Chuyên đề Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội

Trung tâm dịch vụ việc làm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội. Để có đội ngũ lao động giỏi đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cùng với các biện pháp củng cố tăng cường công tác dạy nghề, khuyến khích về vật chất với người học, người dạy, chúng ta cũng cần quan tâm khơi dậy các hình thức khuyến khích động viên về tinh thần - hướng dư luận xã hội vào tôn vinh của những người thợ giỏi, có tâm với nghề. Dựa trên thực tế Việt Nam là nước có thu nhập bình quân đầu người thấp, đông dân với tỷ lệ tăng trưởng dân số hàng năm cao, ở mức 2%. Áp lực về học sinh trong độ tuổi đi học đang tăng lên nhanh chóng làm cho ngân sách giáo dục trở thành một gánh nặng của xã hội. Đồng thời, chi phí cho giáo dục và đào tạo là gánh nặng đối với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Bài toán đặt ra là phải lựa chọn mục tiêu và chính sách phát triển thích hợp. Trước những thách thức của thời đại, chúng ta phải lựa chọn ưu tiên phát triển giáo dục. Bên cạnh các chính sách quản lý và sử dụng nguồn nhân lực được lồng ghép vào các chính sách xã hội như: Chính sách việc làm, chính sách tiền lương, các chính sách có liên quan đến phúc lợi xã hội. Ở nước ta, hệ thống đào tạo ngành nghề rất đa dạng. Bởi vì tuỳ theo công việc của từng nơi, chẳng hạn như: Có vùng thì đào tạo nghề nằm trong hệ thống giáo dục, nhưng ở một số nước khác, giáo dục ngành nghề lại nằm trong các công ty, các xí nghiệp. Có sự phân định rõ rệt về trách nhiệm của hai bộ phận giáo dục và đào tạo được nhận thức như là điều kiện tiên quyết để khả năng thích ứng của lượng lao động đối với việc quản lý đào tạo nghề. Do đó, giáo dục và đào tạo được nhận thức như là điều kiện tiên quyết để tăng khả năng thích ứng của lượng lao động với các kỹ thuật và công nghệ sản xuất luôn thay đổi tạo nên quá trình sản xuất hàng loạt các sản phẩm chất lượng cao và đa dạng về chủng loại. Tuy nhiên, ngoài việc thực hiện chiến lược tuyển dụng lao động cho khu công nghiệp và chế xuất, Trung tâm dịch vụ việc làm không thể không chú trọng tới công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vì đào tạo là một trong những yếu tố hết sức quan trọng; nó có tác dụng vừa hỗ trợ, vừa thúc đẩy, vừa đảm bảo cho sự phát triển cân đối đồng bộ và vững chắc của khu công nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung. Hơn nữa, sản phẩm của đào tạo là tính hiệu quả của nó có tác dụng lâu dài. Do vậy, để nâng cao công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, giáo dục cần đạt được những mục tiêu cơ bản về kinh tế, văn hoá tư tưởng. Có thể thấy rằng Trung tâm dịch vụ việc làm trước hết phải xây dựng được chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhanh chóng triển khai thực hiện đồng bộ những giải pháp đưa ra. Chắc chắn trong một tương lai không xa, Trung tâm dịch vụ việc làm sẽ có một vị trí xứng đáng trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Nếu chúng ta coi khoa học công nghệ là động lực và là nền tảng thì việc coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện như yếu tố quyết định tạo ra nguồn động lực đó.Vấn đề này còn là một thách thức lớn đối với Trung tâm dịch vụ việc làm, để thực hiện được tốt còn nảy sinh liên quan đến rất nhiều vấn đề. Song, vấn đề cơ bản, thiết yếu đòi hỏi Trung tâm dịch vụ việc làm phải có quyết tâm cao, đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu kết hợp với các chính sách tạo cơ hội của Chình phủ. Như vậy, Trung tâm dịch vụ việc làm góp phần vào xu thế phát triển chung của thời đại và sự phát triển đó sẽ luôn gắn liền với sự phát triển chung của cả nước. Chuyên đề thực tập của em đã hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và Ban giám đốc cùng với phòng đào tạo của Trung tâm dịch vụ việc làm đã cung cấp tài liệu. Mặc dù em đã rất cố gắng nhưng vẫn có những hạn chế chưa thể khắc phục được như: còn nhiều ý kiến chủ quan cá nhân trong khi đó thời gian nghiên cứu lại hạn hẹp khiến cho bài làm có thể thiếu tính logic và hạn chế về khả năng áp dụng vào thực tế. Ngoài ra, chuyên đề còn nhiều thiếu sót mà sinh viên chưa tự thấy được. Do vậy, em rất mong sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và bạn đọc. Em xin chân thành cám ơn thầy cô giáo và các anh trong Ban giám đốc Trung tâm đã tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành bài viết này.

doc68 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông lớn giữa hai khu vực. Trong đó, số người có trình độ chuyên môn sơ cấp ở đô thị chỉ có 183418 người, còn ở nông thôn lại tới 452831 người. Tổng số lao động giản đơn ở nông thôn có tới 2677182 người,trong khi đó ở đô thị chỉ là 4680333 người ( nông thôn gần gấp sáu lần đô thị ). Theo số liệu thống kê cho thấy : Các nước công nghiệp phát triển, cơ cấu về số công nhân kỹ thuật là 1-4-15, nhưng ở nước ta hiện nay là 1-1,75 và 1,3. Riêng thành phố Hồ Chí Minh là 1-0,9 và 1,6. Tính trên cả nước có khoảng 66 khu công nghiệp với gần 500 công ty đã đi vào hoạt động trong khu công nghiệp và chế xuất. Trong đó: -Thành phố Hồ Chí Minh có trên 30 khu công nghiệp. Ví dụ như:Khu công nghiệp Thủ Đức, Tân Thuận, Nhà Bè,.. Mặc dù nhiều khu công nghiệp được hoạt động nhưng số lao động trẻ ở địa phương mới chỉ đáp ứng được 2/3, số còn lại phải tuyển ở nơi khác. -Thủ đô Hà Nội có năm khu công nghiệp: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Nội Bài, Bắc Thăng Long, Đài Tư. Trong đó có hai khu đã đi vào hoạt động, đó là: Khu công nghiệp Sài Đồng B và khu Nội Bài. Gồm các doanh nghiệp sau: STT Tên doanh nghiệp Điện thoại 1 Công ty Điện tử Ashin 8771029 2 Công ty sản phẩm thép Việt Nam 8580586 3 Công ty Jaewon 8334399 4 Công ty công nghiệp Tân á 8355181 5 Côngty NIC 8850800 6 Công ty sơn mài mới 8772106 7 Công ty Orion Hanel 8273533 8 Công ty Orion Daewoo 8274588 9 Công ty nhà thép tiền chế 8850800 10 Công ty Pentax 8570418 11 Công ty Sumi Hanel 8750511 * Về hệ thống đào tạo dạy nghề: Trên cả nước hiện nay có 174 trường công nhân kĩ thuậtdạy nghề chính quy ( 96 trường thuộc các bộ ngành, 78 trường thuộc các địa phương quản lý) với quy mô đào tạo hiện tại - mỗi năm chiêu sinh dưới 45 nghìn học sinh ( chủ yếu là đào tạo về giao thông vận tải, in cơ khí, xây dựng, hoá chất..). Bên cạnh đó, có 244 trường Trung cấp chuyên nghiệp, hơn 500 trung tâm dạy nghề ( may mặc sửa chữa xe máy ti vi văn phòng..), và gần 100 cơ sở dạy nghề bán công,dân lập tư thục.Số này chủ yếu dạy nghề ngắn hạn ( từ ba tháng đến một năm ), học sinh mãn khoá được cấp chứng chỉ và dự tuyển vào làm việc tại các khu công nghiệp và chế xuất. Từ đó ta thấy rằng, để hiểu rõ khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung còn rất hạn chế. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu cụ thể hơn ở phần sau. b-Nhu cầu đào tạo lao động cho các khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội: Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có năm khu công nghiệp như đã nói ở trên. Nhưng tính đến hết năm 1999,có hai khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Hai khu công nghiệp này chứa khoảng 25 công ty có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số lao động là 3500 người. Từ đầu năm 2000, có hai khu công nghiệp mới đi vào hoạt động. Đó là: Khu công nghiệp Bắc Thăng Long chứa khoảng 40 công ty với 5600 lao động. Khu công nghiệp Đài Tư chứa khoảng 20 công ty với 2800 lao động. Hai khu công nghiệp đã được xây dựng đã được xây dựng và hoàn thiện về cơ sở hạ tầng bước đầu đi vào hoạt động. Mặt khác, các khu công nghiệp Sài Đồng B và khu công nghiệp Nội Bài đang liên tục phát triển ngày càng nhiều dự án. Vì vậy, việc đào tạo lao động mà chủ yếu là đào tạo nghề để người lao động làm việc tại các khu công nghiệp và chế xuất. Mặc dù, trong quá trình đào tạo trung tâm đã gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại do trình độ và tác phong chậm chạp của người lao động. Nhưng trung tâm đã không ngừng tổ chức các lớp đào tạo nghề , tác phong công nghiệp, luật lao động, an toàn và vệ sinh lao động,.. trong nhà máy, công ty. Có thể nói, nhu cầu đào tạo lao động là một nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. 2-Xác định mục tiêu đào tạo: Trong quá trình công nghiệp hoá,đô thị hoá trên địa bàn Hà Nội đang diễn ra nhanh chóng. Các nhà máy, công trình, nhà ở và các khu công nghiệp được xây dựng đã đi vào hoạt động làm cho thành phố ngày một đổi thay. Một bộ phận lao động nhất là lao động ngoại thành như: Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh,.. dần dần có chỗ làm mới. Tuy có một số lượng lớn lao động làm nông nghiệp, nhưng do đất đai chuyển đổi nên gặp khó khăn trong việc làm hàng ngày. Lực lượng lao động này góp phần làm tăng số lao động thất nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Mặt khác, tỷ lệ lao động trong các huyện ngoại thành có trình độ học vấn thấp ( phần lớn chỉ tốt nghiệp trung học cơ sở, nên không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư trong khu công nghiệp ). Do vậy, việc phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất là góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và tạo sự vững chắc cho tổng sản phẩm quốc nội, tạo việc làm, kiểm soát môi trường sản xuất công nghiệp. Nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động, Trung tâm dịch vụ việc làm tiến hành mở các lớp đào tạo cho những người lao động ưu tiên dành đất cho khu công nghiệp. Trên cơ sở đó, Trung tâm định hướng cho đội ngũ lao động phổ thông được đào tạo theo ngành nghề nhất định, tránh việc đào tạo tràn lan không có hiệu quả.Đồng thời, việc đào tạo có quy mô sẽ đỡ tốn kém về kinh phí cho lao động và thời gian đào tạo. Ngoài ra, hoạt động đào tạo còn dựa trên nhu cầu tuyển dụng theo ngành nghề mà các công ty trong khu chế xuất đặt ra. Thực hiện điều đó nghĩa là Trung tâm góp phần thi hành nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại Hội VIII của Đảng: “Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt được 22-25% đội ngũ lao động qua đào tạo vào năm 2000”. 3-Lựa chọn phương pháp đào tạo: Phương pháp đào tạo được lựa chọn để thực hiện chương trình đào tạo và phát triển của doanh nghiệp trong khu công nghiệp và chế xuất. Việc lựa chọn các phương pháp đào tạo thích hợp là rất cần thiết đối với đào tạo nghề cho người lao động trong khu công nghiệp. Đồng thời, việc cung ứng lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp đang là vấn đề “nóng” đối với thị trường lao động. Những trình độ tay nghề của người lao động cũng rất quan trọng. Chính do những yêu cầu này, đã có không ít các ứng viên mặc dù có chứng chỉ đào tạo ở các trường dạy nghề nhưng thi thử tay nghề không thể hiện được khả năng tương xứng của mình. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải lựa chọn các phương pháp đào tạo phù hợp với yêu cầu công việc của nhà tuyển dụng. Dựa trên yêu cầu của doanh nghiệp, Trung tâm dịch vụ việc làm phối hợp với các trung tâm dạy nghề khác tổ chức đào tạo theo hai phương pháp: đào tạo ngắn hạn và đào tạo ngành nghề. Cách thức đào tạo chủ yếu là giảng dạy theo thứ tự chương trình về nghề ngành cần đào tạo mà số tiết giảng dạy có thể tăng hay giảm. Từ đó ta thấy các phương pháp đào tạo rất đa dạng và phù hợp với từng đối tượng từ công nhân trực tiếp sản xuất đến lao động phổ thông cho tới cán bộ quản lý văn phòng. Hơn nữa, để đáp ứng công tác thi tuyển vào các công ty trong khu công nghiệp và chế xuất, Trung tâm đã xây dựng chương trình phù hợp với việc giảng dạy của giáo viên. 4-Lựa chọn chương trình đào tạo: Trước hết, đào tạo với mục tiêu chủ yếu là nâng cao trình độ cho người lao động, đặc biệt là lao động trong khu công nghiệp.Sau khi học viên kết thúc khoá đào tạo nghề, họ sẽ có đủ kiến thức về trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ, luật lao động, tác phong công nghiệp để họ dễ dàng thích ứng và làm việc tại các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Trên thực tế, chỉ hơn 10 ngày đã có 200 chỉ tiêu tuyển dụng công nhân có tay nghề. Nhưng việc cung ứng lao động vẫn chưa đáp ứng đủ và thoả mãn yêu cầu của nhà tuyển dụng về cả số lượng lẫn trình độ của công nhân. Do đó, việc lựa chọn chương trình đào tạo thích hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp sẽ có tác dụng nâng cao số lượng và chất lượng lao động. 5-Đánh giá hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực: Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho khu công nghiệp và chế xuất đã tác động tới nhiều mặt:nhận thức, tư tưởng, trình độ tay nghề và tác phong công nghiệp. Nhờ đó, người lao động được đánh giá cao sau khi kết thúc khoá học. Với sự giúp đỡ của các Trung tâm khác và của Ban chủ quản, Trung tâm tiếp tục phối hợp với các huyện dành đất cho khu công nghiệp, đồng thời sử dụng cơ sở vật chất sẵn có của huyện để tổ chức nhiều lớp học có thười gian từ ba đến bốn tháng cho lực lượng lao động có trình độ văn hoá hết lớp 12 là 687 người chiếm 87%. Trung tâm đã phối hợp đào tạo được 326 học sinh, số học sinh trúng tuyển vào khu công nghiệp là 104 người. Tính đến hết tháng sáu năm 1999, tổng số học sinh đã qua đào tạo được nâng lên là 902 em, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Trong số lao động đỗ tuyển chiếm tỷ lệ 50% đã qua đào tạo. Số còn lại chiếm 20% trúng tuyển không qua đào tạo. (Ví dụ:do cơ quan hay tổ chức công đoàn giới thiệu, con em cán bộ xã, con em cán bộ huyện ). Nhưng số lao động tuyển từ bên ngoài hầu như không đáp ứng được mọi yêu cầu công việc do công ty đưa ra. Qua số liệu thống kê, ta thấy chất lượng lao động sau khi đào tạo được tăng lên đáng kể. Để thúc đẩy hơn nữa công tác đào tạo, tổng cục dạy nghề đang từng bước quy hoạch, tuyên truyền xây dựng kế hoạch và đầu tư cho việc giáo dục từ học sinh đến các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. Từ đó nhằm thu hút và đào tạo nhiều nghề cho lực lượng lao động trẻ, tạo tiền đề cho việc dự tuyển vào làm việc trong các khu công nghiệp nói riêng và cá doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội nói chung. 