Ngân hàng và doanh nghiệp, mối quan hệ này từ lâu đã trở thành mối quan hệ quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của cả hai bên. Doanh nghiệp càng phát triển, làm ăn có hiệu quả cũng kéo theo sự đi lên của các Ngân hàng và ngược lại, sự suy yếu của các doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc hoạt động của Ngân hàng đang có dấu hiệu tiêu cực. Ngân hàng thiết lập mối quan hệ lâu dài với doanh nghiệp không bên cạnh việc giúp doanh nghiệp thuận lợi trong kinh doanh còn mong muốn cho đối tác của mình ngày càng vững mạnh vì chính lợi ích của Ngân hàng.
Cùng với tiến trình đổi mới đất nứơc, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang dành được sự quan tâm rất lớn của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng, đặc biệt trong công tác đáp ứng nguồn vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng vốn lưu động tạm thời từ phía các doanh nghiệp. Đây là hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu lớn cho Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy, vì vậy mà việc tăng cường chất lượng của các khoản tín dụng ngắn hạn này đang ngày càng có được sự quan tâm của cán bộ quản lý nhằm thoả mãn: an toàn, hiệu quả và tính cạnh tranh trong kinh doanh.
Chất luợng của các khoản tín dụng ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và rất nhiều các vấn đề được đặt ra đối với quá trình phát triển của Chi nhánh. Chất lượng tín dụng ngắn hạn đạt đến mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào 1 cá nhân đơn lẻ mà là sự cố gắng, nỗ lực của cả tập thể Chi nhánh và đòi hỏi sự hợp tác thiện chí từ phía các doanh nghiệp thi công xây lắp.
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau khi nghiệm thu công trình. Vẫn là một tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ thu nợ các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại song vẫn đòi hỏi các cán bộ tín dụng và thẩm định tại Chi nhánh cần phải nỗ lực nhiều trong việc thực hiện nghiêm túc và chính xác quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh diễn ra lành mạnh hơn trong các năm tiếp theo.
BẢNG 3: TÌNH HÌNH THU NỢ NGẮN HẠN
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tuyệt đối
%DS
Số tuyệt đối
%DS
Số tuyệt đối
%DS
Doanh số thu nợ
53.984
100
67.987
100
60.201
100
1. DN xây lắp
15.948
14,3%
55.251
81,27%
50.145
83,29%
2. DN công nghiệp
4.124
7,6%
486
0,7%
3.287
5,46%
3. DN thương mại
42.160
78,1%
12.250
18%
6.769
11,25%
(Nguồn: Báo cáo tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 2003-2005)
2.2.2.2 Các chỉ tiêu về nợ quá hạn
- Nợ quá hạn:
BẢNG 5: TÌNH TRẠNG NỢ QUÁ HẠN
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tuyệt đối
%
Số tuyệt đối
%
Số tuyệt đối
%
Nợ quá hạn
4.782
100
2553
100
1063
100
1. DN xây lắp
2.238
46,81%
0
0%
188
17,7%
2. DN công nghiệp
1.003
20,97%
0
0%
875
82,3%
3. DN thương mại
1.541
32,22%
2553
100%
0
0%
(Nguồn: Báo cáo tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 2003-2005)
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của các khoản tín dụng tại Chi nhánh. Qua bảng báo cáo và biểu đồ phân tích cho thấy tình trạng nợ quá hạn tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang chiếm một tỷ trọng khá cao trong mối tuơng quan so sánh với các doanh nghiệp khác. Năm 2005, chỉ tiêu này áp dụng đối với các doanh nghiệp xây dựng chiếm hơn 17% trên nợ quá hạn của toàn khối các doanh nghiệp tại Ngân hàng. Năm 2004, chỉ tiêu này xét về giá trị tuyệt đối hay tương đối đều cho thấy mức an toàn tuyệt đối mà Ngân hàng đạt được trong công tác tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp (với 0% nợ quá hạn), nhưng sang năm 2005 cùng với mức tăng trưởng tín dụng được nâng cao tại Chi nhánh thì tỷ lệ nợ quá hạn cũng tăng lên. . Điều này cần đặt ra những mối quan tâm đặc biệt cho hoạt động tín dụng trong cho vay thi công xây dựng của Chi nhánh cần có những biện pháp đảm bảo tính hiệu quả cao hơn cho các năm tiếp theo. Mặc dù vậy, nếu xét trên con số tương đối thì tỷ lệ này lớn hơn nhiều so với năm 2004, nhưng nhìn vào con số tuyệt đối thì đây không phải là một số lớn, đặc biệt khi dư nợ tín dụng đối với cho vay xây lắp tăng cao như năm vừa qua.
- Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn/Tổng dư nợ và đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản thì tỷ lệ này là 0,6% vào năm 2003 và 0,5% vào năm 2004 và năm 2005 thìs tỷ lệ này là rất thấp so với mức tăng trưởng của các khoản tín dụng. Điều này cũng thấy rằng các doanh nghiệp xây lắp có xu hướng vay trả sòng phẳng và những tích cực cho việc cố gắng đôn đốc thu nợ với doanh nghiệp có nợ tồn đọng. Năm 2004 là năm chuyển mình của toàn Chi nhánh, tỷ lệ nợ quá hạn đạt 0% trong khung thành tích chung cùng các công tác khác của Chi nhánh, và là một chỉ tiêu đáng khích lệ vào thời điểm Chi nhánh được nâng lên cấp I. Sang năm 2005 nợ qúa hạn tăng cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau như cung cầu thị trường trong nước và thế giới biến động, do sự thay đổi chính sách của Nhà nước làm các doanh nghiệp không bắt kịp nhịp độ thi công làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán vốn cho Ngân hàng và việc sự gia tăng của nợ quá hạn là khó có thể tránh khỏi.
2.3 Đánh giá chung về chất lượng tín dụng ngắn hạn và những nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng, giảm chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy
Trong năm vừa qua, với tinh thần phấn khởi sau khi chính thức được nâng cấp trở thành Chi nhánh cấp I, cùng sự hướng dẫn chỉ đạo và giúp đỡ toàn diện của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đã đạt được những bước tiến rất đáng khích lệ. Quá trình huy động vốn với khối lượng lớn và những nguồn tiền tương đối ổn định đã giúp Chi nhánh đáp ứng một cách tốt nhất, kịp thời nhất những khoản tín dụng quan trọng tại Ngân hàng, đó là những khoản cho vay đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đặc biệt là các doanh nghiệp đang có mối quan hệ thường xuyên tại đây.
