiêu quan trong không chỉ đảm bảo cho khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng, mà còn đảm bảo một nguồn vốn đầy đủ, sẵn sàng cho việc mở rộng tín dụng.
Về phía doanh nghiệp:
+Khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Doanh nghiệp vay được vốn mà không sử dụng hiệu quả thì sẽ không có lợi nhuận, không trả được nợ cho Ngân hàng. Có những doanh nghiệp vay vốn để thực hiện những dự án lớn song lại hoàn toàn thất bại, dẫn đến vỡ nợ từ đó không chỉ đặt doanh nghiệp vào trạng thái phá sản mà còn gây thiệt hại cho Chi nhánh Ngân hàng.
+ Thái độ trả nợ của khách hàng đôi khi là không tích cực. Có nhiều doanh nghiệp vayvốn Ngân hàng song không tích cực trả nợ, có thái độ chần chừ không trung thực trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân hàng gây cản trở và thiệt hại đối với hoạt động của Ngân hàng.
Về phía Ngân hàng
+Phương thức cho vay ngắn hạn chưa đa dạng hiện nay, chi nhánh chỉ áp dụng nhiều nhất hai phương thức cho vay ngắn hạn là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Hai phương thức này hoặc mang tính thụ động, chờ khách hàng yêu cầu về vốn vay thì đáp ứng, hoặc không có sự đảm bảo nào cho việc thu hồi nợ ngoài sự đảm bảo từ phía khách hàng vay vốn.
+Quy trình thẩm định còn một số bất cập.
Mặc dù đã có sổ tay tín dụng được áp dụng chung trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nhưng việc áp dụng các chi tiết của quy trình cho vay nhiều khi mới chỉ dừng lại ở lý thuyết. Một số cán bộ tín dụng vẫn chưa tuân thủ hoàn toàn chặt chẽ, hoặc không có điều kiện thực hiện theo các quy định của sổ tay, mà một phần lớn là dựa trên kinh nghiệm. Do vậy, đôi khi các bước thẩm định bị coi nhẹ hay thậm chí bỏ qua làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định, từ đó làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
+ Mặc dù thông tin vừa thiếu vừa không chính xác vừa không cập nhật. Ngân hàng có nhiều nguồn thông tin để thẩm định một khách hàng, tuy nhiên hiện nay nguồn thông tin chủ yếu nhất vẫn là các tài liệu do khách hàng lập. Điều này không đảm bảo được tính khách quan chính xác của số liệu. Thậm chí, Ngân hàng cũng khó phát hiện được các sai sót trong các báo cáo. hiện nay, Ngân hàng nhà nước đã thành lập trung tâm thông tin tín dụng để cung cấp hồ sơ khách hàng. Song những hồ sơ này không thể cung cấp đầy đủ thông tin về khách hàng vì đó chỉ là thông tin trong quá khứ, thông tin ở trạng thái tĩnh. Việc thiếu thông tin, không nắm rõ tình hình khách hàng như vậy sẽ có thể dẫn Ngân hàng đến các rủi ro tín dụng.
+ Chiến lược hỗ trợ khách hàng vay vốn còn hạn chế. Các cán bộ tín dụng còn thể hiện sự thụ động trong việc cùng khách hàng tìm kiếm, phát triển phương án kinh doanh. Cán bộ tín dụng hầu như mới chỉ dừng lại ở tư vấn cho khách hàng về các điều kiện thủ tục vay vốn mà chưa cùng họ tìm ra cách thức tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách thức đáp ứng vốn tốt nhất cho họ cùng họ thực hiện một phần hoặc tham gia tư vấn chuyên môn cho dự án xin vay.
+ Công tác kiểm tra kiểm soát còn chưa tốt. Cho vay là một hoạt động có nhiều rủi ro. Công tác kiểm tra, kiểm soát là rất quan trọng đối với hoạt động này. Thực hiện tốt công tác này không chỉ giúp sớm nhận ra các sai sót và xử lý kịp thời, hạn chế bớt tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng mà còn có ý nghĩa dự báo, ngăn ngừa tổn thất nâng cao chất lượng tín dụng. Thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát còn chưa tốt, còn có những khoản vay xấu mà không được phát hiện kịp thời, để rơi vào tình trạng nợ quá hạn nợ khó đòi.
