Chuyên đề Nâng cao hiệu quả trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam

Công tác thanh toán không dùng tiền mặt đang là mục tiêu cho các ngân hàng hướng tới và có thể tiến xa hơn trong hình thức thanh toán nhằm bảo vệ an toàn vốn tài sản của ngân hàng cũng như của khách hàng, đồng thời tạo điều kiện thuân lợi nhanh chóng trong thanh toán trao đổi. Đi kèm với sự phát triển kinh tế là sự phát triển của các giao dịch mang tính chất thương mại, là kết quả dẫn tới sự gia tăng trong lĩnh vực thanh toán, sự phát triển kinh tế này ngày một không ngừng nên nhu cầu về phương thức thanh toán cũng thay đổi sao cho công tác thực hiện được đảm bảo một cách tốt nhất. Do đó thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng không thể không đổi mới mà ngược lại phải đổi mới liên tục để đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá phức tạp hiện nay. Bởi vậy tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm làm cho cơ chế thị trường trở nên sôi động hơn.

doc51 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 701 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thanh toán Thư tín dụng giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai ngân hàng cùng hệ thồng Giai đoạn mở Thư tín dụng Người mua muốn thanh toán bằng Thư tín dụng sẽ lập giấy xin mở Thư tín dụng gửi vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản Nếu đồng ý ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ: Nợ TK 4311/ Người mua Có TK 4662/ Người mua Ngân hàng phát hành Thư tín dụng và gửi thông báo mở Thư tín dụng sang ngân hàng người bán . Khi nhận được thông báo mở Thư tín dụng ngân hàng người bán sẽ: - Nhập sổ theo dõi Thư tín dụng đến Thông báo mở Thư tín dụng cho người bán Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua Người bán lập bảng kê chứng từ hoá đơn phù hợp với điều kiện thanh toán của Thư tín dụng và gửi đến ngân hàng của mình để xin thanh toán Ngân hàng cung ứng DVTT của Người mua Người mua (chi trả) Ngân hàng cung ứng DVTT của Người bán Người bán (thụ hưởng) Giai đoạn thanh toán Thư tín dụng (4) (1) (2) (7) (3b) (5) (6b) (6a) (3a) Ngân hàng người bán kiểm tra sự phù hợp giữa bộ chứng từ hoá đơn với điều kiện thanh toán của Thư tín dụng. Nếu không có gì sai xót ngân hàng hạch toán: Nợ TK 5111 Có Tk 4311/ Người bán (6a) Gửi LCN sang ngân hàng người mua (6b) Báo có cho Người bán Suất sổ theo dõi Thư tín dụng đến Thu tền từ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán (4662) Nợ TK 4662/ Người mua Có Tk 5112 Số tiền trên hoá đơn nhỏ hơn số tiền đã mở trên tài khoản 4662 ta sẽ tất toán tài khoản này: Nợ TK 4662 Có TK 4311/ Người mua Và báo nợ cho Người mua + Thanh toán Thư tín dụng giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai ngân hàng khác hệ thống nhưng trên địa bàn của ngân hàng người bán có một ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng của người mua và tham gia thanh toán với ngân hàng người bán Người mua (chi trả) Ngân hàng cung ứng DVTT của Người bán Ngân hàng cung ứng DVTT của Người mua Người bán (hưởng thụ) Ngân hàng Thông báo (6) (1) (2) (11) (5) (7) (10) (9a) (8) (4) (3) (9b) a. Giai đoạn mở Thư tín dụng Người mua muốn thanh toán bằng Thư tín dụng sẽ lập giấy xin mở Thư tín dụng gửi vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản Nếu đồng ý ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ: Nợ TK 4311/ Người mua Có TK 4662/ Người mua Ngân hàng phát hành Thư tín dụng và gửi thông báo mở TTD sang ngân hàng thông báo cùng hệ thống Ngân hàng thông báo ghi nhập sổ theo dõi TTD đến và chuyển cho người bán Ngân hàng người bán nhập sổ theo dõi TTD đến và thông báo cho người bán Người bán giao hang hoá dịch vụ cho người mua Người bán nộp chứng từ hoá đơn xin thanh