Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Hà Nội

Với nỗ lực cao của toàn thể cán bộ công nhân viên, Ngân hàng NHNo&PTNT Đông Hà Nội đã đạt được những kết quả khả quan trong hoạt động thanh toán quốc tế, số lượng khách hàng ngày càng tăng. Để có được thành công đó, phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của hoạt động TTQT. Tuy TTQT không phải là thế mạnh nổi bật của NHNo&PTNT Đông Hà Nội, nhưng cũng như các ngân hàng thương mại khác NHNo&PTNT Đông Hà Nội đang nỗ lực phát triển và hoàn thiện nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng, cũng như đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày giao dịch do NHNN thông báo. Mặt khác, để tạo điều kiện cho các NHTM chủ động quy định tỷ giá mua bán áp dụng cho NH mình, đảm bảo ổn định thị trường ngoại tệ trong nước và kiềm chế lạm phát, vào thời điểm cuối năm nay, NHNN một lần nữa đã quyết định thay đổi biên độ tỷ giá mua bán USD/VNĐ giao ngay được phép giao dịch trong biên độ +/-0,75%. Vào thời điểm tháng 10/2007, do lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam trong khi NHNN lại hạn chế mua vào để kiềm chế lạm phát nên một số NHTM đã hạn chế lượng mua vào của khách hàng vì dư cung ngoại tệ. Hiện nay, tình hình có vẻ khả quan hơn, các NHTM đã không hạn chế lượng mua vào của khách hàng nữa. Tuy nhiên, so với tỷ giá USD do NHNN công bố thì đồng USD của các NHTM hiện thấp hơn tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. - Về thị trường vàng: Năm nay, giá vàng liên tục biến động thất thường. Sau những biến động tăng giá mạnh vào những ngày sau Tết nguyên đán, sau đó giá vàng giảm xuống dưới ngưỡng 1,3 triệu đồng/chỉ. Trước sự biến động tăng giá của giá vàng thế giới, vào tháng 5/2007 giá vàng đột ngột tăng mạnh trên 1,5 triệu đồng/chỉ và sau đó lại giảm xuống mức 1,3 triêu đồng. Tuy nhiên, đúng như dự đoán của các nhà phân tích kinh tế, 2 tháng cuối năm nay giá vàng đã tăng mạnh. Vào cuối tháng 12, giá vàng thế giới đạt mức đỉnh điểm do đó đã đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh tiến về ngưỡng trên 1.620.000đ/chỉ. Nguyên nhân chính của việc tăng giá này là do đồng đôla Mỹ mất giá nên giới đầu tư đã chuyển sang tích trữ vàng. Một nguyên nhân khác làm cho giá vàng tăng là giá dầu thế giới tăng mạnh do nguồn cầu nhiều trong khi đó một số nước OPEC cắt giảm lượng cung và nước Mỹ đã giảm lượng cung nguồn dự trữ của mình. - Giá các hàng hoá trong nửa đầu năm nhìn chung ổn định. Tuy nhiên đến nửa cuối năm, giá cả tăng mạnh do tác động của dịch bệnh, lạm phát, cộng với quyết định tăng lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng của cán bộ từ ngày 1/1/2008. Giá cả các mặt hàng lương thực và thực phẩm thiết yếu tăng mạnh. Giá các mặt hàng khác như gas, phân bón, sắt thép,... đều tăng do các yếu tố đầu vào vào thời kỳ tăng giá. 2.2.2. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế năm 2007 tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội Nghiệp vụ thanh toán quốc tế đối với chi nhánh còn khá mới mẻ. Đây là nghiệp vụ đặc biệt đòi hỏi ngoài trình độ nghiệp vụ còn phải có trang thiết bị, công nghệ hiện đại. Do vậy, sau khi chi nhánh đi vào hoạt động không lâu, phòng TTQT đã triển khai hàng loạt biện pháp để vừa xây dựng quy trình nghiệp vụ, vừa lập nhiều dự án đặt mua trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TTQT tại chi nhánh. Cho đến nay, dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, nối mạng Swift, thanh toán điện tử, thanh toán thẻ đã đưa vào sử dụng. Trong năm qua, hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội tiếp tục được triển khai một cách đồng bộ và chú trọng phát triển toàn diện cả hai mảng nghiệp vụ: thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ (kết quả hoạt động cụ thể theo bảng số liệu đính kèm). Nhờ có sự cố gắng hết mình của Ban lãnh đạo chi nhánh, các cán bộ phòng TTQT và sự hỗ trợ của NHNo&PTNT Việt Nam, doanh số đã tăng lên đáng kể. Bảng 2.6: Kết quả hoạt động TTQT của Chi nhánh các năm 2005-2007 Đơn vị: ngàn USD Ngoại tệ khác quy đổi USD Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 năm 2007 L/C xuất khẩu 33.7 0 0 Nhờ thu xuất khẩu 0 0 0 T/T xuất khẩu 0 1.364 3.067 L/C nhập khẩu 21.954,14 32.596,86 45.746,40 Nhờ thu nhập khẩu 934,75 271,71 606,77 T/T nhập khẩu 9.321,95 5.584,60 10.910,28 Biên mậu 232,25 511,08 3.321,47 Tổng doanh số XK 33,7 1.364 3.067 Tổng doanh số NK 32.452,09 38.964,25 60.584,93 Tổng doanh số XNK 32.485,79 40.328,25 63.651,73 Tổng phí thu được 92,89 117,35 127,77 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2005-2007 của NHNo&PTNT Đông HN) Biểu đồ 2.4: Tổng doanh số xuất nhập khẩu qua các năm 2005-2007 Tại chi nhánh, hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nghiệp vụ TTQT . Qua bảng số liệu trên, số lượng và giá trị thanh toán L/C nhập khẩu năm 2007 đã tăng so với năm 2006: năm 2006 số L/C phát hành là 505 món với tổng trị giá là 32,59 triệu USD, còn năm 2007 số L/C phát hành là 524 món với tổng trị giá là 45,75 triệu USD, tăng 40,34% so với năm 2006. Năm 2007, nghiệp vụ L/C và nhờ thu xuất khẩu không phát sinh nhưng lượng tiền về dưới hình thức thanh toán T/T xuất khẩu cũng đạt được mức tăng mạnh (đạt 3,07 triệu USD), dẫn đến tổng doanh số xuất khẩu năm 2007 tăng hơn 124% so với năm 2006. Chuyển tiền thanh toán T/T nhập khẩu năm 2007 có 410 món, đạt 10,91 triệu USD tăng hơn 95% so với năm 2006 (278 món chuyển tiền, tổng giá trị là 5,58 triệu USD). Chuyển tiền biên mậu năm 2007 cũng đạt được mức tăng trưởng lớn, gồm 15 món tổng trị giá 3,32 triệu USD (quy đổi), tăng hơn 5 lần so với năm 2006 là 18 món với tổng trị giá là 0,51 triệu USD (quy đổi). Tóm lại, năm 2007 hoạt động TTQT tại chi nhánh đã tăng so với năm ngoái với tổng phí dịch vụ toàn chi nhánh thu được là 127,77 ngàn USD, tăng gần 9% so với năm ngoái. Điều này cho thấy quá trình hoạt động TTQT ngày càng chuyên nghiệp hơn, với những bước đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, các giao dịch thanh toán được thực hiện thông suốt, nhanh chóng và chính xác. 2.2.3. Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tê đánh giá qua các chỉ tiêu Hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh sẽ được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu định lượng đã nêu trong chương trước a) Chỉ tiêu về doanh thu từ hoạt động TTQT Bảng 2.7 : Phí thu được từ hoạt động TTQT của NHNo&PTNT Đông HN Đơn vị : ngàn USD Năm 2005 2006 2007 Chỉ tiêu Tổng phí thu được 92,89 117,35 127,77 Tổng doanh số XNK 32485,79 40328,25 63651,73 Tổng phí thu/ doanh số(%) 0.2859 0.2910 0.2007 (Nguồn: Báo cáo tài chính 2005-2007 NHNo&PTNT Đông HN) Biểu đồ 2.4: Phí thu được từ hoạt động TTQT của NHNo&PTNT Đông HN Thông qua bảng, ta thấy rằng: do tổng doanh số xuất nhập khẩu giai đoạn 2005-2007 tăng nên phí thu được cũng tăng. Năm 2006 tổng phí thu được tăng so với năm 2005 là 24,46 ngàn USD tương đương với 26,33%. Năm 2007 tổng phí thu được tăng so với năm 2006 chỉ là 10,42 ngàn USD tương đương với 8,88%. Như vậy tổng phí thu được năm 2007 tăng ít hơn so với năm 2006. Mặt khác, ta cũng nhận thấy tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng doanh số, đồng thời xét trên chỉ tiêu phí thu được / doanh số thì tăng năm 2006 nhưng đến năm 2007 lại giảm một chút. Điều đó cho thấy năm 2007 phí thu được trên một đơn vị doanh số giảm nhẹ. Nguyên nhân là có sự thay đổi về biểu phí của NHNo&PTNT. b) Doanh số TTQT Bảng 2.8: Doanh số TTQT của Chi nhánh từ năm 2005-2007 Đơn vị : Ngàn USD Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 DS NK 32.452,09 38.964,25 60.584,93 DS XK 33,7 1.364 3.067 Tổng 32.485,79 40.328,25 63.651,73 (Nguồn báo cáo tài chính 2005-2007 tại NHNo&PTNT Đông Hà Nội) Có thể dễ dàng nhận thấy là doanh số xuất nhập khẩu trong 3 năm 2005-2007 có sự biến động rõ. Nhìn chung là tổng doanh số đều tăng qua các năm và tăng mạnh nhất là năm 2007. Năm 2006 tổng doanh số xuất nhập khẩu tăng 7842.46 ngàn USD tương đương với 19% so với năm 2005. Sang năm 2007, tổng doanh số đã tăng 23323,48 ngàn USD tương đương với 57,8 % so với năm 2006. Như vậy, doanh số đã tăng khá mạnh và nó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của Chi nhánh. Tuy vậy, ta nhận thấy tổng doanh số xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng doanh số xuất nhập khẩu . Nói cách khác, TTQT ở NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội chủ yếu là nhập, còn xuất hầu như rất ít. Nguyên nhân không chỉ do thực trạng nhập siêu chung của nền kinh tế. Nhìn lại bảng 2.4 ta thấy năm 2006 nghiệp vụ thanh toán theo hình thức TTR (telegraphic transfer_ chuyển tiền bằng điện) cho xuất khẩu là 1364 ngàn USD, năm 2007 là 3067 ngàn USD. Trong khi đó L/C nhập khẩu lại chiếm doanh số rất lớn: năm 2006 là 32596,86 ngàn USD gấp 23,89 lần so với TTR xuất khẩu, năm 2007 là 45746,4 ngàn USD gấp 15 lần so với TTR xuất khẩu. Thực trạng này xảy ra là do phía doanh nghiệp Việt Nam thường dễ dàng chấp nhận yêu cầu của phía đối tác nước ngoài. Khi doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng, phía nước ngoài luôn yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải mở L/C để đảm bảo nhận được tiền hàng, tăng khả năng an toàn cho họ, vì vậy mà thanh toán hàng nhập khẩu chủ yếu là theo hình thức L/C. Nhưng khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa, một số doanh nghiệp tin tưởng phía đối tác, sẵn sàng chấp nhận phương thức nhờ thu hoặc TTR sau khi giao hàng. Có doanh nghiệp không muốn sử dụng phương thức L/C vì phí dịch vụ phát sinh cao hơn các phương thức khác. Hoặc các doanh nghiệp xuất khẩu lâu năm, với các khách hàng có uy tín, đã quan hệ mua_ bán nhiều, họ cũng tin tưởng khách hàng, chuyển sang phương thức khác để tiết kiệm chi phí Số món thanh toán TTQT qua ngân hàng Hoạt động TTQT tại Chi nhánh đã chiếm được lòng tin của khách hàng, cụ thể là ngày càng có nhiều khách hàng đến với ngân hàng giao dịch TTQT. Điều này được thể hiện rõ nét trên số món thanh toán quốc tế qua ngân hàng. Bảng 2.9 Số món thanh toán quốc tế qua Chi nhánh Đơn vị : Số món Năm 2005 2006 2007 Số món xuất 1 38 7 Số món nhập 807 890 978 Tổng 808 928 985 (Nguồn báo cáo kết quả TTQT 2005-2007 tại NHNo&PTNT Đông Hà Nội) Biểu đồ 2.5 : Số món thanh toán quốc tế nhập Chúng ta nhận thấy, số món thanh toán quốc tế qua ngân hàng cũng có sự biến động. Nhìn chung là tổng số món tăng qua các năm: năm 2006 tăng 120 món, năm 2007 tăng 57 món. Nguyên nhân là do Chi nhánh đã thực hiện các chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, nên đã thu hút được thêm các doanh nghiệp nhập khẩu vừa và nhỏ đến với Chi nhánh. d) Về quan hệ ngân hàng đại lý NHNo&PTNT luôn chú trọng công tác mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu của khách hàng. Trong quá trình xử lý nghiệp vụ TTQT tại ngân hàng, hệ thống ngân hàng đại lý có đóng góp tích cực trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của TTQT rất nhiều. Thông qua quan hệ đại lý chi nhánh đã thiết lập mối quan hệ tài khoản Nostro, hợp tác trong việc cung cấp thông tin về tài chính và khách hàng nước ngoài, hỗ trợ các dịch vụ trong quá trình thực hiện TTQT. Bảng 2.10 Quan hệ đại lý của NHNo&PTNT Việt Nam Năm 1996 2000 2004 2006 2007 Số NH đại lý 485 675 900 1012 1127 (Nguồn: Báo cáo thường niên NHNo&PTNT Việt Nam) Biểu đồ 2.6 : Quan hệ ngân hàng đại lý của NHNo&PTNT Năm 1996, số lượng các ngân hàng đại lý mới chỉ dừng lại ở 485 ngân hàng, đến năm 2000 là 675 ngân hàng và đến 2004 là 900 ngân hàng ở hơn 110 nước trên thế giới. Đến năm 2005 là 954 ngân hàng, năm 2006 và 1012 ngân hàng và năm 2007 là 1127 ngân hàng. Như vậy, số lượng các ngân hàng đại lý không ngừng tăng qua các năm. Đây là tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. e) Chi phí rủi ro phát sinh mà ngân hàng phải bồi thường Tính tới thời điểm hết năm 2007, tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội chưa phát sinh rủi ro về hoạt động thanh toán quốc tế. Một phần vì các nghiệp vụ phát sinh mới chỉ là các nghiệp vụ đơn giản: L/C trả ngay, L/C trả chậm, nhờ thu nhập khẩu... Một mặt là do sự cố gắng, nỗ lực và tinh thần trách nhiệm cao của các cán bộ thanh toán của Chi nhánh. 