Chuyên đề Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10

Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, trừ những hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo mục đích sinh lời ngoài việc tìm kiếm nguồn huy động vốn ra, quan trọng nhất là phải sử dụng vốn, tài sản đó hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và làm tăng giá trị chủ sở hữu. Chính vì vậy mà bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường đều phải chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần May 10, em đã có được những hiểu biết khá sâu sắc về thực tế hoạt động này tại Công ty. Hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty hiện đang được duy trì khá ổn định, ở mức trung bình, tuy nhiên công tác quản lý và sử dụng tài sản vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhận xét và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty. Em mong rằng những định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và sử dụng tài sản của Công ty. Với thời gian thực tập hạn chế, và chưa có kinh nghiệm thực tế, do vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cán bộ, nhân viên phòng Tài chính – Kế toán và những ý kiến đóng góp của thầy cô để em có được những kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn về thực tiễn.

doc100 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng gửi bán, tiếp đến là công cụ dụng cụ, hàng hoá tồn kho, và cuối cùng là hàng mua đang đi đường. Nguyên vật liệu tồn kho bình quân mỗi năm có xu hướng tăng qua các năm, số tăng không đáng kể. Bên cạnh đó các số bình quân năm của chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và hàng gửi bán tăng đều, còn thành phẩm tồn kho và hàng hoá tồn kho đều có xu hướng giảm. Như vậy, sản phẩm Công ty sản xuất ra để lưu kho ngày càng ít, đây là một động thái tích cực, thể hiện hiệu quả kinh doanh của Công ty ngày càng tăng. Vòng quay hàng tồn kho tăng dần đều qua các năm, năm 2003 là 9,13 vòng, năm 2004 là 12,53 vòng, còn năm 2005 là 13,24 vòng. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả quản lý hàng tồn kho của Công ty ngày càng tăng. Qua những đánh giá trên về hiệu quả quản lý tài sản lưu động, ta có thể kết luận rằng trong những năm qua Công ty cổ phần May 10 đã có những biện pháp quản lý và sử dụng tài sản lưu động có hiệu quả, cùng với hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng cao, Công ty cần duy trì và phát huy hơn nữa. 2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10 2.3.1. Những kết quả đã đạt được Công ty Cổ phần May 10 là công ty cổ phần có vốn Nhà nước góp có qui mô lớn hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng may mặc. Là thành viên của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam( VINATEX), Công ty thực hiện quy chế quản lý tài chính thống nhất do Tổng Công ty ban hành. Như vậy, Công ty có thuận lợi là có được phương thức quản lý rõ ràng và tương đối phù hợp với lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình, chung nhất với toàn ngành và thống nhất tương đối với các nguyên tắc quản lý tài chính nói chung do Bộ Tài chính quy định. Nhờ có những kế hoạch mang tính định hướng và quy chế quản lý tài chính hợp lý trong thời gian qua, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty này một khởi sắc và đạt được những thành tựu đáng khen ngợi. Doanh thu của Công ty qua các năm đều tăng liên tục, đặc biệt năm 2004 doanh thu của Công ty tăng 30% so với năm 2003, năm 2005 tăng 5,3% so với năm 2003. Liên tục trong các năm qua Công ty đều hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch về doanh thu và lợi nhuận do VINATEX giao cho. Nghĩa vụ đối với Nhà nước, Công ty luôn thực hiện nghiêm túc và đầy đủ. Các chỉ tiêu tăng trưởng của Công ty đều ở mức ổn định. Trong hoạt động quản lý tài sản, Công ty cũng thu được những thành tựu đáng kể. Công ty đã bảo toàn và phát triển được khối tài sản của mình trong những năm qua. Tổng tài sản của Công ty có xu hướng tăng qua các năm, mức tăng trưởng tương đối lớn so với sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, Công ty còn chủ động mở rộng qui mô vốn bằng nhiều phương thức như: tìm kiếm các nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại, và sắp tới cổ phiếu của Công ty sẽ được chào bán ra công chúng, khả năng huy động vốn của Công ty gần như là vô hạn nếu Công ty có cách thức làm ăn có hiệu quả. Khối tài sản của Công ty tăng trưởng tương đối chậm. Tài sản lưu động và tài sản cố định đều tăng trưởng với mức độ thấp và không ổn định. Tài sản cố định năm 2004 tăng 8,2% so với năm 2003, năm 2005 tài sản cố định giảm đi nhưng vẫn tăng 3,9% so với năm 2003. Cũng biến động như vậy, tài sản lưu động năm 2004 cũng chỉ tăng 0,94% so với năm 2003, năm 2005 qui mô tài sản lưu động giảm nhưng vẫn tăng 0,17% so với năm 2003. Trong đó, tiền mặt tăng 1,72% , các khoản phải thu giảm 7,98%, và hàng tồn kho giảm 5,3% so với năm 2003. Trong những năm qua, Công ty đã chú trọng đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm thêm một số máy móc thiết bị để tăng cường năng lực sản xuất, và mở rộng thêm quy mô sản xuất, tăng cuờng đầu tư vào công nghệ sản xuất tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trưòng. Ngoài ra, việc quản lý tài sản cố định cũng được Công ty tiến hành theo kế hoạch thống nhất. Công ty đã tiến hành trích khấu hao tài sản cố định theo đúng quy định của Bộ Tài chính, nhằm chuyển từng phần giá trị tài sản cố định vào chi phí, trích lập quỹ khấu hao để bù đắp hao mòn và nhằm đầu tư mua sắm tài sản mới thay thế. Quỹ khấu hao được trích lập đúng nguyên tắc và được Công ty sử dụng rất linh hoạt cho việc tái đầu tư tài sản cố định hoặc sử dụng vào mục đích kinh doanh khác tuỳ theo nhu cầu của Công ty. Việc trích lập quỹ khấu hao không chỉ mang ý nghĩa tuân thủ những qui định của Nhà nước mà còn góp phần tăng hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của Công ty, vừa tạo điều kiện để Công ty có nguồn đầu tư mới vào tài sản cố định, đảm bảo sản xuất luôn có hiệu quả. Bên cạnh đó, Công ty một mặt có phương hướng sử dụng máy móc, thiết bị hợp lý, cố gắng sử dụng đến công suất tối đa, một mặt luôn có kế hoạch bảo trì, bảo dưỡng máy móc, thiết bị, kiểm tra quá trình vận hành một cách có khoa học. Bởi đối với một doanh nghiệp sản xuất, không có gì quan trọng hơn máy móc, công cụ, dụng cụ. Muốn quá trình sử dụng đạt hiệu quả thì phải có phương pháp quản lý tốt. Ngoài ra, để tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, Công ty đã đầu tư mới vào phần mềm kế toán. Phần mềm kế toán mới đã được đưa vào hoạt động kể từ đầu năm 2004 , đã góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc và nâng cao hiệu quả của công tác kế toán tại Công ty. Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thương mại được Công ty sử dụng rất linh hoạt, và có hiệu quả, không chỉ làm tăng lợi nhuận đạt được mà còn tăng hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động nói chung. Mặt khác, chính sách chiết khấu thanh toán cũng được Công ty vận dụng khá linh hoạt và hiệu quả trong thời gian qua. Khuyến khích thanh toán nhanh tuỳ thuộc vào bạn hàng, vào khối lượng mua, đặt hàng, tuỳ thuộc vào hợp đồng không chỉ có ý nghĩa tránh bị chiếm dụng vốn, mà còn góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyến vốn lưu động, tăng hệu quả sử dụng tài sản của Công ty. Với uy tín lâu năm và khả năng chủ động tìm kiếm đối tác, quan hệ chặt chẽ với khách hàng, Công ty đã không chỉ duy trì và phát triển được các thị trường truyền thống mà còn mở rộng được thị phần ra nhiều nước trên thế giới. Những kết quả đã đạt được trong những năm qua của Công ty quả là rất đáng khích lệ, Công ty cần duy trì và phát huy, đổi mới, sáng tạo hơn nữa trong hoạt động quản lý tài sản để đạt được những kết quả cao hơn trong tương lai. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Tuy Công ty đã đạt được những thành công trên nhưng bên cạnh đó, hoạt động quản lý và sử dụng tài sản vẫn còn tốn tại nhiều mặt hạn chế. 2.3.2.1. Hạn chế Về tài sản cố định Thứ nhất là Công ty đã có nhiều kế hoạch đầu tư mới tài sản cố định nhưng khi vận hành thì hiệu quả sử dụng tài sản cố định thấp hơn so với kế hoạch đầu tư ban đầu đặt ra. Thứ hai, Công ty có nhiều tài sản cố định không dùng đến, chờ thanh lý, còn tồn đọng. Lượng tài sản nằm im, không vận động lớn làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản, gây lãng phí nguồn lực. Về tài sản lưu động Thứ nhất, việc quản lý hàng tồn kho còn ở mức lỏng lẻo, không được quan tâm đúng mực từ phía các nhà quản lý Công ty. Trong Công ty còn tình trạng lập đơn hàng không đúng với thực tế, có trường hợp nguyên vật liêu trong kho vẫn còn nhưng lập đơn đặt hàng mua tiếp. Việc kiểm soát chất lượng nguyên vật liệu nhập kho hay còn trong kho không được thực hiện đúng. Một số hàng hóa chậm luân chuyển với khối lượng dự trũ lớn, Công ty cũng không có kế hoạch giải quyết mà để nằm im trong kho. Thứ hai, kì thu tiền bình quân vẫn cao chứng tỏ việc quản lý công nợ chưa được chặt chẽ. Khách hàng thường xuyên chậm thanh toán, khâu thủ tục, giấy tờ trong thanh toán cũng chậm. Do đó, quản lý công nợ của Công ty còn chứa đựng nhiều rủi ro. Thứ ba là hoạt động quản lý tiền của Công ty cũng chưa đạt hiệu quả cao. Lượng tiền mặt tồn quỹ còn khá lớn nên không tiết kiệm được chi phí, do đó làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản. Số dư tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng còn lớn hơn rất nhiều, tiền không được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà chỉ gửi Ngân hàng sẽ có suất sinh lời thấp hơn. Bên cạnh đó, Công ty vẫn chưa có kế hoạch đầu tư chứng khoán ngắn hạn- một hướng đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mà vẫn đảm bảo ngân quỹ để phục vụ thanh toán kịp thời. Những mặt hạn chế trên cần được Công ty nhận biết và có kế hoạch sửa đổi chi tiết, nhanh chóng đưa hoạt động quản lý và sử dụng tài sản lên một bước tiến mới, để mỗi nguồn lực mà Công ty bỏ ra được đầu tư thích đáng, mang lại mức sinh lợi cao nhất. 2.3.2.2. Những nguyên nhân Những mặt hạn chế bao giờ cũng bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, gồm có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Những nguyên nhân chủ quan Thứ nhất là Công ty chỉ quan tâm đầu tư mua sắm mới trang thiết bị mà không quan tâm đến việc phải sử dụng như thế nào cho đúng với mức hiệu quả tối đa mà tài sản đó có thể mang lại. Điều này chủ yếu đề cập tới quá trình vận hành và bảo trì tài sản cố định. Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất của Công ty chưa hoạt động hết công suất, nhiều tài sản rất quan trọng cho quá trình sản xuất tuy đã hết khấu hao nhưng vẫn còn được mang ra sử dụng liên tục. Rõ ràng, việc quản lý và sử dụng tài sản cố định như trên là rất bất cập. Thứ hai, Công ty chưa tích cực sử dụng những tài sản không cần dùng đến, đã hư hỏng một phần hoặc chờ thanh lý. Công ty chưa có thái độ chủ động sửa chữa, nâng cấp tài sản để phục vụ cho quá trình sản xuất mà để nằm im trong kho, chỉ quan tâm mua sắm tài sản cố định mới. Điều này dẫn đến lãng phí các nguồn lực, để các nguồn lực trong trạng thái nhàn rỗi, không sinh lời. Mặt khác, việc thanh lý, nhượng bán tài sản được Công ty thực hiện rất rườm rà, lắm thủ tục, phải xét duyệt qua nhiều cấp gây chậm trễ cho tiến độ thanh lý tài sản. Thứ ba, do đặc điểm của Công ty là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng may mặc, hàng hoá lại có đặc điểm yêu cầu về chất lượng đứng hàng đầu, đòi hỏi lắm nguyên phụ liệu, nên hàng tồn kho của Công ty rất đa dạng về chủng loại, lớn về số lượng. Nguyên vật liệu không những đa dạng mà các phụ tùng thay thế cũng phong phú. Do đó, Công ty không thể tránh khỏi những khó khăn trong quản lý hàng tồn kho. Mặt khác Công ty cũng chưa có định mức dự trữ và tiêu hao nguyên nhiên vật liệu nên quản lý hàng tồn kho chưa được khoa học, còn lỏng lẻo. Thứ tư là do trình độ quản lý còn thấp, hạn chế về chuyên môn quản lý tài chính, trình độ sử dụng, vận hành máy móc trang thiết bị cũng còn kém. Khiến cho việc tiếp cận với khoa học kĩ thuật hiện đại còn chậm. Thêm vào đó, còn tồn tại những cán bộ có thái độ chưa nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc quản lý và sử dụng tài sản, cố ý làm sai. Thứ năm, việc quản lý công nợ còn chưa chặt chẽ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân Công ty chưa có biện pháp thu hồi nợ thích đáng như nhắc nợ khách hàng, đối chiếu công nợ thường xuyên, định kì. Mặt khác khi theo dõi các khoản công nợ Công ty chưa có sự phối hợp đối chiếu thường xuyên giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận tài chính kế toán, dẫn đến số liệu hạch toán không thống nhất, không chính xác, không phản ánh được thực tế càng làm hoạt động thu hồi nợ chậm chạp hơn. Thứ sáu là do đặc điểm cơ cấu tổ chức của Công ty có nhiều chi nhánh, văn phòng, xí nghiệp, Công ty còn mở rộng mạng lưới tới nhiều tỉnh thành trong cả nước và vươn ra một số nước trên thế giới. Tương ứng với mỗi chi nhánh, xí nghiệp lại có một quỹ tiền mặt riêng phục vụ hoạt động thanh toán hàng ngày. Do đó, lượng