Việc so sánh các chỉ tiêu cụ thể đã trình bày, chúng ta có thể đã có những cái nhìn tổng quan nhất về diễn biến của các khoản tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh. Các khoản tín dụng có vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng đang ngày càng được quan tâm đúng mức hơn. Nguồn vốn được huy động cũng ngày càng ổn định và đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp xây lắp. Cùng những thắng lợi của toàn ngành, công tác tín dụng ngắn hạn trong thi công xây dựng cơ bản tại Chi nhánh cũng đạt những kết quả rất khả quan. Doanh số cho vay xây dựng cơ bản là một chỉ tiêu phản ánh nguồn thu nhập lớn trong tương lai mà Ngân hàng đạt được trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh so với doanh số cho các doanh nghiệp khác vay trong cùng thời kỳ: Doanh số cho vay của doanh nghiệp xây lắp 2003 đạt 45.789 triệu đồng, năm 2004 đạt 69.123 triệu đồng và năm 2005 là 78.459 triệu đồng. Bên canh đó, tổng dư nợ liên tục tăng cao trong 3 năm trở lại đây: 2003 đạt 201.215 triệu đồng, 2004 đạt 254.554 triệu đồng và đến 2005 là 495.659 triệu đồng. Các giá trị tuơng đối cũng thể hiện mức trung bình cao hơn hẳn của doanh nghiệp xây lắp so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác. Từ đây khẳng định được vai trò đặc biệt quan trọng dễ nhận thấy của tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực thi công xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy.
Trong công tác thu hồi nợ, đặc biệt là thu nợ tín dụng ngắn hạn trong cho vay xây lắp cũng đang được thực hiện theo hướng tích cực. Từ đó giúp Chi nhánh chủ động thêm nguồn vốn góp phần đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng cho thời gian tiếp theo. Song công tác thu nợ xét trong 2 năm 2004 – 2005 và con số về nợ quá hạn cũng có nhịp độ tăng lên bên cạnh tốc độ tăng của con số thống kê về dư nợ (tăng từ 0 triệu đồng lên 188 triệu đồng).
Những kết quả đạt được đã khẳng định việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang tác động mạnh mẽ tới công tác tín dụng nói riêng và tình hình hoạt động kinh doanh nói chung tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy.
Nguyên nhân dẫn đến thành công
* Từ phía Ngân hàng:
Chính sách cho vay của Ngân hàng ngày càng được quan tâm chú ý hoàn thiện và đặc biệt chính sách cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp cũng đã được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hướng dẫn cụ thể qua các công văn 925 và 6766/CV-NHĐT
Các cán bộ tín dụng tại Chi nhánh đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện tốt công tác tín dụng theo quy trình, nghiệp vụ của toàn ngành. Trong năm vừa qua, dưới sự quản lý chỉ đạo của các cán bộ giàu kinh nghiệm kết hợp với sự nhanh nhẹn và nhiệt tình của các cán bộ tín dụng trẻ, các khoản tín dụng trong lĩnh vực xây lắp với tinh thần nâng cao về số lượng, đảm bảo về chất lượng được thực hiện tại Chi nhánh. Chi nhánh ngoài việc thực hiện nghiêm túc các quy định của Ngân hàng Nhà nước, của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương trong việc nâng cao chất lượng tín dụng còn chủ động tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn thuận tiên, nhanh chóng mà vẫn đảm bảo tính chặt chẽ, và các yêu cầu, quy định của công tác tín dụng. Chi nhánh luôn chủ động tiếp cận, thu hút các doanh nghiệp, tổ chức những buổi hội nghị khách hàng, hướng dẫn khách hàng nhiệt tình trong toàn bộ quy trình, nâng cao chất lượng đánh giá và dự báo tình hình doanh nghiệp, tình hình thị trường, từ đó xác định hạn mức tín dụng phù hợp kèm theo việc kiểm soát hiệu quả của từng đồng vốn được giải ngân.
Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp, Chi nhánh đã có những mối quan tâm đúng mực và tạo những cơ hội, đáp ứng ngày càng cao các điều kiện của doanh nghiệp, mở rộng những mối quan hệ cũ và thắt chặt những quan hệ truyền thống trong phong trào thi đua của toàn ngành với chủ trương nâng cao chất lượng tín dụng Điều này thể hiện những bước đi đúng đắn, những chiến lược kinh doanh mang tính hiệu quả cao và ngày càng hoàn thiện hơn với việc mở rộng khách hàng, đa dạng hoá danh mục đầu tư, tăng cường các dịch vụ, thiết lập niềm tin từ phía khách hàng vay vốn và thực hiện nghiêm chỉnh những quy định, các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng đã ký kết.
Những bước đi tích cực này của Chi nhánh nhờ vào những nỗ lực không ngừng, ngay từ việc thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt mà Chi nhánh đã và đang tiến hành đổi mới trong thời gian qua.Từ đó giúp cho việc thắt chặt, tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong các quyết định gia hạn nợ, ký các hợp đồng bổ sung, theo sát những bước đi của doanh nghiệp cũng như các nghiệp vụ tư vấn, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ cho khách hàng…Đồng thời những đổi mới tích cực từ phía Bộ ngành xây dựng nhằm đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của khách hàng, của thị trường cũng là một cơ hội cho công tác tín dụng trong lĩnh vực xây lắp có môi trường kinh doanh hiệu quả hơn.
Tài sản thế chấp, cầm cố đã được Chi nhánh đặc biệt quan tâm đối với từng khoản vay vì tài sản cầm cố, thế chấp là điệu kiện quan trọng nhất trong mỗi quyết định tín dụng của Ngân hàng. Công tác định giá tại Chi nhánh đã có tính chuyên nghiệp cao.
* Từ phía doanh nghiệp
Chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp thi công xây dựng cơ bản đang ngày càng được nâng cao, một mặt đảm bảo tính hiệu quả, tính sinh lời cho chính doanh nghiệp, mặt khác các doanh nghiệp dưới áp lực của nguồn vốn đi vay (phải trả gốc và lãi) đã tạo cho doanh nghiệp ý thức cao trong việc sử dụng vốn. Chính vì vậy mà sự chấp hành và thực hiện những điều khoản trong hợp đồng tín dụng với Chi nhánh Cầu giấy của doanh nghiệp thi công xây lắp có chiều hướng thay đổi tích cực.
Những thông tin tín dụng là điều kiện không thể thiếu khi quyết định mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp xây lắp trong những năm gần đây, được Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy quán triệt, thực hiện kiểm tra, rà soát chặt chẽ đảm bảo tính trung thực của công tác thu thập và xử lý thông tin. Về phía các doanh nghiệp cũng sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết theo yêu cầu của Chi nhánh để khoản vay được thực hiện nhanh và đảm bảo có được nguồn vốn hợp lý, kịp thời cho tiến độ thi công xây dựng.
Khách hàng cũng thực hiện nghiêm chỉnh theo những nguyên tắc, yêu cầu của Ngân hàng về tài sản thế chấp nhằm giúp cho khoản vay được thực hiện nhanh chóng và kịp thời.
Nguyên nhân xuất hiện những hạn chế:
* Từ phía Ngân hàng
Mặc dù Chi nhánh đã đạt được nhiều thành công, có nhiều nỗ lực rất đáng ghi nhận song vẫn không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện.