CHƯƠNGIII
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong năm 2008
“An toàn , chất lượng , hiệu quả tăng trưởng bền vững”
_ An toàn : tiếp tục nâng cao năng lực tài chí
Chất lượng thực hiện phân loại nợ xấu, phấn đấu trích đủ DPRR đối với dư nợ TDTM , tăng cường kiểm soát và xử lý nợ xấu phát sinh, xử lý nợ xấu và nợ tồn đọng . Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng đáp úng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng- Hiệu quả : Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông qua việc điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ, tài sản có theo hướng: Từng bứơc đẩy mạnh sang hoạt động dịch vụ, hoạt động đầu tư vốn, giảm dần tín dụng xây lắp, tăng tín dụng ngắn hạn trong đó tập trung vào tín dụng thưong mại xuất nhập khẩu, tín dụng ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể đẩy mạnh tín dụng cá nhân tín dụng tiêu dùng..... Tập trung cho những lĩnh vực khu vực ngành nghề, địa bàn có khả năng sinh lời và nguồn thu tín dụng lớn đảm bảo tăng trưởng nhưng an toàn rủi ro thấp sinh lời và thu nhập nhiều hiệu quả cao- Tăng trưởng bền vững: Mở rộng và tăng thị phần hoạt động dịch vụ và huy động vốn, đảm bảo tăng trưởng quy mô phù hợp với năng lực tài chính và khả năng kiểm soát rủi ro. Đẩy mạnh dịch vụ theo hướng đột phá tập trung vào các dịch vụ phí tín dụng , dịch vụ tài chính, đưa vào khai thác các sản phẩm dịch vụ mới, gắn liền tăng trưởng hoạt động dịch vụ ứng dụng công nghệ hiện đại. Tiếp tục mở rộng và phát triển mạng lưới và các kênh phân phố
3.2 Định hướng hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đến năm 2008
Chi nhánh tiếp tục phát huy các thể mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng màng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn,... để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008.
Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới tại 344 Bà Triệu, dự kiến cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của Chi nhánh tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005 – 2010 tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Chi nhánh dự kiến khoảng 16,4% do sự phát triển không ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa bàn như hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt động gửi tiền của ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng thương mại điện tử.
* Cho vay: Kế hoạch đến cuối năm 2008, Chi nhánh sẽ đạt dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2% giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung, dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh, kế hoạch 2008 đạt 28% tổng dư nợ.
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
3.3.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng:
Nhân tố con người luôn giữ vị trí trung tâm, chi phối và có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công việc. Đối với hoạt động tín dụng mà cụ thể là tín dụng ngắn hạn, con người có vai trò hết sức quan trọng, do vậy để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn không thể không quan tâm tới nhân tố con người mà cụ thể ở đây chính là cán bộ tín dụng. Cụ thể Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng đảm bảo cả về chất lượng và số lượng, đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng cần đáp ứng ở các phương diện gồm trình độ chuyên môn kinh nghiêm công tác và tư cách đạo đức.
Về trình độ chuyên môn, cán bộ tín dụng cần được đào tạo chính quy, có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường và hệ thống Ngân hàng - Tài chính, trong đó cần nắm vững về tài chính doanh nghiệp, thẩm định dự án đầu tư, bên cạnh đó đội ngũ này cần có khả năng phân tích và tổng hợp nhạy bén. Phạm vi cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội rất đông, đặc biệt là hoạt động tín dụng ngắn hạn nền đội ngũ cán bộ tín dụng ngoài kiến thức chuyên ngành cần có thểm kiến thức khác nhau về xã hội, văn hoá, chính trị, kỹ thuật và các khả năng về ngoại ngữ, vi tính...... Trước hết để có thể nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cần coi trọng hơn nữa công tác tuyển dụng, nâng cao chất lượng đầu vào, áp dụng chính sách tuyển dụng công khai tuyển dụng từ trong các trường học để chọn đựoc cán bộ tín dụng có phẩm chất đạo đức tốt có trình độ chuyên môn cao, sức khoẻ và nhiệt tình làm việc.
Trong nền kinh tế thị trường luôn biến động, hàng ngày có một lượng lớn thông tin mà cán bộ tín dụng phải xử lý trên tất cả các lĩnh vực khác nhau, bên cạnh đó trong quá trình công tác nhiều kiến thức bị mai một. Nếu cán bộ tín dụng không được trang bị và bổ sung thêm kiến thức thì sẽ không thể đáp ứng nổi công việc bởi vậy cần phải thường xuyên thực hiện việc đào tạo cán bộ tín dụng . Việc đào tạo cán bộ cần có một chương trình và kế hoạch chi tiết đối với từng nhân viên nhằm đảm bảo phát huy tối đa khả năng đóng góp của cán bộ tín dụng , ngoài ra phải có sự phối hợp chạt chẽ và chia sẻ trách nhiệm giữa các tổ chức, các cấp lãnh đạo, các đơn vị thành viên. Hoạt động đào tạo được thể hiện trong nước thông qua vịêc đề cử cán bộ tham gia các lớp ngắn hạn, Ngân hàng Ngoại Thương cần khuyến khích các cán bộ tiếp tục học cao học, thạc sĩ và tiến sĩ. Ngày nay xu hướng hội nhập đòi hỏi các cán bộ tín dụng cần có những kiến thức sâu rộng, hiểu biết về kinh tế thế giới, bởi vậy việc đào tạo không chỉ thực hiện trong nước mà cần có sự giao lưu, hợp tác với các tổ chức nước ngòai đưa cán bộ chủ chốt ra nước ngoài nhằm học tập những kiến thức mới, đóng góp có hiệu qủa đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Về tư cách đạo đức, việc thẩm định dự án và ra quyết định cho vay đều chứa đựng những nhận định mang tính chủ quan của cán bộ tín dụng , nếu cán bộ tín dụng có trình độ và kinh nghiệm những lại thiếu đi tư cách đạo đức thì kết quả sẽ bị bóp méo sai lệch và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng . Bởi vậy Ngân hàng cần có chính sách lương bổng, thưởng phạt hợp lý, thoả mãn nhu cầu vật chất chính đáng của nhân viên, chú trọng nhân tài đãi ngộ chất xám để khuyến khích những nhân viên có năng lực tâm huyết với Ngân hàng.