tiền tồn quỹ của Công ty khá lớn, gây khó khăn cho việc quản lý. Mặt khác, Công ty cũng chưa có kế hoạch cụ thể để quản lý những quỹ tiền mặt phân tán đó, chưa có chương trình duyệt chi theo từng cấp. Những nguyên nhân khách quan Thứ nhất, Nhà nước đã ban hành những quy định về quản lý tài chính doanh nghiệp nói chung và quản lý tài sản nói riêng, tuy nhiên những nguyên tắc này khi áp dụng vào thực tế còn xảy ra nhiều bất cập, không hợp lý. Các thủ tục mua sắm, nhượng bán, và thanh lý tài sản mà Nhà nước quy định còn rườm rà, phức tạp, qua nhiều khâu, thủ tục giấy tờ khiến hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp bị khó khăn, đạt hiệu quả kém. Thứ hai là do hiệu quả sử dụng tài sản của toàn ngành may mặc Việt Nam còn kém, các doanh nghiệp chưa có được sự hướng dẫn chung, có tính chất định hướng cho việc quản lý, sử dụng tài sản từ Tổng Công ty. Mặt khác, các doanh nghiệp trong Tổng Công ty Dệt May còn dựa quá nhiều vào sự hỗ trợ từ Phòng thương mại Việt Nam, Phòng marketing của Tổng Công ty dệt may Việt Nam... dẫn đến không chủ động sáng tạo nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, không chủ động tìm kiếm đối tác, bạn hàng mới, không có những kế hoạch, định hướng mang tính cách mạng. Thứ ba do sản phẩm may mặc của các công ty may mặc Việt Nam chưa có tên tuổi và uy tín trên thị trường thế giới. Hầu hết hạn ngạch được sử dụng để làm hàng gia công cho nước ngoài, về thực chất là chuyển nhượng hạn ngạch. Ngay cả các mặt hàng Việt Nam theo hình thức FOB cũng mang nhãn hiệu của các nước khác: Pierre Cardin, Youth, Polo,... Thứ tư là nguyên vật liệu của ngành Dệt May Việt Nam nói chung và của Công ty Cổ phần May 10 nói riêng đều phải được nhập chủ yếu từ Trung Quốc. Giá nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài phải cộng thêm cả thuế nhập khẩu khá cao, gián tiếp làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, làm giảm khả năng cạnh tranh, gây khó khăn hơn trong khâu lưu thông, tiêu thụ. Công ty còn gặp phải bất lợi là phụ thuộc vào nước ngoài về nguyên vật liệu. Mặt khác, Trung Quốc vừa là bạn hàng, cũng vừa là đối thủ cạnh tranh lớn của các công ty may mặc Việt Nam. Năm 2004, Trung Quốc ra nhập WTO, tất cả các nước đều xóa bỏ hạn ngạch đối với Trung Quốc. Mãi đến đầu năm 2006, Mỹ mới quyết định đặt hạn ngạch trở lại đối với quốc gia này. Rõ ràng, với cùng nguồn nguyên liệu đầu vào, ta không thể đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu thấp, doanh thu giảm dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn và tài sản không thể tăng cao. Thứ năm, khó khăn về hạn ngạch xuất khẩu vẫn đang là vấn đề của các công ty sản xuất hàng may mặc Việt Nam trong những năm gần đây. Từ năm 2000, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết, chúng ta bắt đầu được phép xuất khẩu sang Mỹ các mặt hàng may mặc với số lượng không hạn chế. Nhưng đến năm 2003 Mỹ bắt đầu áp quotas ( hạn ngạch) đối với mặt hàng may mặc của Việt Nam. Cùng với luật chống bán phá giá mà Mỹ đặt ra, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ của Công ty nói chung và của các công ty may Việt Nam nói riêng gặp phải một số khó khăn. Trong khi đó, một số thị trường khác như khối liên minh EU, mặc dù không áp đặt quotas nhưng lại là thị trường có những khách hàng khó tính, sản phẩm của Công ty không có khả năng cạnh tranh cao nên doanh số tiêu thụ chưa cao như mong đợi. Qua đó cho thấy lợi nhuận mà Công ty thu được chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. Thứ sáu là nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế mới phát triển còn non kém, chứa đựng nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Nền kinh tế có rất nhiều biến động. Lạm phát ngày càng tăng, giá cả nhiều mặt hàng đều tăng vọt gây khó khăn cho tất cả các doanh nghiệp về giá cả nguyên vật liệu đầu vào, giá nhân công,...khiến cho hiệu quả sử dụng tài sản ngày càng thấp đi. Nhưng Nhà nước còn chưa có hướng giải quyết cụ thể, mang tính trực tiếp mà chỉ có những biện pháp mang tính thời điểm, tạm thời. Tỷ giá cũng có nhiều biến động. Tỷ giá Việt Nam đồng giảm trong khi tỷ giá một số ngoại tệ tăng khiến cho hoạt động xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài của Công ty khó khăn hơn Tỷ giá đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng, Công ty phải nhập nguyên vật liệu chủ yếu từ Trung Quốc ,có nghĩa là giá của các yếu tố đầu vào tăng, Công ty phải bỏ ra nhiều nguồn lực hơn để đầu tư cho quá trình sản xuất. Thứ bảy, tình hình kinh tế, chính trị trong khu vực và trên thế giới cũng có khá nhiều bất ổn trong những năm gần đây, là nhân tố tác động không nhỏ tới khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty, gây nên những xáo trộn và biến động không mấy tích cực. Như vậy, dù có nhiều cố gắng trong hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý, sử dụng tài sản nói riêng, Công ty Cổ phần May 10 vẫn còn nhiều hạn chế, gây khó khăn, cản trở sự phát triển của Công ty. Một số nguyên nhân khó có thể khắc phục được ,nhưng bên cạnh đó có những yếu tố nằm trong tầm kiểm soát của Công ty, đòi hỏi Công ty cần có những biện pháp giải quyết kịp thời. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10 3.1.1. Định hướng phát triển Đứng trước xu thế hội nhập quốc tế, trong thời gian qua ngành Dệt- May Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thử thách lớn như: hạn ngạch, thị trwờng, hàng ngoại nhập giá rẻ, lao động... Công ty Cổ phần May 10 là một doanh nghiệp lớn trong ngành Dệt- May tất nhiên cũng chịu rất nhiều ảnh hưởng chung của thực trạng trên. Công ty đã gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà khó khăn chủ yếu là cạnh tranh về giá trên thị trường trong và ngoài nước. Để khắc phục được những khó khăn này, Công ty đã vạch ra cho mình một kế hoạch cụ thể để phấn đấu, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động quản lý và sử dụng tài sản. Trong thời gian tới, công ty tiếp tục thực hiện phương hướng phát triển đã đề ra là: Một là tiếp tục kế hoạch giữ vững sản phẩm hàng đầu là áo sơ mi cao cấp, đồng thời đa dạng hoá sản phẩm, trong đó tập trung vào trang phục nam giới như quần âu, jacket, complê. Đây là những sản phẩm mũi nhọn của công ty vì thế vẫn tiếp tục được phát triển và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Hai là ngoài mặt hàng sơ mi cao cấp, công ty sẽ nghiên cứu tìm nguồn nguyên liệu rẻ hơn sản xuất phục vụ cho những đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội. Mở rộng thị trường trong nước, phấn đấu tăng trưởng hàng năm đạt 25%. Ba là giảm dần