2.4 Một số nhận xét về thực trạng hiệu quả hoạt động TTQT của NHNo& PTNT Đông Hà Nội. 2.4.1. Kết quả đạt được Trong năm qua, dưới sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam, lãnh đạo chi nhánh Đông Hà Nội, hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội luôn đảm bảo tuân thủ các quy định của luật pháp, NHNN, NHNo&PTNT Việt Nam cũng như các quy tắc, tập quán và thông lệ quốc tế. Hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội cũng không ngừng phát triển trên nhiều mặt, góp phần không nhỏ vào sự thành công chung của toàn Chi nhánh. - Đảm bảo các giao dịch thanh toán quốc tế qua Chi nhánh của khách hàng được thực hiện thông suốt, nhanh chóng và chính xác. Bên cạnh việc thực hiện các giao dịch theo yêu cầu của khách hàng, các cán bộ giao dịch cũng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề liên quan đến giao dịch như các điều khoản thanh toán, tìm hiểu thông tin người bán, người mua, ngân hàng nước ngoài v.v…. - Kinh doanh có hiệu quả, có lãi, an toàn hệ thống và tuân thủ pháp luật. Các chỉ tiêu cơ bản của NHNo&PTNT Đông Hà Nội về tổng tài sản, tổng vốn huy động và dư nợ tín dụng đều đạt mức tăng trưởng bình quân cao, đảm bảo an toàn, ít rủi ro. NHNo&PTNT Đông Hà Nội luôn đảm bảo kinh doanh có lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà Nước. - Thường xuyên cập nhật các quy định mới liên quan về nghiệp vụ như UCP600, quy quy tắc kiểm tra chứng từ, các sửa đổi liên quan đến quy định về nghiệp vụ TTQT tại NHNo&PTNT để đảm bảo hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh và các đơn vị trực thuộc được tiến hành thông suốt, chính xác và hiệu quả. - Tận dụng thế mạnh là một chi nhánh có địa bàn hoạt động nằm tại khu vực trung tâm, phòng đã đề xuất với lãnh đạo cử các đoàn cán bộ tại các bàn giao dịch trực tiếp đi học tập nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ mặt và séc du lịch tại chi nhánh Sóc sơn đồng thời xây dựng quy trình nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ mặt và séc du lịch theo tiêu chuẩn ISO để chuẩn hoá nghiệp vụ này trong toàn ngân hàng Đông Hà nội đồng thời góp phần tăng thêm dịch vụ ngân hàng. - Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, Lãnh đạo chi nhánh đã quyết định thành lập tổ Tài trợ XNK tại phòng TTQT. Mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ trong công tác thẩm định, nhưng các cán bộ của tổ Tài trợ XNK đã có nhiều cố gắng để tiếp cận khách hàng, từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhờ đó đã thực hiện thẩm định được các dự án lớn và phức tạp như món vay tài trợ dự án thành lập nhà máy sản xuất giấy Tissue của công ty Diana và các món bảo lãnh cho các khách hàng khác... - Việc áp dụng chương trình IPCAS từ đầu tháng 11/2007 cũng là một yếu tố làm thay đổi căn bản quy trình nghiệp vụ của phòng. Quy trình nghiệp vụ TTQT và KDNT đã được xây dựng lại cho phù hợp trong đó không chỉ thực hiện giao dịch, các thanh toán viên còn phải thực hiện hạch toán giao dịch đó vào hệ thống. Điều này làm cho phần tác nghiệp có phức tạp hơn nhưng lại giúp thanh toán viên chủ động hơn trong việc theo dõi một cách hệ thống giao dịch của mình. - Trong tình hình kinh doanh ngoại tệ có nhiều biến động, bộ phận KDNT&TTQT vẫn đảm bảo đáp ứng kịp thời các nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán của khách hàng cũng như các Chi nhánh trực thuộc. Trong năm 2007, nhờ có nguồn thu ngoại tệ dồi dào từ hoạt động kiều hối mà NHNo&PTNT VN luôn đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ USD phục vụ nhập khẩu của toàn hệ thống, phí mua bán nội bộ tương đối thấp vì vậy tạo điều kiện cho chi nhánh thu được chênh lệch trong việc bán ngoại tệ cho khách hàng nhập khẩu. Bộ phận KDNT&TTQT đã Xây dựng chính sách tỷ giá linh hoạt để tạo điều kiện thu hút khách hàng nhất là các khách hàng nhập khẩu thanh toán bằng đồng JPY của chi nhánh Bà triệu. - Toàn ngân hàng Đông Hà nội duy trì và đẩy mạnh công tác marketing để thu hút khách hàng mới cũng như duy trì, khuyến khách các khách hàng truyền thống mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế. Tại chi nhánh Bà triệu, bên cạnh các khách hàng truyền thống đã giao dịch từ những ngày đầu, do làm tốt công tác tiếp thị cũng như cho vay tài trợ nhập khẩu, chi nhánh đã có những khách hàng mới tiềm năng và đã đem lại thu nhập đáng kể cho chi nhánh. Chi nhánh Lý Thường Kiệt mặc dù mới thành lập và chưa thực hiện thanh toán quốc tế trực tiếp nhưng đã thực hiện tốt việc marketing thu hút khách hàng, kết hợp với Hội sở thực hiện các giao dịch phục vụ nhu cầu thanh toán quốc tế của khách hàng tại Chi nhánh. - Nghiêm túc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của NHNN, NHNo&PTNT Việt Nam, thực hiện đúng các quy định về quản lý hoạt động ngoại hối của các đơn vị trực thuộc cũng như của các bàn thu đổi ngoại tệ trực tiếp. 2.4.2. Những hạn chế và tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình hoạt động TTQT của NHNo&PTNT Đông Hà Nội vẫn còn những mặt hạn chế. Đó là : - Mất cân đối lớn về nguồn vốn ngoại tệ Hoạt động thanh toán quốc tế còn mất cân đối giữa nghiệp vụ nhập khẩu và xuất khẩu, kéo theo sự mất cân đối về nguồn ngoại tệ, việc cân đối ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Nguồn ngoại tệ phục vụ khách hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn dựa vào nguồn mua từ Sở Quản lý Kinh doanh vốn và ngoại tệ, hạn chế tính chủ động trong việc thanh toán và Chi nhánh phải chịu thêm chi phí để trả phí mua bán nội bộ. Nhìn qua biểu đồ sau, chúng ta sẽ nhận thấy sự mất cân đối rõ nét giữa thanh toán hàng nhập khẩu và xuất khẩu ở chi nhánh: Biểu đồ 2.7 Tổng doanh số XK, NK của NHNo&PTNT Đông Hà Nội Các khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các doanh nghiệp nhập khẩu, xuất khẩu rất ít, hầu như không đáng kể, thậm chí cả năm 2007 không có món xuất khẩu nào. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng về nguồn vốn ngoại tệ dành cho TTQT, mất cân đối về nguồn ngoại tệ, việc cân đối ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Nguồn ngoại tệ phục vụ khách hàng nhập khẩu chủ yếu dựa vào nguồn mua từ Sở quản lý kinh doanh vốn và ngoại tệ, hạn chế tính chủ động trong việc thanh toán, đồng thời chi nhánh phải chịu thêm chi phí để trả phí mua bán nội bộ. - Trình độ nghiệp vụ của cán bộ chưa cao Việc đào tạo nghiệp vụ tại Chi nhánh hiện nay chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở tự đào tạo, các chương trình đào tạo về nghiệp vụ của NHNo&PTNT Việt Nam cũng chưa bao quát đầy đủ, do đó so với các NHTM khác thì hoạt động này của Chi nhánh còn rất non trẻ và hầu hết các cán bộ làm nghiệp vụ đều phải vừa học, vừa làm, vừa nghiên cứu để triển khai nghiệp vụ mới, kinh nghiệm để xử lý những vấn đề phức tạp hoặc những tranh chấp trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ còn chưa nhiều. Kiến thức về luật thương mại quốc tế, các thông lệ quốc tế trong ngoại thương còn thiếu. - Chưa xây dựng các điều kiện cạnh tranh hơn các điều kiện doanh nghiệp XNK đang hưởng Với vị thế là một chi nhánh đóng tại trung tâm là nơi tập trung nhiều ngân hàng lớn kể cả trong và ngoài nước làm cho các chi nhánh gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thị khách hàng