MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại 3
1.1.2. Nội dung hoạt động cho vay theo dự án tại ngân hàng thương mại 4
1.1.2.1. Khái niệm dự án và vai trò cho vay theo dự án tại các ngân hàng thương mại 4
1.1.2.2. Quy trình cho vay theo dự án 8
1.2. Thẩm định tài chính dự án trong cho vay của ngân hàng thương mại 9
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết phải thực hiện thẩm định TCDA 9
1.2.1.1. Khái niệm về thẩm định TCDA 9
1.2.1.2. Sự cần thiết phải thực hiện thẩm định tài chính dự án trong cho vay của NHTM 10
1.2.2. Các nội dung thẩm định tài chính dự án 11
1.2.2.1. Xác định tổng dự toán vốn đầu tư và các phương thức tài trợ dự án 11
1.2.2.2. Xác định dòng tiền của dự án 14
1.2.2.3. Dự tính lãi suất chiết khấu 16
1.2.2.4. Một vài chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án 18
1.2.2.5. Phân tích độ nhạy trong đánh giá rủi ro dự án 24
1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án 25
1.3.1. Quan niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay 25
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay 26
1.3.2.1. Thời gian và chi phí tiến hành thẩm định tài chính dự án 26
1.3.2.2. Kết quả hoạt động cho vay dự án 27
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án 28
1.3.3.1. Đội ngũ cán bộ 28
1.3.3.2. Trang thiết bị, công nghệ 29
1.3.3.3. Thông tin 29
1.3.3.4. Tổ chức công tác thẩm định tài chính dự án 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU 30
2.1. Tổng quan về Sở giao dịch Hà Nôi – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 30
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triền của SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 30
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 31
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh tại SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 34
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng 35
2.1.3.2. Tình hình sử dụng vốn tại ngân hàng 37
2.1.3.3. Tình hình tổng kết tài sản và thu nhập tại SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 40
2.2. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 42
2.2.1. Các nguyên tắc khi tiến hành thẩm định và thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 42
2.2.2. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Sở giao dịch Hà Nội 44
2.2.3. Tình hình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Sở giao dịch Hà Nội 44
2.2.3.1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần nhựa Đông Á 45
2.2.3.2. Giới thiệu về dự án 45
2.3. Đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch Hà Nội -ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 58
2.3.1. Những kết quả đạt được 58
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 62
2.3.2.1. Hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thưong mại cổ phần Á Châu 62
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SGD HÀ NỘI – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU 70
3.1. Định hướng phát triển của SGD Hà Nội – Ngân hang TMCP Á Châu trong thời gian tới 70
3.1.1. Định hướng phát triển của ngân hàng TMCP Á Châu 70
3.1.2. Những mục tiêu đề ra trong công tác cho vay và thẩm định tài chính dự án 71
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 72
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thẩm định tài chính dự án 72
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện quy trình, phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án 73
3.2.2.1. Đối với quy trình cho vay dự án 73
3.2.2.2. Đối với phương pháp thẩm định 74
3.2.2.3. Đối với nội dung thẩm định tài chính dự án 75
3.2.3. Giải pháp về công tác cán bộ và tổ chức thẩm định 81
3.2.3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định 81
3.2.3.2. Tăng cường chuyên môn hóa công tác thẩm định tài chính dự án 82
3.2.3.3. Các giải pháp về trang thiết bị phục vụ thẩm định 82
3.2.4. Các giải pháp về thông tin trong hoạt động thẩm định 82
3.2.5. Sử dụng hiệu quả hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ, tăng cường đôn đốc việc thực hiện dự án 84
3.3. Các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án 85
3.3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp cao 85
3.3.1.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ, ngành 85
3.3.1.2. Đối với ngân hàng Nhà nước 85
3.3.2. Kiến nghị đối với chủ đầu tư 86
3.3.3. Kiến nghị với SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu 87
KẾT LUẬN 88
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao công tác thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Sở giao dịch Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá là khá logic và bài bản; tuân thủ chặt chẽ quy trình chung áp dụng cho tất cả các đơn vị trong hệ thống của ngân hàng Á Châu. Việc thẩm định được tiến hành chặt chẽ qua các khâu, từ khâu thu thập thông tin về doanh nghiệp và dự án, tiếp xúc tìm hiểu trực tiếp về khách hàng cho đến việc thẩm định dự án bằng việc xác định dòng tiền, các chỉ tiêu tài chính, thẩm định khả năng trả nợ, phân tích độ nhạy và ra quyết định cho vay. Nhìn chung, quy trình thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội đã được thực hiện dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban và các bộ phận chức năng, thực hiện đầy đủ các bước, đảm bảo xem xét dự án trên nhiều mặt.
Phương pháp thẩm định ngân hàng sử dụng có xu hướng ngày càng khoa học và hiện đại hơn. Các phương pháp đối chiếu, so sánh, thẩm định theo trình tự và phương pháp dự báo được cán bộ ngân hàng áp dụng thường xuyên và linh hoạt tuỳ theo tính chất dự án và khối lượng thông tin thu thập được.
Trong nội dung thẩm định tài chính dự án, ngân hàng đã đề cập đến một cách đầy đủ các chỉ tiêu thưòng được sử dụng trong quá trình phân tích tài chính dự án như: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, thời gian hoàn vốn có chiết khấu, phân tích độ nhạy…Các chỉ tiêu đã được sử dụng đồng thời, kết hợp trong việc giúp cán bộ thẩm định đưa ra quyết định tài trợ dự án. Trong dự toán doanh thu của dự án, để dự đoán chính xác doanh thu của dự án, cán bộ ngân hàng đã chú trọng đến việc phân tích quan hệ cung cầu về sản phẩm trên thị trường, đối tượng khách hàng, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng đã được tiến hành nhanh chóng hơn so với trước. Thời gian tiến hành thẩm định đã được rút ngắn hơn, từ khoảng 2 tuần đối với mỗi hồ sơ dự án vay xuống 7 đến 10 ngày, giúp việc ra quyết định nhanh chóng hơn cũng như tạo sự thuận lợi cho khách hàng.
Ý thức rõ vai trò của thông tin trong thẩm định, các thông tin phục vụ cho thẩm định dự án đã được cán bộ thẩm định thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: tìm hiểu từ trung tâm CIC; phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, khảo sát thực tế; bước đầu chú trọng tìm hiểu các thông tin phân tích thị trường, các văn bản pháp luật, thông tin từ các cơ quan chuyên môn.
Việc phân cấp quyền hạn phê duyệt và trách nhiệm trong thẩm định tài chính dự án được thực hiện một cách rõ ràng. Đối với mỗi dự án, sau khi đã đánh giá và đưa ra kết luận, nhân viên tín dụng phải trình tổ trưởng tổ tín dụng xem xét, phê duyệt. Nếu hồ sơ được phê duyệt sẽ tiếp tục được trình trưởng phòng khách hàng tín dụng. Việc phê duyệt, trình ký dự án cũng được phân chia theo đặc điểm hồ sơ vay vốn. Với các hồ sơ cho vay dự án nhỏ có quy mô từ 5 tỷ trở xuống, các đặc điểm về hồ sơ tín dụng cũng như khách hàng không có chi tiết đặc biệt sau khi trình trưởng phòng tín dụng, hồ sơ dự án chỉ cần trình ban giám đốc Sở. Với những dự án có quy mô từ 5 đến 20 tỷ, hoặc trong việc xem xét hồ sơ dự án xuất hiện hơn một tiêu chí đặc biệt, hồ sơ cần được đưa tới ban tín dụng khu vực phía Bắc. Trường hợp đặc biệt hơn, hồ sơ sẽ được trình hội đồng tín dụng.
Hoạt động của cán bộ thẩm định dần được chuyên môn hoá. Các cán bộ tín dụng tại SGD được phân chia làm nhiều tổ khác nhau, trong đó, mỗi tổ phụ trách một khối khách hàng: doanh nghiệp nhỏ và vửa; doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân… Việc phân chia các cán bộ thành những tổ chuyên trách sẽ giúp cán bộ tín dụng nắm vững hơn về loại hình doanh nghiệp mình quản lý.
Đa số đội ngũ cán bộ thẩm định và nhân viên tại SGD Hà Nội đều có trình độ từ đại học trở lên. Họ đều là những người trẻ, giỏi về chuyên môn, năng động nhiệt tình trong công tác và say mê với công việc. Việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ mới được chú trọng, công tác đào tạo cán bộ tại ngân hàng được diễn ra khá thường xuyên giúp cán bộ nhân viên nâng cao nghiệp vụ.
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
2.3.2.1. Hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thưong mại cổ phần Á Châu
Nhìn chung là một đơn vị mới được hình thành nên trong thời gian qua, hoạt động cho vay tài trợ dự án tại SGD nhìn chung vẫn chưa thực sự phát triển. Số lượng các khoản cho vay theo dự án được thực hiện còn khá ít, dư nợ cho vay theo dự án chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ cho vay tại ngân hàng (chiếm khoảng 3,26% tổng dư nợ cho vay tính tại thời điểm 31/12/2008). Hoạt động cho vay theo dự án chưa phát triển là do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên một trong những nguyên nhân đó là cần xem xét lại những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án.
- Về quy trình thẩm định tài chính dự án
Quy trình thẩm định được thực hiện một cách bài bản và chặt chẽ vừa là ưu điểm song cũng là hạn chế đối với hoạt động thẩm định tài chính dự án. Có thể nhận thấy do quy trình là khá chặt chẽ nên nhân viên thẩm định khó có thể linh hoạt trong quá trình áp dụng. Số lượng các văn bản, giấy tờ ngân hàng yêu cầu và đặt ra đối với khách hàng là tương đối nhiều; khá nhiều các quy định, tiêu chuẩn đối với khách hàng vay đã thành rào cản khiến các khách hàng nói chung và những khách hàng có nhu cầu cho vay tài trợ dự án nói riêng khó có thể tiếp cận tín dụng.
- Về nội dung thẩm định tài chính dự án
Nhìn chung, các nội dung được đề cập đến trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại SGD ngân hàng Á Châu là tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, trong nội dung dự toán vốn đầu tư, hầu hết các thông tin về giá cả các máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất kinh doanh nhân viên thẩm định đều chấp nhận những dự toán mà chủ đầu tư đưa ra mà ít có sự phân tích đánh giá lại. Do đó trên thực tế xảy ra một số trường hợp dự án khi đi vào hoạt động gặp khó khăn do không đủ vốn, tiến độ bỏ vốn không phù hợp.
Thứ hai, để tính toán dòng tiền của dự án, các nhân viên thẩm định cần dự báo, tính toán doanh thu, chi phí của dự án. Thông thường với những dự án mở rộng sản xuất kinh doanh như dự án xây dựng nhà máy lắp ráp cửa nhựa của Đông Á, việc dự tính doanh thu chi phí sẽ căn cứ vào công suất của dự án và hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ sản phẩm lại thưòng xuyên biến động, việc dự báo dựa trên căn cứ số liệu hoạt động trong quá khứ sẽ là chưa chính xác nếu không dự tính những biến động trong tưong lai. Đối với những dự án đầu tư mới, việc dự báo doanh thu, chi phí hoạt động là việc tương đối khó đối với cán bộ thẩm định và chủ yếu dựa trên những thông tin chung trên thị trường và mang tính chủ quan.
Thứ ba, lãi suất chiết khấu là một nhân tố rất quan trọng trong xác định tính hiệu quả của dự án. Hiện tại, việc xác định lãi suất chiết khấu tại ngân hàng vẫn còn thiếu cơ sở khoa học. Lãi suất chiết khấu chủ yếu được nhân viên thẩm định xác định dựa trên căn cứ về lợi tức yêu cầu của các khách hàng. Cụ thể, nhân viên thẩm định lấy lãi suất tiết kiệm của ngân hàng để làm căn cứ, và xác định tỷ suất chiết khấu bằng lãi suất tiết kiệm cộng với 2 – 3% chênh lệch. Việc xác định lãi suất chiết khấu như vậy nhìn chung còn mang tính chủ quan, thiếu độ chính xác.
Thứ tư, các chỉ tiêu được sử dụng trong thẩm định tài chính dự án nhìn chung là đầy đủ, có sử dụng hầu hết các chỉ tiêu phổ biến như: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, phân tích độ nhạy,… Tuy nhiên, bên cạnh đó một số chỉ tiêu vẫn chưa được đề cập tới như: phân tích điểm hoà vốn, chỉ số doanh lợi, lợi nhuận kế toán bình quân…
- Về trình độ cũng như mức độ chuyên môn hoá của cán bộ thẩm định
Trong khi tiến hành thẩm định tài chính dự án, đội ngũ cán bộ tại ngân hàng đôi lúc còn tỏ ra thiếu kinh nghiệm, còn gặp phải nhiều sai sót trong quá trình phân tích thẩm định dự án. Những kiến thức và hiểu biết về các ngành nghề kinh doanh của đối tượng khách hàng thực hiện dự án nhìn chung còn khá hạn chế nên nhân viên thẩm định gặp khó khăn trong việc phân tích thị trường, dự báo các doanh thu, chi phí, dòng tiền của dự án.
Mặc dù ngân hàng đã từng bước tiến hành chuyên môn hoá hoạt động của các nhân viên tín dụng, phân chia các cán bộ tín dụng theo từng tổ chuyên trách song mức độ chuyên môn hoá vẫn chưa cao. Điều này thể hiện ở chỗ, tại ngân hàng, chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện công việc thẩm định dự án; chưa có sự phân chia rõ ràng giữa công việc của cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định. Một cán bộ tín dụng tại ngân hàng đồng thời phải đảm trách nhiều nhiệm vụ: tiếp thị và tìm kiếm khách hàng, thẩm định, hưóng dẫn vay và theo dõi nợ và thực hiện tất cả các phát sinh liên quan đến khoản vay. Việc nhân viên tín dụng đồng thời phải thực hiện nhiều công việc khác nhau bên cạnh thẩm định hồ sơ dự án sẽ tạo ra những khó khăn nhất định cho nhân viên tín dụng.
- Về vấn đề thông tin trong hoạt động thẩm định tài chính dự án
Trong quá trình thẩm định tài chính dự án, hầu hết các nhân viên thẩm định đã cố gắng để thu thập thông tin một cách đầy đủ tuy nhiên chất lượng thông tin vẫn còn chưa cao.
Những thông tin được cung cấp từ khách hàng là một trong những nguồn thông tin chính được sử dụng trong việc thẩm định tài chính khach hàng nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. Các thông tin này bao gồm: các hồ sơ pháp lý, các báo cáo tài chính, sổ công nợ, tờ khai thuế, các hoá đơn giấy tờ liên quan đến việc nhập các máy móc trang thiết bị… Nhìn chung, chất lượng của nguồn thông tin này nhiều khi vẫn chưa cao, ngân hàng vẫn chưa thể xác định được độ tin cậy của thông tin.
Trong quá trình thu thập thông tin, nhân viên tín dụng còn tìm hiểu những thông tin qua hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước (CIC). Tuy nhiên, do cổng thông tin này mới được xây dựng nên thông tin chưa mang tính đầy đủ, chưa cập nhật, có thể gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá về doanh nghiệp và dự án một cách khách quan nhất.