các nhà cung cấp kém hiệu quả; nhằm tạo thế chủ động trong việc cung cấp nguyên phụ liệu, công ty đã và đang xây dựng những dây chuyền công nghệ sản xuất phụ liệu. Bốn là tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm bằng cách tập trung nghiên cứu thiết kế mẫu mốt thời trang, tăng cường nhiệm vụ marketing, tìm hiểu và có kế hoạch tiếp cận thị trường, đặc biệt những thị trường mới có nhiều tiềm năng nhằm tăng tỷ trọng sản phẩm sản xuất với hình thức không mua nguyên liệu bán thành phẩm. Năm là đầu tư chiều sâu về thiết bị là công nghệ tiên tiến, hiện đại, đồng bộ, cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Sáu là tiếp tục thực hiện tốt các cam kết của lãnh đạo trong hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO9001, hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO14001, hệ thống trách nhiệm xã hội SA8000, tạo lòng tin và thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao, đảm bảo điều kiện làm việc, quyền lợi, môi trường làm việc của cán bộ công nhân viên trong công ty. Ngoài ra trong năm 2006, Công ty chú trọng vào những mặt cụ thể sau: Thứ nhất, đào tạo, tuyển dụng thêm lao động, mở rộng năng lực hiện có: tại các xí nghiệp có khoảng 5000 lao động, sản lượng phấn đấu đạt mức tăng trưởng 10-15%, 10 triệu sản phẩm. Thứ hai, giữ vững mặt hàng mũi nhọn là sơ mi nam, phát triển thêm các sản phẩm khác như áo jacket, quần âu, comple... Thứ ba, chuyển dần từ hình thức gia công sang hình thức mua đứt bán đoạn đạt 50%. Thứ tư, củng cố thị trường truyền thống là Nhật Bản, EU, phát triển thị trường Mỹ. Với tiềm năng của mình, Công ty cổ phần May 10 sẽ thực hiện tốt và tốt hơn nữa những mục tiêu đã đặt ra. Tuy nhiên, một thiếu sót của công ty đó là vẫn chưa chú trọng mở rộng thị phần trong nước, còn tập trung vào việc củng cố và phát triển thị trường nước ngoài. Vì vậy, công ty nên có kế hoạch vừa tiếp tục khẳng định mình trên trường quốc tế, tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài với Nhật, Đức, Mỹ, EU..., vừa phải mở rộng hệ thống kênh phân phối ra khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Thực hiện được những hướng đi đúng đắn đó, chắc chắn hiệu quả sử dụng tài sản sẽ được nâng cao. 3.1.2. Yêu cầu về sử dụng tài sản Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động quản lý và sử dụng tài sản, Công ty May 10 cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: Sử dụng tài sản cần tuân theo qui định của pháp luật, qui chế chung của ngành dệt may. Các nguyên tắc quản lý tài chính do Tổng Công ty Dệt May Việt Nam qui định cần được chấp hành nghiêm chỉnh trong hoạt động quản lý và sử dụng tài sản của Công ty. Ngoài ra, cần thống nhất với các nguyên tắc quản lý tài sản mà Bộ Tài chính ban hành, tất cả các hoạt động quản lý tài sản nói riêng và toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của Công ty phải được thực hiện hợp pháp. Mặt khác, công tác quản lý tài chính cần phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời trong mọi thời điểm. Hạch toán ngoài việc không được sai sót còn phải đảm bảo có sự phối hợp, đối chiếu với các bộ phận khác trong Công ty chẳng hạn như với bộ phận kinh doanh để số liệu luôn sát với thực tế. Quỹ khấu hao tài sản cố định phải được trích đúng và đủ, đảm bảo cho việc tái đầu tư của Công ty. Bên cạnh đó, phải luôn có kế hoạch sử dụng, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng tài sản sao cho hợp lý và khoa học trên cơ sở tiết kiệm các nguồn lực. Thực hiện được như vậy mới đảm bảo được suất sinh lời của tài sản luôn ở mức cao. Ngoài ra, các biện pháp phòng ngừa được rủi ro phải luôn được chú trọng, bởi hoạt động sản xuất kinh doanh bản thân nó luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro, chưa kể đến những rủi ro tác động từ nền kinh tế vĩ mô như: rủi ro do sự biến động của tỷ giá, sự biến động của lãi suất thị trường,... Những nguyên tắc trên chỉ là tương đối, trong việc quản lý và sử dụng tài sản, các nhà quản lý Công ty còn cần phải linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống xảy ra trong kinh doanh. Đó cũng là một yếu tố khá cần thiết cho sự thành công. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần May 10 Qua thời gian thực tập tại Công ty, trên cơ sở những nhận xét, đánh giá về ưu nhược điểm của hoạt động quản lý và sử dụng tài sản tại Công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa mảng hoạt động này ở Công ty: 3.2.1. Đổi mới và nâng cấp tài sản cố định Trong hoạt động quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp, đổi mới và nâng cấp tài sản là một trong những vấn đề đáng quan tâm hàng đầu.Do vậy, Công ty muốn đạt được hiệu quả sử dụng tài sản thì cần có các giải pháp tăng cường đổi mới và nâng cấp tài sản cố định. Đổi mới và nâng cấp không chỉ gồm hoạt động mua sắm, đầu tư mới tài sản cố định định kì, như mua sắm máy móc, thiết bị, công cụ dùng cho sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ,... mà còn bao gồm cả hoạt động sửa chữa, nâng cấp, bảo trì, bảo dưỡng tài sản cố định. Quá trình này nhằm đảm bảo cho tài sản cố định luôn được vận hành tốt và càng tốt hơn nữa, nhằm khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị. Nếu như việc đầu tư mới, mua sắm mới chỉ nhằm mục tiêu đổi mới, hiện đại hoá tài sản cố định, bổ sung các tài sản đã hết khấu hao, cần thanh lý. Ngoài ra, đổi mới, nâng cấp tài sản cố định còn đề cập đến việc phải xử lý dứt điểm những tài sản không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý bằng cách nhượng bán, thanh lý hoặc sửa chữa để đưa vào vận hành; nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tái đầu tư tài sản cố định. Có như vậy thì chất lượng tài sản cố định của Công ty sẽ được nâng cao, không còn những tài sản kém chất lượng, không đạt hiệu quả, nhàn rỗi, từ đó tiết kiệm được vốn. Muốn thực hiện được giải pháp trên, trước hết Công ty cần có biện pháp kiểm kê, phân loại tài sản định kì hàng tháng, quí ,năm. Mặt khác, khi có nhu cầu về đổi mới tài sản cố định thì công ty cần phải lập ra một hội đồng thẩm định có trách nhiệm tìm hiểu, đánh giá các tài sản đó nhằm tìm ra tài sản phù hợp nhất cho hoạt động của công ty tại thời điểm đang xét. Sự đánh giá này cần dựa trên các tiêu chuẩn như: thời gian sử dụng, nguyên giá, công suất, chế độ bảo hành... Công ty cũng cần xem xét việc nên mua hay thuê tài sản. Bởi khi mua tài sản đòi hỏi công ty phải có đủ vốn để đầu tư, còn khi thuê tài sản thì công ty không cần phải huy động vốn đầu tư nhưng sẽ phải trả chi phí thuê thường là khá cao. Việc đổi mới và nâng cấp tài sản cố