do không thể đưa ra các điều kiện cạnh tranh hơn các điều kiện mà các doanh nghiệp XNK đang hưởng ở các NHTM khác như hiện nay, NHNo&PTNT Đông Hà Nội đều áp dụng một biểu phí theo quy định. Đây là nguyên nhân chính làm hạn chế sự phát triển nghiệp vụ TTQT tại chi nhánh. - Chưa đa dạng hóa các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế Hiện nay, các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế ở Chi nhánh còn rất ít: mới áp dụng được cho vay ký quỹ, bảo lãnh. Còn các hình thức như: Chiết khấu bộ chứng từ, cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở... chi nhánh vẫn chưa thực sự áp dụng được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho doanh số thanh toán quốc tế xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất ít, không đáng kể. Đó là việc hiện nay, chi nhánh chưa có hình thức: chiết khấu bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu. Trong khi đó, hình thức này đã được áp dụng tại ngân hàng ngoại thương khá lâu. Còn hình thức tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu như cho vay dựa trên bộ hồ sơ thanh toán để giúp nhà xuất khẩu sản xuất hàng, thì được áp dụng không phổ biến và rất ít. - Chưa có chuẩn mực hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2000 Hiện nay, Chi nhánh vẫn chưa có bản chuẩn mực hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2000 trong đánh giá chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế. Do đó mà chưa thể đánh giá đúng mức hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng. Mặt khác trong điều kiện hội nhập kinh tế, thì chất lượng có vai trò quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. - Vấn đề trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng Mặc dù đến nay, Chi nhánh được đầu tư công nghệ ngân hàng khá hiện đại, nhưng so với yêu cầu hiện đại hóa ngân hàng ngày nay thì chưa đáp ứng được yêu cầu. Các công việc thống kê, quản lý hồ sơ khách hàng, lưu tài liệu, quản lý dữ liệu tập trung của khách hàng, từng mặt hàng còn dựa vào thủ công , sổ sách phức tạp. Ngoài việc soạn điện SWIFT thì các công đoạn giao dịch hầu hết đều quản lý thủ công. Điều này gây không ít khó khăn cho chi nhánh trong việc quản lý, cũng như phục vụ khách hàng, nhanh chóng, chính xác, và chuyên nghiệp CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NHNo&PTNT ĐÔNG HÀ NỘI 3.1. Định hướng phát triển hoạt động của NHNo&PTNT Đông Hà Nội Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX do Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trình bày có nêu rõ: “Mục tiêu và phương, hướng tổng quát của 5 năm 2006 – 2010 là... đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,... mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo chiều hướng hiện đại”, “về quan hệ đối ngoại, chúng ta phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Có thể nói rằng, thời gian vừa qua quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế được mở rộng, việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần tạo nên bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là TTQT. Năm 2007, Việt Nam với tư cách là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) các cam kết quốc tế đang dần được thực hiện trên các lĩnh vực. Kinh tế trong nước sẽ tiếp cận những luồng gió mới với những cơ hội mới nhưng cũng không ít thách thức. Bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá non trẻ nhưng cũng có những lợi thế để phát triển mạnh dịch vụ này. Qua phân tích, chúng ta có thể thấy một số bất lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập như: - Môi trường kinh doanh ngân hàng còn chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, cải cách khu vực kinh tế nhà nước còn chậm, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Kinh doanh của các NHTM vẫn chủ yếu là cho vay truyền thống, tỷ lệ thu nhập từ các dịch vụ khác còn tương đối thấp so với các chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam, các sản phẩm ngân hàng còn chưa thật phong phú, việc triển khai công nghệ thông tin ở các NHTM còn thiếu đồng bộ, mức độ tự động hóa còn chưa cao, các dịch vụ hiện đại chủ yếu mới chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm chỉ chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản, việc nghiên cứu tin học hóa một số nghiệp vụ khác còn chậm. - Các dịch vụ ngân hàng chủ yếu được thực hiện trong thị trường nội địa, các phương thức tiêu dùng và dịch vụ ngoài lãnh thổ còn ít. - Sự phối hợp giữa các ngành trong việc xây dựng các chiến lược phát triển dịch vụ mới bắt đầu đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thiếu một chiến lược chung cho cả ba ngành và sự phối hợp qua lại, sự hỗ trợ lẫn nhau để phát triển vẫn còn hạn chế. - Tỷ lệ tiết kiệm qua ngân hàng so với tổng tiết kiệm của nền kinh tế vào khoảng trên dưới 30%, số còn lại đang nằm trong dân chúng dưới dạng vàng, ngoại tệ, nhà đất, tiền mặt. Những nguyên nhân như lòng tin, lạm phát, tỷ giá... khiến dịch vụ ngân hàng cần tiếp tục đổi mới. Ngoài ra những nguyên nhân khác như ổn định kinh tế vĩ mô, tăng tiềm lực tài chính cho các NHTM và phát triển thị trường tiền tệ cũng cần tiếp tục được đáp ứng và hoàn thiện. - Trình độ quản lý và phát triển nguồn nhân lực còn chưa cao, trình độ hiểu biết về ngân hàng trong dân cư còn thấp cũng là một nguyên nhân hạn chế sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng. Mặc dù có khá nhiều những bất lợi song các NHTM Việt Nam có những lợi thế quan trọng để phát triển và cạnh tranh dưới đây: - Ưu thế đầu tiên của các NHTM là hiểu rõ môi trường đầu tư, hiểu rõ phong tục tập quán Việt Nam nên có được chiến lược khách hàng hợp lý để thu hút khách hàng đến với ngân hàng. - Các NHTM có sẵn hệ thống mạng lưới chi nhánh ở các vùng kinh tế, các thành phố, trung tâm công nghiệp, đầu mối giao thông, trung tâm công nghiệp thậm chí cả ở những vùng sâu vùng xa nơi mà các NH nước ngoài khó mà có thể tiếp cận được hoặc ít quan tâm vì lợi nhuận thấp... Điều đó tạo điều kiện cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng phục vụ dân cư. Hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu của các nền kinh tế trong thời đại ngày nay. Các NHTM quốc tế có bề dày kinh nghiệm hoạt ộng kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hàng trăm năm là những đối thủ “đáng gờm” của các NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển. Muốn đứng vững và hợp tác, cạnh tranh với các NHTM quốc tế nhất định các NHTM Nhà