6-Chi phí đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Để có nguồn nhân lực cho tuyển dụng và nâng cao chất lượng lao động giới thiệu cho các khu công nghiệp. Bên cạnh việc phối hợp với các trường dạy nghề, các đơn vị đào tạo hợp pháp khác, Trung tâm thuê địa điểm tổ chức mở các lớp học dạy các môn học, như: *Tiếng Anh cơ sở. *Tiếng Trung cơ sở. *Lớp nâng cao gồm các môn học: Toán cơ sở , Tiếng Anh trong nhà máy,luật lao động,an toàn vệ sinh lao động. Trước vấn đề thất nghiệp, Trung tâm dự kiến tự đào tạo 200 học sinh và đã đào tạo được 150-160 học sinh, trong đó liên kết đào tạ nghề là 70-80 học sinh. Dựa trên sự chỉ đạo của Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất kết hợp với thực trạng của các huyện, Trung tâm đưa ra mức đóng góp phù hợp với mục tiêu là đảm bảo mọi chi phí vừa đủ cho khoá học. Mặt khác, đa phần học viên đều là con em làm nông nghiệp nên họ cũng chỉ đáp ứng được một loại học phí nhất định. Do đó,mức phí mà mỗi học viên phải đóng cho một khoá học từ ba đến bốn tháng là 200000 đồng. Mỗi lớp thường từ 30 đến 40 học sinh trong tổng số học viên một khoá học là 160 em. Trong đó, Trung tâm phải thuê địa điểm lớp học, liên kết với Trung tâm dạy nghề và trả tiền cho giáo viên,.. Cụ thể được minh hoạ như sau: a-Thu từ đào tạo: Thực hiện 70% Quản lý 30% b-Liên kết với Trung tâm dạy nghề: Thực hiện 10% Quản lý 90% c-Thu bán hồ sơ: Thực hiện : 60% Quản lý : 40% d-Tiền thanh toán cho giáo viên: Giáo viên : 45% Bộ phận : 35% Trung tâm : 20% Thực tế ở Hà Nội- nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng và công nhân kỹ thuật. Hàng năm, có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc. Nhằm tạo ra khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp và chế xuất, nên ngay sau khi thành lập Trung tâm đã phối hợp với các Trung tâm dạy nghề để tổ chức đào tạo cho người lao động. Thực tế, từ tháng 5 năm 1997 đến tháng 12 năm 1997, Trung tâm đã đào tạo được hai khoá học với số lượng như sau: Khoá I : Từ tháng 5/1997 đến 8/1997. Khoá II: Từ tháng 9/1997 đến 12/1997. Bảng thống kê về số lượng và chi phí đào tạo năm 1997: Khoá STT Thời gian Học phí/em (đồng) Tổng số học sinh/lớp Tổng số học phí (đồng) I 1 2 3 3 3 3 160.000 160.000 160.000 25 30 35 4.000.000 4.800.000 5.600.000 Tổng 3 3 90 14.400.000 II 1 2 3 3 3 3 160.000 160.000 160.000 30 35 35 4.800.000 5.600.000 5.600.000 Tổng 3 3 100 16.000.000 Toàn bộ 6 6 190 30.400.000 Qua bảng trên ta thấy: Số tiền mà mỗi học sinh đóng góp rất hợp lý với điều kiện và khả năng của người lao động. Bởi vì họ đa phần là con em trực tiếp làm nông nghiệp, nên họ chỉ có khả năng bảo đảm được mức phí và thời gian ngắn để theo học nghề. Trong hai đợt đào tạo, số lượng học sinh đăng ký học tập tăng lên đáng kể. Số học sinh đợt hai tăng lên so với đợt một là 10 em. Nhờ đó, số phí thu từ hoạt động đào tạo là 1.600.000 đồng. Như vậy, nhu cầu học tập để trang bị cho mình một nghề nhất định của người lao động ngày một tăng lên. Theo số liệu trên ta có tổng số tiền thu được từ đào tạo trong năm 1997 là 14.400.000+16.000.000= 30.400.000 đồng Trong đó: Số tiền thực hiện là 70%*30.400.000= 21.280.000 đồng Và số tiền qản lý là 30%*30.400.000= 9.120.000 đồng Với tổng số tiền thực hiện là 21.280.000 đồng có 25% liên kết với Trung tâm dạy nghề: 21.280.000*0,25= 5.320.000 đồng Vậy số tiền Trung tâm có là: 15.960.000 đồng. Trong đó có: Tiền thanh toán cho giáo viên: 1.560.000*45% =7.182.000 đồng Tiền thanh toán cho bộ phận : 15.960.000*35%=5.586.000 đồng Tiền nộp cho Trung tâm :15.960.000*20%=3.192.000 đồng Có thể minh hoạ như sau: Đồ thị minh hoạ mối quan hệ giũa quản lý và thực hiện năm 1997 *Từ năm 1998 đến 1999: Trung tâm đã có một bước tiến trong công tác đào tạo. Trong một năm, Trung tâm tổ chức được ba khoá học và tạo công ăn việc làm cho người lao động với số lượng gấp 1,5 lần so với năm 1997. Mục đích của đào tạo nghề được dựa trên nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và chế xuất. Thời gian đào tạo các khoá học như sau: Khoá I : Từ Tháng 2/1998 đến Tháng 5/1998 Khoá II : Từ Tháng 6/1998 đến Tháng 9/1998 Khoá III: Từ Tháng 10/1998 đến Tháng 12/1998 Ta có bảng sau: Khoá STT Lớp Học phí/hs (đồng) Tổng số hs/lớp Học phí/lớp (đồng) I 1 2 3 180.000 180.000 180.000 22 30 27 3.960.000 5.400.000 4.860.000 Tổng 3 79 14.220.000 II 1 2 3 180.000 180.000 180.000 32 40 45 5.760.000 7.200.000 8.100.000 Tổng 3 117 21.060.000 III 1 2 3 180.000 180.000 180.000 30 35 31 5.400.000 6.300.000 5.580.000 Tổng 3 96 17.280.000 Toàn bộ 9 292 52.560.000 Bảng thống kê về số lượng và chi phí đào tạo năm 1998 Từ bảng trên ta thấy, nhu cầu về đào tạo của lao động trong các huyện tại các khu công nghiệp và chế xuất tăng nhiều nhất là tháng 6 năm 1998 đến tháng 9 năm 1998 với số học sinh là 117 em và số tiền thu được từ đào tạo là 21.060.000 đồng. Đồ thị minh hoạ sự tăng giảm giữa số học sinh và học phí năm 1998 Mặt khác, đây là thời gian các em học sinh tốt nghiệp PTTH và PTCS nên một yêu cầu đặt ra đối với các Ban, ngành là phải hướng các em thi trượt vào những ngành nghề nhất định. Đây cũng là một việc làm có tính xã hội để tránh nạn thất nghiệp ở các địa phương. Từ đó ta có được: Số tiền thu từ đào tạo là 52.560.000 * 70%= 36.792.000 đồng Số tiền thu từ quản lý là 52.560.000 * 30%= 15.768.000 đồng Với số tiền thực hiện là 36.792.000 đồng bao gồm: 25% tiền liên kết với trung tâm dạy nghề(thuê địa diểm) là: 36.792.000*0,25= 9.198.000 đồng Vậy số tiền Trung tâm thu về 27.594.000 đồng bao gồm: Tiền thanh toán cho giáo viên 27.594.000*45% =12.417.300 đồng Tiền thanh toán cho bộ phận 25.794.000*35% = 9.657.900 đồng Tiền thanh toán cho Trung tâm 27.594.000*20%= 5.518.800 đồng Có thể minh hoạ như sau: Đồ thị minh hoạ mối quan hệ giữa quản lý và thực hiện năm 1998 *Từ năm 1999 đến năm 2000: Trung tâm đã tổ chức bốn khoá học ngắn hạn. Mỗi khoá học kéo dài trong ba tháng với số lượng học sinh đăng ký ngày càng nhiều do nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và chế xuất về các ngành nghề cụ thể: điện dân dụng, hàn, sơn, may công nghiệp,.. Hầu hết, số học sinh tốt nghiệp khoá học đều được cấp chứng chỉ và giới thiệu dự tuyển vào làm việc tại các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong số lao động dự tuyển có tới 50% số đỗ tuyển là lao động đã qua đào tạo. Ta có: Bảng thống kê về số lượng và chi phí đào tạo năm 1999: Khoá STT Học phí/học sinh (đồng) Tổng số hs Học phí/lớp (đồng) I 1 2 3 200.000 200.000 200.000 25 30 28 5.000.000 6.000.000 5.600.000 Tổng 3 83 16.600.000 II 1 2 3 200.000 200.000 200.000 40 42 45 8.000.000 8.400.000 9.000.000 Tổng 3 127 25.400.000 III 1 2 3 200.000 200.000 200.000 41 43 45 8.200.000 8.600.000 9.000.000 Tổng 3 129 25.800.000 IV 1 2 3 200.000 200.000 200.000 30 24 27 6.000.000 4.800.000 5.400.000 Tổng 3 81 16.200.000 Toàn bộ 12 420 84.000.000 Ta có thể minh hoạ như sau: Đồ thị mô tả sự tăng giảm của số học sinh và số học phí năm 1999 Thông qua đó ta có được: Số tiền thực hiện :84.000.000 * 70%= 58.800.000 đồng Số tiền quản lý :84.000.000 * 30%= 25.200.000 đồng Với số tiền thực hiện 58.800.000 ta có: 25% liên kết với Trung tâm dạy nghề và thuê địa điểm: 58.800.000 * 25%= 14.700.000 đồng Vậy số tiền Trung tâm thu về : 58.800.000 – 14.700.000= 44.100.000 đồng Bao gồm: +Tiền thanh toán cho giáo viên: 44.100.000*45%=19.845.000 đồng +Tiền thanh toán cho bộ phận : 44.100.000*35%=15.435.000 đồng +Tiền thanh toán cho Trung tâm: 44.100.000*20%=8.820.000 đồng Mặt khác ta có thể minh hoạ như sau: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa quản lý và thực hiện năm 1999 **Như vậy, nhìn chung qua ba năm 1997, 1998, 1999 ta thấy: +Số lượng đào tạo ngày càng tăng lên. +Chất lượng lao động sau khi đào tạo nghề được nâng cao +Nạn thất nghiệp đang giảm dần trong các huyện dành đất cho khu công nghiệp +Số phí đem lại cho Trung tâm ngày càng cao. *Để phân tích rõ hơn, có thể minh hoạ bằng đồ thị sau: Về quản lý: Về thực hiện: Trong thời gian ba năm, tổng số học sinh đã qua lớp đào tạo là 902 em. Toàn bộ số học sinh sau khi qua lớp đào tạo và có tay nghề đều được giới thiệu dự tuyển và đỗ tuyển với tỷ lệ là 50%. Ngoài ra, số đỗ tuyển không qua đào tạo là 20%. Như vậy, số lượng và chất lượng sau khi được đào tạo đã nâng lên một cách đáng kể. Tóm lại, ta thấy công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngày càng có hiệu quả hơn. Bên cạnh việc đào tạo nghề cho lao động phổ thông, Trung tâm đã giới thiệu cho học sinh sau khi kết thúc khoá họcvào dự tuyển tại các khu công nghiệp và khu chế xuất. Công tác đào tạo góp phần làm giảm nạn thất nghiệp trong cả nước nói chung và trong khu công nghiệp và chế xuất nói riêng. Thêm vào đó, trình độ của đội ngũ cán bộ giảng dạy có chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu Trung tâm đặt ra. Cụ thể: STT Họ tên Trình độ Chuyên môn Số tiết giảng/ngày Tổng số tiết /khoá 1 Nghiêm Hoàng Tuấn ĐH Ngoại ngữ 4 180 2 Phạm Hoàng Lan ĐH Kinh Tế 4 160 3 Ngô Văn Hoá ĐH Kinh Tế 4 144 V-Nhận xét: Trước thực trạng phần lớn máy móc thiết bị phục vụ cho công tác dạy nghề được trang bị từ thời bao cấp đã bị lạc hậu, thiếu thốn. Đội ngũ giáo viên dạy nghề vừa đang bị suy giảm về số lượng, vừa tụt hậu về trình độ khoa học công nghệ, quản lý và khả năng sư phạm do quá ít được chú ý bổ sung, đào tạo lại. Trong cả nước, năm 1991, số giáo viên dạy nghề có 6300 người, tới năm 1995 chỉ còn 4600 người ( trong đó 40% không đủ tiêu chuẩn quy định ). Đặc biệt về nội dung chương trình,giáo án ,trước đây đã có thời được xây dựng tương đối đầy đủ. Nhưng do chuyển đổi cơ chế quản lý, do sự tiến bộ nhanh của khoa học công nghệ, nhiều nghề mới xuất hiện, công tác dạy nghề không theo kịp, dẫn tới bị động, đối phó, buông lỏng. Trong hệ thống dạy nghề chính quyvẫn chưa có quy mô, bài bản được xây dựng kỹ lưỡng. Để khắc phục tình trạng đó, Trung tâm đã phối hợp với các Trung tâm dạy nghề, trường tư thục, mở lớp đào tạo ngắn hạn cho lao động ưu tiên dành đất cho khu công nghiệp và khu chế xuất. So với những năm trước đây, số lượng lao động kỹ thuật có tay nghề, có chuyên môn cao trông phạm vi khu công nghiệp và chế xuất đã tăng lên nhiều về số lượng và chất lượng, đặc biệt là số công nhân kỹ thuật trong nhóm tuổi từ 20 đến 34 tuổi. Trong quá trình đào tạo, Trung tâm đã gặp phải nhiều khó khăn do sự phân bổ không đồng đều về số lượng và chất lượng lao động ở các địa phương trong thành khu công nghiệp. Hầu hết, số lao động trong khu công nghiệp mới chỉ tốt nghiệp PTTH và Trung cấp. Mặc dù lao động có tình độ cao đẳng, đại học và trên đại học tuy đã tăng lên nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu cho công nghiệp hoá hiện đại hoá. Riêng số công nhân kỹ thuật hoặc số cán bộ kỹ thuật trung cấp đã tăng lên về số lượng, nhưng vẫn còn quá ít so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt có sự mất cân đối giữa cán bộ đại học, cán bộ trung học và công nhân kỹ thuật. Theo số liệu thống kê ta có: Công nhân Trung học chuyên nghiệp Đại học-Cao đẳng 0,6 0,83 1 Tỷ lệ này mất cân đối so với đội ngũ nhân lực trong xã hội, nhất là khi đại bộ phận lao động đang làm việc với quy trình công nghệ nửa cơ giới và cơ giới. Với trình độ sản xuất hiện nay, cần có đội ngũ nhân lực theo tỷ lệ trình độ hợp lý như sau: 1 kỹ sư, 5 đến 10 kỹ thuật viên, 40 đến 60 công nhân. Do đó, Trung tâm đã khắc phục một phần đáng kể trong điều chỉnh tỷ lệ tuyển sinh vào các hệ đào tạo và đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động trong khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội. Phần III Hoàn thiện công tác đào tạo & phát triển nguồn nhân lực I-Quan điểm định hướng chiến lược về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: 1-Quan điểm định hướng: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đó là quan điểm nhất quán được mọi ngành, mọi cấp nhận thức đúng đắn và vận dụng một cách sáng tạo.Trước hết, giáo dục phải mang tính xã hội hoá, là sự nghệp của toàn dân. Nhiều năm qua trong những hoàn cảnh khó khăn nhân dân ta đã có đóng góp to lớn để xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo Trong xã hội, quyền được hưởng các cơ hội giáo dục là một quyền cơ bản của con người. Trong cơ chế bao cấp trước kia, chi phí giáo dục và đào tạo được cân đối trong kế hoạch thống nhất của Nhà nước. Trong cơ chế mới, nhà nước coi giáo dục và đào tạo là một phần quan trọng trong hệ thống hạ tầng cơ sỏ của xã hội; nó được thiết lập để kế thừa, tiếp thu và mở rộng nhữnggiá trị về đạo đức, văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ; nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Nhà nước tài trợ một phần rất quan trọng về ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Ngoài các bậc học phổ cập, mọi người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải chi phí cho đào tạo; các cơ sở giáo dục và đào tạo được thu học phí, chi phí chỉ nghiên cứu triển khai, tư vấn trong khuôn khổ quy định của nhà nước; người nghèo ở các vùng khó khăn chậm phát triển không có điều kiện học tập. Nhà nước và các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải đề ra các chính sách:miễn phí, cấp học bổng, cho vay vốn, đồng thời ngành giáo dục và đào tạo tổ chức các loại trường, hình thức giáo dục và đào tạo phù hợp với đối tượng này. Để thực hiện nghị quyết Trung ương II (khoá 8) về công tác giáo dục-đào tạo và nghị quyết Trung ương III (khoá 8) về chiến lược công tác cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá có hiệu quả. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo góp phần tích cực hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá, Trung tâm dịch vụ việc làm đã phối hợp với các Trung tâm khác ở huyện Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh,.. để tổ chức đào tạo cho người lao động ưu tiên dành đất cho các khu công nghiệp và chế xuất. 2-Chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Trung tâm thống nhất quản lý công tác xây dựng chương trình đào tạo và đào tạo nghề nhằm chống mọi biểu hiện thương mại hoá giáo dục, khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo. Trung tâm cấp bằng, chứng chỉ cho học sinh sau khi kết thúc khoá học. Trung tâm xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho khu công nghiệp và chế xuất. Đồng thời, qua việc đào tạo, Trung tâm trang bị cho người lao động có tay nghề kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ cao để họ tham gia trực tiếp vào dây truyền sản xuất của từng công ty trong khu công nghiệp. Nhờ đó, Trung tâm đã góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong khu công nghiệp từ 72,5 xuống còn 55%. Thực hiện nghiêm chỉnh Quyết định 874/TTg ngày 20 tháng 11 năm 1996 về công tác đào tạo, nâng cao trình độ để trang bị kiến thức cho người lao động trong nền kinh tế thị trường. Đối với công tác đào tạo và đào tạo nghề, Trung tâm tăng cường kiểm tra, thanh tra chuyên môn của giáo viên giảng dạy. Trên cơ sở đó, Trung tâm tổ chức bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ giảng dạy. Trung tâm xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho khu công nghiệp và chế xuất đến năm 2020, trong đó có kế hoạch đào tạo và huấn luyện. Tuy vậy, do nguồn nhân lực còn hạn chế, kinh nghiệm còn ít nên không thể xây dựng ngay một hệ thống giáo dục đào tạo vừa có quy mô lại vừa có chất lượng cao. Để đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng trong đó chú ý hơnđến phát triển về số lượng thì phải chấp nhận sự không đồng đều về chất lượng giữa các bộ phận khác nhau trong hệ thống giáo dục quốc dân. Song song với việc mở rộng quy mô toàn bộ hệ thống giáo dục, cần tập trung nguồn lực trong hệ thống trường chuyên, trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học. Trước mắt hệ thống này có quy mô nhỏ, trong đó thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc việc tuyển chọn học sinh, đội ngũ giáo viên và những người quản lý. Hệ thống này có quy mô nhỏ, trong đó thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc việc tuyển chọn học sinh, đội ngũ giáo viên và những người quản lý. Hệ thống này phải được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, được ưu tiên về cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí cho người lao động để bồi dưỡng nhân tài, tạo nên nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao và hiện đại - lực lượng động lực phát triển khoa học - kỹ thuật, kinh tế xã hội, góp phần chống nguy cơ tụt hậu. Có thể nói, hệ thống này là các hạt nhân giúp việc nâng cao chất lượng của cả hệ thống giáo dục và đào tạo. II-Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: 1-Mục tiêu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Hiện nay, ở các nước Châu á đang vang lên tiếng chuông báo động về sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động có trình độ tay nghề và chuyên môn cao. Theo đánh giá của các quốc gia Châu á,nguyên nhân chính của tình hình nêu trên không phải do nạn chảy máu chất xám mà do công tác đào tạo không theo kịp trình độ cải cách và phát triển kinh tế hiện nay. Do đó, phương án chính là phải đầu tư mạnh để phát triển giáo dục cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Giáo dục Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn,quy mô giáo dục nhỏ bé, chất lượng giáo dục yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để đảm bảo trong vòng 20 năm tới, Việt Nam có thể hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, giáo dục và đào tạo phải thực hiện các mục tiêu cơ bản để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Xuất phát từ yêu cầu đó, mục tiêu chung của giáo dục và đào tạo từ nay đến hết năm 2020 như sau: +Thứ nhất, ở rộng quy mô và hệ thống giáo dục và đào tạo đạt trình độ phát triển của các nước trên thế giới. +Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện. +Thứ ba, bồi dưỡng con người Việt Nam có đủ phẩm chất, năng lực thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, có vai trò xứng đáng trong phân công và hợp tác quốc tế. *Mục tiêu chung thể hiện thông qua hệ thống chỉ tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thời kỳ 1995-2020 như sau: STT Cấp học 1995 2000 2010 2020 1 Học sinh tiểu học (triệu người) -Tỷ lệ học sinh đi học (%) 10,5 106 11,72 103 12,3 100 14,25 100 2 Học sinh trung học cơ sở (triệu người) -Tỷ lệ học sinh đi học (%) 3,68 50 4,91 60 7,44 78 10,94 95 3 Học sinh trung học chuyên ban và sau trung học cơ sở (triệu người) -Tỷ lệ học sinh đi học (%) 0,9 19 1,59 30 2,76 45 4,26 60 4 Sinh viên đại học sau trung học chuyên ban (triệu người) -Tỷ lệ học sinh đại học (%) 0,368 5,3 0,54 7 1,335 15 2,575 25 Dân trí là nền tảng để xây dựng và phát triển nhân lực. Mục tiêu chung của dân trí là: Thứ nhất: Xoá nạn mù chữ, nâng tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ từ mức 89% hiện nay lên mức 94% vào năm 2000 và 97% vào năm 2020; tăng tỷ lệ thanh thiếu niên dưới 23 tuổi đi học từ 47% hiện nay lên 60% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Từ đó nâng số năm đi học của người lớn từ 25 tuổi trở lên từ 5,0 hiện nay lên 9,0 năm vào năm 2020 ( tương đương mức của Hàn Quốc hiện nay ). Thứ hai: Tăng tỷ lệ học sinh đến các trường liên tục từ năm 1995 đến năm 2020. Thứ ba: Nâng cao tỷ lệ học sinh đại học ở tuổi 17-23 từ 2,2% ở mức hiện nay lên 20% vào năm 2010 và 25% vào năm 2020, tăng về số lượng những người có học vị cử nhân, cao học, tiến sĩ, nâng cao chất lượng đội ngũ những nhà khoa học ở các trường trong khu vực và trên thế giới. Để chuẩn bị lực lượng lao động cho xã hội, mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực tập trung vào đào tạo hướng nghiệp cho học sinh một cách thiết thực để có kỹ năng lao động kỹ thuật. Tỷ lệ học sinh được hướng nghiệp cần phải tăng lên liên tục từ 10% hiện naylên 20% và 30% vào năm 2020. Lao động có tay nghề được đào tạo theo nhiều hình thức ngành nghề khác nhau: hàn, sơn, tiện, điện dân dụng,..; phấn đấu để chứng chỉ nghề của Việt Nam được công nhận trong hiệp hội các nước Asean. Nâng tỷ lệ lao động được dạy nghề từ 12% hiện nay lên 25% vào năm 2000và 60% vào năm 2020. Nhân tài là động lực của sự phát triển và có tác động thúc đẩy tiến bộ trong công tác sản xuất kinh doanh, quản lý, là động lực tạo nên những thế mạnh trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Để bồi dưỡng nhân tài, cần xây dựng hệ thống trường chuyên, trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học, phấn đấu đến năm 2000 ở bậc phổ thông thuộc hệ thống này phải đạt chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế và đến năm 2020 tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường đại học thuộc hệ thống này lên tới 20%. Bên cạnh đó, việc đào tạo bồi dưỡng nhân tài ở nước ngoài cũng rất quan trọng cùng với đào tạo nhân tài trong nước. Đến nay, số lượng sinh viên, nghiên cứu sinh đi học ở nước ngoài được nâng lên ngang