3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ngắn hạn
Đa dạng hoá hình thức thu hút vốn là một trong các hoạt động có ý nghĩa đầu tiên và quan trọng đối với sự hình thành, phát triển của một Ngân hàng. Có thu hút được vốn thì Ngân hàng mới có thể cho vay và thực hiện các hoạt động khác. Nguồn vốn không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng cho vay của Ngân hàng về quy mô mà còn cho phép có được cơ cấu cho vay hợp lý, nhất là về thời hạn. Do vậy trong thời gian tới công tác nguồn vốn phải được đẩy mạnh với một số giải pháp sau:
_ Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Ngoài các hình thức huy động truyền thống Ngân hàng cần đưa ra các hình thức mới,thu hút và đa dạng hoá như các hình thức tiết kiệm trả góp, tiết kiệm có thưởng, đẩy mạnh phát hành trái phiếu, kỳ phiếu với nhiều thời hạn và lãi suất linh hoạt, lãi suất bậc thang....Nhất là hiện nay, các Ngân hàng đang cạnh tranh rất gay gắt, cho nên Ngân hàng phải chuyên biệt hoá sản phẩm của mình, làm nổi bật sản phẩm vởi những đặc tính riêng và các dịch vụ hoàn hảo hơn( thủ tục nhanh chóng, thuận tiện, giảm bớt thời gian và chi phí cho cả Ngân hàng và khách hàng... )
_ Mở rộng mạng lưới huy động vốn trên các địa bàn trong cả nước, không chỉ mở mới thêm mà còn phải tăng quy mô của mỗi kỳ tiết kiệm trên địa bàn. Bằng các biện pháp như quảng cáo kết hợp với phong cách phục vụ chu đáo, tuyên truyền,.... cần tạo nên hình ảnh riêng của Chi nhánh cũng như của một hệ thống NHTM Việt Nam.
_ Duy trì và phát triển thêm nhiều mối quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp lớn. Đây là những đối tác quan trọng của Ngân hàng, vừa tiến hành vay vừa cung cấp nguồn vốn cho Ngân hàng. Lợi thế của nguồn vốn này là chi phí thấp tương đối do chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Củng cố quan hệ tín dụng với họ sẽ giúp Ngân hàng có một nguồn vốn, ổn định lâu dài.
_ Đối với một Ngân hàng lãi suất luôn là yếu tố quan trọng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp việc huy động vốn, có chiếm lĩnh đựơc thị trường hay không, cần phải xây dựng chính sách mềm dẻo, linh hoạt. Chính sách lãi suất huy động luôn phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo được lợi ích cho người gửi tiền và lợi ích của Ngân hàng, taọ thế cạnh tranh thuận lợi cho Ngân hàng. Lãi suất cần phải cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng vốn. Đây là vấn đề mà thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, vẫn cần phải tiếp tục thực hiện tốt hơn, chi tiết, đa dạng nhiều mức lãi suất ứng với từng nguồn vốn đồng thời phải luôn cân đối hợp lý trong tổng nguồn vốn.