nước phải dự kiến và có những giải pháp hợp lý vượt qua các thách thức giành thắng lợi và thực sự làm tròn vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Tại ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ KTXH 5 năm 2006- 2010 của cả nước cũng như nhiệm vụ chủ yếu của các ngành kinh tế trong đó có ngân hàng. Có thể nói, chưa bao giờ khi bước vào một giai đoạn phát triển mới ngành ngân hàng lại được nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện những chỉ đạo chiến lược, những chính sách, chủ trương và mục tiêu cụ thể của Đảng và Nhà nước như hiện nay. Những định hướng chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta như sau: - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động NH với trọng tâm là xây dựng lại 2 luật Ngân hàng. - Đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tê và nâng cao hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ gắn với đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, tỷ giá theo nguyên tắc thị trường. - Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán làm nền tảng cho việc phát triển dịch vụ mới và áp dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại. - Xây dựng hệ thống thanh tra giám sát NH về thể chế, phương thức, mô hình tổ chức và nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế về thanh tra giám sát NH. - Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM và cổ phần hóa các NHTMVN nhằm nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh, đồng thời đảm bảo đạt mức độ an toàn và lành mạnh theo chuẩn mực quốc tế. - Thực hiện chiến lược phát triển nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và thu hút nhân tài, gắn liền với việc hoàn thành các thể chế quản trị tiên tiến. - Tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo các cam kết đa phương và song phương. Căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 cũng như tình hình trong nước và quốc tế, Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội đã đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2007. Cụ thể như sau: - Nguồn vốn huy động: tăng trưởng 20% so với năm 2007, trong đó huy động từ dân cư đạt 25% trên tổng nguồn vốn. - Dư nợ: tăng trưởng 16%- 18% ( không tính dư nợ UTĐT). Tỷ lệ vay trung dài hạn 45%-50%. - Tỷ lệ nợ xấu: phấn đấu dưới 3%. - Tỷ lệ thu ngoài tín dụng: trên 10%/ tổng thu nhập - Quỹ thu nhập: tăng 10% so với năm 2007. Triết lý kinh doanh của NHNo&PTNT là “Agribank mang phồn vinh với đến khách hàng”, mục tiêu của NHNo &PTNT vẫn tiếp tục giữ vững vị trí ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam và phấn đấu đến cuối năm 2010 trở thành một tập đoàn tài chính – ngân hàng tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế. Bám sát mục tiêu và nhiệm vụ của NHNo &PTNT Việt Nam, chi nhánh đã đề ra mục tiêu nhiệm vụ cho những năm tiếp theo: Hoạt động kinh doanh đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững. Trong đó, cần thực hiện 4 nhiệm vụ trong tâm: - Khẳng định vị thế của chi nhánh bằng cách chiếm lĩnh thị trường, tăng cường thị phần. - Ổn định bộ máy tổ chức - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đi đôi với việc đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ tương xứng với công nghệ mới. - Tăng cường nguồn vốn và sử dụng vốn theo hướng ổn định bền vững và tiết kiệm, cơ cấu hợp lý. Để góp phần vào mục tiêu chung của chi nhánh hoạt động TTQT cũng không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động, mở rộng hình thức, nhằm ngày càng đạt được yêu cầu thoả mãn của khách hàng. Chi nhánh đã đặt ra những mục tiêu hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo: Cải tiến nâng cao năng lực điều hành cho hoạt động TTQT tại chi nhánh, đảm bảo thực hiện tốt chiến lược đưa hoạt động TTQT thành một trong những hoạt động trọng tâm của chi nhánh, tận dụng được ưu thế về địa điểm, đảm bảo hoạt động TTQT và KDNT của chi nhánh được thông suốt, hiệu quả. Đảm bảo thực hiện tốt, nhanh chóng, chính xác các dịch vụ TTQT và kinh doanh ngoại tệ phục vụ khách hàng và phát triển hoạt động TTQT của khách hàng truyền thống tại chi nhánh, nâng cao vị thế của chi nhánh trong đánh giá của khách hàng. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ TTQT, các hình thức kinh doanh ngoại tệ như nghiệp vụ hoán đổi(SWAP), mua bán kỳ hạn,...tìm kiếm nguồn cung ứng ngoại tệ mới từ các tổ chức và doanh nghiệp. Triển khai công tác tiếp thị khách hàng, tìm kiếm các khách hàng mới, đặc biệt là các doanh nghiệp có doanh số xuất nhập khẩu lớn, đặc biệt với các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm giảm bớt sự mất cân đối giữa nghiệp vụ nhập khẩu và xuất khẩu, thu hút nguồn ngoại tệ về chi nhánh. Kết hợp với các bộ phận khác để có chính sách marketing đồng bộ thu hút nguồn khách hàng mới, có uy tín Xây dựng chính sách ưu đãi cho các khách hàng có nguồn ngoại tệ lớn bán cho ngân hàng như về lãi suất, phí dịch vụ,... Phát triển số lượng bán đại lý thu đổi ngoại tệ, xây dựng các chính sách ưu đãi đối với các đại lý có khả năng cung ứng ngoại tệ với số lượng lớn. Nâng cao trình độ chuyên môn bằng việc thường xuyên tổ chức đào tạo chuyên đề về TTQT và Kinh doanh ngoại tệ cho các cán bộ TTQT nói riêng và toàn thể cán bộ chi nhánh nói chung để đảm bảo sự phối kết hợp trong việc phục vụ khách hàng. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT của NHNo&PTNT Đông Hà Nội 3.2.1. Mở rộng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và các hình thức hỗ trợ Để có thể thu hút khách hàng thanh toán xuất khẩu, cũng như nhập khẩu nhiều hơn nữa, chi nhánh nên có nhiều biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương hơn nữa. Hiện nay, ngân hàng cũng đã có những hình thức tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu, nhưng chưa được phát triển và áp dụng rộng rãi. Một mặt là do các nghiệp vụ này còn khá phức tạp, đối với một chi nhánh mới đi vào hoạt động 5 năm, đội ngũ nhân viên thanh toán quốc tế còn yếu. Các hình thức mà chi nhánh nên nhanh chóng triển khai và áp dụng: - Chiết khấu chứng từ: Đây là hình thức rất có lợi và hỗ trợ cho nhà nhập khẩu rất nhiều, vì nó giúp nhà nhập khẩu nhanh chóng vay vòng vốn. So với hình thức cho vay để thực hiện hàng xuất khẩu thì hình thức này mang tính rủi ro thấp hơn vì ngân hàng được đảm bảo hàng đã được giao đúng và đủ số lượng, chất lượng đến người mua. Nhưng để có thể thực hiện được nghiệp vụ này, thanh toán viên phải xác định được đâu là bộ chứng từ có chất