với mức trước năm 1990, có khoảng 10% cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý chủ chốt trong các ngành được đào tạo ngắn hạn, nâng lên mức 20% vào năm 2010 và 30% vào năm 2020. Các mục tiêu giáo dục và đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đủ mạnh. Trước hết phải khắc phục tình trạng thiếu giáo viên mầm non, mẫu giáo và tiểu học. Thứ hai, khắc phục tình trạng hẫng hụt đội ngũ giáo viên có trình độ cao, chuyên môn giỏi và dày dạn kinh nghiệm; tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên mới thay thế, thường xuyên đào tạo lại giáo viên. Hàng năm, phải tuyển 3500-4000 người vào hệ cao học 1000-1500 nghiên cứu sinh để đến năm 2000 nước ta có 10-11 nghìn người có học vị thạc sĩ, 4500-5000 người có học vị tiến sĩ. Ngoài ra, Trung tâm dịch vụ việc làm phối hợp với Trung tâm dạy nghề để đào tạo và cấp chứng chỉ cho từ 2000-2500 lao động phổ thông có trình độ văn hoá, nghề nghiệp, ngoại ngữ nhất định phục vụ yêu cầu của nhà đầu tư trong các khu công nghiệp vào năm 2000. Đồng thời, Trung tâm cũng tiến hành đào tạo lại cho các học viên đã qua lớp đào tạo nhưng không theo kịp với dây chuyền sản xuất của công ty yêu cầu. Việc đào tạo này nhằm nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn cho người lao động. Hơn nữa, điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục là phải kết hợp giáo dục với nghiên cứu khoa học, xoá bỏ mô hình giáo dục theo kiểu hàn lâm. Các trường đại học phải trở thành các trung tâm nghiên cứu đầu ngành của hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học đến các nghiên cứu ứng dụng triển khai để phục vụ các thành phần kinh tế. 2-Các giải pháp chính thực hiện: Mục tiêu công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trở thành thực hiện được hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức, các biện pháp thực hiện, khả năng nội sinh và ngoại sinh, trong đó các biện pháp thực hiện có vị trí rất quan trọng. Do vậy, Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu về công tác dạy nghề thời kỳ 1998-2000. Đó cũng là xuất phát từ yêu cầu được học nghề của nhân dân-trước hết là lớp trẻ, bước vào tuổi lao động. Đồng thời, từ yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vừa được tái lập trực thuộc Bộ Lao động-Thương Binh và Xã hội phải làm gì và làm thế nào để cùng các cấp các ngành nhanh chóng khắc phục được sự yếu kém, bất cập trong công tác này hiện nay hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao? Để trả lời đầy đủ phải đề ra một phương án kkhả thi, trình chính phủ phê duyệt và thực hiện. Trong khuôn khổ bài viết này, em chỉ có thể nêu một số định hướng khái quát nhất. a-Về quan điểm: *Công tác dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là yếu tố góp phần quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Đây là vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội - thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Bởi vậy, chuyển sang cơ chế mới, Nhà nước không thể coi nhẹ mà trái lại cần quan tâm hơn tới việc định hướng, quy hoạch, kế hoạch, đầu tư nguồn nhân lực và quản lý tố hơn công tác này. *Sự đổi mới trong cơ chế thị trường cần xã hội hoá công tác dạy nghề. Các cấp các ngành, các đoàn thể, quần chúng, trường công, trường tư, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cả quốc tế cần và có điều kiện đều tham gia vào sự nghiệp này. Tất nhiên vẫn có sự phân giao phạm vi, trách nhiệm rõ ràng. Các trường dạy nghề chính quy do nhà nước đầu tư, quản lý và giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước cũng cần thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu và chất lượng đào tạo thông qua hệ thống tiêu chuẩn nghề, giáo trình, giáo án mẫu, với từng cấp học, gắn với các loại bằng cấp chứng chỉ. *Công tác dạy nghề phải lấy chất lượng làm trọng, đặc biệt là khả năng thực hành. Chất lượng đào tạo phải do người sử dụng đánh giá, thông qua tỷ lệ số học sinh ra trường có việc làm đúng nghề. Bởi vậy, trước mắt, mặc dù sức ép về số lượng ,quy mô đào tạo rất lớn, nhưng vẫn phải tập trung chủ yếu nguồn lực vào kiện toàn củng cố các cơ sở dạy nghề hiện có, việc mở thêm các cơ sở mới phải làm từng bước, trên cơ sở xây dựng tổng thể. b-Các giải pháp chính: *Tổng cục dạy nghề đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 7 năm 1998, cần bắt tay ngay vào cùng các cấp các ngành nghiên cứu xây dựng trình Chính phủ, quy hoạch, kế hoạch về công tác dạy nghề cho giai đoạn 1998-2000 và những bước tiếp theo. Trên cơ sở bám sát và phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của từng ngành, từng địa phương. Nội dung quy hoạch, kế hoạch, không chỉ hoạch định về quy mô chất lượng đào tạo, mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường dạy nghề: Trung ương ( trực tiếp là Tổng cục dạy nghề), nắm các trường nào cấp nào ? Chẳng hạn, Trung ương cần quản lý một số cơ sở dạy nghề kỹ thuật cao, trực tiếp cung ứng lao động cho các thành phố trực thuộcTrung ương, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất.. Trung ương cũng cần trực tiếp quản lý các trường sư phạm nghề để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Còn các ngánh sản xuất, các địa phương cần nắm những trường cụ thể. Mỗi tỉnh, vùng nên bố trí tổ chức các trường dạy nghề riêng để đáp ứng yêu cầu công việc của các doanh nghiệp trong khu vực đó cần. Tuy nhiên, các trường dạy nghề phải được quy hoạch và có kế hoạch dạy nghề đúng đắn,phù hợp thì khi đó các biện pháp đầu tư nguồn lực, tăng cường quản lý mới có khả thi và có hiệu quả. *Công tác dạy nghề cần sớm được ổn định và tăng cường về tổ chức cán bộ. Thủ tướng Chính phủ giao chức năng quản lý Nhà nước về dạy nghề, và thành lập lại Tổng cục dạy nghề trực thuộc Bộ lao động-Thương Binh và xã hội, là bước khởi đầu quyết định,tạo thuện lợi thực thi tốt công tác này. Do sự nghiệp dạy nghề là của toàn dân,các cấp,các ngành theo sự hướng dẫn của Chính phủ, cần quan tâm, hình thành sớm về tổ chức điều động bố trí những cán bộ có tài, có đức và tâm huyết đảm nhiệm công việc. *Đi đôi với những biện pháp xây dựng quy hoạch, kế hoạch là biện pháp xây dựng tiêu chuẩn để hướng dẫn và quản lý thống nhất công tác đào tạo nghề như: hệ thống danh mục nghề, công nghệ dạy nghề cho từng loại bằng cấp chứng chỉ, giáo trình giáo án mẫu; hệ thống kiểm định chất lượng.. Chỉ sớm có các văn bản pháp quy trên thì công tác dạy nghề mới đi vào nề nếp, đảm bảo chất lượng và tránh được tiêu cực. *Nhà nước cần tăng cường và ưu tiên đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài đầu tư từ ngân sách Nhà nước có chính sách, biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác như: giao cho các địa phương dành quỹ đất cho việc xây dựng cơ sở dạy nghề, huy động đóng góp của người học, của người sử dụng lao động; lồng ghép công tác dạy nghề với các chương trình kinh tế xã hội khác ( chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo ); cho phép sử dụng nguồn vốn vay hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế cho công tác dạy nghề. *Giải pháp có ý nghĩa quan trọng: Giải pháp cơ bản lâu dài là cần sớm thiết lập được một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ khuyến khích công tác học nghề và dạy nghề như: các chính sách gắn dạy nghề với sử dụng, với việc, làm, theo các quy định trong Bộ luật lao động; các chính sách khuyến khích giáo viên dạy nghề; chính sách khuyến khích mở các cơ sở dạy nghề ở nông thôn, miền núi;phân cấp trách nhiệm quyền hạn giữa Trung ương và địa phương trong công tác dạy nghề. Ngoài ra, Nhà nước cần phải chăm lo tới đời sống của đội ngũ giáo viên; cải cách chế độ tiền lương,phụ cấp và nâng cao vị trí xã hội cho người dạy học. III-Một số kiến nghị về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Trước khi đưa ra kiến nghị về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong cả nước nói chung và trong khu công nghiệp nói riêng, chúng ta cần hiểu rõ những vấn đề cơ bản sau: 1-Những tồn tại và thách thức của công tác dạy nghề: a-Những tồn tại: Việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn manh mún, tản mạn, chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động ký thuật và công nghệ trẻ đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành vẫn đang tiến hành nhưng do nhu cầu và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm, một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng được, nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây truyền công nghệ hiện đại thì lại hoàn toàn không thoả mãn hoặc phải đào tạo lại. Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn khoảng thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực. Tại khu vực nông thôn cũng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đối với đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đang có xu hướng phát triển. Tuy nhiên, quy mô và thiết bị sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế. Lực lượng lao động kỹ thuật và công nghệ nông thôn còn nhiều mặt hạn chế. Lực lượng lao động kỹ thuật và nông thôn cần được đào tạo lại vì trong tổng số 31,8 triệu lao động ở khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích luỹ kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là nơi đây phải đổi mới các quy trình công nghệ, cải tiến quy mô sản xuất và kỹ thuật hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ được đào tạo ở đâu, học nghề như thế nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây cũng là có thể xem như một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới mà không thể đề cập. Trong cơ chế thị trường, việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh tế Nhà nước như trước đây thì sẽ không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí. Bài học của các nước đang phát triển như: Singapore, Thái Lan, Inđonesia, Hàn Quốc, Đài Loan,..cho thấy: thành phần kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò hết sức quan trọng trong đào tạo cũng như đào tạo lại và phát triển nguồn nhân lực. b-Những thách thức của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Quy mô năng lực đào tạo tính đến năm 2000 không tăng kịp theo mục tiêu do Đại hội VIII của Đảng đề ra. Đồng thời, cũng không đáp ứng được yêu cầu học nghề ngày càng lớn của toàn xã hội ( hàng năm cả nước có 90 vạn học sinh tốt nghiệp PTTH và THCS, không vào được các trường đại học, trung học chuyên nghiệp.. cần được dạy nghề trước khi bước vào cuộc đời lao động, chưa kể nhu cầu bồi dưỡng đào tạo lạilực lượng lao động hiện có ). Thêm vào đó, các cơ sở dạy nghề khó đáp ứng được nhu cầu về công nhân, kỹ thuật cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các công ty xuất khẩu lao động và các doanh nghiệp, đặc biệt là ở một số ngành nghề mới, kỹ thuật cao. Với quy mô năng lực dạy nghề hiện nay, nếu không kịp thời nâng cao về chất lượng, đổi mới về cơ cấu nghề, đào tạo gắn với thị trường lao động - thì vẫn không có người học, hoặc có nhưng chất lượng thí sinh không đảm bảo. Vì thế, vẫn tiếp tục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động. Học sinh sau khi tốt nghiệp ra trường khó tìm được việc làm. Từ thực tế đào tạo và đào tạo lại cán bộ,công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi bật lên một số tình trạng sau đây: Một là, hầu hết số thanh niêncó khả năng ( cả về tinh thần lẫn học lực ) đều muốn vào đại học và muốn học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn học trung học kỹ thuật hoặc công nhân kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là ở nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có trình độ đại học lại nhiều hơn số cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc cao. Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo lại trung cấp và công nhân kỹ thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, thể hiện ở mức lương gần như tương đồng ( thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp thấp hơn công nhân ). Ngoài ra, công việc đôi khi lại rất giống nhau ( trừ một số ngành như y dược..). Từ đó dẫn đến tâm lý đối với học sinh trẻ là học công nhân kỹ thuật bậc cao hơn là đi trung cấp, vì thời gian đào tạo gần như nhau, công việc đôi khi lại tốt hơn cho bản thân sau khi ra trường và hành nghề. Ba là, hệ thống quản lý đào tạo lại công nhân còn chậm đổi mới và không linh hoạt trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường. Vì sự đòi hỏi ở người công nhân hiện đại không chỉ ở tay nghề mà còn cả ở thể lực và trí lực, vì điều đó có liên quan đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Bốn là, trong đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta hiện nay còn có nhiều người mù chữ và chưa có bằng cấp. Thực tế, ở tất cả các nước tiên tiến, mọi công việc dù đơn giản nhất vẫn cần qua đào tạo, chỉ như vậy mới nâng cao được chất lượng sản phẩm. Đồng thời làm tăng tính năng động của đội ngũ lao động để họ có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. Năm là, đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta, tính đơn nghề còn phổ biến trong khi thực tế muốn có việc làm thường xuyên cần phải giỏi một nghề và biết nhiều nghề. Điều này có được khắc phục hay không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ văn hoá và kỹ năng đào tạo đội ngũ lao động này như thế nào trong thời gian tới. 2-Một số kiến nghị: *Tiếp tục tăng cường đào tạo cán bộ có trình độ kỹ thuật cao đáp ứng cho các ngành kinh tế xã hội theo hướng chuyên sâu và giỏi trong lĩnh vực sản xuất, công nghệ, nâng dần tổng số cán bộ đại học tính trên một vạn dân đang còn thấp như hiện nay. *Phát huy và tận dụng các chương trình đào tạo do nước ngoài tài trợ, gồm đào tạo trong nước và đào tạo ngoài nước, kinh phí do phía nước ngoài chịu, giúp ta vừa năm bắt được kỹ thuật và công nghệ mới nhất vừa có thể bắt tay ngay vào sản xuất và điều hành sản xuất khi ra trường. *Cần có sự đào tạo cân đối về tỷ lệ giữa cán bộ có trình độ đại học, trung học kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao, giảm