Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập

Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, do đó cần có một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp và hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong ngành ngân hàng, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu lớn: ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ giá, ổn định lưu thông tiền tệ, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao Tuy nhiên, hiệu quả tác động của các công cụ của chính sách tiền tệ còn rất hạn chế, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền, công cụ quản lý lãi suất NHTM và quản lý ngoại hối chưa phát huy được hết vai trò của mình. Trước tình hình đó, NHNN cần phải có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam như hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM, nâng cao nguồn nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, thực hiện chính sách lãi suất đồng bộ, tiến tới tự do hoá lãi suất Trên cơ sở đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỷ lục ba con số tức là lạm phát phi mã (774,7% năm 1986). Trong vòng xoáy bất ổn định, lạm phát càng gia tăng, lòng tin của dân chúng vào đồng tiền càng giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách của nền kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng này, việc chống lạm phát được coi là nhiệm vụ trung tâm. Tại thời điểm đó, hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường và thi hành lãi suất thực dương đã tạo thành xung lực mạnh nhát để đảo ngược tình hình. Với mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, trên cả hai phương diện tỷ giá hối đoái và lãi suất. *Giai đoạn 1989-1992 Các chính sách kinh tế mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao. Nhưng lạm phát cao trên 66% năm 1990 – 1991 là không thể tránh khỏi vì nguồn nhân lực kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi thích nghi, hướng theo nền kinh tế thị trường. Đi đôi với thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm bội chi, việc tăng cường động viên tài chính nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng. Đặc biệt chính sách động viên thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Số thu trong năm 1991 so với năm 1990 đã tăng 32,4%. 2.1.2 Giai đoạn 1993 – 1998 Sự ổn định kinh tế đã đi vào chế độ dừng. Chỉ số hàng hoá và dịch vụ dao động xung quanh 12%, nhưng vẫn chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong muốn như dự đoán. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định là Nhà nước, qua kinh nghiệm điều hành đã nhận thức rõ nét tác động của cung ứng tiền tệ lên lạm phát. Vì vậy, việc cung ứng tiền cho bội chi ngân sách đã chấm dứt. Cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nuớc. Các chính sách kinh tế theo hướng thị trường đưa đến nhịp độ tăng trưởng kinh té cao, đã làm tăng trưởng tổng cung và tổng cầu về hàng hoá. Năm 1993 lạm phát dự kiến là 10 – 13%, thực tế là 5,3%. Bởi vì, giữa năm 1993 hàng hoá Trung Quốc tràn sang với giá rẻ do chính sách điều chỉnh giá của họ, đồng thời do bản thân nền kinh tế Việt Nam đang giảm phát. Năm 1994 dự đoán tỷ lệ lạm phát dưới một con số nhưng vào tháng 10 trở đi do lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long đã làm cho giá lương thực tăng vọt, đẩy lạm phát năm 1994 lên 14,4% và ảnh hưởng cả đầu năm 1995. Sáu tháng đầu năm 1995 chỉ số giá cả liên tục tăng cao tới mức 11,4%/6 tháng, nhưng sau đó chỉ số giá lại giảm xuống dưới 0,5%. Nói về nguồn thu của ngân sách Nhà nước, số thu ngân sách Nhà nước tiếp tục tăng. Năm 1993 tăng 50,5% so với năm 1992 và năm 1994 so với năm 1993 tăng 33,6%; điều này cần nhấn mạnh trong những năm qua mặc dù số thuế thu ngày một tăng nhanh nhưng kinh tế vẫn đạt tôc độ tăng trưởng tương đối khá. Trong những năm qua, nguồn thu trong nước không những đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của ngân sách Nhà nước mà còn dành ra một phần tích luỹ để chi cho đầu tư phát triển và để trả nợ. Nhà nước đã thực hiện đổi phương thức cân đối ngân sách theo hướng hạn chế và đi đến chấm dứt phát hành thêm tiền thay thế bằng việc vay dân vay nước ngoài. Các biện pháp vay dần dần được cải thiện nhằm huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư. Bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc, việc vay nợ nước ngoài cũng được triển khai, từ năm 1992 – 1994 Nhà nước không còn phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều huớng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn luôn ổn định kinh tế vĩ mô giữ lạm phát ở mức thấp và quan tâm đến chính sách tiền tệ. Pháp lệnh NHNN, pháp lệnh NHTM và hợp tác xã tín dụng đã quy định cơ sở cho việc hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp. NHNN đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, chú ý đến cung lượng tiền và chú ý đến chính sách lãi suất thực dương. Từ đó quản lý và tạo môi truờng cho các NHTM quốc doanh các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và các tổ chức tín dụng khác hoạt động có lãi theo cơ chế thị truờng. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế. Cán cân thanh toán có chiều huớng thuận lợi. 2.1.3 Giai đoạn 1999 - 2006 *Giai đoạn 1999 - 2000 - Tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 1999 - 2000 Trong giai đoạn 1999 - 2000 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn: xu hướng giảm sút tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất từ các năm trước chưa được khắc phục, thiên tai liên tiếp, đầu năm hạn hán, cuối năm diễn ra trận lụt thế kỷ ở miền Trung gây thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản, thêm vào đó là tác động bất lợi của khùng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vẫn còn rất lớn. Song với sự quan tâm cao và tinh thần tự lực tự cường, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách đúng đắn, các giải pháp tích cực, vượt qua khó khăn và đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Kết thúc năm 1999, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, không để xảy ra những biến động lớn trong môi trường kinh tế vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 4,8% so với năm 1998. Tuy nó có kém năm trước 0,8% và chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch (kế hoạch 5 - 6%) nhưng đã xuất hiện xu hướng nhích dần lên, quý sau cao hơn quý trước. Năm 2000 tốc độ tăng GDP đạt 6,75%. Về xuất khẩu thì dấu hiệu đáng mừng năm 1999 cơ cấu mặt hàng bước đầu đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu qua chế biến đã tăng từ 53% lên 59%, hàng nguyên liệu giảm từ 47% xuống 41%. Có thêm một số mặt hàng mới như điện tử, máy tính, linh kiện. Nhập khẩu thì giảm trong năm 1999 và tăng trong năm 2000. Năm 1999 ước đạt 11,2 tỷ USD, thâm hụt cán cân thương mại chỉ còn khoảng 200 triệu USD. Nhưng sang năm 2000 thì ta nhập siêu gần 1 tỷ USD do phục vụ sản xuất. Tình hình giá cả năm 1999 chưa thoát khỏi đà giảm sút liên tục, chỉ số giá chỉ tăng 0,1%, trong khi giá vàng giảm và giá USD tăng. Thị trường giá cả năm 2000 có phần sôi động hơn do những biện pháp kích cầu của Chính phủ. Nhưng nó cũng không tăng nhiều năm so với năm 1999. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1999 - 2000 + Nghiệp vụ thị trường mở Nhằm chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các cơ cấu trực tiếp sang sử dụng các cơ cấu gián tiếp trong năm 1999 NHNN đã gấp rút chuẩn bị mọi điều kiện về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở: như tạo hàng hoá, cơ chế mua bán và các điều kiện để xác định khối lượng hàng hoá một cách phù hợp cụ thể: Mỗi lĩnh vực tạo dựng hàng hoá: các loại hàng hoá như tín phiếu kho bạc Nhà nước, tín phiếu NHNN, các giấy tờ có giá trị thuộc sở hữu của các tổ chức tín dụng đã được quy đinh cụ thể. Cơ chế phát hành tín phiếu NHNN đối với các tổ chức tín dụng theo phương thức đấu thầu lãi suất (kể từ 25/4/2000) Cơ chế phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức đấu thầu lãi suất Cơ chế xác định các giấy tờ có giá trị ngắn hạn thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tín dụng được đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trưởng mở. Sau quá trình chuẩn bị khá kỹ càng thì đến đầu tháng 7/2000 NHNN đã chính thức đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Tổng số đã có 14 ngân hàng thương mại đăng ký và được chấp nhận là thành viên của thị trường. Bình quân 10 ngày tổ chức một phiên giao dịch mua bán tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc Nhà nước có thời hạn ngắn. Tính đến ngày 31/12/2000 NHNN đã tổ chức được 15 phiên giao dịch. Tổng khối lượng tín phiếu mua bán 1.428 tỷ đồng, trong đó NHNN mua vào 878 tỷ và bán ra 550 tỷ. Lãi suất giao dịch từ 4,9% đến 5,58%. Tuy nhiên do đây là nghiệp vụ mới mẻ của NHNN Việt Nam nên thị trường mở hoạt động còn trầm lặng, mới tập trung chủ yếu vào giao dịch của một số NHTM quốc doanh. + Lãi suất chiết khấu Chương trình cho vay tái cấp vốn được thực hiện đối với các NHTM quốc doanh. NHNN Việt Nam đã kịp thời bổ sung vốn điều lệ và từng bước có giải pháp nhằm làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của NHTM trên cơ sở tiếp tục xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ đọng. NHNN cho vay tái cấp vốn NHTM quốc doanh với số tiền là 3350 tỷ đồng với lãi suất 0,2%/tháng, thời hạn 12 tháng để cơ cấu lại nợ bao gồm: ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: 500 tỷ đồng; Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: 300 tỷ; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: 530 tỷ; Ngân hàng Công thương 2020 tỷ; đồng thời NHNN đã tiến hành linh hoạt công cụ tái cấp vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1%/tháng tại thời điểm đầu năm 1999 đến nay chỉ còn 0,5%/tháng. + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Trong năm 1999 NHNN đã 2 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5% đối với các NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng Trung ương, quỹ tín dụng khu vực thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%. Riêng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do phái tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống mức 3%. Trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định là 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng ở đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nông thôn. Riêng tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được nâng từ mức 5% lên 8% thực hiện từ tháng 10/2000, tiếp đến từ 1/12/2000 tỷ lệ này được điều chỉnh lên 12% trên tổng số dư tiền gửi bằng ngoại tệ dưới 12 tháng áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức tín dụng. Nhìn chung tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ trong năm 2000 thấp hơn so với các năm trước, điều đó đã góp phần đáng kể trong việc khuyến khích các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Còn tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần trong năm nhằm mục đích thích ứng với diễn biến tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng đã tăng nhanh chóng trong những tháng cuối năm 2000. + Kiểm soát lãi suất tín dụng Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ do NHNN điều hành. Trong năm 1999 trước chỉ số giá cả hàng hoá dịch vụ giảm sút, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn bién kinh tế vĩ mô, cung và cầu vốn trên thị trường tiền tệ, theo xu hướng nới lỏng tiền tệ, giảm trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. NHNN đã có 5 lần giảm lãi suất cho vay VNĐ từ mức 1,25%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn, 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn xuống còn một mức thống nhất là 0,8%/tháng đối với khu vực đô thị và 1%/tháng đối với khu vực nông thôn. Riêng khối NHTM cổ phần nông thôn là 1,15%/tháng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên là 1,5%/tháng, lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ của các pháp nhân cũng được điều chỉnh giảm từ 3% - 3,5%/năm xuống còn 2,5 - 3%/năm nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng đầu tư sản xuất đồng thời cũng phù hợp với việc giảm lãi suát trần VNĐ. Lãi suất cho vay đối với học sinh, sinh viên cũng được giảm từ 0,7% xuống còn 0,6%/tháng, cho vay đối với hộ nghèo cũng giảm từ 0,8%/tháng xuống còn 0,7%/tháng. Trong tất cả các tháng 8, 9, 10, 11, 12/2000 lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam vẫn liên tục được giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng. Các NHTM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn; 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ được dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng SINGAPORE kỳ hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn và 2,5% đối với cho vay trung dài hạn. Lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8) lên 0,5%/tháng (từ 1/11) và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%. Chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản là sự kiện đổi mới quan trọng về sử dụng các cơ cấu chính sách tiền tệ tiến tới tự do hoá lãi suất theo thông lệ quốc tế, thúc đẩy cạnh tranh giữa các NHTM, có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn. Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng. Mức lãi suất cao nhất của tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các ngân hàng cổ phần lên tới 0,6 - 0,65%/tháng tương đương 7,2-7,8%/năm. Kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,55%/tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến là 5,5 - 6,0%/năm. + Công cụ tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý ngoại hối Nhìn chung năm 1999 tỷ giá ngoại hối luôn ổn định và cơ bản phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường và mục tiêu quản lý của NHNN, giao dịch mua bán trên thị trường ngoại tệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng như các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng sôi động hơn năm trước. Theo quyết định số 6465 của Ngân hàng Nhà nước ngày 25/2/1999 quy dịnh: NHNN công bố tỷ giá hàng ngày trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ngày gần nhất và NHNN sẽ khống chế mức độ biến động hàng ngày của tỷ giá trong biên độ 0,1% so với tỷ giá công bố. Bước sang năm 2000 thì tỷ giá VNĐ/USD liên tục tăng chậm dần trong năm rất ít khi giảm hay đứng nguyên tạo ra tâm lý lớn đồng tiền Việt Nam mất giá. Bên cạnh đó trong quan hệ về lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam giảm thấp, lãi suất cho vay nội tệ cũng không cao, còn lãi suất tiền gửi ngoại tệ (USD) tăng cao và tương ứng với lãi suất tiền gửi nội tệ, do đó người vay thì thích vay tiền Việt Nam, còn người gửi thích gửi tiền USD. Do đó lượng tiền USD trong các NHTM ở Việt Nam tăng khá nhanh. Trong năm 2000 tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ gấp 3 lần tốc độ tăng tiền gửi đồng Việt Nam và chiếm 40% tổng số dư tiền gửi. Do lãi suất trên thị trường thế giới tăng nhanh, tăng cao nên một lượng USD được các NHTM Việt Nam chuyển gửi ở nước ngoài, hưởng thu nhập hợp pháp từ nghiệp vụ tiền gửi. Ngược lại dư nợ cho vay ngoại tệ tăng chậm. Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối NHNN quy định lại nguyên tắc giao dịch tỷ giá, mở rộng thêm đối tựơng vay ngoại tệ và bán ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tại quyết định số 418/2000 ngày 21/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có thêm 6 đối tượng được vay bằng ngoại tệ. Thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, các dự án đầu tư theo quyết định của Chính phủ. Theo quyết định số 468/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên tham gia hợp đồng, hợp tác được mua ngoại tệ cho các giáo dịch năm, giao dịch vãng lai, chủ yếu là nhập khẩu vật tư hàng hoá, trả nợ gốc , lãi, phí đối với các khoản nợ vay nước ngoài ngắn hạn, trung và dài hạn đã đăng ký với ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển vốn pháp định, vốn tái đầu tư hay vốn thực hiện hợp tác kinh doanh ra nước ngoài khi chấm dứt hoạt động. *Giai đoạn 2001-2003 - Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2003 Giai đoạn 2001-2003 là giai đoạn mở đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, kế hoạch 5 năm (2001-2005) đầu tiên, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010. Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này, thuận lợi cơ bản là sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên khó khăn cũng không phải ít. Trong khi nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, kinh tế thế giới chưa ra khỏi trì trệ thì lại phải đối phó với những tác động tiêu cực của khủng bố quốc tế liên tiếp xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực... Giai đoạn này kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm 1992 - 1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8 - 9%, đã đột ngột giảm xuống còn 5,8% vào năm 1998 và 4,8% vào năm 1999. Năm 2000 chúng ta chặn được sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và năm 2001 đã đưa tổng sản phẩm trong nước tăng 6,89% và mức lạm phát 0,8%; năm 2003 đạt tốc độ tăng 7,24%. Tính trong 3 năm 2001 - 2003 bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,06%. Đời sống của các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xoá đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng. Tiền lương tối thiều được điều chỉnh từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210000 đồng đầu năm 2001 và 290000 dầu năm 2003, cùng với việc triển khai nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo nên đời sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người theo giá trị thực tế là 356,8 nghìn đồng/người/tháng, tăng 21% so với năm 1999 trong đó khu vực thành thị đạt 625,9 nghìn đồng, tăng 21,1%; khu vực nông thôn đạt 274,9 nghìn đồng, tăng 22,2%. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2001-2003 + Nghiệp vụ thị trưởng mở Sau hơn 3 năm hoạt động, tính đến cuối năm 2003 thị trưởng mở dã có hơn 22 thành viên, trong đó có 4 NHTM quốc doanh, 10 NHTM cổ phần, 5 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và một công ty tài chính. Quy mô và doanh số trong hoạt động của thị trường ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau: Đơn vị: triệu VNĐ Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 102 phiên 2003 (đến 16/12/2003) Tổng cộng Doanh số hoạt động 1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740 31.722,83 NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7245,53 9.500 21.412,83 NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310 Số phiên giao dịch 17 48 85 102 252 Nguồn: NHNN Trong năm 2002 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lượng giao dịch 9145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể: thông qua 57 phiên giao dịch theo phuơng thức mua có kỳ hạn NHNN đã cung ứng 7.254,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương thức bán hẳn thu về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với doanh nghiệp và khách hàng. Trong năm 2003 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16/12/2003 NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng cho các NHTM, trong đó khối lượng giấy tờ có giá là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003 NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM tăng đáng kể so với năm 2001 và năm 2002... Qua 4 năm hoạt đông từ năm 2000 đến năm 2003, thị trường mở vẫn tồn tại một số hạn chế, đó là hầu như chỉ có NHTM Nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chưa có cơ hội tham gia hay tham gia chưa có hiệu quả. + Về tái cấp vốn Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng thực hiện nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2001 được điều chỉnh giảm hai lần, xuống còn 0,4%/tháng vào tháng 7/2001 tạo thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ. Trong năm 2003 lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu được điều chỉnh giảm với biên độ 0,6 - 1,2%/năm, không tương ứng với chiều hướng và biên độ biến động của lãi suất thị trường tiền tệ. Đối với lãi suất tái cấp vốn tháng 3/2003 tăng 1,8%/năm so với 1/6/2002. Đây không phải là biển hiện "thắt chặt tiền tệ", mà NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất thị trường liên ngân hàng, bằng việc lấy lãi suất tái cấp vốn là lãi suất chiết khấu làm trần, sàn. Đơn vị: %/năm 1/6/02 31/12/03 31/3/03 30/6/03 30/9/03 31/12/03 Lãi suất tái cấp vốn 4,8 4,8 6,6 6,6 5,0 5,0 Lãi suất chiết khấu 4,2 4,2 4,2 4,2 3,0 3,0 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước + Về dự trữ bắt buộc Năm 2001 việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15%, tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống còn 3%, thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. NHNN đã quy định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10% (do xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12/2001). Trong năm 2002 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm 2 lần xuống 8% vào tháng 4/2002 và xuống 5% vào tháng 12/2002, tạo điều kiện để hạn chế những tác động bất lợi của diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế đến hoạt động các tổ chức tín dụng. + Về lãi suất Năm 2001, NHNN tiếp tục đổi mới điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát các diễn biến trên thị trường quốc tế và trong nước và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 0,7%/tháng xuống 0,6%/tháng. Cho đến tháng 6/2002 trên thực tế việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong năm 2001 phù hợp với diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ từ tháng 6/2001 NHNN đã bỏ qua cơ chế khống chế theo biên độ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu tín dụng trong và ngoài nước. Riêng với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng, NHNN vẫn quy định khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế giảm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Từ 1/6/2002 NHNN bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận mà theo đó việc kiểm soát lãi suất trên thị trường bằng công cụ hành chính đã chấm dứt. Năm 2003: lãi suất tiền gửi và cho vay bằng VNĐ của NHTM biến động tăng vào 8 tháng đầu năm rồi đảo ngược chiều giảm trong 4 tháng cuối năm. Đơn vị:%/tháng 1/6/02 31/12/03 31/3/03 30/6/03 30/9/03 31/12/03 1. Lãi suất tiền gửi bình quân 3 tháng 6 tháng 12 tháng 0,55 0,58 0,62 0,57 0,6 0,64 0,58 0,64 0,67 0,6 0,65 0,68 0,56 0,58 0,61 0,50 0,54 0,59 2. Lãi suất cho vay bình quân Ngắn hạn KV thành thị KV nông thôn 0,71 0,95 0,75 1,0 0,77 1,05 0,77 1,05 0,75 0,95 0,75 0,95 Trung, dài hạn KV thành thi KV nông thôn 0,77 1,02 0,85 1,06 0,9 1,06 0,92 1,1 0,87 1,05 0,85 1,05 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước + Về tỷ giá Tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt bám sát biên độ dao động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001 NHNN đã quyết định mở rộng kì hạn thực hiện các giao dịch kì hạn hoán đổi của tổ chức tín dụng và điều chỉnh mức tăng tỷ giá giao ngay. Trong năm 2001, tỷ giá giữa VNĐ và USD có diễn biến không đều. Trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá tăng ở mức thấp (0,09/tháng). Từ tháng 5 đến tháng 7, tỷ giá bình quân tăng 0,86%/tháng. Riêng tháng 6 tỷ giá tăng tới 1,24%. Sang năm 2002 NHNN tiếp tục điều hành chính sách giá linh hoạt thông qua việc mở rộng biên độ giao dịch theo cả chiều tăng giảm. Năm 2003 tỷ giá 9 tháng đầu năm khá ổn định, chỉ tăng 1% nhưng từ đầu tháng 10/2003 tăng đáng kể. Trong 3 tháng cuối năm, tỷ giá tăng tới 1,2% làm cho mức tăng cả năm là 2,2%. *Giai đoạn 2004-2005 - Tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn 2004-2005 Trong 2 năm 2004-2005, nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế không mấy thuận lợi. Mặc dù kinh tế thế giới tăng trưởng khá, tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam, song những biến động khó lường về chính trị, giá cả nguyên vật liệu có những tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh trong nước. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2004 là 9,5% (cao nhất kể từ năm 1995 trở lại ). Tuy nhiên nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng cao, năm 2004 là 7,7%, đặc biệt trong năm 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt tốc độ cao nhất so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ châu Á cũng như trên thế giới và hoàn thành được tốc độ tăng trưởng bình quân theo năm mà mục tiêu đã đề ra cho cả thời kỳ 2001-2005. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng, năm 2004 xuất khẩu đạt 58,4 tỷ USD tăng 28,6% so với năm 2003. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2004-2005 + Nghiệp vụ thị trường mở Trong năm 2004 nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết theo mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7 - 60 ngày. Tổng số giao dịch của năm 2004 đạt 61936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần tổng doanh số giao dịch của năm 2003. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên tăng mạnh trong năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên. Với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc 2004, khối lượng bán ra trên 19465 tỷ đồng, tăng hơn 3563 tỷ đồng so với năm 2002. Thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tăng hơn 14 thành viên. Bước sang năm 2005 thì trong 6 tháng đầu năm doanh số giao dịch NHTM đã gần bằng 90% doanh số giao dịch của cả năm 2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng bình quân 82 tỷ đồng/phiên năm 2000 lên 725 tỷ đồng/phiên trong 6 tháng đầu năm 2005. + Dự trữ bắt buộc Từ tháng 7/2004 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VNĐ và ngoại tệ. Cụ thể đối với tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%. Đối với tiền gửi VNĐ kú hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không có kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% - 8%, loại từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. - Kiểm soát hạn mức tín dụng NHNN tiếp tục việc tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và nâng cấp hiệu quả tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Đối với các NHTM Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là nhóm khách hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng lớn trong danh mục tín dụng. + Quản lý lãi suất của các NHTM Năm 2004 lãi suất cơ bản ở mức 7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 5%/năm, lãi suất tái chiết khấu là 3%/năm. Từ tháng 5 các NHTM bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn do chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, các NHTM đã thực hiện điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ và giữ ổn định đến cuối năm, lãi suất huy động không kỳ hạn 2%/tháng, lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng 0,58%/tháng. Trong 8 tháng đầu năm 2005, NHNN đã sử dụng công cụ lãi suất thận trọng, điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm, lãi suất tái cấp vốn: 5 - 6%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 3%/năm lên 4%/năm, nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn từ thị trường. + Về điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối Trong năm 2004 NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên thị trường, đồng thời NHNN đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán quốc tế. * 2 tháng đầu năm năm 2006 Trong 2 tháng đầu năm 2006 thị trường tài chính quốc tế vẫn biến động như năm 2005 và đặc trưng là giá dầu thô và giá vàng lên xuống thất thường theo biến động tình hình chính trị trên thế giới, Fed tiếp tục nâng lãi suất cơ bản lên 4,5%/năm (tăng 0,25%). Trong nước chỉ số giá tiêu dùng hai tháng đầu năm là 3,3% mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ trong 4 năm 2003 và 2004 là 4,1%; năm 2005 là 3,6%. Thị trường tài chính trong nước vẫn nổi bật với hai đặc điểm: lãi suất trên thị trường tiếp tục tăng cao và giá cổ phiếu của các NHTM Chính phủ tăng đột biến. Các NHTM trong nước bắt đầu tăng lãi suất USD vào cuối tháng 2 ở hầu hết các kỳ hạn Đơn vị: VNĐ Giá khởi điểm của cổ phiếu Giá giao dịch trên thị trường tự do NHCP VP bank 10000VNĐ/CP 37000 VNĐ/CP NHCPXNK (Eximbank) 1000000 VNĐ/CP 5000000 VNĐ/CP NHCP Quân đội 1000000 VNĐ/CP 4000000 VNĐ/CP NHCP Đông á 1000000 VNĐ/CP 8000000 VNĐ/CP NHCP Châu Á 1000000 VNĐ/CP 7100000 VNĐ/CP NHCP Sài Gòn thương tín 10000VNĐ/CP 52000 VNĐ/ CP Nguồn: Tạp chí ngân hàng Trong năm 2006 NHNN dự kiến một số chỉ tiêu tiền tệ tín dụng là: tổng phương tiện thanh toán tăng 22%. Dư nợ tín dụng tăng dưới 25% so với năm 2005. 2.2 Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 2.2.1 Tình hình kinh tế 2.2.1.1 Tình hình tỷ giá Tháng 9/1994 thị truờng ngoại tệ liên ngân hàng được thiết lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được ngân hàng công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Ngày 2/7/1997 ngòi nổ cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á bắt đầu xuất hiện tại Thái lan, là một nước trong khu vực - Việt Nam cũng bị ảnh huởng đến tình hình buôn bán, thnah toán kể cả tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN công bố quyết dịnh nới lỏng biên độ tỷ giá và mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức, cầu ngoại tệ trên thị trường tiền tệ rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của NHTM thường xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy trên thị trường giá trị đó còn cao hơn nhiều có lúc lên đến 14000 VNĐ/USD, đây chính là hậu quả việc nắm giữ ngoại tệ do lo lắng về cuộc khủng hoảng của VNĐ. Đứng trước tình hình này những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đưa ra hàng loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường như: quy mô về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới, các quy định về trạng thái tiền tệ, đặc biệt là hai lần điều chỉnh tỷ giá. Bắt đầu từ 16/2/1999 một cơ chế điều hành tỷ giá mới đã được áp dụng tại Việt Nam. Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức, hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của VNĐ so với USD. 2.2.1.2 Tình hình lạm phát Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam qua các năm biến dộng không đèu, có giai đoạn dạt mức lạm phát kỷ lục (năm 1986 là 774,7%), nhưng cũng có những giai đoạn mà nước ta rơi vào giảm phát (năm 2000 là - 0,6%) Tỷ lệ lạm phát thời kỳ 1995 – 2005 Đơn vị: % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ lệ lạm phát 12,7 4,5 3,7 9,2 0,1 - 0,6 2001 2002 2003 2004 2005 0,8 4,0 3,0 9,5 8,4 Nguồn : Niên giám thống kê 2.2.1.3 Tình hình thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của Ngân hàng Thế giới, thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiém tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động, theo tính toán của Bộ lao động và Thương binh xã hội thì tỷ trọng này chỉ đạt 12,2%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị trong những năm gần đây còn ở mức cao (năm 1999 là 7,4%). 