lượng và đảm bảo an toàn. Chi nhánh có thể áp dụng 2 hình thức là chiết khấu truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi. - Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở: Đây cũng là một hình thức hỗ trợ nhà xuất khẩu. Nhưng so với hình thức chiết khấu thì rủi ro với ngân hàng hơn. Hiện nay, chi nhánh cũng đã áp dụng hình thức này, nhưng còn khá dè dặt. Vì để áp dụng hình thức này, chi nhánh phải tiến hành thẩm định khách hàng, xem khách hàng có đủ khả năng, và uy tín không? Theo hình thức này thì cho nhánh sẽ tài trợ vốn lưu động trong giai đoạn sản xuất hàng hoá để chuẩn bị giao hàng dựa trên L/C đã mở. Chi nhánh có thể tài trợ tối đa là 70% giá trị lô hàng xuất khẩu. Đây là một hình thức tín dụng quan trọng, vì hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu nguồn vốn để mở rộng sản xuất, thực hiện hợp đồng nên không thể thực hiện các hợp đồng có giá trị lớn. Để phát triển hoạt động này, chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ, huy động vốn, tín dụng và thẩm định dự án. - Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu: Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp sau khi nhập hàng về, chưa thể có ngày lượng vốn lớn để thanh toán ngay cho ngân hàng. Trong khi đó, hàng nhập về có khả năng tiêu thụ lớn và nhanh chóng, hoặc hàng nhập về là nguyên liệu để sản xuất. Vì vậy, đối với các doanh nghiệp này, chi nhánh có thể tiếp tục cho khách hàng vay, hoặc ra hạn thanh toán khi mà khách hàng này lập được phương thức sản xuất, tiêu thụ lô hàng nhập khẩu có tính khả thi và khả năng thanh toán đến thời điểm thanh toán. 3.2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ làm công tác TTQT Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt là từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, thì vấn đề sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của mỗi người là điều hết sức cần thiết, vì nó sẽ giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT. Và để làm được điều đó thì NHNo&PTNT Đông Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với những nội dung cụ thể sau: -Một là: Chi nhánh cần tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch và chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh của mình, đặc biệt là tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi vì, chất lượng của nguồn nhân lực là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự thành công của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là không chỉ tạo ra và gia tăng chất lượng của nguồn nhân lực, mà điều squan trọng hơn là phải sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân lực đó. Do có vai trò quyết định đối với năng lực cạnh tranh và sự thành công của hoạt động ngân hàng, nên các ngân hàng cần gia tăng và sử dụng hợp lý hơn nguồn kinh phí dành để đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đáp ứng các yêu cầu mới. Chính sách đào tạo và quản lý nguồn nhân lực phải tạo được động lực và môi trường cho việc tiếp thu và áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho NHNo&PTNT Đông Hà Nội trong môi trường kinh tế tri thức đang được toàn cầu hoá. Việc bồi dưỡng nguồn nhân lực cần bắt đầu từ việc tuyển chọn những người có năng lực, có hoài bão và năng lực cá nhân là nhà cung cấp dịch vụ tốt, năng động, sáng tạo, có kỹ năng làm việc độc lập, có tinh thần học hỏi và nắm bắt những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Những cán bộ trẻ được xác định là có phẩm chất đạo đức và các tố chất cần thiết, sau khi đào tạo đạt kết quả cao, được trang bị năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học tốt cần được quan tâm, mạnh dạn bố trí vào các cương vị thích hợp để có điều kiện thể hiện, khẳng định và đóng góp tối đa cho ngân hàng. Lực lượng này cần được coi là đội quân xung kích trong việc thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng trong quá trình hội nhập quốc tế. - Hai là: Ngân hàng cần tạo ra một môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ hợp lý. Môi trường làm việc tốt là ở đó, đội ngũ cán bộ làm việc tận tâm, năng động, sáng tạo, mối quan hệ giữa lãnh đạo và cán bộ cởi mở, chân thực, thẳng thắn. Đó chính là môi trường nảy nở và phát huy tốt nhất mối quan hệ con người- cơ sở cho sự hợp tác, nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng. Cần thực hiện quy chế trả lương và thưởng hợp lý cho người lao động dựa trên năng lực và mức độ hoàn thành công việc của họ- đây là một trong những động lực thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn. Thực hiện một cơ chế tài chính thông thoáng hơn nhằm thu hút và giữ được nhân tài. Cần có quan điểm nhất quán về nguồn nhân lực vì chất lượng nguồn nhân lực quyết định sức mạnh của doanh nghiệp: + Xây dựng định mức công việc cho từng cán bộ nghiệp vụ, trên cơ sở đó xây dựng chế độ tiền lương hợp lý và đó chính là động lực thúc đẩy người lao động, thực hiện sắp xếp , bố trí lao động hợp lý, hiệu quả. + Thực hiện việc kiểm tra đánh giá, phân loại cán bộ đảm bảo cán bộ đủ tiêu chuẩn, chức danh. + Cần tạo điều kiện cho người lao động được cống hiến và hưởng thụ phù hợp với công việc của mình. + Nâng cao chất lượng chuyên nghiệp của cán bộ làm công tác TTQT cũng như tập trung xây dựng thương hiệu cho ngân hàng với mục tiêu giảm thiểu rủi ro nhân lực và rủi ro hoạt động. + Cần tuyển chọn những chuyên gia giỏi chuyên nghiên cứu về rủi ro và phòng ngừa rủi ro làm tham mưu cho lãnh đạo ngân hàng trong việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy chế và cập nhật các thông tin liên quan đến rủi ro. - Ba là: Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác TTQT nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có kỹ năng sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, có khả năng quản trị công nghệ hiện đại, có phẩm chất tốt về đạo đức nghề nghiệp nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn, có sức cạnh tranh trên thị trường và đủ khả năng hội nhập vào hệ thống tài chính khu vực và thế giới. 3.2.3. Xây dựng biểu phí hợp lý Hiện nay, Chi nhánh vẫn chưa xây dựng được các điều kiện cạnh tranh, lợi thế cho các khách hàng truyền thống. Các khách hàng truyền thống của Chi nhánh mới được ưu đãi về thủ tục, và trình tự thực hiện nhanh chóng và đơn giản hơn. Còn các ưu đãi về phí trong thanh toán chưa có. Biểu phí của ngân hàng hiện nay được áp dụng cho tất cả các khách hàng, các hình thức thanh toán. Ngân hàng nên xây dựng biểu phí có sự ưu đãi đối với khách hàng truyền thống, khách hàng thường xuyên của Chi nhánh. Khách hàng truyền thống có thể xác định dựa vào số năm giao dịch với ngân hàng. Còn khách hàng thường xuyên được xác định dựa vào số món thanh toán trên một khoảng thời gian. Biểu phí đối với khách hàng này, có thể được giảm một khoảng thời gian. Biểu phí đối với khách hàng này, có thể được giảm một số % nhất định. Chính sách này sẽ khuyến khích các khách hàng truyền thống, khách hàng thường xuyên gắn bó với Chi nhánh hơn. 3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng Khách hàng vừa là đối tác, vừa là người quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đặc biệt hiện nay khi nền kinh tế phát triển, vai trò của khách hàng được chuyển dần từ vị trí phải tìm đến ngân hàng sang thành thượng đế đòi hỏi các ngân hàng tìm đến. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, Chi nhánh cần phải đa dạng hóa sản phẩm phục vụ khách hàng. Mở thêm hàng loạt các dịch vụ thanh toán điện tử: thanh toán điện tử, chuyển tiền nhanh, TTQT, thanh toán mậu biên, home banking, e- banking, ATM,...Đồng thời nhằm giúp khách hàng có cơ hội đầu tư và quản lý tiền, tăng lợi nhuận, ngân hàng cần thực hiện các dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ quản lý tiền, dịch vụ ủy thác, đầu tư hộ... Cần coi trọng chất lượng phục vụ khách hàng là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách khách hàng của mình. Đổi mới tổ chức theo chiều hướng tới khách hàng, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ cán bộ để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng. Đơn giản hóa thủ tục thanh toán tiến hành bãi bỏ những quy định không cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng đến với ngân hàng. Tăng cường dịch vụ tư vấn khách hàng, tiếp thị sản phẩm ngân hàng các dịch vụ tiện ích cho khách hàng. Tăng cường các hoạt động marketing để củng cố và không ngừng mở rộng đội ngũ khách hàng. Cần có chính sách khách hàng đồng bộ và hữu hiệu để thu hút khách hàng nhằm tăng thị phần TTQT của Chi nhánh. Chi nhánh nên hình thành bộ phận tư vấn và môi giới cho khách hàng về nghiệp vụ TTQT. Bố trí các cán bộ có trình độ hiểu biết sâu rộng để tư vấn và môi giới cho các khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu TTQT, sẽ được ngân hàng cung cấp các thông tin về tỷ giá, lãi suất, các phân tích chuyên sâu về xu hướng biến động của thị trường, các biện pháp phòng ngừa rủi ro, cũng như việc chấp hành tốt các quy định của Nhà nước trong hoạt động TTQT, tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn thị trường, loại tiền thanh toán, ngân hàng thanh toán... Cần nghiên cứu xây dựng một tổ chức mới cho hoạt động tài trợ thương mại,chuyển tiền phù hợp với một hoạt động của một ngân hàng hiện đại. Củng cố đổi mới hệ thống tổ chức mô hình hoạt động, tiền tệ quốc tế theo hướng vừa tập trung thống nhất vừa chuyên sâu. Chi nhánh nên chủ động giao dịch trực tiếp mở L/C ra nước ngoài cũng như chiết khấu chứng từ hàng xuất với nước ngoài nhằm tiết kiệm thời gian cũng như nâng cao hiệu quả TTQT. Về mặt nguồn vốn ngoại tệ thì cần thống nhất tập trung giao dịch qua tài khoản của trung ương, nhằm tăng cường khả năng quản lý giám sát nguồn vốn của ban điều hành trung ương cũng như tạo ra sức mạnh kinh doanh ngoại tệ cho các chi nhánh. - Phát triển thị trường tài chính với nhiều định chế tài chính trung gian như công ty tài chính, quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng...mở thêm các nghiệp vụ mới như môi giới tiền tệ, mua bán nợ, option, foward,future... Chi nhánh cần áp dụng hình thức mua ngoại tệ có kì hạn đối với các doanh nghiệp, có L/C xuất và có uy tín trong xuất khẩu các mặt hàng truyền thống. Cấp hạn mức tín dụng cho các khách hàng đặc biệt là khách hàng có quan hệ thường xuyên. Tham gia cho vay đầu tư vào khâu sản xuất và chế biến xuất khẩu, để vừa có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động, vừa củng cố mối quan hệ khách hàng, mở rộng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Triển khai rộng rãi nhiệm vụ chiết khấu đối với bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo theo thư tín dụng. Đưa các loại hình dịch vụ như factoring (bao tiêu thanh toán) và Forfaiting (mua bán nợ thương mại quốc tế) vào áp dụng tại các chi nhánh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành xuất nhập khẩu qua các ngân hàng. 3.2.5. Khẩn trương hoàn chỉnh bản chuẩn mực hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001: 2000 Hiện nay, chi nhánh đang nhanh chóng xây dựng bản chuẩn mực hệ thống chỉ tiêu chất lượng ISO 9001. Vì chất lượng có vai trò quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế. Việc chi nhánh đang xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 này là một bước phát triển, vì vậy cần nhanh chóng hoàn thành để áp dụng. Nội dung của ISO 9001 cơ bản gồm các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng ở tất cả các mặt: tín dụng, huy động vốn, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế,...Trong đó thanh toán quốc tế bao gồm: doanh số thanh toán quốc tế, doanh thu, số lượng các vụ tranh chấp, rủi ro xảy ra,... Để thực hiện vấn đề này thì yếu tố có tính chất quyết định là yếu tố lãnh đạo. Lãnh đạo chi nhánh cần thiết lập phương hướng, mục tiêu hoạt động, xem xét nhu cầu của khách hàng để đặt ra chương trình hành động. Lãnh đạo phải hiểu sâu sắc về hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, từ đó khai thác lợi thế Marketing để biến chất lượng thành lợi nhuận, đồng thời thực hiện tốt việc đánh giá thực trạng và thực hiện đầy đủ các bước để áp dụng có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng này. Trong khi chờ đợi hoàn chỉnh bản chuẩn mực quốc tế ISO 9001, chi nhánh cần đảm bảo thực hiện tốt, nhanh chóng, chính xác các dịch vụ TTQT theo phương thức L/C phục vụ khách hàng để duy trì và phát triển hoạt động TTQT của các khách hàng truyền thống tại các chi nhánh, nâng cao vị thế của chi nhánh trong đánh giá của khách hàng. 3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật Hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại. Vì công nghệ, cơ sở vật chất ảnh hưởng tới thời gian thanh toán, chi phí thanh toán. Qua đó, còn gián tiếp làm tăng hoặc giảm uy tín, hình ảnh của ngân hàng trong thanh toán quốc tế. Hiện nay, ngoài việc soạn điện SWIFT, thì tất cả các giao dịch khác đều phải làm thủ công. Vì vậy, chi nhánh cần đẩy mạnh tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Như