_ Chính sách chăm sóc khách hàng phải được nâng lên, đa dạng hoá hình thức thanh toán, nhanh chóng phát triển hình thức thanh toán thẻ để tạo sự tiện lợi cho khách hàng đồng thời là nguồn huy động khả thi của Ngân hàng
3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án
Một trong những nguyên nhân lớn nhất làm hạn chế chất lượng tín dụng cụ thể là tín dụng ngắn hạn, là chất lượng thẩm định. Thẩm định tín dụng là khâu thẩm tra,kiểm tra khách hàng và thẩm tra các dự án xin vay trên nhiều tiêu chí, từ đó mới là cơ sở đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay, cho vay như thế nào. Do vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn đến chất lượng thẩmđịnh. Một số giải pháp nâng cao chât lượng thẩm định là:
Một là : Nâng cao chất lượng thu thập thông tin. Thông tin là đầu vào của việc thẩm định . Thông tin không chính xác , không đày đủ thì thẩm định sẽ không đúng, Ngân hàng không thực sự hiểu biết khách hàng thì dẫn đến việc cho vay không hiệu quả. Để nâng cao chất lượng thông tin, cần có nhiều giải pháp, có thể kể đến là:
Thu thập thông tin từ bên trong doanh nghiệp thông qua các hình thức phỏng vấn trực tiếp người vay và gặp gỡ tại cơ sở để tìm hiểu chặt chẽ về ngành nghề sản xuất kinh doanh , tiềm năng của sản phẩm khách hàng sản xuất trên thị trường, mục đích vay vốn, tình hình tài chính của người vay. Một số thông tin khác liên quan đến doanh nghiệp như lịch sử và xu hướng phát triển, đội ngũ cán bộ, trình độ quản lý, quan hệ đối tác đều tiết lộ khả năng , triển vọng của doanh nghiệp . một yêu cầu quan trọng khác trong việc thu thập thông tin là phải phân biệt được các thong tin trọng yếu và không trọng yếu, đánh giá được mức độ tin cậy của thông tin từ đó mới có hướng thu thập những thông tin thực sự cần thiết
Thu thập thông tin từ bên ngoài qua nhiều nguồn chính thức hoặc không chính thức. Nguồn thông tin chính thức là thông tin của các cơ quan chức năng như kiểm toán độc lập, trung tâm thông tin tín dụng, các cơ quan hữu quan như cơ quan thuế, hải quan, công an, toà án... Nguồn thông tin cũng có thể là không chính thức đã cơ quan hệ tín dụng từ mối quan hệ khác, từ dư luận xã hội, phương tiện thông tin đại chúng.
Thu thập thông tin của Ngân hàng còn phải hướng tới xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ về thị trường, giá cả, các dự báo, xây dựng các tiêu quan trọng từng và trong toàn ngành và trong toàn nền kinh tế để làm căn cứ so sánh, đánh giá khi phân tích, chấm điểm tín dụng .
Trong việc thu thập thông tin phải tính đến không chỉ yếu tố chính xác tin cậy, mà còn phải tính đến chi phí để có các thông tin đó. Có như vây, hoạt động tín dụng mới mang lại được thu nhập cho Ngân hàng.
Hai là, nâng cao chất lượng xử lý thông tin. Từ những thông tin thu thập được, cần phải xử lý theo nhiều cách thức để đưa ra kết luận hợp lý, đúng đắn. Thông tin thu thập được có rất nhiều, song cần phải sàng lọc được những thông tin quan trong và tin cậy.
Các thông tin thu thập được đều là số liệu trong quá khứ và mang tính thời điểm. Nhưng Ngân hàng không chỉ cần quan tâm đến kết quả hoạt động của khách hàng trong trạng thái tĩnh ở một thời điểm nào, mà cần phân tích khách hàng trong trạng thái động. Do đó, khi xử lý thông tin, không chỉ phân tích đơn thuần các chỉ tiêu thời điểm, còn cần phải phân tích tỷ lệ giữa các năm, giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, tìm hiểu được xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Qua đó, Ngân hàng cũng đánh giá được rủi ro của doanh nghiệp xem xét tính khả thi của dự án xin vay.
Khi thẩm đinh, Ngân hàng tập trung vào phân tích tài chính khách hàng và tài chính dự án xin vay. Ngân hàng cần đưa ra hệ thống tiêu chuẩn để thẩm định, như tiêu chuẩn 5C (Capability – năng lực hoạt động, Capital – vốn. Character – uy tín. Condition - điều kiện và Collateral- thế chấp), hoặc tiêu chuẩn 5P( Purpose- mục đích, Payment – trả nợ, Protection – bảo vệ, Policy – chính sách và Pricing - định giá).
Việc chấm điểm tín dụng là một cách xử lý thông tin hiệu quả. Tuy nhiên, với các thang điểm rời rạc như hiện nay, còn nhiều chỉ tiêu chung chung cho mọi doanh nghiệp thì việc phân tích định lượng chưa mang lại hiệu quả cao. Nếu chỉ lấy đó làm căn cứ chính để xem xét cấp tín dụng thì rõ ràng, Ngân hàng chịu rủi ro rất lớn. Do vậy, khi phân tích tín dụng không nên phân tích mọi chỉ tiêu vừa không cần thiết vừa có thể không mang lại hiệu quả hay thậm chí các con số tính toán được lại phản ánh sai lệch. Việc phân tích định tính là rất quan trọng
3.3.4 Đảm bảo thực hiện tốt quy trình cho vay
Tuy nhiên, các cán bộ tín dụng cũng phải rất linh hoạt trong việc áp dụng quy trình này vào từng trường hợp cụ thể. Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng lâu dài với Ngân hàng, thì các bước dẫn hồ sơ, thủ tục là không cần thiết, bước thu thập, điều tra thông tin có thể giảm nhẹ do kế thừa thông tin có sẵn, cán bộ tín dụng cần thiết phải thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng các bước trong quy trình, để đảm bảo rằng khách hàng hiểu rõ và thực hiện được các yêu cầu của Ngân hàng.