Chúng ta có thể nhận thấy một số hạn chế mà Ngân hàng vẫn còn gặp phải từ các chỉ tiêu cụ thể đã phân tích và nhận xét một cách tổng quan qua các bảng báo cáo số liệu trên. Tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay thi công xây lắp vẫn còn tồn tại, tuy không cao song cũng cần được quan tâm theo dõi sát sao và có kế hoạch quán triệt cụ thể, rõ ràng. Công tác thu hồi các khoản nợ xấu cũng còn gặp nhiều khó khăn, một số khoản nợ xấu vẫn tồn đọng và trở thành nợ khó đòi. Bên cạnh đó là công tác thu nợ ngắn hạn tại Chi nhánh còn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong năm 2005, trong khi doanh số cho vay tăng lên, doanh số thu nợ lại có phần giảm xuống. Những hạn chế này đôi khi không hẳn là từ phía thẩm định tại Ngân hàng, một phần do lỗi kinh doanh của doanh nghiệp, lỗi không trung thực của khách hàng, một phần từ những chính sách vĩ mô của chính phủ.
Thủ tục cho vay của các Chi nhánh còn nhiều phức tạp, khối lượng văn bản lớn gây mất thời gian cho khách hàng. Các thông tin về khách hàng tuy đã chú ý khai thác song khả năng nắm bắt thông tin của Chi nhánh còn nhiều giới hạn do nhiều nguồn cung cấp thông tin khác nhau có thể là không đầy đủ và thiếu chính xác mà Ngân hàng khó có thể kiểm tra tính xác thực. Các chi nhánh hoạt động kém hiệu quả nhiều khi khai báo sai tình hình thực tế hòng sở hữu được nguồn vốn từ phía Ngân hàng.
Các cán bộ tín dụng tuy được phổ biến thường xuyên về quy trình nghiệp vụ song vẫn còn sai sót nhiều trong quá trình thực hiện, vì vậy mà chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp đôi khi còn bị hạn chế, hiệu quả cho vay chưa cao.
Các tài sản thế chấp của khách hàng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy chủ yếu là bất động sản có mức giá thường biến động nên việc định giá là khó khăn và việc phát mại tài sản, chênh lệch thu chi có thể làm giảm thu nhập của Chi nhánh. Các máy móc thiết bị được thế chấp nhiều khi bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng, bảo quản cũng có thể là nguyên nhân gây thua lỗ trong hoạt động của Ngân hàng.
Các kiến thức tổng hợp về thị trường kinh tế đầy sôi động và phức tạp chi phối đến hoạt động của từng doanh nghiệp trong khi khả năng nắm bắt thực tế của cán bộ tín dụng còn hạn hẹp và chưa sâu cũng gây ra những sai sót trong việc đánh giá tình hình, năng lực khách hàng, từ đó gây ra những tổn thất cho Chi nhánh.
Công tác tuyên truyền quảng cáo, khuếch trương sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh chưa cao, mới chỉ thực hiện thông qua số ít các tờ rơi, qua biển hiệu bên ngoài Chi nhánh, khách hàng biết đến trụ sở của Chi nhánh gần như chỉ thông qua truyền miệng hoặc do Chi nhánh có mặt tiền thuận lợi trên đường Cầu Giấy. Bên cạnh đó việc khách hàng không nắm được tinh thần của thủ tục vay vốn, số lượng chứng từ yêu cầu trong hồ sơ vay vốn, do đó mất thời gian và công sức đi lại nhiều lần.
Bên cạnh đó là việc một số cán bộ Chi nhánh thực hiện công tác tín dụng còn chủ quan, chưa nghiêm túc, có lúc vi phạm vào nguyên tắc và các quy định của luật pháp trong công tác cấp tín dụng.
* Từ phía doanh nghiệp
Số lượng các doanh nghiệp xây lắp đang hình thành ngày càng nhiều trong khi không phải doanh nghiệp nào được lập ra và đi vào hoạt động đều đạt được tính hiệu quả như dự kiến.Thực tế cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp xây lắp còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và thiếu vốn, không đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường và dễ có nguy cơ phá sản.
Mô hình tổ chức của các doanh nghiệp còn chưa hiệu quả, nhiều công trình thi công bị kéo dài, dẫn đến chi phí cao và gây lãng phí vốn hoặc thất thoát vốn của đơn vị, tình hình tài chính trở nên khó khăn với nhiều khoản nợ khó đòi, các khoản lỗ…
Không ước tính được giá trị của công trình và thi công nhiều dự án với giá trúng thầu thấp hơn giá thành gây lỗ cho doanh nghiệp.
Trình độ thi công công trình của doanh nghiệp chưa đáp ứng với những yêu cầu của khách hàng, công nghệ sản xuất lạc hậu, chắp vá, trình độ quản lý chưa chuyên sâu, điều này khiến cho nguồn vốn lưu động không được quay vòng nhanh và hiệu quả, từ đó làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường dẫn đến nguồn tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng không được đầu tư có hiệu quả.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TRONG LĨNH VỰC XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY
3.1 Định hướng cho hoạt động tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy
Khách hàng chủ đạo của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng đã, đang và sẽ vẫn là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Các khoản tín dụng ngắn hạn được đánh giá có những mức độ ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ an toàn và đến kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Chính vì vậy mà Chi nhánh đã có những cách quản lý của riêng mình giúp cho công tác tín dụng tại đây đạt được kết quả lớn nhất. Chi nhánh với phương trâm luôn theo sát từng bước phát triển của doanh nghiệp, của ngành xây lắp, tìm kiếm và phân tích những dự án xây dựng khả thi nhất, thực hiện nghiêm túc công tác quản lý tín dụng theo luật của các tổ chức tín dụng, các quy trình và nghiệp vụ luôn được bảo đảm chặt chẽ và hết sức linh hoạt cùng việc thực hiện đa dạng hoá khách hàng, mở rộng các danh mục tín dụng giúp đảm bảo cho khoản tín dụng được giải ngân đúng lúc, đúng nơi và đúng đối tượng.
Phân loại từng nhóm khách hàng để thực hiện quản lý phù hợp. Có những ghi chép cụ thể về việc theo dõi nợ vay, việc sử dụng vốn đối với từng khách hàng cụ thể để đánh giá toàn diện hơn về khách hàng, về hiệu quả của chính sách, phương thức đang được áp dụng.
Thực hiện nghiêm túc những yêu cầu cho quá trình thẩm định dự án. Phân tích khách hàng, giám sát và theo dõi…, có như vậy mới đảm bảo nguồn vốn luôn nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng, đồng thời có những phản ứng linh hoạt trước các khoản nợ xấu có nguy cơ xảy ra.
Mục tiêu tăng nhanh bảo lãnh (thu phí bảo lãnh đạt 1,7tỷ) vào năm 2006 là một sản phẩm dịch vụ được khích lệ phát triển khi mà nguồn vốn huy động của ngân hàng đang phải cạnh tranh gay gắt với giá thành tương đối cao trên thị trường. Đối với những khoản vay cho xây dựng cơ bản quyết tâm chấn chỉnh và thu hẹp dần các khoản tín dụng với chất lượng thấp.