Ngoài ra, các thông tin được thu thập từ các nguồn khác như qua bạn hàng của doanh nghiệp vay vốn, thông tin trên báo đài, các thông tin thị trường… còn chưa nhiều.
- Mặc dù hoạt động thẩm định tại ngân hàng được coi trọng song kết quả thẩm định chủ yếu vẫn phụ thuộc nhiều vào tài sản đảm bảo của chủ dự án. Việc quá coi trọng tài sản đảm bảo trong cho vay đã làm mất đi ý nghĩa của hoạt động thẩm định tài chính dự án.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
- Được hình thành từ năm 1993, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu hiện là một trong những ngân hàng có vị trí hàng đầu trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Do ra đời từ lâu, nên hệ thống quy trình hoạt động tại ngân hàng đã được xây dựng trong một thời gian dài, khá chặt chẽ với nhiều những tiêu chuẩn, yêu cầu được đặt ra. SGD Hà Nội mới được hình thành trong một thời gian chưa lâu, hầu hết các nhân viên còn khá trẻ, thiếu kinh nghiệm trong nghiệp vụ, do đó việc bắt buộc phải tuân thủ quy trình là điều không tránh khỏi. Chính vì lý do này, nhiều khi sự chặt chẽ của quy trình thẩm định đã khiến cán bộ tín dụng khó có thể linh hoạt trong việc ra quyết định, gây chậm trễ về thời gian, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh.
- Phương pháp dự báo tại ngân hàng còn hạn chế do những nguyên nhân về việc thiếu thốn một cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. . Hiện nay, hầu hết các nhân viên thẩm định đều mới chỉ được trang bị một máy tính riêng có cài đặt các phần mềm văn phòng (phần mềm Open Office); mỗi một phòng có một máy tính nối mạng dùng để tra cứu tìm tin; việc tính toán dựa các chỉ tiêu thẩm định chủ yếu được dùng bởi các công cụ tính toán trong Excel. Nhìn chung, tại ngân hàng vẫn chưa có nhiều những phần mềm chuyên dụng; công tác ước lượng, dự báo chủ yếu vẫn được nhân viên tín dụng thực hiện thủ công, dựa theo ý kiến chủ quan.
Ngoài ra, do hiểu biết của cán bộ thẩm định là có giới hạn nên không thể am hiểu sâu sắc về mọi ngành và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn, điều này dẫn đến việc đưa ra dự báo là chưa chính xác.
- Nội dung thẩm định gặp hạn chế do khá nhiều nguyên nhân khác nhau:
Việc dự toán vốn đầu tư, xác định chi phí hoạt động của doanh nghiệp nhiều khi vẫn còn dựa trên những cung cấp của chủ dự án và mang tính chủ quan từ phía cán bộ thẩm định một mặt là do những hiểu biết của cán bộ thẩm định trong những lĩnh vực hoạt động mà dự án tiến hành là chưa đầy đủ. Đây là một điều dễ hiểu được do không phải cán bộ thẩm định nào cũng có đủ khả năng hiểu biết chuyên sâu về mọi lĩnh vực. Mặt khác, có thể thấy là do chính bản thân cán bộ thẩm định thiếu tích cực trong việc tìm hiểu thị trường, thu thập những thông tin phục vụ cho dự toán vốn đầu tư cũng như xác định chi phí của dự án. Ngoài ra, một nguyên nhân có thể nhận thấy là do thiếu các căn cứ định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, thiếu các văn bản, nội dung hướng dẫn cụ thể, cũng như việc hạn chế trong việc áp dụng những văn bản đó vào thực tế.
Trong việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án, trên lý thuyết có thể áp dụng rất nhiều các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế để có thể tính toán lãi suất chiết khấu của dự án một cách có khoa học (dựa trên cơ sở chi phí của từng loại nguồn vốn hình thành) là không dễ dàng. Điều này xuất phát từ chính khả năng chuyên môn của đội ngũ cán bộ thẩm định nói riêng và những hạn chế trong điều kiện của thị trường Việt Nam nói chung. Cụ thể, cán bộ thẩm định tại ngân hàng nhiều khi còn hiểu biết chưa sâu sắc về bản chất của lãi suất chiết khấu của dự án và các phương pháp tính lãi suất chiết khấu mà chỉ dự đoán theo kiểu bốc thuốc. Việc tính lãi suất chiết khấu dựa trên chi phí vốn chủ sở hữu (khi tài trợ hoàn toàn bằng vốn CSH), chi phí nợ vay (khi tài trợ hoàn toàn bằng nợ), hay chi phí vốn bình quân gia quyền (khi tài trợ hỗn hợp) đòi hỏi phải thu thập được thông tin một cách đầy đủ. Đây là một điều không dễ đối với thị trường Việt Nam.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ tại ngân hàng còn tồn tại hạn chế là do:
Là một đơn vị mới ra đời, song SGD Hà Nội là nơi tiếp nhận, đào tạo, luân chuyển các cán bộ mới. Đội ngũ cán bộ tại Sở hầu hết đều là những cán bộ trẻ, mới tiếp cận với công việc hoặc chỉ có kinh nghiệm từ một vài năm, Chính vì lý do này, việc nhân viên ngân hàng đôi khi tỏ ra thiếu kinh ngiệm và gặp sai sót là chuyện có thể dễ hiểu.
Đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được chuyên môn hoá là một trong những hạn chế phổ biến mà hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần gặp phải, mà không phải riêng ngân hàng Á Châu. Do quy mô hoạt động chưa phải lớn, cán bộ tín dụng thường phải đảm nhiệm một lúc nhiều công việc, cán bộ tín dụng đồng thời là cán bộ thẩm định. Đây là một hạn chế có nguyên nhân xuất phát từ chính cơ cấu tổ chức của ngân hàng.
- Công tác thu thập thông tin và lưu trữ dữ liệu tại ngân hàng gặp khó khăn là do những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng và nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân chủ quan là do cán bộ thẩm định thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động của dự án nên gặp khó khăn trong vấn đề thu thập thông tin từ thị trường. Mặt khác, đôi lúc cán bộ thẩm định còn tỏ ra thiếu chủ động trong việc thu thập thông tin, tiếp xúc với khách hàng, khảo sát thực tế. Ngân hàng chưa xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin hoàn chỉnh, cũng như chưa tận dụng được các thành tựu khoa học kỹ thuật trong việc xử lý và sử dụng những dữ liệu ấy.
Nguyên nhân khách quan của hạn chế này đến từ phía khách hàng. Các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng thông thường không chỉ là những thông tin để giúp cán bộ đánh giá tình hình doanh nghiệp mà còn là thông tin để cán bộ thẩm định căn cứ vào đó dự báo doanh thu, chi phí, dòng tiền của dự án. Tuy nhiên, hiện nay, chế độ kiểm toán bắt buộc vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp tuân thủ, điều đó đã dẫn đến việc ngân hàng khó có thể kiểm soát được chất lượng của thông tin do khách hàng cung cấp. Mặt khác, nhiều thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng gồm nhiều loại khác nhau, nhiều khi thiếu tính chuẩn hoá, nên ngân hàng gặp khó khăn trong quản lý hồ sơ. Trong nhiều trường hợp chính khách hàng đã thiếu thiện chí hợp tác với ngân hàng trong việc cung cấp thông tin của doanh nghiệp cũng như của dự án, cố tình cung cấp thông tin sai lệch gây ảnh hưởng đến kết quả thẩm định.
Ngoài ra, hệ thống thông tin của các cơ quan, Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay là chưa được tốt, ngân hàng gặp khó khăn khi tra cứu các thông tin cần cho dự án.