Trong cho vay ngắn hạn, thời gian và thời cơ là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp xin vay mà còn đối với Ngân hàng cho vay. Do đó, áp dụng một quy trình linh hoạt, vừa đảm bảo các quy định, vừa giảm nhẹ các thủ tục, giảm bớt thời gian cần thiết.
Thực hiện tốt quy trình cho vay đòi hỏi cán bộ Ngân hàng phải thực hiện tốt ngay ở từng bước của quy trình, vì bước sau có tính kế tiếp bước trước. Do đó, tuân thủ quy trình chặt chẽ mà lại rất linh hoạt là điều kiện quan trọng để có được quyết định cho vay đúng đắn, tạo điều kiện hết sức cho khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn, sinh lợi cho Ngân hàng. Chất lượng tín dụng nhờ đó được nâng cao.
3.3.5.Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ cho vay
Theo sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng phức tạp và đa dạng. Để hoạt động tín dụng có hiệu quả, thì cần thiết phải đáp ứng được trước hết là nhu cầu đó. để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, trước hết phải đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của tín dụng ngắn hạn. Do đó, đa dạng hoá phương thức cho vay là điều kiện cần đạt được chất lượng cho vay. Bên cạnh hai phương thức cho vay ngắn hạn chủ yếu tại Chi nhánh, cần phát triển thêm các phương thức khác.
Một trong những phương thức Chi nhánh có thể áp dụng là cho vay luân chuyển. Tại chi nhánh, một bộ phận lớn khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, công nghiệp chế biến. Đối với những khách hàng này. Chi nhánh hiện vẫn đang phát triển 2 phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Tuy nhiên, đối với khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên với Chi nhánh thì phương thức cho vay từng lần tỏ ra tốn kém về thời gian và chi phí cho khách hàng, không nên áp dụng. Phương thức cho vay theo hạn mức hịên đang được áp dụng tỏ ra phù hợp hơn. Nhưng việc kiểm soát khoản vay trong trường hợp này là khó khăn đối với Ngân hàng. Các khoản vay theo hạn mức tín dụng không tách biệt, Ngân hàng khó kiểm soát chi tiết từng khoản vay, cho nên dẫn đến rủi ro tín dụng. Trong khi đó, cho vay theo phương thức luân chuyển đòi hỏi người vay phải xuất trình các chứng từ hợp pháp, hợp lệ về hàng hóa đã nhập thì mới xuất khoản vay. Việc cho vay căn cứ vào số lượng giá trị hàng hoá thực nhập như vậy không chỉ hỗ trợ vốn kịp thời cho khách hàng, không tốn kém nhiều thời gian và chi phí ( cùng có những ưu điểm của cho vay theo hạn mức) mà còn định hướng cho số tiền vay của Ngân hàng được sử dụng đúng mục đích
Một phương thức cho vay có hiệu quả khác là cho vay ứng trước căn cứ vào giá trị của giấy tờ có giá. đây thực chất là chiết khấu chứng từ có giá( chủ yếu là thương phiếu). Đối với Ngân hàng, đây là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn ít rủi ro, vì Ngân hàng luôn nắm trái quền đòi nợ chính ở các giấy tờ có giá. Nếu trường hợp Ngân hàng không thu hồi được nợ của người phát hành, thì có thể truy đòi ở những người liên đới hoặc có thể đem tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ đến hạn thanh toán. Một ưu điểm nữa của phương thức chiết khấu là chứng từ được chiết khấu thường có tính thanh khoản cao, thậm chí gần như tiền mặt. Với thời hạn ngắn, an toàn cao, đây là một phương thức cho vay ngắn hạn tốt
Ngoài ra, khi chiết khấu chứng từ có giá, các doanh nghiệp thường ghi tăng tài khoản tiền gửi của mình tại Ngân hàng để thực hiện thanh toán. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bô, và như vậy nguồn vốn của Ngân hàng lại tăng lên. Ngân hàng được hưởng toàn bộ số lãi trên số tiền đó.
Hiện nay, Chi nhánh đã có thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá, song còn rất hạn chế. Với những ưu điểm trên, cho vay luân chuyển và cho vay ứng trước là phương thức cho vay ngắn hạn hiệu quả. Phát triển các phương thức này sẽ giúp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn ở Chi nhánh.
3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát và quản lý các khoản cho vay
Quản lý tín dụng là công tác quan trọng trong quy trình cho vay. Quản lý tín dụng tốt là điều kiện đủ để có các khoản tín dụng tốt an toàn. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng tín dụng.
Công tác này gồm quản lý, kiểm soát khoản vay; xử lý những phát sinh và thu hồi nợ.
Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn của đơn vị. Cán bộ tín dụng cần phải theo dõi tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Ơ nước ta hiện nay, việc cung cấp các thông tin về kế toán tài chính từ phía khác hàng còn rất hạn chế, không đầy đủ, cập nhật,và thậm chí không hoàn toàn tin tưởng thì việc theo dõi kiểm soát khách hàng không chỉ thực hiện qua việc xem xét các báo cáo tài chính là đủ mà phải trực tiếp nhanh nhạy bám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
Cán bộ tín dụng cần có những đợt kiểm tra định kỳ đến cơ sở và cả những đợt kiểm tra bất kỳ. Trong mỗi đợt kiểm tra cán bộ cần tận dụng triệt để thời gian tiếp xúc ở đơn vị đảm bảo xem xét tất cả các yếu tố liên quan đến đặc tính của khoản cho vay . Cán bộ tín dụng cần :
- Đánh giá tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với vốn vay Ngân hàng thông qua trách nhiệm gặp gỡ trao đổi với cán bộ tín dụng về những vấn đề liên quan đến khoản vay và khả năng nghĩa vụ hoàn trả nợ.
- đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán (khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán hiện hành) để đảm bảo khách hàng có thể thực hiện được lịch trả nợ.
- Đánh giá lại dự án vay vốn trong thực tế, so sánh, xem xét sự khác biệt giữa dự án và thực tế ở các chỉ tiêu như quy mô, doanh thu, lợi nhuận, hiệu suất sử dụng tài sản , sức cạnh tranh của sản phẩm. Qua đó tìm hiểu xu hướng phát triển để có những nhận định đúng về dự án về khoản vay về những rủi ro tiềm ẩn, đặt cơ sở để xử lý các phát sinh nếu có sau này.
- Đánh giá lại tài sản đảm bảo về giá trị và tình trạng, xem xét giá trị đó có còn đáp ứng được các tỷ lệ yêu cầu so với giá trị khoản vay hay không. Ngân hàng luôn cần có sự diều chỉnh kịp thời trong việc cung ứng vốn vay cho tương ứng với tài sản đảm bảo, hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải bổ xung tài sản đảm bảo.
- Ngân hàng cũng cần theo dõi quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản đảm bảo để chắc chắn về một nguồn thu hồi nợ khi khách hàng không trả hoặc không trả được nợ.
- Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính cùa doanh nghiệp , cơ cấu vốn, tình hình phân chia lợi nhuận trong doanh nghiệp. Nếu có sự thay đổi bất thường về cơ cấu vốn tăng nợ bất thường...... thì đó là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động không tốt.
- Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp thường không tách bạch tiền cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiền để chi tiêu gia đình. Do đó cán bộ tín dụng cần phải khéo léo tìm hiểu việc sử dụng vốn vay của khách hàng , việc quản lý tài chính của bản thân người vay, từ đó đánh gía được khả năng sử dụng vốn có hiệu quả hay không của họ.
3.3.7.Giải pháp đẩy mạnh hoạt động maketing Ngân hàng
Trong bối cảnh nền kinh tế cạnh tranh gay gắt hiện nay, trong lĩnh vực Ngân hàng việc tìm đựoc thế mạnh riêng bằng chất lượng hoạt động là vấn đề quan tâm của mọi Ngân hàng . Xây dựng được một chính sách maketing hiệu quả từ đó nâng cao chất lượng tín dụng là càn thiết để tăng năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng.
- Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường.
Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, một mục tiêu quan trọng của Ngân hàng là mở rộng thị phần, tăng thu nhập. Để thực hiện điều này chất lượng hoạt động tín dụng phải tiếp tục được nâng cao. Ngược lại công tác nghiên cứu thị trường nhất là trong sự cạnh tranh gia tăng, càng tỏ ra là một nhân tố thúc đẩy hoạt động cho vay cả về quy mô và chất lượng.
Trong xu hướng ngày nay thành lập một bộ phận nghiên cứu thị trường là cần thiết để tiếp cận tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu thị trường ở đây không chỉ là nghiên cứu thị trường Ngân hàng mà là nghiên cứu thị trường của khách hàng.
+ nghiên cứu thị trường của Ngân hàng: bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ nghiên cứu các nhu càu vay vốn trên thị trường, khả năng cung cấp vốn vayvà thị phần hiện có về các sản phẩm cùng loại của các Ngân hàng cạnh tranh, tìm hiểu hình thức cho vay ngắn hạn nào là hiệu quả, chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng đói thủ ra sao. Từ đó Ngân hàng có thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện sản phẩm cho vay ngăn hạn của mình, vừa căn cứ trên nhu cầu thị trường vừa căn cứ trênmức độ cạnh tranh. Ngân hàng cũng có thể kịp thời loại bỏ những món vay nhiểu rủi ro không hiệu qủa tất cả là nhằm đưa ra các khoản vay chất lượng cao.