Quy trình tín dụng phải được thực hiện nghiêm túc và vận dụng linh hoạt trong từng trường hợp cho vay xây lắp cụ thể, đảm bảo chất lượng và nguyên tắc tín dụng. Mục tiêu đặt ra là chỉ cho vay mới để thi công các công trình có nguồn vốn thanh toán rõ ràng và có tính hiệu quả, kiểm soát dòng tiền về chặt chẽ để chủ động thu nợ, giúp cho hoạt động tín dụng thực sự trở thành thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư.
Tăng cường tận thu cả gốc và lãi những khoản nợ xấu, giúp đỡ những doanh nghiệp có kế hoạch trả nợ có triển vọng với việc cơ cấu lại kỳ trả nợ, lãi suất cho vay…và có những mức dự phòng rủi ro phù hợp, tránh lãng phí nguồn vốn huy động. Cân nhắc mức lãi suất giữa huy động và cho vay để tìm ra một mức lãi suất phù hợp nhất giữa Ngân hàng và khách hàng.
Công tác đào tạo cán bộ là công việc thường xuyên cho mỗi bước đi của Ngân hàng. Các cán bộ tín dụng, thẩm định, quản lý phải đảm bảo được về trình độ, tính chuyên nghiệp, tính kỷ luật, tính năng động và sáng tạo trong khi xử lý mọi tình huống, chắc chắn trong việc áp dụng những quy tắc, điều luật về tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và sự chỉ đạo theo công văn của được chỉ đạo cho toàn bộ hệ thống từ phía Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương.
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy
Chất lượng tín dụng đang là mối quan tâm hàng đầu tại các Ngân hàng Việt Nam hiện nay vì tín dụng vẫn đang là nguồn thu chủ yếu tại đây. Quá trình huy động vốn đang được xúc tiến một cách khẩn trương mang tính chất cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng vốn như thế nào một cách hiệu quả nhất đang là mối quan tâm lớn. Khi việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn là mới mẻ đối với người dân thì nguồn vốn huy động vẫn chủ yếu được rót vào việc cho vay và thu lãi. Chính vì vậy mà chất lượng của công tác tín dụng luôn là điểm quan tâm hàng đầu tại các Ngân hàng.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng đang thực hiện những bước đi nhanh chóng mà vững vàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Đồng thời việc nhận thức rõ được đối tượng khách hàng quan trọng của mình là mục tiêu cho những định hướng và những đổi mới hiệu quả nhất:
3.2.1 Đổi mới chính sách tín dụng ngắn hạn phù hợp trong lĩnh vực thi công xây lắp
* Về lãi suất:
Khi lãi suất được thả nổi trên thị trường, vấn đề cạnh tranh về lãi suất đã nổi lên như một cơn sốt trong thời gian vừa qua. Các ngân hàng thi nhau lấy lãi suất như một vũ khí cạnh tranh trong huy động và sử dụng vốn, mở rộng khách hàng. Chính vì vậy mà yêu cầu Ngân hàng phải cân nhắc khi đưa ra một mức lãi suất phù hợp, đảm bảo cạnh tranh và tính sinh lời. Chính sách lãi suất phải thực sự linh hoạt và mềm dẻo, kết hợp với những tiện ích đem lại cho khách hàng. Đây là điều rất quan trọng trong cạnh tranh. Có thể ưu tiên cho những khách hàng lớn, quan hệ thường xuyên với Ngân hàng mình một mức lãi suất ưu đãi hơn so với các khách hàng khác, là điều kiện giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng.
Khách hàng có thể lựa chọn những kỳ hạn đa dạng với những mức lãi suất phong phú giúp khách hàng có những lựa chọn thoả đáng nhất cho mỗi khoản vay của mình. Đó cũng là một hình thức thu hút mối quan tâm đặc biệt của khách hàng từ phía Ngân hàng.
* Về hình thức bảo đảm tiền vay: Tài sản đảm bảo là một điều kiện quan trọng để Ngân hàng xét duyệt việc cho vay đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nói riêng. Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ, hiệu quả của dự án phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai, chỉ những tài sản đảm bảo mới là căn cứ hữu hình, trực tiếp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Chính vì vậy mà công tác tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp cần tập trung vào các tài sản đảm bảo, các hình thức bảo đảm tiền vay. Nghị định 178/1999/NĐ-CP và thông tư số 07/2003/TT-NHNN hướng dẫn cụ thể việc thi hành cụ thể này giúp cho các tổ chức tín dụng có thể chủ động hơn trong các quyết định cho vay có tài sản đảm bảo hoặc không có tài sản đảm bảo. Nhưng để đạt hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động cho vay xây lắp thì cho vay có tài sản đảm bảo là vấn đề quan trọng, cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đây cũng là điều kiện cần thiết khi tổ chức tín dụng chọn loại doanh nghiệp cho vay có bảo đảm ngăn chặn hiện tượng không trung thực của khách hàng và lựa chọn những doanh nghiệp có uy tín.
Thông thường, trong lĩnh vực cho vay đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy vẫn yêu cầu các khách hàng phải có tài sản đảm bảo cho các khoản vay của mình. Tuy nhiên giúp cho công tác cấp tín dụng ngày càng gần gũi hơn với các doanh nghiệp xây lắp thì việc đa dạng hoá các hình thức tín dụng, kết hợp linh hoạt giữa hình thức bảo đảm bằng tài sản với bảo đảm bằng tín chấp, giữa thế chấp tài sản và hoạt động bảo lãnh, và cho vay thấu chi giúp cho hoạt động vay vốn thi công xây dựng tại các doanh nghiệp trở nên thuận lợi.
Việc cho vay tín chấp cũng cần được thực hiện theo những quy trình nghiệp vụ, những thủ tục cần thiết nhất định. Cho vay tín chấp được thực hiện chỉ khi Ngân hàng đã có một quá trình phân tích và đánh giá rất kỹ các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp, những hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá khứ, hiện tại và cả những ước tính khả thi trong tương lai. Khách hàng cần cung cấp những số liệu đáng tin cậy cho chứng minh tình hình tài chính lành mạnh đang được diễn ra tại doanh nghiệp, đối tượng được Ngân hàng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường kèm theo những mối quan hệ lâu dài của khách hàng tại Chi nhánh cũng là một căn cứ để Ngân hàng cân nhắc việc cho vay tín chấp một cách thuận lợi. Bên cạnh đó hình thức thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay cũng đang được Ngân hàng triển khai nhưng phương án này chủ yếu áp dụng cho tín dụng trung và dài hạn vì tín dụng ngắn hạn chủ yếu để bù đắp nhu cầu lưu động tức thời, tài sản hình thành từ nguồn tín dụng ngắn hạn có thể bị thay đổi về kích thước, hình dáng và giá trị trong quá trình sản xuất hình thành sản phẩm, và do đó không thể giữ nguyên giá trị như các tài sản cố định khác dẫn đến khó có thể trở thành căn cứ bảo đảm tại Ngân hàng.