các chứng từ, báo cáo, công văn... đều lưu bằng giấy, vì vậy mỗi lần cần đến, nhân viên ngân hàng phải rà soát, mất rất nhiều thời gian. Chi nhánh có thể thực hiện việc lưu các chứng từ đó theo file điện tử, như vậy, mỗi lần cần hay liên quan đến thì có thể tìm kiếm một cách dễ dàng và chuyên nghiệp. Mặt khác, do công nghệ ngân hàng còn kém, việc quản lý hồ sơ khách hàng, quản lý dữ liệu tập trung từng khách hàng, từng mặt hàng, thống kê...chi nhánh hầu như chưa quản lý được. Vì vậy, Chi nhánh cần có phần mềm công nghệ quản lý dữ liệu của từng khách hàng, mặt hàng, hồ sơ khách hàng... Nếu việc quản lý này được thực hiện, sẽ giúp ngân hàng theo dõi, đánh giá đúng đắn thực lực tài chính của khách hàng, hạn chế rủi ro xảy ra. 3.3 Một số kiến nghị - Kiến nghị với NHNN: Đa dạng hoá các hình thức giao dịch, mua bán ngoại tệ, tạo điều kiện cho các giao dịch kỳ hạn, giao dich quyền chọn, giao dịch tương lai để các NH có thêm cơ hội lựa chọn các hình thức giao dịch phù hợp. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện thông tin trên thị trường. Ngoài việc giao dịch chủ yếu bằng USD cần chú trọng đến các loại như EUR, GBP, JPY, CHF...Nghiệp vụ Chiết khấu thương phiếu, hối phiếu, ngoại tệ của NH Mở rộng đối tượng, các thành phần tham gia thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Ngoài Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng cổ phần thì tạo điều kiện thêm cho các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi Ngân hàng , các nhà môi giới để tạo tính sống động cho thị trường. Chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước cần có sự điều chỉnh để đưa tỷ giá thị trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng sát với thị trường, Ngân hàng Nhà nước cần đóng vai trò thanh toán bù trừ quốc tế tức là làm trung gian TTQT cho các Ngân hàng. Điều này sẽ đẩy mạnh tốc độ TTQT, hạn chế được chi phí trung gian. Với hình thức này, các Ngân hàng sẽ chủ động hơn trong quá trình thanh toán đồng thời tránh được những rủi ro đáng tiếc khi mở tài khoản tại những nơi kém an toàn. - Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành có liên quan Ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật cho hợp hoạt động TTQT. Hoạt động thương mại quốc tế ở nước ta và ngừng phát triển, đồng nghĩa với việc phát sinh phức tạp. Ở các khâu quan trọng đó có việc hiểu các văn bản pháp luật mang tính quốc gia điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có UCP 600 điều chỉnh hoạt động thanh toán L/C. Do UCP 600 chỉ là thông lệ quốc tế và trong mọi trường hợp vẫn phải tuân thủ luật pháp quốc gia. Vì vậy, Việt Nam sẽ chịu thiệt hại nếu phát sinh tranh chấp vì luật pháp quốc gia bao giờ cũng bảo vệ công dân của họ. Mặt khác, nếu tranh chấp phát sinh tại Việt Nam thì UCP không thể thay thế luật quốc gia và cũng không bao quát được tất cả các giao dịch vô cùng phức tạp trong thực tế. Chính vì vậy, mà Việt Nam cần gấp rút có những văn bản pháp luật cụ thể bảo hộ cho các doanh nghiệp và Ngân hàng để yên tâm hơn khi tham gia quan hệ TTQT. Và tất nhiên những văn bản này cũng phải dựa trên cơ sở sự phù hợp với UCP 600 tránh trái ngược với thông lệ quốc tế Về mối quan hệ giữa các bên tham gia quan hệ TTQT cũng cần có văn bản cụ thể để thống nhất một nguồn luật khi đã được quy định bằng văn bản pháp luật, Ngân hàng có thể giảm bớt thủ tục như hiện nay và tránh được sự chồng chéo về trách nhiệm, nghiệp vụ của các Ngân hàng tham gia quy trình thanh toán. Mặt khác việc đề ra các quy định cũng rất khó khăn cho mọi Ngân hàng vì phải tìm hiểu các hết các ngành luật. Hoạt động TTQT cần được quy định cụ thể hơn bằng VBPL cụ thể và trong luật các tổ chức tín dụng. Việc cải tiến Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay. Trong những năm qua, Cán cân thanh toán trong tình trạng thâm hụt ngoại tệ gây khó khăn cho công tác thanh toán. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải sử dụng các biện pháp hỗ trợ đầu ra nhằm cải thiện Cán cân thanh toán quốc tế: đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu,lôi cuốn đầu tư nước ngoài, đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu, vay nợ viện trợ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. KẾT LUẬN Với nỗ lực cao của toàn thể cán bộ công nhân viên, Ngân hàng NHNo&PTNT Đông Hà Nội đã đạt được những kết quả khả quan trong hoạt động thanh toán quốc tế, số lượng khách hàng ngày càng tăng. Để có được thành công đó, phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của hoạt động TTQT. Tuy TTQT không phải là thế mạnh nổi bật của NHNo&PTNT Đông Hà Nội, nhưng cũng như các ngân hàng thương mại khác NHNo&PTNT Đông Hà Nội đang nỗ lực phát triển và hoàn thiện nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng, cũng như đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Trong thời gian thực tập, trên cơ sở thực tiễn cùng với việc vận dụng những kiến thức đã học, trong chuyên đề em đã trình bày được: lý thuyết cơ bản về TTQT, các nhân tố tác động tới hoạt động TTQT. Em cũng trình bày các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT của NHTM. Dựa trên cơ sở lý thuyết và các số liệu của NHNo&PTNT Đông Hà Nội, em đã đánh giá hiệu quả hoạt động TTQT theo chỉ tiêu định lượng. Từ đó đánh giá kết quả, hạn chế, nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của Chi nhánh. Và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT tại NHNo&PTNT Đông Hà Nội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS. TS Nguyễn Thị Thu Thảo_ Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế. Nhà xuất bản Lao động xã hội. 2. GS.NHUT Đinh Xuân Trình_ Giáo trình Thanh toán quốc tế. Nhà xuất bản Lao động xã hội. 3. Nguyễn Trọng Thùy_ Hướng dẫn áp dụng điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ. Nhà xuất bản thống kê 1996. 4. Quy tắc và tập quán thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 600_ Phòng Thương mại quốc tế. Nhà xuất bản Lao động xã hội. 5. Báo cáo thường niên của NHNo&PTNT Đông Hà Nội 2005- 2007. 6. Tài liệu tổng kết phòng Thanh toán quốc tế 2005- 2007. 7. Nâng cao hiệu quả Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các NHTM. Tạp chí phát triển kinh tế TPHCM- ĐH Quốc gia TPHCM, 2002, số 138, trang 35- 36. 8. Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Tài chính , Tạp chí Thị trường tiền tệ. 9.Một số luận văn khóa trước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33199.doc
Tài liệu liên quan