2.2.1.4 Tình hình tăng trưởng kinh tế Trong công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm vừa qua, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng, sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,6%/năm trong gần 10 năm, năm 1995 đạt 9,5% cao thứ hai thế giới. Tuy nhiên kể từ tháng 9/1997, do cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trong khu vực, nên từ chỗ có mức tăng truởng kinh tế cao nền kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại, mức tăng truởng kinh tế năm 1998 chỉ còn 5,5% và năm 1999 chỉ còn 4,8%. Đến năm 2002 thì mức tăng trưởng kinh tế của nước ta đạt mức cao trở lại là 7,04%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1995 – 2004 Đơn vị : % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 GDP 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,75 2001 2002 2003 2004 6,89 7,04 7,2 8,5 Nguồn: Niên giám thống kê 2.2.2 Sử dụng các công cụ tiền tệ 2.2.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở Ở Việt Nam hiện nay NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng đuợc phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. 2.2.2.2 Công cụ chiết khấu Trong quá trình đổi mới, một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn từ thế bị động sang chủ động 2.2.2.3 Dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ ngày 5/7/1999 đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM và các công ty tài chính là 5%, của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng TW và quỹ tín dụng khu vực là 1%; riêng ngân hàng NN&PTNT do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nên từ trung tuần tháng 9/1999 tỷ lệ dữ trữ bắt buộc được giảm từ 5% xuống 3%. Đến năm 2004 tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%. Đối với tiền gửi VNĐ kú hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từu 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không có kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% - 8%, loại từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. 2.2.2.4 Quản lý lãi suất ngân hàng thương mại 1/1/1996 NHNN đã quy định trần lãi suất lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệnh 0,35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay, lãi suát tiền gửi chi tiết và lãi suất thảo thuận quy định trước đó (thời kỳ 1993 – 1995). Từ 21/1/1998 NHNN cho phép bỏ mức chênh lệnh 0,35%/tháng đồng thời để thu hẹp mức cách biệt giữa lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ bốn trần xuống còn ba trần lãi suất. Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25%/tháng Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1,5%/tháng 2.2.2.5 Quản lý ngoại hối Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi, giám sát các tổ chức tín dụng thựuc hiện các quy định của Thủ tướng Chính phủ về kết hối ngoại tệ, thường xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình Chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thực tế (giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lai từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nuớc ngoài chuyển tiền về nước nhằm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. 2.3 Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 2.3.1 Những mặt đạt được Giữ được ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Huy động được vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu dầu tư của Nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đàu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế. Ổn định lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vật chất tự có còn rất hạn chế. Dư nợ tín dụng tăng mạnh và tỷ trọng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh cũng được cải thiện đáng kể. Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điều hành và thể hiện quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ ngân hàng trong thời gian qua. 2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại Tỷ lệ lạm phát biến động không đồng đều, lạm phát ở nước ta thấp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1999 chúng ta có lạm phát âm, năm 2000 lạm phát nước ta - 0,6%. Đến năm 2003 tỷ lệ lạm phát là 3,0%. Tỷ lệ lạm phát thấp đã gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp đã lên đến mức báo động khoảng 7%, gây lãng phí về nguồn lực và gây ra các tệ nạn xã hội. 2.3.3 Nguyên nhân 2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan Hiện nay NHNN Việt Nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp như hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá và các công cụ gián tiếp như như dự trữ bắt buộc và chính sách tái cấp vốn nhưng hiệu quả tác động còn rất hạn chế. Các công cụ trực tiép không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ đọng vốn. NHNN không có công cụ để hấp thụ vốn khả dụng thừa một cách chủ động ngoài dự trữ bắt buộc (nhưng rất chậm chạp). Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn suất đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện có chưa phát huy tối đa tác dụng trong cơ chế thị trường, thậm chí có công cụ vẫn còn ở dạng sơ khai và rất thiếu các công cụ cần thiết để đáp ứng đòi hỏi mới của tình hình. 2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan Ngày 2/7/1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á xảy ra bắt đầu từ Thái Lan, cuộc khủng này đã ảnh hưởng đến nhiều nước trong khu vực, đẩy những nước này vào tình trạng nghiêm trọng. Năm 1998 một số nước có nền kinh tế tăng trưởng âm như INDONEXIA -18,4%, THAILAND -8,5%. Là một nước trong khu vực Việt Nam cũng phải chịu ảnh hưởng không nhỏ của cuộc khủng hoảng đó. Bằng chứng cho thấy là tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng chậm lại năm 1998 là 5,8%; năm 1999 là 4,8%. Đầu năm 1999 hạn hán xảy ra ở nhiều nơi trong khi cuối năm lại có lũ lụt ở các tỉnh mièn Trung gây hậu quả nghiêm trọng nặng nề cả vật chất lẫn tinh thần. 2.3.3.3 Sự bất cập của các thủ tục hành chính Hệ thống ngân hàng chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, chưa bám thị trường, chưa bám khách hàng, chưa đủ năng động và phần nào đó còn có sự co cụm lại do việc xử lý những yếu kém và sức ép của pháp luật, công luận, do đó đẻ ra nhiều thủ tục nhiêu khê phiền hà. Để vay được vốn của ngân hàng là điều rất khó, khó hơn nhiều so với gửi tiền vào. Còn trong quan hệ của NHTM với NHNN thì những điều kiện để chiết khấu, tái chiết khấi cũng rất khó. 2.3.3.4 Nguyên nhân thuộc về người lập, ra quyết định và thực hiện quyết định. Những ngưới lập chính sách còn chưa có trình độ cao, nhiều khi còn ra các quyết định các sai lầm, thêm vào đó là chất lượng thông tin về các biến số vĩ mô còn chưa được cao. Những biện pháp đề ra chưa đủ nhanh, mạnh, nội dung công việc triển khai chậm chưa bám sát thực tiễn. 2.3.3.5 Sự thiếu đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế khác. Để kiềm chế lạm phát Chính phủ có thể sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, làm giảm lượng tiền trong lưu thông nhưng điều đó có thể làm giảm tỷ giá hối đoái (đồng nội tệ lên giá so với đồng ngoại tệ), vì vậy sẽ là nguy cơ của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại… CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 3.1 Một số giải pháp nâng cao nghiệp vụ thị trưởng mở Ở Việt Nam hiện nay, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ Để hoàn thiện NVTTM cần có các giải pháp sau: Hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM. Để thực hiện tốt NVTTM, NHNN cần có bộ máy gồm các chuyên gia tài chính - tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh giá diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát… để đưa ra những quyết định can thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cùng các công cụ khác thực thi có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ. Bộ máy này có thể gọi là Ban thị trường mở trực thuộc NHNN. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thị trường mở gồm: Theo dõi, tính toán, dự toán vốn khả dụng của các ngân hàng. Các thông tin này giúp Ban thị trường mở quyết định cần phải thay đổi vốn khả dụng của các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ. Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư, cùng kết quả phân tích ở trên, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán, khối lượng mua bán từng đợt, lãi suất trình Thống đốc quyết định. Phát triển công nghệ ngân hàng, bao gồm con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời của NHNN trên thị trưởng mở. NHNN cần xác định rõ các công cụ được mua bán trên thị trường mở, quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở. NHNN cũng cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở, giả sử nếu chính sách tiền tệ đặt trọng tâm vào việc điều tiết lãi suất thì NHNN nên áp dụng giá cố định. Khi cần tăng lãi suất trên thị trường hoặc khống chế khối lượng tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định. Các biện pháp liên quan khác Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đóng vai trò người cho vay cuối cùng. Thực hiện các biện pháp cần thiết, đồng bộ từ Chính phủ, uỷ ban chứng khoán Nhà nước đến các ngành, các cấp để sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động. Thực hiện các biện pháp để thúc đẩy hình thức tín dụng thương mại như ban hành luật thương phiếu, quy chế hoạt động, các văn bản hướng dẫn liên quan. Hệ thống NHTM cần tiếp tục đổi mới công nghệ thanh toán, tiến tới thự hiện xã hội hoá việc mở tài khoản thanh toán cho các chủ thể trong xã hội. Có như vậy khi các chủ thể này tham gia mua bán tín phiếu tại thị trường mở, nó sẽ nhanh chóng tác động ngay đến khả năng tín dụng của cac NHNN và công cụ thị trưởng mở mới có thể phát huy hết các ưu thế vốn có của mình. 3.2 Các giải pháp đối với lãi suất 3.2.1 Chính sách lãi suất đồng bộ Lãi suát cho vay bằng nội tệ cần phải dựa trên các cơ sở sau: Tỷ lệ lạm phát: lãi suất danh nghĩa phải được xác dịnh cao hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo một tỷ lệ lãi suất thực duơng. Tỷ suất lợi nhuận bình quân: giới hạn tối đa đối với tỷ lệ lãi suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Cơ cấu rủi ro: mức độ rủi ro của một khoản vay xác định lãi suất của khoản vay đó, theo đó rủi ro càng cao thì lãi suất càng cao. Cơ cấu ưu tiên: một mức lãi suất thấp hơn sẽ áp dụng cho các khu vực được ưu tiên như khu vực các doanh nghiẹp quốc doanh hay khu vực nông nghiệp, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu. Chi phí hoạt động của ngân hàng Lãi suất cho vay phải bù đắp được các chi phí hoạt động cho ngân hàng và đảm bảo có lãi cho các ngân hàng. Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và các loại lãi suất khác Tiền lãi suát cho vay bằng ngoại tệ và nội tệ phải cân xứng nhau tuỳ theo sự biến động của tỷ giá, tốc độ mất giá của đồng nội tệ sao cho chi phí vay vốn bằng nội tệ hay ngoại tẹ đều như nhau. Tiền lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn đều là các công cụ của chính sách tiền tệ. Chúng cần được điều hành đồng bộ với nhau để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.2.2 Thực hiện lãi suất cơ bản tiến tới tự do hoá lãi suất Tháng 1/1998 chúng ta đã bỏ quy định về mức chên lệnh bình quân 0,35%. Đó là một bước đi để tiến tới tự do hoá lãi suất. Để thực hiện tự do hoá lãi suất chuíng ta cần phải thực hiện lãi suất cơ bản Lãi suất trần do NHNN quy định gồm: Lãi suất cho vay tối đa Lai suất cho vay tối thiếu Lãi suất sàn do NHNN quy định có thể là: Lãi suất tiền gửi tối thiểu Lãi suất tiền gửi tối đa 3.2.3 Quy định mức lãi suất sàn Ngày 6/12/1999 4 NHTM quốc doanh đã thống nhất sàn lãi suất cho vay không thấp hơn 0,75%/tháng. Khi các NHTM quốc doanh hạ lãi suất cho vay thì các NHTM cổ phần tất yếu cũng phải hạ lãi suất cho vay để có thể cạnh tranh. Nhưng sự thống nhất về lãi suất cho vay của bốn NHTM quốc doanh chưa thể hiện một chính sách điều hành bằng lãi suất. Bởi lẽ nó chưa mang tính pháp lý đối với các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam. Nhất là đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy NHNN cần ban hành một chính sách sàn lãi suất. Tỷ lệ bao nhiêu cần được xem xét tới nhiều yếu tố liên quan như trả lãi cho tiền gửi huy động, phí hoạt động cần thiết của ngân hàng, tỷ giá, tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ lạm phát … Khi áp dụng một lãi suất sàn cần có các lưu ý sau: Lãi suất sàn chỉ áp dụng ở khu vực thành thị, nơi có nhiều ngân hàng đóng trụ sở và là nơi đã và đang có các điều kiện thuận lợi thu hút sự đầu tư và dễ huy động vốn, bởi vì chính nơi đang đang diễn ra sự cạnh tranh lãi suất gay gắt theo chièu huớng bất lợi. Lãi suất không cần áp dụng ở khu vực nông thôn nơi đang thiếu vốn, một nơi nghèo, chậm phát triển đang càn sự đầu tư với lãi suất ưu đãi để tăng trưởng; do đó không cần khống chế sàn lãi suất cho khu vực này. Lãi suất sàn cũng cần phải quy định luôn cho trung và dài hạn theo nguyên tắc, lãi suất sàn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất sàn ngắn hạn. 3.3. Một số công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ Các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những yếu điểm và ngày càng kém hiệu lực trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động. Để có một chính sách tiền tệ mềm dẻo, linh hoạt cần có các công cụ gián tiếp mới và tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp cũ. Để có thể sử dụng các công cụ gián tiếp cần phải: Có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh. Một thị trường tiền tệ thứ cấp hoạt động tích cực và được điều tiết hiệu quả. 3.4. Hoàn thiện bộ máy hành chính, giảm bớt sự bất cập của các thủ tục hành chính. Các thủ tục hành chính vẫn còn rắc rối, kém hiệu quả, nhiều chỗ còn chưa rõ ràng, có khi còn chồng chéo còn chưa hợp lý. Do đó cần phải có một cơ chế thông thoáng hơn, hợp lý hơn, cần có các văn bản hướng dẫn việc thi hành các văn bản pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, chính xác; bộ máy hành chính nói chung và của NHNN nói riêng còn cồng kềnh, yếu kém, còn nhiều bất cập, làm việc kém hiệu quả cho nên các quyết định nhiều khi chưa chính xác, việc chỉ đạo thực hiện các chính sách nhiều khi chậm trễ, không hiệu quả. Yếu tố con người là cực kỳ quan trọng do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng để có những cán bộ tín dụng có kiến thức, trình độ, có đạo đức, trình độ nghề nghiệp và phải có bản lĩnh, kinh nghiệp nghề nghiệp. Bên cạnh đó cần phải giảm biên chế bộ máy hành chính, tăng cường các mối quan hệ theo chiều ngang. Tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ dứt điểm việc củng cố, sắp xếp các tổ chức tín dụng. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng thông tin, bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Phát triển các công cụ và dịch vụ thanh toán, không dùng tiền mặt để dễ dàng hơn trong viẹc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, lưu thông, điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn. 3.5 Kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách khác Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng của quốc gia, nó có quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác, nhất là chính sách tài khoá quốc gia. Do đó khi điều hành chính sách tiền tệ cần phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách khác, trong một tổng thể vĩ mô vì các biến số vĩ mô cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các công cụ của chính sách tiền tệ cũng cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng hướng đến mục tiêu định trước. Để làm được điều đó cần phải chú ý đến cả các tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn của các chính sách, các công cụ riêng lẻ. Cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành có liên quan. Đặc biệt cần tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và Bộ tài chính trong điều hành chính sách tài chính tiền tệ. KẾT LUẬN Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, do đó cần có một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp và hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong ngành ngân hàng, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu lớn: ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ giá, ổn định lưu thông tiền tệ, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao… Tuy nhiên, hiệu quả tác động của các công cụ của chính sách tiền tệ còn rất hạn chế, NVTTM chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền, công cụ quản lý lãi suất NHTM và quản lý ngoại hối chưa phát huy được hết vai trò của mình. Trước tình hình đó, NHNN cần phải có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam như hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả NVTTM, nâng cao nguồn nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, thực hiện chính sách lãi suất đồng bộ, tiến tới tự do hoá lãi suất… Trên cơ sở đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐCSVN, 2001, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia. FREDERIC S.MISHKIN, 2001, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật. Lê Thanh Hà - Nguyễn Hồng Mai, 2004, Thẳt chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 29 – 31. Lê Thị Thuỳ Vân, 2004, “Bắt đầu chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ toàn cầu”, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 47 – 48. Lê Vinh Danh, 1996, Tiền và hoạt động ngân hàng, NXB Thống kê. Lê Văn Tư, 1999, Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê. Niên giám thống kê năm 1999, 2003. Tạp chí Ngân hàng số 7, 10, 12/1999 và số 2, 5, 9/2002. Th.S Trần Nguyên Nam, 2004, “Điều hành chính sách tiền tệ tác động như thế nào đến biến động giá cả”, Tạp chí Tài chính, số 8/2004, tr 27 – 29. TS Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyếtTài chính Tiền tệ, NXB Thống kê. TS Phan Văn Tính, 2006, “Bàn về xây dựng NHNN Việt Nam theo thể chế ngân hàng Trung ương độc lập, Tạp chí Tài chính, số 8/2006, tr 35 – 37.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0613.doc
Tài liệu liên quan