định cần được tiến hành định kì ở Công ty. Xen kẽ hoạt động này sẽ là quá trình quản lý và sử dụng tài sản cố định, quá trình này đòi hỏi cần có hiệu quả. Muốn vậy, Công ty cần bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, nhằm khai thác tối đa công suất máy móc, thiết bị nhằm đạt năng suất cao trong sản xuất. Bên cạnh đó, Công ty phải có kế hoạch quản lý chặt chẽ về mặt hiện vật, không để mất mát hoặc hư hỏng tài sản cố định trước thời hạn khấu hao. Hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ do Nhà nước qui định và điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao vào giá thành sản phẩm, nhằm bảo toàn vốn cố định. 3.2.2. Giảm lượng hàng tồn kho Hàng tồn kho là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong công tác sản xuất cũng như kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì kho dự trữ vừa là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho khâu sản xuất, cũng là nơi để chu chuyển thành phẩm nhập kho cũng như xuất kho của doanh nghiệp. Chính vì thế, hàng tồn kho là một yếu tố không thể tách rời đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào. Tuy nhiên, tại Công ty Cổ phần May 10 tình trạng hàng tồn kho đang chiếm một tỷ trọng 18,35% tương đối cao trong tổng tài sản và chiếm tỷ trọng 7.55% doanh thu thuần. Giảm thiểu hàng tồn kho sẽ giúp cho vòng quay vốn lưu động tăng lên. Việc giảm giá trị hàng tồn kho, đặc biệt là nguyên vật liệu và thành phẩm sẽ giúp doanh nghiệp giảm được các chi phí lưu kho, cũng như sự mất giá vô hình của sản phẩm may mặc vốn rất nhanh bị lạc hậu so với thị trưòng. Kết quả là Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí, tăng lợi nhuận, tăng khả năng thanh toán và tiết kiệm được các nguồn lực để đầu tư vào các hoạt động cần thiết khác. Công ty cần thực hiện các giải pháp sau : - Nâng cao hiệu quả công tác Maketing trong đó đặc biệt phải chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường, sản phẩm và chính sách bán hàng. Khi đó vòng quay hàng tồn kho sẽ giảm đi khiến cho giá trị hàng tồn kho giảm tối thiểu theo mức mà doanh nghiệp mong muốn. Cụ thể một bộ phận Maketting sẽ được tăng cường thêm, với cách thức maketing chuyên nghiệp hơn. Hiện nay, Công ty đang thực hiện dự án tư vấn bán hàng có doanh số tăng 5% và chi phí bán hàng giảm 10% so với giá mà Công ty đã ký kết với đối tác. - Do đặc thù của doanh nghiệp chủ yếu sản xuất các sản phẩm công nghiệp nên nguyên vật liệu cung ứng dựa trên đơn đặt hàng của khách hàng hoặc chính khách hàng là người cung cấp. Nghiên cứu một cơ cấu hàng tồn kho phục vụ dự trữ cho sản xuất một cách hợp lý phải dựa vào những nhận định về giá cả trên thị trường, cũng như mục tiêu mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn. Để từ đó có một cơ cấu hàng lưu kho tối ưu, giúp cho việc giảm thiểu các chi phí và tổn thất phát sinh, đồng thời giúp doanh nghiệp có điều kiện tốt thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận trong kỳ kinh doanh của mình. - Kiểm tra đánh giá những hàng hoá, thành phẩm không còn khả năng sinh lời trên thị trường, cần phải thanh lý nhanh để tận dụng nguồn vốn sử dụng cho mục đích khác. - Đối với những hàng hoá bị trả lại thì áp dụng những chính sách giảm giá: treo biển giảm giá ở tất cả những đại lý trong nước,có chính sách chiết khấu cho các đại lý phù hợp hơn. 3.2.3. Tăng cuờng quản lý công nợ Thực tế, trong hoạt động sản xuất kinh doanh không thể không có hiện tượng chậm thanh toán (nợ) để đảm bảo thực hiện hợp đồng hoặc các ràng buộc khác. Nếu ở mức độ trong thời gian cho phép thì là điều có thể chấp nhận được, nhưng khi các khoản nợ này không được thanh toán đúng hạn thì Công ty cần phải đốc thúc việc trả nợ để đảm bảo tình tài chính của doanh nghiệp được khả quan và cân đối. Hiện tại, các khoản phải thu của Công ty chiếm 45,07% trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Như vậy, nợ của khách hàng chiếm tỷ trọng cao có thể làm mất an toàn và ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của Công ty. Các khoản công nợ nếu không được theo dõi sát, quản lý chặt chẽ sẽ gây khó khăn cho việc thu hồi nếu gặp các khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của Công ty. Để quản lý tốt các khoản công nợ, Công ty cần nắm được thực trạng các khoản phải thu theo từng đối tượng khách hàng, so sánh với chính sách tín dụng thương mại theo khía cạnh giới hạn nợ và thời hạn nợ. Trên cơ sở đó, Công ty sẽ biết được khoản nợ nào là quá hạn, khoản nợ nào là chưa đến hạn thanh toán. Từ đó tiến hành phân loại nợ để quản lý chặt chẽ và khoa học hơn. Với những khoản nợ đã quá hạn thanh toán Công ty phải đưa ra những biện pháp thu hồi nợ thích đáng như : nhắc nợ khách hàng thường xuyên, dùng các chính sách chiết khấu thanh toán sớm, đa dạng hoá các phương thức thanh toán,... nhằm khuyến khích khách hàng trả nợ, đảm bảo thu hồi được vốn. Trong đó, thành lập tổ thu hồi công nợ là có thể nói là một giải pháp cụ thể và khá hiệu quả trước mắt. Việc thành lập tổ công nợ chuyên theo dõi và thu hồi các khoản công nợ sẽ tạo điều kiện theo dõi sát hơn và có các biện pháp kịp thời, thích hợp đối với từng đối tượng; đồng thời tham mưu cho các nhà quản lý Công ty để có biện pháp thích hợp đảm bảo vốn không bị chiếm dụng quá nhiều và quá lâu, ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh chung của Công ty. Tổ Công nợ được thành lập phải bao gồm cán bộ kinh doanh, nhân viên kế toán công nợ, nhân viên pháp chế và một số bộ phận liên quan. Tổ công nợ sẽ tiến hành phân loại các đối tượng nợ dựa trên dặc điểm riêng của khách hàng và bằng cách thu thập các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể dựa trên tuổi của các khoản nợ để tiến hành phân loại nợ, từ đó dễ dàng quản lý, xây dựng kế hoạch và các biện pháp, phương thức đòi nợ thích hợp . Đối với các khoản nợ của khách hàng khó đòi thì cần kết hợp với các cơ quan tư vấn có kinh nghiệm trong lĩnh vực để thu hồi vốn nhanh và hiệu quả nhất. Đối với các khoản công nợ phải trả của Công ty thì cần thực hiện chuyển nợ định kì, tổ chức theo dõi đầy đủ và chính xác, lập kế hoạch trả nợ. 3.2.4. Xây dựng kế hoạch ngân quỹ hiệu quả Để đảm bảo được khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của Công ty, hoạt động quản lý tiền hay còn gọi là quản lý ngân quỹ luôn được các nhà quản lý Công ty chú trọng. Trước tình hình tỷ trọng tiền trên tổng tài sản còn chiếm khá cao, Công ty cần đưa ra được hướng giải quyết hợp lý, một trong những giải pháp cần thiết nhất là phải xây dựng được kế hoạch ngân quỹ hiệu quả. Muốn vậy, Công ty phải đảm