* Về phương thức tín dụng: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng đã có những tích cực đáng kể trong việc áp dụng các phương thức tín dụng đa dạng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Mặc dù việc đưa các phương thức khác nhau vào hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng song việc triển khai thực hiện vẫn còn đơn điệu, vẫn chủ yếu là cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, tức là hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng bị giảm sút trong khi các học thuyết kinh tế luôn khẳng định được tính cấp thiết của việc đa dạng hoá các sản phẩm sẽ tăng thu nhập cho Ngân hàng đồng thời giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó việc hạn chế trong việc áp dụng các loại hình tín dụng làm kém tính cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường, kém hấp dẫn đối với nhiều khách hàng khó tính trong việc lựa chọn Ngân hàng cho việc đầu tư dự án.
Phương thức vay theo món đang được áp dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy được coi là biện pháp an toàn và tạo được sự chủ động nhất cho Ngân hàng, nhưng về phía khách hàng, đây là biện pháp có thủ tục rườm rà bởi số lượng các chứng từ, hoá đơn, khế ước cho mỗi lần thực hiện vay vốn, mất thời gian và công sức của doanh nghiệp. Trong khi đó nhu cầu vốn lưu động từ nguồn tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng cho quá trình thi công xây lắp cần được bổ sung thường xuyên thì việc vay vốn theo phương pháp này làm hạn chế tính hiệu quả của dự án. Chính vì vậy mà việc lựa chọn phương thức tín dụng nào cho doanh nghiệp nào đòi hỏi Ngân hàng phải linh hoạt, đảm bảo phù hợp với đặc điểm chu chuyển vốn của khách hàng.
Tăng cường vận dụng triệt để tính ưu việt của các phương thức tín dụng đang được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khuyến khích áp dụng đối với toàn hệ thống. Đặc biệt đối với doanh nghiệp xây lắp có vòng quay trong năm lớn, ngân hàng cần lựa chọn công trình và lựa chọn phương thức cho vay phù hợp đảm bảo vốn tín dụng luân chuyển đều đặn qua Quỹ tại Ngân hàng, qua đó giúp việc kiểm soát quá trình sử dụng vốn tín dụng được hiệu quả.
3.2.2 Tăng cường đánh giá năng lực các doanh nghiệp xây lắp
Tính hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phản ánh tính hiệu quả kinh doanh trong hoạt động của Ngân hàng vì khách hàng là người chịu trách nhiệm cho việc các khoản vay được hoàn trả đúng hạn đủ gốc và lãi. Vì vậy công tác đánh giá tình hình khách hàng trước khi quyết định cho vay giúp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh.
Việc ra quyết định cho khách hàng thời hạn vay nào, lãi suất bao nhiêu, kỳ tính lãi ra sao đòi hỏi Ngân hàng phải phân tích kỹ tình hình tài chính, uy tín, tính khả thi của dự án trong tương lai.
Ngân hàng phải căn cứ vào hồ sơ khách hàng cung cấp (bao gồm hồ sơ pháp lý, hồ sơ khoản vay, hồ sơ bảo đảm tiền vay). Căn cứ vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp qua việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính tham chiếu trong mối quan hệ với mức trung bình của ngành, mối quan hệ giữa các năm, và dự kiến mức thu nhập đạt được trong kỳ tương lai, nhằm kiểm soát chặt chẽ từng bước thay đổi của doanh nghiệp trong thời gian qua và đặc biệt có những nhận định đúng đắn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong năm thi công dự án.
Ngân hàng thực hiện phân tích đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của khách hàng qua các số liệu trong bảng cân đối tài sản và so sánh sự tăng giảm vế số tuyệt đối, tương đối giữa các năm, qua đó thấy được tình hình hoạt động của khách hàng và tìm ra nguyên nhân cụ thể, tập trung chủ yếu vào: cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn, luân chuyển tài sản (dự trữ tiền mặt; các khoản phải thu, phải thu khó đòi, dự phòng và vòng quay của chúng; tình trạng hàng tồn kho, hàng tồn kho kém phẩm chất, dự phòng giảm giá và vòng quay của các khoản này), tình trạng nguồn vốn, khả năng thanh toán, khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng còn tập hợp số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (doanh thu các loại sản phẩm của các năm, biến động chi phí, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận) đồng thời đánh giá những nguyên nhân làm tăng giảm doanh thu, chi phí, lợi nhuận; khả năng vay trả và dự đoán xu hướng trong tương lai của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp, Ngân hàng cần tập trung đánh giá năng lực thi công của khách hàng. Ngân hàng phải xem xét, đánh giá các điều kiện cần và đủ để một dự án thực hiện mang tính khả thi như các điều kiện đầu vào: nguyên vật liệu, lao động và các điều kiện đầu ra của sản phẩm: thị trường tiêu thụ, thị hiếu, giá cả … Đồng thời chú ý đến các thông số kỹ thuật đảm bảo cho yêu cầu kỹ thuật trong suốt quá trình thi công, quá trình giám sát và ngay cả thời kỳ đầu khi dự án đi vào sử dụng, từ đó đánh giá được khả năng thanh toán cũng như nguồn trả nợ cho Ngân hàng khi kết thúc hợp đồng và đề nghị nguồn vốn thanh toán công trình sau khi dự án kết thúc được thực hiện thông qua tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại Chi nhánh.
3.2.3 Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc thẩm định trong cho vay
Vẫn biết rằng việc mở rộng tín dụng là cần thiết để tăng cường hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng song Chi nhánh đôi khi chỉ quan tâm đến việc mở rộng quy mô mà sao nhãng vần đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, đến uy tín của Ngân hàng đó là chất lượng của tín dụng. Một khoản tín dụng chỉ được coi là đạt chất lượng khi thu hồi được cả gốc và lãi vào thời điểm khoản vay kết thúc. Việc cho vay hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Chi nhánh, trong khi việc thu nợ sẽ thực sự khó khăn vì nó phụ thuộc phần nhiều vào tính trung thưc, vào cam kết và thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay. Chính vì vậy, để hạn chế rủi ro trong cho vay xây lắp, đảm bảo tính chủ động trong toàn bộ quá trình thi công công trình, việc thẩm định trước khi giải ngân có tính chất quyết định.
Khách hàng vay vốn phải có đầy đủ năng lực pháp lý theo quy định của Pháp luật. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng còn căn cứ vào: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính, các báo cáo chi tiết bổ sung khác để đánh giá một cách chính xác nhất nguồn vốn hợp pháp, tình hình hoạt động kinh doanh (lỗ, lãi), các khoản phải trả, năng lực tài chính hiện tại của khách hàng.
Các dự án, phương án sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn tín dụng, Chi nhánh cần nghiên cứu kỹ thị trường nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào, thị trường cho các sản phẩm đầu ra cùng các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thi công xây lắp và nhu cầu vốn thực tế cũng như khả năng cho vay của Ngân hàng.