- Việc ngân hàng quá coi trọng xem xét yêu cầu về tài sản đảm bảo bắt nguồn từ việc bản thân ngân hàng và cán bộ ngân hàng chưa có cái nhìn đúng đắn về vai trò của hoạt động thẩm định tài chính dự án. Việc tiến hành thẩm định dự án trước khi cho vay là hoạt động nhằm cung cấp cho ngân hàng cái nhìn về tính hiệu quả của khoản tín dụng mình cung cấp. Trong khi đó, tài sản đảm bảo là nguồn trả nợ thứ cấp được sử dụng khi dự án thực hiện không đem lại hiệu quả. Khi công tác thẩm định được thực hiện tốt, đảm bảo dự án là có hiệu quả thì rõ ràng yêu cầu về tài sản đảm bảo không cần quá khắt khe.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SGD HÀ NỘI – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU
3.1. Định hướng phát triển của SGD Hà Nội – Ngân hang TMCP Á Châu trong thời gian tới
3.1.1. Định hướng phát triển của ngân hàng TMCP Á Châu
Môi trường hoạt động năm 2009 sẽ tiếp tục diễn biến theo chièu hướng hết sức phức tạp do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu; mặt khác, sẽ có nhiều ngân hàng mới trong đó có các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường và cạnh tranh thị phần. Do đó, có thể nhận định, 2009 là một năm có rất nhiều thách thức với ngân hàng TMCP Á Châu.
Tuy vậy ACB vẫn tiếp tục thực hiện các chiến lược kinh doanh theo các mục tiêu:
Tăng trưởng nhanh và bền vững.
Kiểm soát rủi ro tốt và đảm bảo an toàn.
Duy trì cấu trúc tài chính lành mạnh và lợi nhuận cao.
Chuẩn bị nhân lực kế thừa.
Hoàn thiện văn hoá công ty.
ACB dự kiến, năm 2010, tổng tài sản và dư nợ cho vay tăng lên gấp 3,6 lần, vốn chủ sở hữu tăng gấp 2.5 lần và lợi nhuận trước thuế tăng gấp 3 lần so với 2007.
Ngoài ra, ngân hàng còn dự định thực hiện các chương trình và dự án trong điểm như: triển khai mô hình bán hàng trực tiếp toàn hệ thống, chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng tách bạch vai trò kinh doanh và vận hành, tăng cường hệ thống kiểm tra, kiểm soát; giới thiệu thêm các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiết kiệm vay vốn và đầu tư của khách hàng; mở rộng mạng lưới hoạt động.
Trong những năm tới, ngân hàng TMCP Á Châu tiếp tục xác định định hướng giữ vị thế hàng đầu trong khối ngân hàng thương mại cổ phần đồng thời rút ngắn khoảng cách với các NHTM lớn như Vietcombank, BIDV, Viettinbank hay Agribank.
Tiến hành các công tác quản trị và điều hành theo chuẩn mực quốc tế.
3.1.2. Những mục tiêu đề ra trong công tác cho vay và thẩm định tài chính dự án
Mặc dù tín dụng tài trợ dự án đầu tư hiện tại không phải hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều thu nhập tại SGD Hà Nội – Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, tuy nhiên, ngân hàng luôn ý thức đây là một nghiệp vụ tín dụng quan trọng, do đó, cần thực hiện nghiêm ngặt quy trình thẩm định tài chính dự án. Trong thời gian tới, ngân hàng đã xác định những định hướng trong hoạt động cho vay và hoạt động thẩm định tài chính dự án như sau:
Đối với hoạt động cho vay dự án
Mở rộng hoạt động cho vay dự án, tăng dư nợ cho vay dự án lên mức 8-10 % tổng dư nợ cho vay tại ngân hàng.
Tìm kiếm và mở rộng đối tượng khách hàng có quan hệ tín dụng tại ngân hàng, đặc biệt các khách hàng có nhu cầu tín dụng đầu tư dự án.
Tiếp cận, mở rộng tín dụng sang các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hiện còn ít quan hệ tín dụng tại ngân hàng như: doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Dành một lượng vốn lớn cho các đối tượng này.
Duy trì và phát huy các hoạt động huy động vốn có hiệu quả nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo một nguồn vốn dồi dào, tăng cường uy tín của ngân hàng; từ đó, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cho vay nói riêng và cho vay tài trợ dự án nói chung.
Mở rộng tín dụng tài trợ dự án đi kèm với nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và không làm phát sinh nợ quá hạn hoặc phát sinh ở mức thấp.
Định hướng hoạt động thẩm định tài chính dự án
Nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động thẩm định tài chính dự án.
Hoàn thiện quy trình, phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án.
Hoạt động thẩm định tài chính trong ngân hàng phải đứng trên góc độ người cho vay để thực hiện, xem xét tính khả thi của dự án, cũng như khả năng hoàn trả nợ vay.
Công tác thẩm định tài chính dự án cần được tiến hành thường xuyên liên tục với tất cả các dự án ở cả 3 giai đoạn, trước, trong và sau cho vay.
Khi tiến hành thẩm định tài chính dự án cần tuỳ theo tình hình kinh tế xã hội của đất nước từng thời kỳ, đồng thời tuân thủ theo những chủ trương, chính sách chung của các Bộ, ngành các cấp.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là một hoạt động có vai trò quan trọng trong tài trợ dự án của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, vai trò và tầm quan trọng của công tác này chưa phải đã được nhận thức một cách rõ ràng.
Cần nhận thấy, hoạt động thẩm định tài chính dự án là khâu đầu tiên nhằm khẳng định tính hiệu quả của dự án, đảm bảo việc cho vay tài trợ dự án của ngân hàng mang lại lợi nhuận và thu hồi được vốn. Như vậy, thẩm định tài chính dự án trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, do đó cần được tiến hành nghiêm túc, cẩn trọng. Cần tránh tư tưởng coi thẩm định chỉ là một thủ tục trong cho vay dự án, nên thực hiện qua loa chiếu lệ, thiếu trung thực trong tiến hành thẩm định.
Cần nhìn nhận, hoạt động thẩm định tài chính dự án không phải hoạt động của riêng các cán bộ tín dụng (cán bộ thẩm định). Hoạt động này có ảnh hưởng tới kết quả cho vay dự án, tới lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng, do đó có liên quan tới tất cả các nhân viên. Các nhân viên trong ngân hàng cần có sự phối hợp, trợ giúp cán bộ thẩm định trong khâu tìm kiếm thu thập thông tin cũng như đóng góp ý kiến trong quá trình ra quyết định nếu có thể.
Là một ngân hàng thương mại, hoạt động vì lợi nhuận, hoạt động thẩm định tài chính dự án tại ACB nói chung và SGD Hà Nội nói riêng cần hướng tới phục vụ mục tiêu tạo lợi ích kinh tế cho ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số dự án vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bên cạnh mục đích lợi nhuận, cần đánh giá dự án trên cả khía cạnh lợi ích xã hội.
Đứng trên góc độ người cho vay vốn, hoạt động thẩm định cần đảm bảo tài trợ đúng và đủ, tránh lãng phí. Tuy nhiên, cũng cần tránh trường hợp bỏ vốn thiếu, tiến độ bỏ vốn không phù hợp gây khó khăn trong việc triển khai dự án.
Ngoài ra, hoạt động thẩm định cũng cần được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, và linh hoạt thay vì dập khuôn, máy móc và thực hiện cho có theo đúng quy trình.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện quy trình, phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án
3.2.2.1. Đối với quy trình cho vay dự án
Mặc dù quy trình thẩm định dự án tại ngân hàng Á Châu được coi là một quy trình khá chặt chẽ và nghiêm ngặt, tuy nhiên, không tránh khỏi vẫn có những điểm chưa hoàn thiện. Trong quá trình thực hiện, nếu phát hiện những vướng mắc và những điểm hạn chế trong quy trình, cán bộ tín dụng cần đưa ra những đề xuất trực tiếp với cấp trên để dần hoàn thiện.