mạnh sự mất cân đối hiện thời. Mặt khác, cần phải có hướng điều chỉnh sớm thì mới phát huy được tiềm năng thực sự của nguồn nhân lực. *Xem xét và điều chỉnh lại hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm có được số lượng và chất lượng phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế chung của đất nước. Hiện tại, hệ thống đào tạo ở nước ta nhìn chung do Bộ chủ quản quản lý, ngoài ra còn có các địa phương. Gần đây, khu vực tư nhân cũng mở các trường dạy nghề, đào tạo nghề (đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,..). Nhà nước không kiểm soát được quá trình giảng dạy và chất lượng, dẫn đến việc đào tạo tản mạn, chất lượng không cao, người lao động mất nhiều thời gian học nghề nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu công việc. Đây chính là chỗ yếu nhất trong khâu đào tạo nghề hiện nay, cần kịp thời chấn chỉnh. Phần kết luận Trung tâm dịch vụ việc làm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong khu công nghiệp và chế xuất trên địa bàn Hà Nội. Để có đội ngũ lao động giỏi đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cùng với các biện pháp củng cố tăng cường công tác dạy nghề, khuyến khích về vật chất với người học, người dạy, chúng ta cũng cần quan tâm khơi dậy các hình thức khuyến khích động viên về tinh thần - hướng dư luận xã hội vào tôn vinh của những người thợ giỏi, có tâm với nghề. Dựa trên thực tế Việt Nam là nước có thu nhập bình quân đầu người thấp, đông dân với tỷ lệ tăng trưởng dân số hàng năm cao, ở mức 2%. áp lực về học sinh trong độ tuổi đi học đang tăng lên nhanh chóng làm cho ngân sách giáo dục trở thành một gánh nặng của xã hội. Đồng thời, chi phí cho giáo dục và đào tạo là gánh nặng đối với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Bài toán đặt ra là phải lựa chọn mục tiêu và chính sách phát triển thích hợp. Trước những thách thức của thời đại, chúng ta phải lựa chọn ưu tiên phát triển giáo dục. Bên cạnh các chính sách quản lý và sử dụng nguồn nhân lực được lồng ghép vào các chính sách xã hội như: Chính sách việc làm, chính sách tiền lương, các chính sách có liên quan đến phúc lợi xã hội. ở nước ta, hệ thống đào tạo ngành nghề rất đa dạng. Bởi vì tuỳ theo công việc của từng nơi, chẳng hạn như: Có vùng thì đào tạo nghề nằm trong hệ thống giáo dục, nhưng ở một số nước khác, giáo dục ngành nghề lại nằm trong các công ty, các xí nghiệp. Có sự phân định rõ rệt về trách nhiệm của hai bộ phận giáo dục và đào tạo được nhận thức như là điều kiện tiên quyết để khả năng thích ứng của lượng lao động đối với việc quản lý đào tạo nghề. Do đó, giáo dục và đào tạo được nhận thức như là điều kiện tiên quyết để tăng khả năng thích ứng của lượng lao động với các kỹ thuật và công nghệ sản xuất luôn thay đổi tạo nên quá trình sản xuất hàng loạt các sản phẩm chất lượng cao và đa dạng về chủng loại. Tuy nhiên, ngoài việc thực hiện chiến lược tuyển dụng lao động cho khu công nghiệp và chế xuất, Trung tâm dịch vụ việc làm không thể không chú trọng tới công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vì đào tạo là một trong những yếu tố hết sức quan trọng; nó có tác dụng vừa hỗ trợ, vừa thúc đẩy, vừa đảm bảo cho sự phát triển cân đối đồng bộ và vững chắc của khu công nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung. Hơn nữa, sản phẩm của đào tạo là tính hiệu quả của nó có tác dụng lâu dài. Do vậy, để nâng cao công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, giáo dục cần đạt được những mục tiêu cơ bản về kinh tế, văn hoá tư tưởng. Có thể thấy rằng Trung tâm dịch vụ việc làm trước hết phải xây dựng được chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhanh chóng triển khai thực hiện đồng bộ những giải pháp đưa ra. Chắc chắn trong một tương lai không xa, Trung tâm dịch vụ việc làm sẽ có một vị trí xứng đáng trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Nếu chúng ta coi khoa học công nghệ là động lực và là nền tảng thì việc coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện như yếu tố quyết định tạo ra nguồn động lực đó.Vấn đề này còn là một thách thức lớn đối với Trung tâm dịch vụ việc làm, để thực hiện được tốt còn nảy sinh liên quan đến rất nhiều vấn đề. Song, vấn đề cơ bản, thiết yếu đòi hỏi Trung tâm dịch vụ việc làm phải có quyết tâm cao, đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu kết hợp với các chính sách tạo cơ hội của Chình phủ. Như vậy, Trung tâm dịch vụ việc làm góp phần vào xu thế phát triển chung của thời đại và sự phát triển đó sẽ luôn gắn liền với sự phát triển chung của cả nước. Chuyên đề thực tập của em đã hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và Ban giám đốc cùng với phòng đào tạo của Trung tâm dịch vụ việc làm đã cung cấp tài liệu. Mặc dù em đã rất cố gắng nhưng vẫn có những hạn chế chưa thể khắc phục được như: còn nhiều ý kiến chủ quan cá nhân trong khi đó thời gian nghiên cứu lại hạn hẹp khiến cho bài làm có thể thiếu tính logic và hạn chế về khả năng áp dụng vào thực tế. Ngoài ra, chuyên đề còn nhiều thiếu sót mà sinh viên chưa tự thấy được. Do vậy, em rất mong sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và bạn đọc. Em xin chân thành cám ơn thầy cô giáo và các anh trong Ban giám đốc Trung tâm đã tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản trị nhân lực - Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân, PGS.PTS Phạm Đức Thành - Nhà xuất bản giáo dục - 1995. Giáo trình Kinh tế lao động - Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,Trần Kim Dung. Quản trị nhân sự, Nguyễn Hữu Thân, Nhà xuất bản Thống kê - 1996. Quản trị nguồn nhân lực, Paul Hersey - Kenbianchard, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1995 ( sách dịch ). Phát huy nguồn nhân lực - yếu tố con người trong sản xuất kinh doanh, Đặng Vũ Chư - Ngô Văn Quế, Nhà xuất bản giáo dục. Contem porary, labor Economic, fourth edition, compell. The Management of Human resources, David cherrington, prentice hall International, Ine - 1995. Personel - Human Resources Management, maxixell Mac Mi Uan, Inc -1990. Những chặng đường lịch sử của Trung tâm dịch vụ việc làm. Báo cáo chương trình hoạt động từ năm 1997 đến năm 1999. Nghị quyết trung ương II - Khoá VIII. Nghị quyết trung ương III- Khoá VIII. Nghị định số 90/CP Ngày 15.12.1995 Nghị định số 72/CP Ngày 31.10.1997 Nghị định số 36/CP ngày 24.4.1997 Quyết định uỷ quyền 1414/LĐTB -XH. Số liệu dân số của Tổng cục thống kê. Kế hoạch đào tạo lao động của Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội. Kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Trung tâm dịch vụ việc làm. Kế hoạch đào tạo lao động của Trung tâm dạy nghề huyện Đông Anh. Kế hoạch đào tạo lao động của Trung tâm dạy nghề huyện Sóc Sơn. Cùng các tài liệu khác có liên quan đến chuyên đề thực tập. Ngoài ra còn tham khảo ý kiến của các anh trong Ban giám đốc và phòng đào tạo Trung tâm dịch vụ việc làm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0049.doc
Tài liệu liên quan