Bên cạnh đó Chi nhánh cũng cần xem xét, tìm hiểu chu đáo về uy tín, các mối quan hệ của khách hàng trong quan hệ tài chính với các đơn vị khác, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và khả năng thích ứng của doanh nghiệp với thị trường, đặc biệt với thị trường thi công xây dựng đang biến động mạnh như hiện nay.
Tất cả quá trình thẩm định của Chi nhánh thực hiện để đưa ra một quyết định thuyết phục nhất, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của những khoản vốn được huy động vất vả, tốn kém từ thị truờng. Vì quá trình tiếp cận với khách hàng, phương án được diễn ra trực tiếp tại các Chi nhánh nên những khoản vay Chi nhánh trình Trung ương yêu cầu phải có nội dung báo cáo thẩm định chi tiết, đầy đủ những thông tin liên quan, làm cơ sở xem xét tại Ngân hàng Đầu tư Trung ương.
3.2.4 Tăng cường các biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp
Việc đánh giá phương án kinh doanh, thẩm định dự án chỉ nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng tại Ngân hàng trở nên lành mạnh, Ngân hàng thu được vốn, doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa, vốn liên tục được quay vòng nhiều lần trong năm, các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi bị loại bỏ dần khỏi bảng cân đối của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, dịch vụ Ngân hàng phát triển, các doanh nghiệp được Chi nhánh tư vấn trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới, hoặc những ưu đãi trong việc ân hạn, gia hạn nợ, gia tăng khối lượng các khoản cho vay đối với doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất có tính khả thi cao, Chi nhánh đã thực hiện ngăn ngừa các khoản vay dẫn tới nợ quá hạn giúp giảm thiểu những khó khăn trong quá trình thực thi dự án. Doanh nghiệp và Ngân hàng đang trở thành những người bạn đồng hành quan trọng trong việc giải quyết những khó khăn để cùng phục hồi, cùng đi lên.
Việc xử lý nợ quá hạn cũng được quan tâm đúng mức nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho Ngân hàng:
- Đối với các khoản vay có khả năng thu hồi nợ cao, Ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng thực hiện theo những hướng tích cực, có cơ hội thu được lợi nhuận và trả nợ. Hoặc Ngân hàng gia hạn nợ, điều chỉnh hợp đồng tín dụng với cơ cấu trả nợ mới phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thậm chí Ngân hàng có thể mạnh dạn cho vay tiếp vốn giúp khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nhưng quyết định này đòi hỏi Ngân hàng phải xem xét rất thận trọng.
- Đặc biệt hiện nay, Những dự án được đưa vào thi công xây dựng đều phải mua bảo hiểm công trình, đối với các tài sản thế chấp, cầm cố hoặc tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm nhằm tránh thất thoát, hư hỏng và những tình huống xấu xảy ra đối với tài sản đảm bảo - nguồn thu chính cho những khoản nợ quá hạn tại Ngân hàng.
Trường hợp phải thực hiện thanh lý tài sản thế chấp Ngân hàng cùng các chuyên gia bán đấu giá tài sản theo đúng quy định và đúng giá thị trường để khoản nợ đươc thu hồi một cách tối đa. Ngân hàng có thể bán những tài sản của khách hàng (mà trước đó không được dùng để thế chấp, cầm cố) sau khi có sự đồng ý từ phía toà án kinh tế.
Việc thu nợ cũng tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy với những cách thức và thứ tự khác nhau nhằm hạn chế các khoản nợ quá hạn:
- Doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, Chi nhánh sẽ thu nợ theo ngày đến hạn quy định tại hợp đồng tín dụng nếu muốn duy trì mức dư nợ ở mức tối đa. Nếu doanh nghiệp chưa phát sinh gia hạn lần nào thì tiền về của công trình nào thu nợ ngay các khế ước phát vay cho công trình đó.
- Doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn định, đã gia hạn tại Chi nhánh thì Chi nhánh thu nợ các khế ước đã gia hạn đến hạn hoặc chưa đến hạn, tiếp đến sẽ thu nợ các khế ước đến hạn trong vòng một tháng, phần còn lại sẽ thu cho các công trình có tiền về căn cứ vào sổ theo dõi cho vay.
3.2.5 Kiểm tra và giám sát chặt chẽ quá trình vay và sử dụng vốn vay cũng như quá trinh trả nợ vay của các doanh nghiệp xây lắp
Thi công xây lắp cũng như sản xuất kinh doanh các sản phẩm khác đều là một quá trình. Chất lượng của từng bước thực hiện liên quan đến toàn bộ chất lượng của quá trình thi công, vì vậy Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy cần xây dựng chính sách kiểm tra giám sát chặt chẽ toàn bộ quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp, đảm bảo nguồn tín dụng ngắn hạn được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nhất, tránh thất thu vốn và có biện pháp xử lý kịp thời nếu xảy ra sai phạm, phù hợp với thực tế hoạt động của Chi nhánh và sự thay đổi của thị trường.
Có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình luân chuyển vốn và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng kể cả các nhân tố khách quan và chủ quan. Song một cách tổng quát, Chi nhánh cần theo dõi hồ sơ vay vốn và kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp, những thông tin về khách hàng, mức độ chiếm lĩnh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc theo căn cứ vào sổ theo dõi cho vay các công trình, căn cứ vào mỗi đợt tiền thanh toán của các công trình qua tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp là biện pháp quan trọng cho cán bộ tín dụng nắm các thông tin về đối tác liên quan, thời gian phát vay, thời hạn cho vay, khả năng thu hồi vốn … từ đó phát hiện và xử lý những khoản lãng phí vốn của khách hàng.
3.2.6 Tăng cường trao đổi, đúc rút kinh nghiệm đối với từng khoản vay, từng doanh nghiệp
Việc thực hiện trao đổi, đúc rút kinh nghiệm đối với toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là rất thực tiễn khi đội ngũ cán bộ trẻ đang ngày càng đông. Qua đó, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng được nâng lên một bước, kết hợp với sức trẻ trung, nhanh nhẹn và nhiệt tình, những ý kiến đóng góp hiệu quả của nhân viên giúp hệ thống quản lý ngày càng hiệu quả.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy cần thực hiện đúc rút kinh nghiệm ngay từ trong tổ chức nội bộ, nhân rộng kinh nghiệm thông qua nhiều hoạt động khác nhau như: Các cuộc họp báo cáo, trao đổi định kỳ, từ đó tìm hiểu nguyên nhân những hạn chế để khắc phục; ghi nhận những thành tích của cán bộ tín dụng trong quá trình công tác, thưởng đúng công, phạt đúng tội, tránh tình trạng tái diễn về sau.
Bên cạnh đó tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng, giao lưu, gặp gỡ, mở rộng mối quan hệ với các khách hàng lớn, có quan hệ lâu năm, đặc biệt là quan hệ vay - gửi thường xuyên đối với Chi nhánh. Từ đó thu nhận những đóng góp ý kiến từ phía khách hàng, thúc đẩy sự bền vững của Chi nhánh trong quá trình hoạt động.