toán vào ngân hàng của mình Ngân hàng người bán gửi chứng từ sang ngân hàng thông báo qua phiên thanh toán bù trừ Ngân hàng kiểm tra và hạch toán: Nợ TK 5111 Có TK 4012 (9a) Chuyển nợ sang ngân hàng người mua (9b) Chuyển có sang ngân hàng người bán, và xuất sổ theo dõi TTD đến Ngân hàng người bán nhận được chuyển có ngân hàng sẽ trả tiền cho người bán: Nợ TK 5012 Có TK 4311/ Người bán Và xuất sổ theo dõi TTD đến (11) Ngân hàng người mua khi nhận được LCN sẽ tất toán: Nợ TK 4662 Có TK 5112 Và báo nợ cho người mua 5. Thẻ thanh toán Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại gắn liền với kỹ thuật ứng dụng trong ngân hàng do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền tại các ngân hàng đại lý hoặc các điểm rút tiền tự động. Ngân hàng phát hành thẻ là ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thạnh toán số tiền do khách hàng là người sử dụng thẻ trả cho người thụ hưởng. Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hoặc quầy trả tiền mặt tự động, mức tối thiểu để khách hàng mở tài khoản qua ATM là 5 triệu đồng và mỗi ngày thẻ chỉ được rút một lần. Đối với nước ta, thẻ thanh toán là một phuơng thức thanh toán mới xuất hiện. Người đi tiên phong trong lĩnh vực này là NHNTVN. Đó là đơn vị đầu tiên và cũng là duy nhất phát hành thẻ tín dụng tiền đồng vào tháng 7 năm 1993. Đây là một ứng dụng kỹ thuật mới, hiện đại, dùng công nghệ từ trường và ứng dụng kỹ thuật tin học tiên tiến. hy vọng trong tương lai sẽ được sử dụng rộng rãi trong dân chúng. Quy trình thanh toán : Ngân hàng phát hành Ngân hàng đại lý Khách hàng Cơ sở chấp nhận thẻ (4) (3) (1) (2) (7) (5) (6) Giai đoạn phát hành thẻ Khách hàng muốn sử dụng thẻ phải làm các thủ tục đăng ký mua thẻ Sau một thời gian Ngân hàng sẽ trao thẻ cho khách hàng Giai đoạn thanh toán thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ giao hàng hoá cho khách hàng Khách hàng giao thẻ cho cơ sở chấp nhận thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn đến Ngân hàng đại lý Ngân hàng đại lý lập LCN gửi Ngân hàng phát hành: Nợ TK Thanh toán Vốn (5112,5012) Có TK 4311/ Cơ sở chấp nhận thẻ Ngân hàng phát hành sẽ thanh toán với khách hàng Nợ T K 4311 Có TK Thanh toán Vốn (5112,5012) III. Nhân tố tác động đến thanh toán không dùng tiền mặt 1. Nhân tố chủ quan Trình độ phát triển của nền kinh tế Là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất vì mỗi một hệ thống thanh toán ra đời phù hợp với nền kinh tế nhất định, khi nền kinh tế phát triển cao hơn thì nó yêu cầu hệ thống thanh toán phát triển tương ứng, trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định nhu cầu của doanh nghiệp và cá nhân đối với TTKDTM và như thế quyết định tới sự phát triển của dịch vụ. Lịch sử tiến triển của hệ thống thanh toán cho thấy bởi vì nền kinh tế thanh toán phát triển nên nhu cầu thanh toán trở nên thường xuyên và trong một phạm vi rộng lớn, vì thế dẫn đến sự ra đời của TTKDTM để đáp ứng các yêu cầu này. Nhưng nếu nền kinh tế phát triển trì trệ thì việc sử dụng TTKDTM cũng không thể phát huy hết tác dụng. Do đó khi thực hiện phương thức TTKDTM không những phải dựa vào các biện pháp, giám sát thúc đẩy một cách trực tiếp mà còn đưa vào hệ thống thanh toán trong cả nước. Sự tác động qua lại lẫn nhau này sẽ đưa đến tới việc phát triển nền kinh tế- xã hội. Pháp luật Để sử dụng tôt TTKDTM cần có những quy tắc về quyền lợi nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo công bằng hợp lý, tránh tranh chấp xảy ra, điều đó cần đến vai trò của pháp luật. Các nước phát triển trên thế giới sử dụng TTKDTM một cách phổ biến đều có luật quy định chặt chẽ. Lợi thế của TTKDTM là an toàn tiện lợi nó chỉ có thể phát triển khi đảm bảo các lợi thế đó. Các quy định của phương thức về TTKDTM