Mặt khác, việc tuân thủ quy trình không có nghĩa là tuân thủ một cách thiếu tính linh hoạt. Nhìn chung quy trình cho vay tại ACB nói chung và quy trình thẩm định nói riêng đặt ra khá nhiều tiêu chuẩn đối với khách hàng vay vốn cũng như đòi hỏi nhiều giấy tờ, thủ tục phức tạp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đối với những yêu cầu quá rắc rối cán bộ tín dụng cần linh hoạt trong xử lý tình huống.
3.2.2.2. Đối với phương pháp thẩm định
Ngân hàng cần sự tham khảo và học hỏi thêm để bổ sung và hoàn thiện phương pháp thẩm định hiện tại của doanh nghiệp. Tăng cường áp dụng các phương pháp tiên tiến, hiện đại, đồng thời cũng chú ý tính phù hợp của việc áp dụng các phương pháp này vào thực tế. Tránh việc áp dụng không phù hợp.
Trong tiến hành thẩm định, cán bộ thẩm định cần tuân thủ các nguyên tắc trong việc tiến hành thẩm định tài chính dự án như: nguyên tắc giá trị thời gian của tiền, các nguyên tắc trong xác định dòng tiền của dự án, sự phù hợp giữa dòng tiền và lãi suất chiết khấu. Cụ thể, cán bộ thẩm định cần luôn chú ý tiền có giá trị theo thời gian, một đồng ngày hôm nay có giá trị hơn một đồng ngày mai. Do đó, khi tính toán các chỉ tiêu cần chú ý sử dụng dòng tiền đã được hiện tại hoá về thời điểm hiện tại. Khi xác định dòng tiền và lãi suất chiết khấu, cán bộ thẩm định cần chú ý giữa sự phù hợp trong cách tính của hai yếu tố này. Nếu dòng tiền được xác định theo quan điểm vốn chủ sở hữu, lãi suất chiết khấu được sử dụng trong tính toán các chỉ tiêu tương ứng phải là chi phí vốn chủ sở hữu. Trong khi đó, nếu dòng tiền của dự án được xác định theo quan điểm tổng vốn đầu tư, lãi suất chiết khấu phải là chi phí vốn bình quân gia quyền… Nếu nhân tố tiết kiệm nhờ thuế được đưa vào chi phí lãi vay trong việc tính toán dòng tiền của dự án thì khi tính lãi suất chiết khấu cũng cần tính đến nhân tố này. Cần chú ý việc xác định dòng tiền theo đúng nguyên tắc, có tính đến chi phí cơ hội trong tính dòng tiền và loại bỏ các chi phí chìm.
Trong việc xác định khấu hao của dự án, cần chú ý lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp.
3.2.2.3. Đối với nội dung thẩm định tài chính dự án
- Trong quá trình tính toán xác định tổng dự toán vốn đầu tư, cán bộ tín dụng của ngân hàng cần có sự tìm hiểu kỹ càng về giá cả các loại trang thiết bị máy móc sử dụng trong dự án đầu tư thay vì chấp nhận mức dự toán của chủ đầu tư. Để thực hiện được như vậy cán bộ thẩm định cần tích cực tìm hiểu thông tin thị trường, căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, tình hình giá cả trong nước, các quy định của Nhà nước, Bộ, ngành các cấp. Việc xác định giá cả các trang thiết bị có thể được cán bộ tín dụng tìm hiểu một cách chính xác thông qua việc kiểm tra và xác minh các hoá đơn mua bán, nhập, thiết bị tài sản; tìm hiểu qua thông tin trên thị trường, thảm khảo, đối chiếu từ những dự án gần tương tự nếu có. Từ đó, cán bộ thẩm định có thể tính toán xác minh lại tổng mức dự toán xem có phù hợp với mức doanh nghiệp đưa ra hay không, từ đó ra quyết định về mức cho vay.
Ngoài ra, cũng cần xem xét đến những yếu tố vĩ mô có thể ảnh hưởng đến chi phí của dự án như tình hình lạm phát trong nước hay tỷ giá. Các yếu tố này thường biến động và có thể làm thay đổi dự toán vốn đầu tư ban đầu, gây khó khăn cho hoạt động thẩm định tài chính dự án.
- Trong việc tính toán dòng tiền của dự án, việc dự tính doanh thu, và các loại chi phí là hết sức quan trọng. Để có thể xác định dòng tiền một cách chính xác đòi hỏi cán bộ thẩm định cần có phương pháp ước lượng chính xác doanh thu, chi phí. Đối với các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh, việc xác định doanh thu, chi phí hoạt động của dự án trong những năm về sau của dự án nhìn chung đã được tính toán căn cứ trên kết quả hoạt động từ quá khứ. Tuy nhiên, việc dự tính cần phải tính đến những tác động của sự thay đổi môi trường kinh doanh, mức giá cả của thị trường. Những yếu tố này có thể tác động khá nhiều đến các chi phí đầu vào cũng như giá bán sản phẩm. Đối với những dự án đầu tư sản xuất mới, doanh nghiệp chưa có kết quả kinh doanh trong quá khứ để làm căn cứ dự đoán, do vậy cán bộ thẩm định cần xem xét dựa trên hoạt động của các đơn vị đã từng hoạt động trong ngành và lĩnh vực đó. Đồng thời, khi tiến hành dự tính doanh thu, chi phí dựa trên kết quả hoạt động của các doanh nghiệp khác, cần có sự đối chiếu và điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc tính riêng của doanh nghiệp đang thực hiện dự án (do mỗi doanh nghiệp có một vị thế riêng và hoạt động trên một phân khúc riêng).
Quá trình xác định chi phí của dự án cần được tham khảo thêm những quy định của Bộ tài chính và các cơ quan chủ quản. Trong các chi phí của dự án, việc xem xét chi phí khấu hao cần được đối chiếu xem xét với các văn bản quản lý kinh tế mới nhất của Nhà Nước để đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp, chính xác trong tính toán. Mức khấu hao cần được xem xét có phù hợp hay không với từng lĩnh vực hoạt động của dự án, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp áp dụng mức khấu hao nhanh để tránh nghĩa vụ nộp thuế. Mặt khác, do khấu hao là một nguồn trả nợ của dự án, do đó cần xem xét tính phù hợp của mức khấu hao vả mức độ tiêu thụ sản phẩm của dự án. Nếu mức khấu hao được khuếch đại một cách thiếu hợp lý thì nguồn trả nợ của dự án vì thế mà cũng không đáng tin cậy.
Trong xác định doanh thu, cần tiếp tục thực hiện tốt việc xác định cung cầu thị trường, xu hướng biến động các yếu tố, từ đó dự báo ở mức gần đúng nhất doanh thu của dự án.
- Bên cạnh các chỉ tiêu phổ biến rất hay được sử dụng như: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, phân tích độ nhạy, ngân hàng còn có thể áp dụng thêm một số các chỉ tiêu khác nếu cần thiết như: điểm hoà vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI), lợi nhuận kế toán bình quân (AAP)… Việc sử dụng đối chiếu thêm một số các chỉ tiêu sẽ giúp cán bộ thẩm định có cái nhìn toàn diện hơn; kết quả phân tích, thẩm định được chính xác hơn.