3.2.7 Nâng cao năng lực và chất lượng cán bộ tín dụng
Nhận thức rõ trình độ của các cán bộ tín dụng tại Chi nhánh, Phòng phải có những kế hoạch đào tạo cụ thể đáp ứng nhu cầu chuyên nghiệp hoá cao của công việc hiện tại.
Cán bộ tín dụng cần được đào tạo sâu về kiến thức chuyên môn, những kiến thức, thông tin liên quan đến thị trường đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư vốn, vốn ngắn hạn, những hiểu biết tỷ mỷ về các thông số kỹ thuật của hoạt động đầu tư xây lắp nhằm đánh giá đúng năng lực tài chính, tính khả thi của các dự án xây dựng, phương án kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện công tác tín dụng đạt hiệu quả cao về quy mô cũng như chất lượng đối với Ngân hàng cũng như doanh nghiệp xây lắp đang là bạn hàng tại Chi nhánh. Các phương pháp đánh giá về tài sản đảm bảo tiền vay (thế chấp, cầm cố) cũng cần được hướng dẫn cụ thể nhằm tăng cường thêm năng lực cho cán bộ tín dụng trong việc xử lý các khoản vay một cách hiệu quả và linh hoạt nhất trong thời kỳ cạnh tranh sôi nổi như hiện nay giữa các Ngân hàng.
Các cán bộ tín dụng tại Chi nhánh cần được liên tục mở những lớp học nhằm tăng cường kiến thức và hiểu biết rộng hơn cho các nghiệp vụ tín dụng tại Chi nhánh. Nhiều lớp học về Bảo hiểm cũng cần được triển khai nhằm giúp cho cán bộ tín dụng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hiểm trong công tác tín dụng, đặc biệt đối với những khoản vay yêu cầu tài sản đảm bảo thì việc khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm một cách tự giác là việc cần thiết, điều đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức chuyên môn về công tác bảo hiểm ngân hàng.
Việc nâng cao chất lượng máy móc thiết bị tại Chi nhánh cũng cần được quan tâm, đặt yêu cầu đối với Trung ương trong việc nâng cấp các máy móc thiết bị như hiện đại hoá công nghệ, đầu tư thêm số lượng máy tính, phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng khác nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các khoản vay diễn ra hiệu quả, nhanh chóng, tránh được sự chờ đợi từ phía khách hàng. Hiện nay hệ thống máy móc thiết bị của Chi nhánh đang ở trong tình trạng bị lạc hậu về kỹ thuật, vì vậy việc nhanh chóng nâng cấp chất lượng cần được đặt sự quan tâm lớn của công tác quản lý.
3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp
3.3.1 Với cơ quan Nhà nước
Về mặt vĩ mô, yêu cầu các cơ quan Nhà nước tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo tính an toàn cho nghiệp vụ tín dụng tại các tổ chức tín dụng.
Để tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại kinh doanh hiệu quả cần tạo lập một cơ chế riêng để áp dụng bên cạnh cơ chế chung áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp vì Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng thực hiện kinh doanh những hàng hoá, sản phẩm đặc thù. Cho phép hoạt động tín dụng được tự do thực hiện theo quy định của từng hệ thống Ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh theo cơ chế thị trường nhằm tăng cường tính tự chủ, tính độc lập của các Ngân hàng và tính hiệu quả của từng khoản vay.
Các bộ luật doanh nghiệp, luật cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh và các hình thức bảo đảm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự cần được ban hành đồng bộ giúp hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thuận lợi trong từng quy trình nghiệp vụ. Các thủ tục về công chứng cũng cần được giải quyết nhanh chóng, thủ tục gọn nhẹ, tạo điều kiện cho công tác tín dụng tại Ngân hàng. Chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể các Ngân hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp và cầm cố đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả.
Tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực xây lắp. Nhanh chóng cổ phần hoá trong đó Nhà nước vẫn giữ một số lượng lớn cổ phần (khoảng 51%) để vẫn trở thành cơ quan quản lý chính của doanh nghiệp.
Quản lý chặt chẽ và chấp hành pháp luật thống kê đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp xây lắp dễ dàng hơn trong việc thi công những dự án được đánh giá có tính khả thi. Đối với các Ngân hàng sẽ được tự do trong việc lựa chọn dự án, được triển khai nhiều phương thức cho vay và bảo lãnh. Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, do có truyền thống về tình hình hoạt động, về nguồn vốn và sự lớn mạnh trong những thời gian tiếp theo, việc các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động tín dụng là một công việc rất nên được khuyến khích. Đối với những dự án do Chính phủ chỉ định phải đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả và có khả năng thu hồi vốn cao để trả nợ Ngân hàng.
3.3.2 Với Ngân hàng Nhà nước
Trong khi vốn tự có là cơ sở cho hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi nhiệm vụ chính là đầu tư và phát triển trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang có tốc độ tăng trưởng cao, việc tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và cho nghiệp vụ tín dụng nói riêng cho toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một yêu cầu được đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có nhu cầu vốn rất lớn trong khi theo luật các tổ chức tín dụng (Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng…- QĐ457/2005-NHNN) sẽ làm hạn chế khả năng cho vay của Ngân hàng, vì vậy việc nâng cao nguồn vốn tự có , từ đó nâng cao khả năng huy động vốn, mở rộng quy mô tín dụng là vấn đề mang tính cấp thiết đối với Ngân hàng Đầu tư.
Đồng thời Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đề ra những điều luật cụ thể cho hoạt động của toàn ngành Ngân hàng. Vì vậy việc rà soát lại các văn bản cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng, tham chiếu với các văn bản của bộ, ban ngành khác có liên quan đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thông suốt là đảm bảo cho công tác tín dụng tại các Ngân hàng được triển khai hiệu quả, doanh nghiệp yên tâm giao dịch tại các Chi nhánh và trụ sở.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện nâng cao tính tự chủ, tự chịu của các Ngân hàng qua các cơ chế chính sách cho vay và bảo lãnh, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần nghiêm túc thực hiện và triển khai tới các Chi nhánh.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện phối hợp các bộ ngành liên quan thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật, các định mức, các chế độ và biểu mẫu trong công tác nghiệm thu và thanh quyết toán các công trình, đây là công việc quan trọng giúp cho quá trình thực hiện phân tích, đánh giá, giải ngân cho các dự án xây lắp tại doanh nghiệp của các Ngân hàng trở nên hiệu quả.
3.3.3 Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần triển khai nhanh và nghiêm túc các thay đổi trong cơ chế, chính sách của Ngân hàng Nhà nước cũng như những yêu cầu được đặt ra đối với toàn hệ thống, đảm bảo cho Chi nhánh thực hiện tốt và kịp thời theo chỉ đạo của cấp trên. Cơ chế tín dụng hoặc những điều kiện trong công tác tín dụng cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể đảm bảo các Chi nhánh thuận lợi hơn trong việc thực hiện.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương cần xây dựng cho mình chính sách tín dụng cụ thể đối với mỗi loại hình khách hàng, và việc áp dụng được thực hiện thống nhất đối với từng Chi nhánh.
Sổ tay tín dụng là phương tiện phổ biến kiến thức cụ thể cho từng cán bộ tín dụng yêu cầu phải chi tiết, cụ thể, hướng dẫn việc đưa ra các sản phẩm tín dụng mới hấp dẫn trên thị trường.
Hoàn thiện những quy định về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ các phòng ban của Chi nhánh đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tín dụng tại đây.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương cần thường xuyên tổ chức những lớp học nâng cao, bồi bổ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên tín dụng tại Chi nhánh giúp cho công tác tín dụng ngày càng phát huy tính hiệu quả theo chiều sâu. Công nghệ Ngân hàng cũng cần được đặc biệt quan tâm, giúp rút ngắn thời gian giao dịch, nâng cao hiệu suất lao động cũng như vị thế của Chi nhánh đối với bạn hàng.
Trực tiếp có những biện pháp kiểm soát, thanh tra trực tiếp tình hình thực hiện và quản lý tín dụng tại Chi nhánh một cách khách quan nhằm có cách quản lý vĩ mô hiệu quả để thực hiện giảm thiểu rủi ro và chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao một cách tốt nhất.
Chính sách lãi suất được đặt ra từ Trụ sở chính phải đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường đối với từng loại khách hàng. Mức lãi đảm bảo linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý trên cơ sở lãi suất đầu vào tại từng thời điểm và đảm bảo ngang bằng với lãi suất của một số Ngân hàng lớn để phát triển và giữ vững khách hàng.
3.3.4 Với các doanh nghiệp xây lắp
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng được triển khai thực hiện ngay từ chính sách khách hàng, chính sách tín dụng với những yêu cầu cụ thể được đặt ra đối với từng cán bộ nhân viên tại Chi nhánh.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực thi công xây lắp cũng đặt ra những yêu cầu trực tiếp từ phía các doanh nghiệp xây lắp. Các công trình thi công xây lắp đang diễn ra rộng khắp trên cả nước. Việc quản lý rất khó khăn vì sản xuất ra thành phẩm là một quá trình diễn ra trong thời gian dài với nhiều công đoạn, hạng mục, và rất nhiều những đối tượng lao động tham gia. Hoạt động của một doanh nghiệp chưa có một cơ quan chức năng nào kiểm tra toàn diện và chính xác toàn bộ quá trình thi công, vì vậy việc kiểm tra, giám sát thực hiện là một nhiệm vụ khó khăn đối với Ngân hàng đặc biệt khi mà riêng cán bộ tín dụng không thể theo dõi thường xuyên và sát sao trong suốt quá trình thi công. Các công trình xây dựng ngày nay đang là mối quan tâm lớn của dư luận của công chúng, của các nhà báo, phóng viên vì ngày càng có những vụ bê bối, gian lận trong thi công ngay từ phía ban quản lý dự án. Chính vì vậy mà các Ngân hàng càng rất thận trọng trong việc thanh tra và giám sát, đảm bảo cho khoản tín dụng được lành mạnh hoá, tránh rủi ro cho ngân hàng cũng như cho xã hội khi các công trình được đưa vào sử dụng. Đồng thời tính trung thực và tự giác, tinh thần trách nhiệm là yêu cầu quan trọng khi Ngân hàng thực hiện đánh giá khách hàng vay vốn.
Bản thân các khách hàng phải tự thuyết minh về khả năng cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, những dự án lựa chọn, những tín hiệu tích cực của thị trường đối với kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phải được đảm bảo tính hiệu quả. Việc đánh giá về đạo đức doanh nghiệp của Ngân hàng thể hiện qua tính trung thực trong các báo cáo tài chính, hoặc trong những mối quan hệ thường xuyên đối với Ngân hàng, giúp Ngân hàng và khách hàng thực sự hiểu nhau trong quan hệ tín dụng, để Ngân hàng và doanh nghiệp thực sự là những đối tác làm ăn có hiệu quả, cùng nhau tồn tại, cùng nhau phát triển. Ngân hàng sẽ xem xét tính chuyên nghiệp và hiệu quả của doanh nghiệp vì vậy yêu cầu doanh nghiệp phải đạt được các yêu cầu về tính ổn định, có đội ngũ cán bộ giỏi, trung thực, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, có uy tín và sản phẩm có triển vọng chiếm lĩnh thị trường.
Do đó việc tự hoàn thiện, tự nâng cao trình độ, đảm bảo các điều kiện, thông tin liên quan đến hoạt động vay vốn là một yêu cầu cần được thực thi tại các doanh nghiệp thi công xây lắp.
KẾT LUẬN
Ngân hàng và doanh nghiệp, mối quan hệ này từ lâu đã trở thành mối quan hệ quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của cả hai bên. Doanh nghiệp càng phát triển, làm ăn có hiệu quả cũng kéo theo sự đi lên của các Ngân hàng và ngược lại, sự suy yếu của các doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc hoạt động của Ngân hàng đang có dấu hiệu tiêu cực. Ngân hàng thiết lập mối quan hệ lâu dài với doanh nghiệp không bên cạnh việc giúp doanh nghiệp thuận lợi trong kinh doanh còn mong muốn cho đối tác của mình ngày càng vững mạnh vì chính lợi ích của Ngân hàng.
Cùng với tiến trình đổi mới đất nứơc, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang dành được sự quan tâm rất lớn của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng, đặc biệt trong công tác đáp ứng nguồn vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng vốn lưu động tạm thời từ phía các doanh nghiệp. Đây là hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu lớn cho Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy, vì vậy mà việc tăng cường chất lượng của các khoản tín dụng ngắn hạn này đang ngày càng có được sự quan tâm của cán bộ quản lý nhằm thoả mãn: an toàn, hiệu quả và tính cạnh tranh trong kinh doanh.
Chất luợng của các khoản tín dụng ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và rất nhiều các vấn đề được đặt ra đối với quá trình phát triển của Chi nhánh. Chất lượng tín dụng ngắn hạn đạt đến mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào 1 cá nhân đơn lẻ mà là sự cố gắng, nỗ lực của cả tập thể Chi nhánh và đòi hỏi sự hợp tác thiện chí từ phía các doanh nghiệp thi công xây lắp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Ngân hàng 2005
Tạp chí Ngân hàng 2006
Thời báo Ngân hàng 2004, 2005, 2006
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ : PGS.TS Nguyễn Hữu Tài
Giáo trình Ngân hàng thương mại : TS. Phan Thị Thu Hà
Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính : F.Mishkin
Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng : PGS.TS Thái Bá Cần
Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2003, 2004, 2005 của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy
Các công văn, văn bản hướng dẫn thực hiện cho vay của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36518.doc