cũng phải thể hiện các yếu tố sao cho chặt chẽ an toàn nhưng phải linh hoạt thuận tiện công bằng cho các bên tham gia. Một hệ thống pháp luật như thế sẽ giúp cho việc phát triển TTKDTM ngược lại nếu quy định của pháp luật không hợp lý thì sẽ cản trở nó. Công nghệ TTKDTM gắn liền với công nghệ Ngân hàng hiện đại, chính sự phát triển của các mạng thông tin đã làm thay đổi nhanh chóng các nghiệp vụ Ngân hàng nói chung và thanh toán qua ngân hàng nói riêng. Xử lý thanh toán qua ngân hàng và TTKDTM có được an toàn thuận tiện hơn so với thanh toán bằng tiền mặt là vì nó có hệ thống công nghệ riêng biệt trong thanh toán gữa các Ngân hàng. Nếu là hoạt động thanh toán giữa các tài khoản của các doanh nghệp và cá nhân, thì hệ thống thanh toán điện tử liên hàng sẽ cho phép thực hiện nhanh chóng và hiệu quả cao, nếu thanh toán bằng thẻ thì đó là hệ thống kiểm tra cấp phát thẻ tại các cơ sở chấp nhận thẻ đối với ngân hàng cấp phát và thanh toán. Những hệ thống này cho phép tiền có thể chuyển được từ tài khoản này sang tài khoản khác trên mọi khu vực địa lý mà trong thời gian ngắn, không phải di chuyển tiền mặt, chống rủi ro bị cướp, hay các rủi ro vận chuyển tiền khác, đồng thời không mất chi phí kiểm đếm. Vì thế để có thể phát triển TTKDTM hay thanh toán qua ngân hàng thì cần phải đầu tư cho hệ thống công nghệ hiện đại. Và mặt khác cần phải chú ý rằng sự thay đổi của công nghệ đã làm thay đổi hệ thống thanh toán trong ngành kế toán. Vào giữa thế kỷ XX những thành tựu của cách mạng thông tin được ứng dụng vào công nghệ Ngân hàng đã làm TTKDTM trở nên phổ biến, ngày nay công nghệ khoa học viễn thông đang làm cho hệ thống thanh toán trở thành hệ thống phi tiền tệ, tức là hệ thống tiền điện tử. Tuy nhiên đây mới chỉ định hướng phát triển lâu dài trong tương lai. 2. Nhân tố khách quan Ngoài những nhân tố chủ quan như kinh tế, pháp luật thì yếu tố xã hội hay tâm lý thói quen và trình độ văn hoá của người sử dụng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTKDTM. Như ở nước ta phần đông dân còn ưa chuộng việc sử dụng tiền mặt thì việc thuyết phục họ về lợi ích của TTKDTM cũng gặp trở ngại nhất định. Mặt khác do trình độ đa phần người dân còn thấp nên những yêu cầu khi sử dụng TTKDTM cũng có thể phức tạp đối với họ. Tuy nhiên cần phải thấy rằng yếu tố xã hội không phải là một cản trở lớn, bởi vì ngay cả khi có sức ỳ lớn về thói quen và trình độ văn hoá thấp thì nếu thấy được lợi ích rõ ràng của TTKDTM ta cũng sẵn sàng vứt bỏ thói quen cũ, chú ý học hỏi sử dụng phương tiện mới khi TTKDTM không phải là khó. Điều đó chứng minh qua nhiều phương tiện hiện đại đã được du nhập nhanh chóng vào nước ta gần đây như ô tô, xe máy, điện thoại di động Chương II Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam I. Khái quát hoạt động của NHNTVN 1. Sự ra đời và phát triển của NHNTVN Vào những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX khi Miền Bắc bước vào xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, làm hậu thuẫn cho công cuộc Cách mạng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước thì vấn đề thành lập một định chế tài chính chuyên về nghề nghiệp ngân hàng đối ngoại đã được dặt ra một cách khẩn trương. Việc hình thành các ngân hàng tại khu trung tâm, các vùng kinh tế và các khu vực nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân cư, đồng thời bám sát và đáp ứng nhu cầu về vốn trong mọi hoạt động dịch vụ về tài chính. Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh có hiệu quả tạo ra lợi nhuận cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển là điều kiện đầu tiên quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển cho nghành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Ngày 30/10/1962 theo đề nghị của NHNNVN hội đồng chính phủ đã ban hành nghị định 115/CP thành lập NHNTVN trên cơ sở bộ máy của Cục Ngoại hối trực thuộc NHNNVN. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1/4/1963, NHNTVN chính thức đi vào hoạt động. Trụ sở chính của NHNTVN đặt tại 98 đường Trần Quang Khải Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Với hệ thống NHNT đã được thiết lập ở nhiều tỉnh thành trong cả nước và cả ở nước ngoài với một sở giao dịch, 24 chi nhánh cấp I, 16 chi nhánh cấp II, 04 công ty trong đó công ty Tài chính hoạt động tại HongKong, văn phòng đại diện tại Moscow, Paris, Singapor, ngân hàng liên doanh ChoHung-Vina bank. NHNTVN có quan hệ đại lý với trên 1200 ngân hàng và tổ chức tài chính ở 85 nước trên thế giới. Ngay từ những buổi ban đầu NHNT đã tiếp cận với những nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Ngoài nhiệm vụ cho vay nhằm khai thác các nguồn hàng xuất khẩu, cho vay mở rộng các dịch vụ đối ngoại như vận tải, bảo hiểm, du lịch, cung ứng tàu biển.các nhiệm vụ thanh toán quốc tế, quản lý vốn ngoạ tệ gửi tại ngân hàng nước ngoài, làm đại lí cho chính phủ trong quan hệ thanh toán vay nợ viện trợ với các nước bạn bè đều được tập trung toàn bộ vào NHNT. Chính từ vị thế đặc biệt kể trên, NHNTVN đã sớm là một NHTM duy nhất ở Việt Nam, sách vai với các NH quốc tế ở khắp các châu lục. Bên cạnh đó còn có những công lao đóng góp của đội ngũ cán bộ NHNT trong quá trình xây dựng và phát triển. Quá trình đổi mới của NHNTVN có cả thuận lợi và khó khăn đan xen, song thành công lớn nhất, bao trùm nhất là NHNT đã biết thay đổi tư duy kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm mục tiêu hoạt động. Cơ chế thị trường đặt ra một yêu cầu bức xúc là phải năng động, nhạy bén, sáng tạo mới thích nghi được với môi trường mới. Có thể khẳng định, với bề dày kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, đến nay NHNT đã chuyển hẳn sang kinh doanh cơ chế thị trường với một niềm tin vững vàng. Nhờ đó, NHNT đã giữ được vị thế của NHTM được nhà nước tin tuởng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Với nhận thức bước vào thế kỷ XXI công nghệ là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động Ngân hàng, NHNT luôn duy trì được thế mạnh là một ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực hiện đại hoá công nghệ, đã đầu tư triển khai: mạng lưới thanh toán liên ngân hàng trực tuyến và ngân hàng bán lẻ Silverlake, hệ thống dịch vụ dịch vụ VCB-Online đáp ứng nhu cầu của khách hàng có cơ sở của NHNT, hệ thống giao dịch tự động Connect24 rút tiền tự động đa tiện ích, được khách hàng rất ca ngợi. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh một số năm qua Thực hiện chủ trương mở rộng mạng lưới hoạt động của hệ thống NHNTVN và theo yêu cầu khách quan cần phải có ngân hàng phục vụ cho các hoạt động đối ngoại tại địa phương, NHNTVN đã cho ra đời các chi nhánh NHNT tại các nơi như: An Giang, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh Hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành của NHNTVN gắn liền với các thời kì cách mạng vẻ vang của đất nước của ngành ngân hàng. Với nhiện vụ đặt ra trong thời đại mới của Đảng của nhà nước, của ngành, NHNT đã sớm tiếp cận, thích nghi với kinh tế thị trường, tăng cường sức cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập với bên ngoài. Đối với một ngân hàng vốn là yếu tố quyết định. Đổi mới chính sách huy động vốn và trở thành một trong những ngân hàng Thương Mại Quốc Doanh có nguồn vốn lớn nhất Việt Nam là thành công lớn của NHNT. Điều đó được thể hiện ở các nét chính: Từ những nỗ lực tích cực thực hiện chủ trương chuyển dich từng bước cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn VND từ dưới 30% trong các năm trước 2000 