- Đối với việc xác định lãi suất chiết khấu, ngân hàng cần đưa ra một phương pháp xác định lãi suất chiết khấu thích hợp và mang tính khoa học hơn thay vì dựa trên ước lượng mang tính chủ quan của bản thân cán bộ thẩm định. Thông thường một dự án sẽ được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn khác nhau, do đó, một cách phù hợp nhất, lãi suất chiết khấu phải là bình quân các chi phí huy động từ các nguồn của các dự án. Để xác đinh được con số này, cán bộ thẩm định cần xem xét xác định các chi phí huy động thành phần (chẳng hạn như: chi phí nợ vay, chi phí vốn chủ sở hữu, chi phí thuê tài sản …) và cơ cấu của từng thành phần. Cụ thể, chi phí nợ vay của dự án có thể được xác định chính bằng lãi suất cho vay tài trợ dự án của ngân hàng. Chi phí vốn chủ sở hữu có thể được xác định một cách phức tạp hơn thông qua các mô hình CAPM hay mô hình chiết khấu cổ tức. Thông thường người ta sẽ áp dụng mô hình CAPM. Việc xác định theo mô hình này đòi hỏi phải xác định hệ số beta cổ phiếu của doanh nghiệp. Cách tính này là khác nhau giữa doanh nghiệp đã niêm yết trên thị trường chứng khoán và doanh nghiệp chưa niêm yết. Với những doanh nghiệp đã niêm yết trên thị trường chứng khoán ta có thể tính dễ dàng dựa trên những số liệu quá khứ, trong khi đối với doanh nghiệp chưa niêm yết công việc này khó khăn hơn, trong nhiều trường hợp hệ số beta trung bình ngành được áp dụng luôn vào trong việc tính toán. Sau khi đã có hệ số beta, ta còn cần tìm thông tin về mức lợi tức phi rủi ro và phần bù rủi ro thị trường. Việc xác định các nhân tố này không dễ, do đó, trong nhiều trường hợp có thể xác định chi phí vốn chủ sở hữu chính bằng chi phí cơ hội của chủ dự án khi bỏ qua các cơ hội đầu tư khác và dùng tiền đầu tư vào dự án. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kì hạn (thường trên 1 năm) có thể coi là một ví dụ về chi phí cơ hội. Thông qua việc tính toán như trên, ngân hàng có thể có được một lãi suất chiết khấu chính xác hơn.
Thẩm định lại dự án “ Dự án nhà máy lắp ráp cửa Smartwindow của nhựa Đông Á”
Xác định lại lãi suất chiết khấu của dự án.
Như đã xác định ở phần trên, dự án được tài trợ bằng cả vốn chủ sở hữu và nợ vay, do đó, lãi suất chiết khấu của dự án có thể được xác định bằng chi phí vốn bình quân gia quyền của dự án(WACC).
Xác định chi phí vốn chủ sở hữu
Việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu của nhựa Đông Á sẽ được thực hiện bằng việc áp dụng theo mô hình CAPM, trong đó, một trong những yêu cầu cần thực hiện là xác định hệ số beta của cổ phiếu.
- Hệ số beta
Thông thường hệ số beta của cổ phiếu có thể được xác định dựa theo số liệu về giá trong quá khứ. Tuy nhiên, do nhựa Đông Á là một doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán nên việc xác định hệ số beta theo cách này là không thực hiện được. Với những giả định và sự cho rằng hoạt động của nhựa Đông Á là hoàn toàn giống như hoạt động của các doanh nghiệp khác trong ngành, ta có thể coi hệ số beta của ngành làm beta tài sản của cổ phiếu này.
Bảng 2.11 : Hệ số beta của các doanh nghiệp trong ngành nhựa
Công ty
Hệ số bêta
Công ty cổ phần nhựa Bình Minh (BMP: HOSTC)
1.14
Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai (DNP: HOSTC)
0.89
Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai (DNP: HOSTC)
0.89
Công Ty Cổ Phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong (NTP: HASTC)
1.44
Công ty cổ phần Bao bì Nhựa Sài Gòn (SPP: HASTC)
0.24
Công ty cổ phần Nhựa Tân Đại Hưng (TPC: HOSTC)
0.84
Công ty cổ phần Nhựa Tân Phú (TPP: HASTC)
0.66
Công ty cổ phần Nhựa Tân Hóa (VKP: HOSTC)
0.7
Danh mục gồm các cổ phiếu trên (quyền số bằng nhau)
0.85
(nguồn: https://www9.vndirect.com.vn)
Như vậy, ta xác định được beta tài sản của cổ phiếu là 0.85
Tuy nhiên, do dự án được tài trợ bằng cả nợ và vốn chủ sở hữu, do đó khi tính đến ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính, hệ số beta của vốn chủ sở hữu phải được xác định lại bằng công thức:
Beta VCSH = beta tài sản *(1+(1-t)*hệ số nợ)
= 0.85*{1+(1-0.28)*(15700/25307) }
= 1.23
-Lãi suất phi rủi ro (rf) được xác định bằng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam do ngân hàng Nhà nước ban hành theo quyết định 1257QĐ-NHNN ngày 30/5/2008 là 12% (nguồn: www.sbv.gov.vn)
- Mức bù rủi ro thị trường ( rm-rf) hiện được các chuyên gia nước ngoài ước lượng cho thị trường Việt Nam dao động trong khoảng từ 7-7.5%. Tại thời điểm tiến hành thẩm định tài chính dự án, mặt bằng lãi suất của thị trường khá cao, các doanh nghiệp vay vốn ở mức lãi suất cao khó có khả năng làm ăn hiệu quả và thu lời cũng như hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Với một mức rủi ro lớn hơn như vậy, phần bù rủi ro thị trường có xu hướng cao. Lựa chọn mức bù rủi ro là 7.5%
Từ những thông số trên chi phí vốn chủ sở hữu được xác định:
Ks = 12% +1.23*7.5%
= 21.22%
- Xác định chi phí nợ của doanh nghiệp của doanh nghiệp được xác định bằng lãi suất cho vay tài trợ dự án của doanh nghiệp và bằng 1.15%/ tháng hay 13.8%/ năm. à Kd = 13.8%;
Kd *(1-t) = 9.936%
- Chi phí vốn bình quân gia quyền của dự án được xác định theo một trong hai giá trị sau:
WACC = S/E * Ks + D/E * Kd
= ( 9607/25307)*21.22% + (15700/25307)*13.8%
= 16.16%
WACC = S/E * Ks + D/E * Kd
= ( 9607/25307)*23.22% + (15700/25307)*13.8% * (1-0.28)
= 13.76%
Như vậy lãi suất chiết khấu của dự án sau khi được xác định lại sẽ là 16,16% ( không tính tiết kiệm nhờ thuế vào dòng tiền của dự án) và 13.76% (có tính đến tiết kiệm nhờ thuế vào dòng tiền của dự án)
Sử dụng lãi suất chiết khấu xác định ở trên kết hợp với dòng tiền của dự án sau khi được cán bộ tín dụng điều chỉnh lại để tính các chỉ tiêu NPV và IRR. Trong dòng tiền của dự án sau khi cán bộ thẩm định tại ngân hàng đánh giá điều chỉnh lại không tính đến yếu tố tiết kiệm nhờ thuế, do đó sử dụng lãi suất chiết khấu là 16.16%. D òng ti ền của dự án sau khi cán bộ tín dụng đánh giá lại :
Dòng tiền của dự án
(27,307)
5,293
5,574
5,494
3,684
5,390
5,388
5,646
5,916
6,201
20,307
Dòng tiền của dự án có chiết khấu ( lsck 16.16%)
(27,307)
4557
4131
3505
2023
2549
2193
1979
1785
1611
4540
NPV được xác định lại bằng 1565.21
IRR xác định lại là 17,47%
Thời gian hoàn vốn là 5 năm 8 tháng
Thời gian hoàn vốn có chiết khấu (lsck là 16.11%) là 9 năm 8 tháng.
Như vậy, rõ ràng khi xác định lại lãi suất chiết khấu hiệu quả của dự án không còn cao như lúc đầu.
Ngoài ra, bổ sung thêm một số chỉ tiêu chưa được tính toán trong thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng như: lợi nhuận kế toán bình quân, chỉ số doanh lợi.