Hiện nay, phần lớn khách hàng của chi nhánh đều tự chủ về tài chính song việc cung cấp các thông tin tài chính của khách hàng còn chửa đẩy đủ chưa đủ đột tin cậy. Việc dự đoán triển vọng của doanh nghiệp không thể chỉ dựa trên các báo cáo tài chính mà còn phải dựa trên các thông tin về thị trường sản phẩm. Bộ phận nghiên cứu thị trưòng của khách hàng cần phải tìm hiểu rõ các thông tin về thị trường loại sản phẩm mà khách hàng sản xuất. Số lượng các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, nhu cầu của thị trưòng về sản phẩm, phân đoạn thị trường của sản phẩm , vị trí cạnh tranh của khách hàng về giá cả, chất lượng , thị phần...... từ đó có thể đưa ra các dự đóan khả năng thành công của khách hàng mức độ rủi ro dự án của khách hàng . Nghiên cứu thông tin thị trường khách hàng còn là biện pháp kiểm tra đối chiếu thông tin khách hàng cung cấp cho Ngân hàng, từ đó hiểu biết sâu sắc hơn về khách hàng. Có như vậy mới có thể thực hiện tín dụng có chất lượng.
- Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý:
Tuy đã triển khai một chính sách khách hàng hợp lý song trong thời gian tới chi nhánh cần củng cố hơn nữa công tác này nhằm thu hút đông đảo khách hàng sử dụng dịch vụ cũng như gửi tiền và vay tiền của Ngân hàng.
Trong cơ cấu khách hàng phần lớn khách hàng hiện tại của chi nhánh là các doanh nghiệp nhà nước. Việc cơ cấu lại khách hàng theo hướng mở rộng hơn đói với các doanh nghiệp ngoài quóc doanh là hướng đi đúng đắn mà chi nhánh cần tiếp tục thực hiện. Đồng thời cho vay nhất là cho vay ngắn hạn của Ngân hàng mới chỉ giành phần lớn là cho vay kinh doanh cho vay tiêu dùng chưa được chú trọng đúng mức. Nằm trong địa bàn dân cư , đối với chi nhánh cho vay tiêu dùng là một thị trường còn nhiều tiềm năng cần khai thác tích cực hơn.
3.4 Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng tín dụng Chi nhánh cần phải nâng cao công tác kiểm tra kiểm soát. Là một hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Công tác này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, trong đó có tín dụng Ngắn hạn. Việc kiểm tra, kiểm soát ở đây không chỉ đơn thuần là kiểm tra theo các số liệu chỉ tiêu như hiện nay mà quan trọng hơn, là kiểm tra tính tuân thủ quy chế, quy định, quy trình cho vay của các cán bộ tín dụng, đảm bảo họ làm việc theo đúng pháp luật, trên cơ sở lợi ích của Ngân hàng kết hợp với lợi ích Khách hàng. Việc kiểm tra này, cần được coi là hoạt động tự giác, khách quan, việc kiểm tra kiểm soát mới thực sự có ý nghĩa điều chỉnh kịp thời hoạt động của Ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng Ngắn hạn
Là một chi nhánh trực thuộc hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nằm trong hệ thống Ngân hàng của nền kinh tế, thì hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ thống này. Chất lượng tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố liên quan trực tiếp đến cấp chi nhánh, trực tiếp thuộc Chi nhánh, mà còn có chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác liên quan đến cấp hệ thống. Để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh trên góc độ Chi nhánh, chuyên đề xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
3.4.1 Đối với Nhà Nước
_ Chính phủ cần tao lập môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ để người vay và người cho vay thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mìNgân hàng.
_ Chính phủ cần ổn định kinh tế vĩ mô, vì đây là môi trường chung của mọi hoạt động kinh tế, của bản thân Ngân hàng cũng như khách hàng vay vốn.
_ Chính phủ tiếp tục ban hành và hoàn thiện Luật kế toán và Luật Kiểm toán nhà nước để có chuẩn mực trong công tác kế toán, kiểm toán. Đối với các NHTM, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng thông tin tín dụng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
_ Chính phủ cần có biện pháp giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng trong cho vay theo Chỉ đinh của Chính phủ, đẩy mạnh tiền trình cơ cấu lại nợ để lành mạnh hoá tình hình tài chính. Hiện nay, các NHTM chưa đạt được tỷ lệ an toàn COOK là do có vốn chủ sở hữu quá nhỏ. Vơi mức vốn chủ sở hữu nhỏ như vậy, việc mở rộng hoạt động là khó khăn và đi kèm nhiều rủi ro. Do vậy, Chính phủ cần nghiên cứu đề án bổ sung cho cac NHTM, hoặc cho phép các NHTM phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước
Cho đến nay đặc trưng cơ bản của hệ thống giám sát hoạt động tín dụng của NHNN vẫn chủ yếu là dựa trên sự tuân thủ các luật lệ đã được đặt ra, tức là
_ NHNN cần hướng dẫn việc thực hiện các Nghị quyết của NHNN, nghị định của Chính Phủ liên quan đến các NHTM một cách cụ thể, kịp thời. NHNN cũng có thể tổ chức thường xuyên các khoá tập huấn cần thiết dành cho cán bộ các NHTM.
_ NHNN cần nghiên cứu, cải tiến thủ tục để các NHTM chủ động hơn trong hoạt động, chẳng hạn trong việc quyết định mức thu các loại phí dịch vụ, chủ động trong tổ chức cơ cấu, bổ nhiệm cán bộ sao cho phù hợp với thực tiễn ở mỗi Ngân hàng.