lên 30% năm 2002, NHNT đã có điều kiện mở rộng đầu tư. Trong 10 năm gần đây nhìn chung nguồn vốn huy động tăng từ 30%- 45% năm. Đến 31/12/2002 tổng nguồn vốn đạt gần 82.000942 tỷ quy VND trong khi năm 1991 chỉ dừng ở mức 13.122 tỷ đồng. Phấn đấu mở rộng đầu tư, góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Vốn tín dụng của NHNT đã đến với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế năm sau cao hơn năm trước. Dư nợ Tín dụng cuối năm 1991 đạt 2.017 tỷ đồng thì vào cuối năm 1995 đạt 7.786 tỷ đồng, tăng 396% so với năm 1991. Dư nợ cuối năm 2002 đạt 15.634 tỷ đồng, tăng 775% so với cuối năm 1991. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng ngoại thương Việt nam Đ ơn v ị: T ỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 +TG dân cư 13.530 12.930 +TG của tổ chức kinh tế 15.766 21.334 Tổng nguồn vốn 29.296 34.264 (Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp) Bước sang năm 2000, sự đổi mới toàn diện đã bước đầu cho kết quả đáng khích lệ Trong hoạt động Kinh doanh của nghành ngân hàng nói chung và NHNT nói riêng. Tỷ lệ dư nợ trung dài hạn tăng từ 31% năm 2001 lên 40% năm 2002, dư nợ khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 17% lên 22%. Các chương trình cho vay đều vượt mục tiêu kế hoach đặt ra. Đặc biệt là cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 85%. Điều hết sức quan trọng là trong khi dư nợ tín dụng tăng nhanh, nợ quá hạn liên tục giảm: năm 1999 là 4%, năm 2001 là 1,89% và đến năm 2002 là 2,41% ( nếu áp dụng theo tiêu chuẩn cũ là 1,51%).Có thể nói trong 3 năm qua, tín dụng NHNT đã có sự “lột xác” toàn diện, từ tư duy đến tổ chức quản lý và cả kết quả. II. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 1. Tình hình chung Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những chức năng quan trọng của NHTM. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ khác, các ngân hàng thương mại luôn quan tâm đến việc đổi mới công nghệ thanh toán để công tác TTKDTM ngày càng được mở rộng, phát triển không chỉ trong các khách hàng vốn có trước đây của các Ngân hàng Thương mại là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mà có cả các khách hàng là cá nhân (một thị trường tiềm năng rộng lớn của ngân hàng). Ta biết rằng việc cuốn hút các dòng vốn luân chuyển qua hệ thống ngân hàng không chỉ hàm nghĩa khơi thông, đẩy nhanh tốc độ thanh toán trong nền kinh tế mà còn tạo ra nguồn lớn để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, mặt khác lượng TTKDTM trong tổng phương tiện thanh toán càng lớn, lượng tiền mặt trong lưu thông càng ít sẽ tác động trực tiếp đến điều hoà lưu thông tìên tệ góp phần cũng cố sức mua đồng tiền. Trong những năm gần đây, khối lượng TTKDTM đã đươc gia tăng, cụ thể là khối lượng thanh toán của năm 2003 so với năm 2002 tăng nhanh hơn. Để đánh giá được những thành tựu trong công tác thanh toán tại NHNTVN đã đạt được trong thời gian qua ta có thể mô tả tình hình thanh toán của ngân hàng trong năm 2002-2003 qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình thanh toán của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Đ ơn v ị: Tr. đ ồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Doanh số Tỷ trọng % Doanh số Tỷ trọng % TT bằng TM 21.825.948 3% 21.118.279 2% TTKDTM 767.575.360 97.2% 1.113.867.363 97.7% Thanh toán chung 789.401.308 100% 1.160.985.642 100% (Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp) Trong năm 2002 TTKDTM đạt doanh số 767.575.360 triệu đồng chiếm 97.2% trong tổng khối lượng thanh toán chung, còn thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm 3% với doanh số 21.118.279 triệu đồng. Sang năm 2003 TTKDTM đạt doanh số 1.113.867.363 triệu đồng chiếm 97.7% trong tổng khối lượng thanh toán