bảo xây dựng được kế hoạch ngân quỹ thoả mãn những nguyên tắc sau: Thứ nhất là đảm bảo được khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí. Kế hoạch được xây dựng phải đảm bảo được tính chủ động của Công ty trong mọi hoạt động thanh toán, không để xảy ra rủi ro gây mất uy tín của Công ty trước khách hàng, hoặc Công ty phải tìm kiếm nguồn tài trợ cho hoạt động thanh toán trong thòi gian rất ngắn. Thứ hai là dự trữ tiền ở mức tối thiểu cần thiết, dựa trên cơ sở tối thiểu hoá lượng tiền nhàn rỗi, tiền tồn đọng. Tiền để không nhàn rỗi, không sinh lời có thể coi là lãng phí nguồn lực, dù gửi ở Ngân hàng thì suất sinh lời vẫn kém và chịu nhiều rủi ro như biến động lãi suất thị trường. Giảm lượng tiền tồn đọng nghĩa là đẩy nhanh tốc độ quay vòng tiền, sẽ khiến cho hiệu quả sử dụng vốn tăng, hiệu quả sử dụng tài sản theo đó cũng tăng lên. Thứ ba là đảm bảo được tính chính xác, không được sai sót, như thiếu các khoản thu, chi,... Để xây dựng được một kế hoạch ngân quỹ chính xác cần dựa trên sự nghiên cứu trên tầm vĩ mô, xem xét các khoản phải thu, phải trả của Công ty trong kì trước, để có thể dự báo cho kì tiếp theo. Thứ tư là kế hoạch ngân quỹ được xây dựng phải hạn chế được rủi ro. Nhà quản lý phải quan tâm đến những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán, hoạt động kinh doanh,... để có mức dự phòng phù hợp. Nội dung của kế hoạch ngân quỹ bao gồm phần thu, phần chi và phần cân đối thu chi. Trong đó, hai nội dung đầu là quan trọng nhất. Để xây dựng được kế hoạch ngân quỹ hiệu quả, ngoài đạt được những yêu cầu kể trên, Công ty còn cần phải phân công chuyên trách, hướng dẫn cụ thể, chi tiết tới từng bộ phận, từng đơn vị. Mặt khác, việc xây dựng và thực hiện tốt các kế hoạch có liên quan trực tiếp, như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch nhập nguyên nhiên vật liệu,... cũng là giải pháp hết sức quan trọng để Công ty xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch ngân quỹ. 3.2.5. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực Con người là yếu tố chủ chốt, quyết định thành công trong mọi hoạt động. Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động, không thể không quan tâm tới yếu tố con người trong Công ty, mà giải pháp hiệu quả có ý nghĩa lâu dài là nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở đây không chỉ có tăng cường công tác đào tạo, chuyên sâu, đa dạng hoá các phương pháp đào tạo dạy nghề, đa dạng hoá các lĩnh vực đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ban đầu cho người lao động; mà còn có ý nghĩa là Công ty luôn luôn phải chú trọng vào việc đào tạo lại, nâng cao tay nghề cho người lao động. Điều đó có thể thực hiện bằng cách Công ty thường xuyên mở các lớp đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, nhằm đảm bảo cho người lao động cập nhật được những kiến thức mới, những tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới. Có như vậy, chất lượng sản phẩm Công ty sẽ luôn luôn được cải tiến, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường, thị phần được bảo đảm. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giảng viên đào tạo phải luôn được nâng cao, Công ty có thể định kì cử họ đi học các lớp bồi dưỡng chuyên sâu ở trong nước và quốc tế để nâng cao tay nghề, kinh nghiệm cũng như chất lượng đào tạo. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực cũng không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, mà còn có ý nghĩa nâng cao trình độ của cả các cán bộ quản lý. Để từ đó, công tác quản lý của Công ty sẽ diễn ra có hiệu quả hơn, chuyên trách hơn đối với từng bộ phận. Chức năng quản lý được nâng cao thì chức năng hoạt động cũng được cải thiện. Các cán bộ quản lý cũng phải thường xuyên được đào tạo lại, nâng cấp về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời Công ty cần có kế hoạch ứng dụng những phần mềm quản lý, công nghệ quản lý mới, tiên tiến để có thể nâng cao được hiệu quả tổ chức quản lý trong Công ty. Ngoài ra, Công ty cũng cần tuyển dụng thêm lao động có trình độ cao vào các vị trí còn yếu kém trong Công ty như nhân viên xuất nhập khẩu, nhân viên thiết kế... 3.2.6. Mở rộng thị trường tiêu thụ Tìm kiếm thị truờng tiêu thụ là vấn đề hết sức quan trọng đối với việc tồn tại và phát triển của Công ty. Hiện nay, Công ty đã thiết lập được thị trường tiêu thụ ỏ hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng của khu vực phía Nam còn bị hạn chế, cho đến nay mới đóng góp trên 10% tổng doanh thu nội địa của toàn công ty. Đối với thị trường thế giới, lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may theo CEPT/AFTA của các nước ASEAN, sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty trong khu vực. Trong khi đó, do Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, nên các Công ty dệt may Việt Nam sẽ vẫn chịu sự điều tiết bằng hạn ngạch từ các nước nhập khẩu phát triển, đồng thời có thể phải chịu thuế suất cao từ các thị trường này, kể cả sau năm 2004 khi việc thực hiện ATC/ WTO hoàn tất. Đây là một bất lợi lớn cho May 10 trong việc cạnh tranh với các Công ty may mặc nước ngoài về cả lượng xuất khẩu và thị trường. Vì vậy, để mở rộng thị trường tiêu thụ, Công ty cần có những chiến lược kinh doanh phù hợp để cạnh tranh với các Công ty may khác như sau: Chiến lược sản phẩm Ngoài việc đầu tư, cải tiến công nghệ sản xuất; nâng cao tay nghề cho công nhân; kiểm tra nghiêm ngặt việc thực hiện hệ thống tiêu chuẩn đối với từng loại sản phẩm; Công ty nên: Liên tục cải tiến mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt chú trọng chất liệu bởi hầu hết các khách hàng đều mong đợi chất liệu tốt, chỉ sau kiểu dáng thời trang. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần nghiên cứu sở thích, tập quán, truyền thống văn hoá của thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ đó có thể thiết kế những kiểu dáng, mẫu mã phù hợp. Sản xuất những sản phẩm cao cấp dành cho những người có thu nhập cao, bên cạnh đó cũng nên sản xuất những sản phẩm dành cho những người có thu nhập trung bình. Chiến lược giá cả Công ty cần tiếp tục nghiên cứu và tìm cách hạ giá bán sản phẩm bằng cách: Hạn chế nhập nguyên vật liệu, phụ liệu từ nước ngoài, tăng cường sử dụng nguyên phụ liệu trong nước có chất lượng tương đương; từ đó để hạ giá thành sản phẩm đồng thời giúp cho các ngành công nghiệp khác trong nước có thị trường tiêu thụ. Có mức chiết khấu hợp lý và linh hoạt đối với những khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán nhanh. Riêng đối với thị trường các nước trên thế giới, Công ty cần phải chú ý đến những qui định của nước nhập khẩu về giá cả của hàng hoá khi nhập khẩu vào nước họ. Chẳng hạn như Luật chống bán phá giá của Mỹ - một công cụ bảo vệ nền sản xuất trong nước, bảo vệ sức cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất ở nước họ. Chiến lược phân phối và truyền thông Tăng số lượng đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại khu vực phía Nam và cố gắng phát triển các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở khắp các nước trên thế giới, nhằm giúp cho người tiêu dùng tiếp cận được dễ dàng với sản phẩm của Công ty. Có những phương thức giao hàng linh hoạt, ví dụ như nếu khách hàng có yêu cầu Công ty sẽ chuyển đến tận nơi theo thoả thuận nếu chi phí cho việc giao hàng đó không quá cao. Tăng cường hoạt động Marketing, tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị sản phẩm thông qua việc tham gia hội chợ, triển lãm, qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, truyền hình... 3.2.7. Nâng cao chất lượng công tác tài chính kế toán Công tác tài chính kế toán là hoạt động chuyên trách của phòng Tài chính- Kế toán, có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng quản lý tài sản của Công ty. Để công tác này được thực hiện tốt hơn nữa, em xin đưa ra một số kiến nghị sau: Một là Công ty cần tổ chức phối hợp giữa các phòng ban một cách nhịp nhàng hơn như: + Phối hợp giữa phòng Kinh doanh với phòng Tài chính kế toán trong khâu cung cấp nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào và tiêu thụ thành phẩm nội địa. + Giữa phòng Kế hoạch và phòng Tài chính kế toán trong hoạt động giao dịch với khách hàng nước ngoài và tiêu thụ xuất khẩu. + Phòng Tổ chức và phòng Tài chính kế toán trong việc tính lương cũng như các khoản phụ cấp cho người lao động,... Hai là Công ty cần mở các lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ, nghiệp vụ kế toán, tài chính cho các cán bộ kế toán, cán bộ tài chính. Đầu năm 2005, Công ty đã mua mới và đưa vào sử dụng phần mềm kế toán mới, với nhiều tính năng, tiện ích và ưu điểm vượt trội. Nhưng cho đến nay, do trình độ còn hạn chế nên phòng Tài chính kế toán của Công ty mới chỉ chính thức sử dụng hoàn chỉnh và thường xuyên một phần của chương trình phần mềm đó. Như vậy, biện pháp cấp thiết hiện nay là nâng cao trình độ cho các cán bộ kế toán, cập nhật được cách sử dụng và khai thác hết được tính năng ưu việt của phần mềm trên. Ba là xây dựng một đội ngũ cán bộ tài chính chuyên trách. Hiện nay, chức năng tài chính của phòng tài chính kế toán chưa được thể hiện rõ rệt, chủ yếu mới thực hiện được chức năng hạch toán kế toán. Như vậy, việc cần thiết và khá quan trọng là phải thiết lập một bộ phận tài chính riêng biệt, chuyên trách về vấn đề quản lý tài chính cho công ty. Nhiệm vụ của bộ phận này chủ yếu sẽ là: xây dựng các kế hoạch tài chính dài hạn, nắm bắt và xử lý các vấn đề tài chính ngắn hạn, báo cáo và chịu trách nhiệm trước ban Giám đốc về tình hình tài chính của công ty. Thực hiện được những biện pháp trên, Công ty sẽ có được số liệu kế toán hoàn chỉnh, chi tiết và sát với thực tế hơn, tránh được việc chậm các báo cáo tài chính. 3.2.8. Xây dựng cơ chế khen thưởng, khuyến khích hợp lý đối với người lao động Cơ chế khen thưởng trong mọi doanh nghiệp luôn là cơ chế khuyến khích đối với người lao động, khích lệ người lao động ổn định công việc và hăng hái làm việc, yên tâm đóng góp sức mình cho sự phát triển của doanh nghiệp. Có thể nói đó là cơ chế tạo động lực, tạo niềm tin trong công việc cho người lao động. Do vậy, Công ty cần tăng cường và hoàn thiện cơ chế khen thưởng theo hướng khuyến khích mọi người thi đua sản xuất, hoàn thành tốt các nhiệm vụ và chỉ tiêu được giao, đồng thời có cơ chế thưởng phù hợp đối với những sáng kiến tốt, giúp tăng hiệu quả hoạt động của Công ty. Chẳng hạn lập ra các phong trào thi đua sản xuât giỏi, giải thưởng sáng tạo thiết kế sản phẩm của Công ty,... Nhưng khi thực hiện chính sách này còn cần phải đảm bảo sự công bằng, không có sự ưu tiên, phân biệt. Nếu không sẽ dẫn đến mất hiệu quả của chính sách. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Trong những năm gần đây, ngành may mặc là ngành có tốc độ phát triển cao, thu hút lực lượng lao động lớn, xuất khẩu ngành may không những đem lại ngoại tệ mà còn giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp để hỗ trợ sự phát triển ngành dệt may Việt Nam. Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành dệt may (nhằm đảm bảo nguồn cung đầu vào cho ngành may) bao gồm: - Cho miễn thuế thu nhập doanh nghiệp để tái đầu tư vào ngành dệt. - Có cơ chế cho vay ưu đãi, có thời gian ân hạn, lãi suất thấp. - Cho sử dụng nguồn vốn ODA vào các dự án xử lý môi trường cho các cụm công nghiệp dệt tập trung mới và các cơ sở dệt lớn hiện có. Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp dệt may tập trung: - Cho miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm chi phí hạ tầng trong 5 năm đầu. - Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm dệt may Trước hết là cho các doanh nghiệp may được quyền xuất khẩu trực tiếp và giảm các thủ tục hành chính gây phiền hà. Đồng thời tạo môi trường xuất khẩu bằng cách gia nhập vào các tổ chức quốc tế như tổ chức thương mại quốc tế (WTO),khu vực mậu dịch tự do AFTA... Chính sách tài chính tiền tệ ổn định duy trì lợi thế cạnh tranh so với các nước xuất khẩu ngành này. Nhà nước cũng cần đề xuất các nhu cầu ưu đãi về thuế xuất khẩu doanh nghiệp có thể giảm giá hàng và tăng lợi nhuận, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công cho xuất khẩu. Tránh tình trạng gây khó khăn làm cho kế hoạch và tiến độ thực hiện hợp đồng may gia công và xuất khẩu chậm. Nhà nước nên thành lập quỹ trợ giúp nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp về vốn, để các doanh nghiệp mạnh dạn chủ động xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn và mở rộng thị trường Bên cạnh đó, Nhà nước còn cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xúc tiến thị trường mới và tổ chức khu trưng bày sản phẩm miễn phí cho các doanh nghiệp tại các thị trường lớn. Ngoài những chính sách trên, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cho doanh nghiệp. Cụ thể là Nhà nước cần hoàn thiện qui chế quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản cố định, và đơn giản hoá các thủ tục mua sắm, thanh lý tài sản, tạo diều kiện choa doanh nghiệp nhanh chóng đầu tư, nâng cấp tài sản. Mặt khác, Chính phủ cần thành lập văn phòng chuyên trách về chương trình phát triển ngành dệt may cấp quốc gia với sự tham gia của các bộ ngành liên quan đến hoạch định, thực hiện, theo dõi các chính sách phát triển ngành dệt may Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong chiến lược tăng tốc. Về vấn đề thực hiện luật pháp, vấn đề nạn buôn lậu và nạn vi phạm về bản quyền, mẫu mã đang lan tràn, đã từng đẩy các doanh nghiệp may trong nước vào thế không cạnh tranh nổi. Để bảo vệ sản phẩm trong nước, người tiêu dùng, và các doanh nghiệp dệt may làm ăn chân chính, Nhà nước phải chấn chỉnh kịp thời các tệ nạn này để ngành may tiếp tục phát triển. 