_ Cho phép NHTM xây dựng các chính sách lương, thưởng để khuyến khích cán bộ tín dụng làm tốt, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh.
_ Cùng hệ thống NHTM, NHNN cần đầy mạnh tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu biết đúng đắn về hoạt động Ngân hàng, ngày càng chủ động tích cực tiếp cận NHTM. Hiểu biết đúng đắn của người dân là điều kiện cần thiết để Ngân hàng có môi trường thuận lợi cho phát triển.
3.4.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
_ Về quy trình cho vay, mặc dù đã ban hành Quy định tín dụng đối với khách hàng trọng hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, song cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa về thực hiện quy trình cho vay. Một số quy định cụ thể về quy trình áp dụng cho từng loại tín dụng ngắn hạn nhìn chung còn chưa đầy đủ. Căn cứ vào quy trình mà NHNN đặt ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần có hướng dẫn chi tiết để giúp cán bộ tín dụng nắm bắt và thực hiện được đúng công việc đảm bảo chất lựơng công việc.
_ Về đảm bảo tiền vay, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã ban hành công văn hướng dẫn bổ sung thực hiện đảm bảo tiền vay, trong đó, có quy định các nội dung cần thực hiện. Tuy nhiên, cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn nữa, nhất là sự hỗ trợ về chuyên môn để thành lập Tổ thẩm định tài sản đảm bảo tại Chi nhánh. Hiện nay, đây vẫn còn là một vấn đề chưa giải quyết được ở Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
_ Về nhân sự, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách về nhân sự: tuyển chọn, đào tạo cán bộ, khen thưởng, kịp thời, rõ ràng. Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam cần tiếp tục thường xuyên có chính sách đào tạo cán bộ qua các lớp tập huấn cấp Hệ thống, gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu các nghiệp vụ mới, công nghệ Ngân hàng hiện đại trên thế giới để tìm cách áp dụng vào Ngân hàng. Tuyển chọn nhân sự ngày càng trở nên quan trọng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải có chính sách tuyển chọn đúng đắn để từng bước nâng cao trình độ đội ngũ đưa Ngân hàng vươn đến tầm cao của các hoạt động và dịch vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo.
_Về chương trình hiện đại hoá Ngân hàng, đây là chương trình mà Ngân hàng chủ động triển khai tích cực từ trước đến nay, đã đưa lại những kết quả nhất định. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ hơn, nhanh chóng áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động của mình, đồng thời, luôn tích cực cập nhật, học hỏi công nghệ mới, tạo điều kiện áp dụng nhanh chóng các công nghệ này ở các Ngân hàng chi nhánh.
_Về phát triển hợp tác quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế, từng bước tiến gần đến các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động.
_Về hình ảnh và văn hoá doanh nghiệp, Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam đã rất chủ động, tích cực, trong việc xây dựng thương hiệu: “An toàn, chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng bền vững”. Việc cũng cố, làm tôn vinh thương hiệu này không chỉ trong tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và hệ thống các chi nhánh nói riêng.
KẾT LUẬN.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đứng trước các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với phương châm phát huy tối đa nguồn nội lực, tín dụng Ngân hàng trong đó tín dụng ngắn hạn luôn là giải pháp quan trọng về vốn. Để thực hiện ngày một hiệu qủa chức năng vốn có của mình, các Ngân hàng nhận thấy rằng, bên cạnh mở rộng tín dụng nền kinh tế, cần phải cho chất lượng tín dụng là yếu tố quan trọng, thậm trí là yếu tố quan trọng nhất khi thực hiện cho vay.
Vì thế nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn luôn là nội dụng quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của các Ngân hàng, của chi nhánh Ngân Ngoại thương Hà Nội và cũng là định hướng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Để thực hiện được chiến lược này, đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều điều kiện, từ phía Ngân hàng, khách hàng và môi trường kinh tế.
Chuyên đề đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngắn hạn và chất lượng tín dụng, phân tích thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương hà Nội trong năm qua để từ đó dưới góc độ nhà quản trị Ngân hàng đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Vì điểm nghiên cứu chỉ giới hạn trong một chi nhánh Ngân hàng và với quy mô nghiên cứu của một chuyên đề tốt nghiệp, nên các giải pháp đưa ra mới chỉ mang tính đề xuất.
Em hi vọng rằng phần nghiên cứu trên phần nào có ý nghĩa đối với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng như các NHTM nói chung.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS Phan Thị Hạnh cùng với các anh chị tại phòng tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã hướng dẫn tận tình chỉ bảo em trong quá trình thực tập cũng như thực hiện chuyên đề này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Quản trị Ngân hàng thương mại
2. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính
3. Giao trình Ngân hàng thương mại
4. Trang web của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
5. Thông tin tín dụng tại phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
MỤC LỤC……………………
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH88.docx