Chỉ số doanh lợi được xác định theo công thức
PI = (4577+4131+3505+2023+2549+2193+1979+1785+1611+4540)/27307
PI= 1,057
Với việc sử dụng chỉ tiêu này ta thấy, một đồng vốn đầu tư bỏ ra đã đem lại 1,057 đồng thu nhập ( chưa tính đến chi phí vốn đầu tư bỏ ra ban đầu). Chỉ tiêu này lớn hơn 1 nên dự án có thể nhận định là có hiệu quả.
Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân
AAP = (Tổng Doanh thu – Tổng Chi phí - Tổng thuế thu nhập doanh nghiệp) / n
= (375717 – 332738 – 10093) / 10
= 32885 / 10
= 3288.5 triệu đồng
Chỉ tiêu này cho thấy lợi nhuận kế toán bình quân một năm doanh nghiệp nhận được từ việc thực hiên dự án. khoảng hơn 3 tỷ đồng. Tuy nhiên kết quả này chỉ có thể sử dụng để tham khảo và kết hợp với các chỉ tiêu khác trong quá trình ra quyết định vay.
3.2.3. Giải pháp về công tác cán bộ và tổ chức thẩm định
3.2.3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định
Thực tế cho thấy, con người luôn luôn là yếu tố trung tâm có ảnh hưởng quyết định đến mọi mặt hoạt động đời sống. Điều này không loại trừ đối với hoạt động thẩm định tài chính dự án. Để nâng cao chất lưọng thẩm định tài chính dự án, việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định là hết sức cần thiết
Ngân hàng cần có những chính sách đãi ngộ nhằm thu hút nhân tài. Cần chú trọng tới công tác tuyển chọn cán bộ đầu vào, đặc biệt là tìm kiếm những cán bộ thẩm định có năng lực và trình độ chuyên môn cao cũng như có tính trung thực. Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ định kỳ, các cuộc hội thảo trong cả hệ thống để giúp cán bộ thẩm định trau dồi nghiệp vụ và rút kinh nghiệm.
Cần nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ nhân viên nói chung và nhân viên thẩm định nói riêng.
3.2.3.2. Tăng cường chuyên môn hóa công tác thẩm định tài chính dự án
Một trong những nguyên nhân khiến cho hoạt động thẩm định tài chính dự án ở SGD Hà Nội hiện tại còn gặp phải nhiều hạn chế là do hoạt động thẩm định chưa có sự chuyên môn hoá. Ngân hàng cần phải tổ chức một phòng thẩm định riêng, cần có sự phân chia giữa hoạt động của cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cán bộ thẩm định giảm được một số công việc, có khả năng tập trung chuyên sâu hơn với nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên, chuyên môn hoá không có nghĩa là các bộ phận trong ngân hàng không có liên hệ với nhau. Hoạt động thẩm định vẫn cần được quán triệt là hoạt động không chỉ của cán bộ thẩm định.
3.2.3.3. Các giải pháp về trang thiết bị phục vụ thẩm định
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại, đồng thời, không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, ngân hàng cần tăng cường đầu tư đổi mới các trang thiết bị phục vụ cho dự án. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phân tích tài chính dự án sẽ giúp cán bộ thẩm định nhàn hơn, song hiệu quả công việc đem lại có thể cao hơn. Trong tương lai, cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm phân tích dự báo, kết hợp với việc tính toán chỉ tiêu bằng công cụ Excel.
3.2.4. Các giải pháp về thông tin trong hoạt động thẩm định
Cũng giống như bất kì một hoạt động kinh tế nào, thông tin đối với việc đưa ra kết luận trong thẩm định tài chính dự án là hết sức quan trọng. Do đó, để kết quả thẩm định tài chính dự án được chính xác việc thu thập thông tin cần phải được các cán bộ thẩm định tại ngân hàng coi trọng.
Đối với những thông tin được khách hàng cung cấp, để đảm bảo có thể xác minh được tính trung thực của nguồn thông tin này, ngân hàng cần yêu cầu doanh nghiệp thực hiện kiểm toán độc lập đối với các báo cáo tài chính cung cấp cho ngân hàng.
Trong khi tìm hiểu, thu thập các thông tin về doanh nghiệp và thông tin về dự án, cán bộ thẩm định không nên chỉ dựa vào các tài liệu mà khách hàng cung cấp mà còn cần tìm kiếm thông tin từ nhiểu nguồn khác nhau. Cán bộ thẩm định có thể gặp trực tiếp người đại diện của doanh nghiệp để phỏng vấn thêm về những thông tin còn nghi ngờ; tham quan, khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng nhà xưởng, điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Ngân hàng cần có những quy đinh cụ thể về số lần tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để cán bộ thẩm định áp dụng và tuân thủ. Trong những lần tiếp xúc khách hàng đó cần có cả những lần kiểm tra có báo trước và cả những lần kiểm tra đột xuất.
Ngân hàng cần tự xây dựng một hệ thống lưu trữ thông tin của các doanh nghiệp đã từng có quan hệ tín dụng tại ngân hàng, đánh giá năng lực kinh doanh, khả năng, thiện chí trả nợ của khách hàng. Những nguồn thông tin này sẽ tỏ ra hữu ích khi những khách hàng trước kia đã từng có quan hệ tín dụng tại ngân hàng nay lại có nhu cầu vay vốn. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được thời gian và chi phí thu thập thông tin. Các thông tin được lưu trữ tại ngân hàng cần được phân chia theo những tiêu chí nhất định như: ngành nghề sản xuất, quy mô doanh nghiệp, thời hạn vay vốn… Tăng cường ứng dụng công nghệ máy tính trong việc lưu trữ thông tin tài liệu, vừa giúp việc lưu trữ thông tin dễ dàng, hiệu quả, lại có thể giảm khối lượng hồ sơ giấy tờ cần quản lý. Tất cả các cán bộ nhân viên trong ngân hàng đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho hệ thống dữ liệu này.
Ngoài ra, cán bộ thẩm định có thê tham khảo thông tin từ đối tác, bạn hàng của doanh nghiệp; thu thập thông tin từ trung tâm CIC, từ các cơ quan quản lý kinh tế… Thường xuyên tìm hiểu và cập nhật các quy định của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư, các thông tin chung về thị trường sản xuất, thị trường tiền tệ… là hết sức có lợi và cần thiết đối với các cán bộ thẩm định.
3.2.5. Sử dụng hiệu quả hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ, tăng cường đôn đốc việc thực hiện dự án
Công tác kiểm tra kiểm soát cần được tiến hành một cách thường xuyên trong hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng và hoạt động thẩm định tài chính dự án nói chung. Công tác này cần được tiến hành thường xuyên, kịp thời, và tiến hành gắn liền với từng bước của công tác thẩm định tài chính dự án. Để thực hiện được điều này, cần nâng cao chất lượng của hệ thống kiểm toán nội bộ tại ngân hàng. Hoạt động của kiểm toán nội bộ cần được thực hiện một cách công khai, minh bạch và chính xác.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát tại ngân hàng cần hướng tới việc ngăn ngừa những sai sót trong việc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. Từ đó, đảm bảo cho nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đồng thời cũng là nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Ngoài ra, do công tác thẩm định tài chính dự án cần phải được tiến hành thường xuyên trong cả ba khâu: trước, trong và sau cho vay; do đó, sau khi cho vay vẫn cần quan tâm tới hoạt động thẩm định tài chính dự án. Hoạt động này sau cho vay được hiểu là việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở việc thực hiện dự án theo đúng quy trình và tiến độ đã đặt ra. Trong khi cho vay tài trợ dự án, ngân hàng nên chia nhỏ món vay, giải ngân và theo dõi chặt chẽ việc giải ngân theo đúng tiến độ của dự án.
Cần có những tổng kết, đánh giá những kết quả đã đạt được trong từng dự án cho vay, từ đó rút kinh nghiệm cho những dự án tiếp theo được thực hiện tại ngân hàng.