3.3.2. Kiến nghị đối với Tổng Công ty Dệt May Việt Nam Tổng công ty Dệt May phải xác định được phương hướng phát triển trong giai đoạn sắp tới bằng các kế hoạch ngắn, trung và dài hạn như sau: Thứ nhất, đối với ngành dệt may thì đội ngũ công nhân có vị trí rất quan trọng. Nó là yếu tố đầu vào trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt nó tạo ra lợi thế cạnh tranh.Ví dụ các doanh nghiệp nước ngoài khi ký hợp đồng may gia công hoặc xuất khẩu thì đã so sánh rất kỹ yếu tố này ở các thị trường khác nhau. Điều đó cho thấy nếu muốn phát triển ngành này thì Tổng công ty phải đào tạo đội ngũ người lao động. Tổng công ty tổ chức một số trường dạy nghề may cho công nhân. Thứ hai, cũng giống như lực lượng lao động, thiết bị công nghệ là một yếu tố đầu vào quan trọng. Chúng ta không thể tự nghiên cứu chế tạo các loại máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại phục vụ cho ngành may. Trong khi đó trên thị trường quốc tế lại rất nhiều và thay đổi thường xuyên. Nếu để các doanh nghiệp tự tìm mua thiết bị công nghệ sẽ rất dễ bị lừa hoặc mua với giá cao. Để có thể đảm bảo mua đúng, mua đủ và không bị lãng phí Tổng công ty phải thành lập nhóm kỹ thuật để tư vấn nhập máy móc thiết bị mới. Bằng cách này Công ty có thể kiểm soát hoạt động nhập máy móc thiết bị của các doanh nghiệp. Thứ ba, Tổng công ty cần phải đầu tư nhiều hơn cho ngành dệt. Trong những năm qua, ngành may đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, ngược lại ngành dệt lại gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy các doanh nghiệp may chủ yếu sử dụng vải, nguyên liệu từ nước ngoài nên xảy ra hiện tượng giá thành sản phẩm cao, có lúc thiếu vải để may...Để ngành may phát triển ổn định thì ngành dệt cũng phải phát triển theo. Thứ tư Tổng Công ty nên sớm hoàn thiện qui chế quản lý tài chính ban hành nội bộ theo hướng cụ thể, hợp lý, và có chiều sâu, để các Công ty may trực thuộc Tổng Công ty có được nguyên tắc, chuẩn mực quản lý tài chính thống nhất. Để hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý tài sản nói riêng thu được hiệu quả ngày càng cao. Thứ năm, để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, thì Tổng Công ty dệt may cần có những biện pháp nhằm tạo thế cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam trên thương trường. Trong đó, hoạt động Marketing đóng vai trò khá quan trọng. Tổng công ty nên thành lập nhóm nghiên cứu chiến lược và nghiên cứu thị trưòng trong nước và nước ngoài, những kết quả nghiên cứu này Tổng công ty phối hợp với các doanh nghiệp để triển khai. 3.3.3. Kiến nghị đối với các ngành có liên quan Trước hết là vấn đề buôn lậu. Nạn buôn lậu lan tràn đã từng đẩy các doanh nghiệp may trong nước vào thế không cạnh tranh nổi với các sản phẩm nhập lậu. Nguyên nhân là hàng nhập lậu không chịu thuế nên bán giá thấp. Chính vì vậy hàng nhập lậu đã và đang chiếm lĩnh thị trường nước ta. Vấn đề tiếp theo là nạn vi phạm về bản quyền, mẫu mã. Trên thị trường hàng may mặc nói riêng và cụ thể là mặt hàng áo sơ mi thì hiện tượng sử dụng nhãn mác của các Công ty may lớn là rất phổ biến và khó kiểm soát. Bất cứ mẫu mã nào trên thị trường tiêu thụ được đều có thể bị sản xuất theo. Đứng trước thực trạng đó, đòi hỏi các ngành liên quan như ngành thuế, hải quan, công an, cục quản lý thị trường... không thể không có biện pháp ngăn ngừa tệ nạn trên. Muốn vậy phải có đuợc sự phối kết hợp ăn ý giữa các ngành, các cơ quan với nhau để cùng ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu quả, tạo điều kiện cho ngành dệt may nói riêng và tất cả các ngành nói chung cùng phát triển đi lên. KẾT LUẬN Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, trừ những hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo mục đích sinh lời ngoài việc tìm kiếm nguồn huy động vốn ra, quan trọng nhất là phải sử dụng vốn, tài sản đó hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và làm tăng giá trị chủ sở hữu. Chính vì vậy mà bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường đều phải chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần May 10, em đã có được những hiểu biết khá sâu sắc về thực tế hoạt động này tại Công ty. Hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty hiện đang được duy trì khá ổn định, ở mức trung bình, tuy nhiên công tác quản lý và sử dụng tài sản vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhận xét và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty. Em mong rằng những định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và sử dụng tài sản của Công ty. Với thời gian thực tập hạn chế, và chưa có kinh nghiệm thực tế, do vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cán bộ, nhân viên phòng Tài chính – Kế toán và những ý kiến đóng góp của thầy cô để em có được những kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn về thực tiễn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thông tư số 33/2005/TT- BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/04/2005 hướng dẫn một số điều tại Quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác. 2. Quyết định số 206/2003/ QĐ- BTC của Bộ Tài chính ngày 12 tháng 12 năm 2003 về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. 3. Nghị định số 199/2004/NĐ- CP của Chính phủ ngày 03 tháng 12 năm 2004 về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác. 4. Các báo cáo tài chính các năm 2003, 2004, 2005 và kế hoạch đến năm 2010 của Công ty Cổ phần May 10. 5. Trang web của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam 6. Quản trị tài chính doanh nghiệp - PGS.TS. Vũ Duy Hào, NXB Thống kê Hà Nội năm 2000. 7. Tài chính doanh nghiệp - TS. Lưu Thị Hương , NXB Thống kê Hà Nội năm 2003. 8. Phân tích quản trị tài chính - Nguyễn Tấn Bình , NXB Thống kê Hà Nội năm 2003. 9. Luật Doanh nghiệp Nhà nước và những văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2000. 10. Báo Tài Chính Doanh nghiệp, báo Thị trường tài chính, Thời báo kinh tế. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36470.doc
Tài liệu liên quan