3.3. Các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án
3.3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp cao
3.3.1.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ, ngành
Nhà nước cần có công bố rõ ràng về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ nhất định, giúp các chủ dự án có định hướng trong việc thực hiện dự án cũng như ngân hàng có cái nhìn rõ ràng hơn trong công tác thẩm định.
Chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý, đặc biệt là các quy định có liên quan đến hoạt động đầu tư, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng có cơ sở pháp lý làm căn cứ trong việc tiến hành thực hiện dự án và thẩm định tài chính dự án.
Các chính sách phát triển kinh tế cần được đưa ra hợp lý, tránh việc đưa ra những thay đổi bất ngờ trong chính sách gây khó khăn không chỉ cho hoạt động của doanh nghiệp mà còn làm gián đoạn công tác thẩm định tài chính và ra quyết định cho vay của ngân hàng.
Các Bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trong hoạt động phê duyệt dự án đầu tư. Các kết quả phê duyệt cần phải chính xác, tránh phê duyệt một cách hình thức, ồ ạt; xét duyệt cả những dự án không mang tính khả thi. Điều này sẽ tạo thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc thẩm định lại các dự án và xác định nhu cầu vay.
3.3.1.2. Đối với ngân hàng Nhà nước
Thực hiện vai trò chỉ đạo trong hệ thống ngân hàng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, những chính sách của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam có một vai trò hết sức quan trọng và ảnh hưởng đến hoạt động của hầu hêt các ngân hàng thương mại trong hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Nhà Nước cần ban hành các văn bản luật, quy định, để hướng dẫn cụ thể và rõ ràng đối với các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước cần kết hợp với các Bộ, Ngành, như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và môi trường… để nghiên cứu và để ra phương pháp thẩm định phù hợp nhất với thực tiễn hoạt động tại Việt Nam.
Đề nghị ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Hiện nay, đây là cồng thông tin duy nhất giúp cho các ngân hàng tra cứu, tìm kiếm thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, quan hệ tín dụng của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, những thông tin được đăng tải nhìn chung vẫn còn khá sơ sài, chưa cập nhật, do đó gây ra khó khăn cho hoạt động của ngân hàng trong việc thu thập thông tin phục vụ dự án.
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các ngân hàng trong việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định tài chính dự án, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị kinh nghiệm toàn ngành, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên trong toàn ngành ngân hàng có cơ hội học hỏi và cọ xát, rút kinh nghiệm thực tế.
Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại trong hệ thống cần được thực hiện chặt chẽ, thường xuyên, đảm bảo công tác thẩm định tại các dự án được tiến hành đúng theo quy trình, đúng chất lượng, và kịp thời phát hiện ra những sai sót tồn tại trong công tác thẩm định dự án.
3.3.2. Kiến nghị đối với chủ đầu tư
Trước hết, khi tiến hành thực hiện dự án, các chủ đầu tư cần xem xét kỹ lưỡng về khả năng triển khai và tính khả thi của dự án. Tránh trường hợp mặc dù dự án là kém khả thi, nhưng vẫn cố tình vay ngân hàng để thực hiện dự án. Nếu công tác thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng được tổ chức tốt thì những dự án không hiệu quả cuối cùng cũng bị loại bỏ. Tuy nhiên, như vậy sẽ gây ra lãng phí về mặt thời gian. Trong trường hợp công tác thẩm định không được thực hiện tốt, những khoản cho vay tài trợ như trên sẽ gây ra những khoản nợ quá hạn, gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động của ngân hàng.
Khi cung cấp cho ngân hàng các thông tin về dự án, chủ đầu tư cần có tinh thần thiện chí, hợp tác, cung cấp các thông tin có tính tin cậy cao để làm cơ sở cho cán bộ tín dụng phân tích và ra quyết định.
Để thời gian tiến hành thẩm định được diễn ra nhanh chóng, bản thân chủ đầu tư cần có ý thức nộp đầy đủ các hồ sơ giấy tờ ngân hàng yêu cầu trong thời gian sớm nhất. Việc thẩm định tài chính dự án chỉ có thể thực hiện khi các hồ sơ và báo cáo tài chính được cung cấp đầy đủ.
3.3.3. Kiến nghị với SGD Hà Nội – Ngân hàng TMCP Á Châu
Ngân hàng cần từng bước hoàn thiện quy trình và nội dung thẩm định tài chính dự án, hướng dẫn và phổ biến quy trình đó tới từng cán bộ nhân viên ngân hàng để việc thực hiện thẩm định được tiến hành bài bản. Bên cạnh đó, thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát cũng như hỗ trợ hoạt động thẩm định.
Đối với vấn đề nhân sự, cần tiếp tục mở rộng các lớp đào tạo nghiệp vụ, huấn luyện nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng. Cần thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, các hội nghị tổng kết kinh nghiệm thẩm định để các cán bộ có thể chia sẻ kinh nghiệm và rút ra những vấn đề cần chú ý trong công tác thẩm định.
Mở rộng quan hệ tín dụng đối với các khách hàng mới, đặc biệt là những khách hàng hiện còn ít quan hệ với ngân hàng. Chủ động hơn trong tìm kiếm, cho vay các dự án đầu tư có hiệu quả nhằm mở rộng phát triển tín dụng một cách hiệu quả.
KẾT LUẬN
Là một đơn vị mới ra đời và đi vào hoạt động được gần hai năm, đồng thời lại rơi vào giai đoạn suy thoái kinh tế, tuy nhiên, SGD Hà Nội, ngân hàng TMCP Á Châu vẫn đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động tín dụng nói chung và cho vay dự án nói riêng. Có thể thấy có được những kết quả này một phần là do công tác thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng đã được nhận thức tốt và thực hiện một cách nghiêm túc.
Tuy được thực hiện một cách nghiêm túc, công tác thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án nói chung và nâng cao chất lượng thẩm định tài chính nói riêng trở thành một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Chuyên đề thực tập tổng hợp với nội dung liên quan đến hoạt động thẩm định tài chính dự án trong ngân hàng thương mại đã giúp tìm hiểu thêm về nội dung và vai trò của công tác này trên cả lý thuyết và thực tiễn, đồng thời, rút ra những giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình thẩm định tài chính dự án, trường Đại học KTQD, PGS. TS Lưu Thị Hương, NXB Tài chính, 2004.
Giáo trình ngân hàng thương mại, trường Đại học KTQD, PGS. TS Phan Thị Thu Hà, NXB Đại học KTQD, 2007.
Giáo trình lập dự án đầu tư, trường Đại học KTQD, PGS.TS Nguyễn Thị Bách Nguyệt, NXB Thống kê, 2005.
Giáo trình Tín dụng ngân hàng, trường đại học công nghiệp TP Hồ Chí Minh, PGS.TS Phan Thị Cúc, NXB Thống kê, 2008.
Quyết định số 1325/ TCQĐ – PTCN.06 của Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ra ngày 7/12/2006 về việc thành lập Ngân hàng TMCP Á Châu - Sở giao dịch Hà Nội.
Quyết định số 287/NVQĐ – PTCN.07 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu về nội dung hoạt động của Ngân hàng TMCP Á Châu – Sở giao dịch Hà Nội.
Các bảng mô tả chức danh, sơ đồ nhân sự Ngân hàng TMCP Á Châu - Sở giao dịch Hà Nội.
Các báo cáo nội bộ, phòng KHDN, phòng kế toán, Ngân hàng TMCP Á Châu - Sở giao dịch.
Hồ sơ vay vốn dự án xây dựng nhà máy lắp ráp cửa nhựa Smartwindow của công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đ ông Á.
https://www9.vndirect.com.vn
www.sbv.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1vs10017.doc