chung, thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm 2% trong tổng thanh toán chung với doanh số 21.118.279 triệu đồng. TTKDTM chiếm tỷ trọng cao nên làm cho tâm lý giữ tiền mặt giảm đi đáng kể. Đồng thời một điều kiện dễ nhận thấy là thanh toán bằng tiền mặt sẽ mất rất nhiều thời gian, kiểm đếm, chi phí vận chuyển cao lại không an toàn. Trong tương lai, TTKDTM sẽ phát triển hơn nữa và trở thành phương tiện thanh toán thiết yếu của mọi đối tượng, góp phần làm tăng nhanh vòng vốn của đơn vị, cá nhân. Thông qua việc thực hiện TTKDTM giữa các đơn vị mà ngân hàng kiểm soát được quá trình sử dụng vốn và tình hình tài chính của họ, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn cho công việc đầu tư. 2. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Dựa vào tình hình thanh toán qua ngân hàng để đánh giá thực trạng thanh toán qua NHNTVN ( Bảng 3). Mặc dù đã áp dụng nhiều phương thức thanh toán, song khách hàng của NHNTVN đã sử dụng 4 hình thức thanh toán chủ yếu, trong đó cơ bản vẫn là: + Hình thức thanh toàn bằng Séc + Hình thức thanh toàn bằng Uỷ nhiệm chi- Chuyển tiền + Hình thức thanh toàn bằng Uỷ nhiệm Thu + Hình thức thanh toàn bằng Thẻ Ngoài ra còn các hình thức khác Điều này được thể hiện như sau: Năm 2002 thanh toán bằng Séc đạt 12.784 món chiếm 1,8% so với tổng số món TTKDTM với doanh số đạt được là 939.508 triệu đồng, chiếm 3,9% trong tổng doanh số TTKDTM. Còn trong năm 2003 thanh toán Séc đạt 11.158 món, chiếm 0,8% tổng số món TTKDTM nhưng chỉ chiếm 0,1% trong tổng doanh số với doanh số đạt được là 653.227 triệu đồng. Với kết quả trên, thực tế cho thấy Séc còn được sử dụng rất ít so với các hình thức thanh toán khác. Để lý giải được điều này ngân hàng cần phải quan tâm đến những ưu điểm và khuyết điểm của loại hình thức thanh toán này và cần có những biện pháp phát huy và tháo gỡ những vấn đề đó. Bảng 3 2.1. Thanh toán bằng Séc Đối với Séc bảo chi là một thể thức TTKDTM nhưng thanh toán bằng séc bảo chi tại NHNTVN được sử dụng với khối lượng nhỏ và thanh toán trong một phạm vi hẹp. Chính vì vậy hình thức thanhtoán này vẫn chưa chiếm được vị trí cao trong toàn bộ hình thức TTKDTM, nó chỉ mới đạt được tỷ lệ từ 0%-1% so với tổng số TTKDM. Trong năm 2002 số món thanh toán đạt 4.049 món, đạt tỷ trọng 0,6% so với tổng số TTKDTM và đạt tỷ trọng 31,7% so với tổng số món thanh toán bằng Séc. Năm 2003 đạt 2.734 món, chiếm 0,2% so với tổng số TTKDTM và đạt tỷ trọng 24,5% so với tổng số món thanh toán bằng Séc. Còn về doanh số thanh oán đạt 613.126 triệu đồng trong năm 2002 chiếm tỷ trọng 0,1% trong tổng doanh số TTKDTM, năm 2003 với con số tương ứng là 352.026 triệu đồng chiếm 0,03% so với tổng doanh số TTKDTM. 2.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi - Chuyển tiền Là một hình thức đơn giản, phạm vi thanh toán rộng được dùng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và thanh toán khác trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ nên hình thức này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng TTKDTM . Uỷ nhiệm chi không hạn chế về số lượng tiền chuyển, thường áp dụng khi hai bên mua bán có tín nhiệm nhau. Hơn nữa khi khách hàng sử dụng hình thức này họ được đảm bảo quyền lợi đặc biệt đối với người mua, vì người mua được kiểm soát hàng hoá về số lượng và chất lượng trước khi trả tiền cho người bán. Chính vì ưu điểm đó mà khách hàng rất ưu chuộng, thực tế đã được chứng minh tạiNHNTVN trong hai năm 2002-2003. Cuối năm 2003 NHNTVN đã thực hiện 862.261 món, đạt doanh số 1.094.342.475 triệu đồng chiếm 96,4% trong tổng số TTKDTM. So với năm 2002 hình thức này đạt tỷ trọng cao hơn, số món đạt được là 562.709, doanh số chỉ đạt 741.316.023 triệu đồng chiếm 96,5%. 2.3. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm thu được áp dụng rộng rãi trong thanh toán, thanh toán cung tỉnh hay khác tỉnh, cùng hệ thống hay khác hệ thống. Việc thanh toán được tiến hành một cách nhanh chóng khi khách hàng nộp giấy uỷ nhiệm thu vào Ngân hàng, trong vòng một ngày làm việc ngân hàng bên mua phải trích tài khoản để trả tiền cho bên bán hoàn tất việc thanh toán. Năm 2002 thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu đạt 8.035 món chiếm tỷ trọng 1,1% tổng số món TTKDTM, nhưng doanh số đạt được chỉ chiếm 0,08% so với tổng doanh số TTKDTM với số tiền là 32.645 triệu đồng. Sang năm 2003 tuy đạt doanh số cao hơn năm 2002 nhưng tỷ trọng vẫn thấp với 8.736 món chiếm 0,6% tổng số món TTKDYM và doanh số là 30.740 triệu đồng chiếm 0,01% tổng doanh số TTKDTM. 2.4. Thanh toán bằng thẻ Đây là hình thức mới được phổ biến ở nước ta gần đây nên đối với khách hàng nó vẫn còn mới mẽ. Trong hai năm qua NHNTVN đã có một bước chuyển biến tích cực trong việc triển khai chương trình cải cách: NHNTVN là ngân hàng đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại, và là đơn vị đầu tiên cũng là duy nhất phát hành thẻ tín dụng; Đặc biệt ngân hàng đã cho ra đời hệ thống rút tiền tự động (ATM) đã mang lại tầm vóc mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại NHNT. Tuy nhiên với tình hình hiện nay, hình thức thanh toán bằng thẻ vẫn chưa thực sự phổ biến và chưa bộc lộ hết những tính năng của nó, mặc dù có kết quả song vẫn chưa cao. Năm 2002 thanh toán bằng thẻ đạt 102.045 món với doanh số là 189.261 triệu đồng chiếm 0,02% so với tổng doanh số TTKDTM. Năm 2003 đạt được 441.202 món tương ứng với 643.909 triệu đồng chiếm 0,09% so với tổng doanh số TTKDTM. Năm 2003 khách hàng sử dụng thanh toán bằng thẻ nhiều hơn năm 2002. Đó là một dấu hiệu tốt để tạo điều kiện cho hình thức thanh toán bằng thẻ phát triển và trong tương lai nó sẽ là một trong những hình thức thanh toán thông dụng nhất. Ngoài ra NHNTVN còn sử dụng một số hình thức thanh toán khác như: Dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ Ngân hàng điện tửVà tháng 3 năm 1995 Ngân hàng đã áp dụng hệ thống thanh toán viễn thông toàn cầu (SWIFT). Đặc biệt tháng 5 năm 2002 ngân hàng đã khai trương hệ thống Ngân hàng trực tuyến (VCB- Online). Ngày nay có rất nhiều loại thẻ được sử dụng trong thanh toán nhưng đối với NHNT được sử dụng phổ biến 3 loại thẻ: + Thẻ ghi nợ: khi sử dụng thẻ này không phải lưu ký trước số tiền vào một tài khoản nhằm đảm bảo thanh toán cho thẻ mà dư trên số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng và hạn mức thanh toán theo quy định đã được ngân hàng ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử, và ghi vào dải băng từ. + Thẻ ký gửi thanh toán: muốn sử dụng được loại thẻ này khách hàng lưu ký tiền mặt vào tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng đúng số tiền ghi trong thẻ được lưu ký, loại thẻ này được áp dụng rổng rãi cho mọi khách hàng. + Thẻ tín dụng: là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt đồng thời là nghiệp vụ tín dụng tuần hoàn, qua đó ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng bởi tính tiện ích của nó. Thẻ tín dụng được mọi đối tượng khách hàng trên toàn cầu tiêu dùng với nhiều loại khác nhau mà không phải lưu ký tiền. Nếu trả đúng hạn đúng số kỳ thì không phải trả lãi, do đó rất phù hợp trong phạm vi lớn. Về phía Ngân hàng : Thu hút ngoại tệ từ khách hàng công tác tại Việt Nam Phần trăm để lại từ các cơ sở bán hàng và tiếp nhận thẻ là nhiều Là loại thẻ không phải ký quỹ, được áp dụng cho những khách hàng được phép vay vốn của Ngân hàng với mức cho vay được coi là hạn mức tín dụng đã được ghi vào bộ nhớ của thẻ Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại các quầy trả tiền tự động hay các Ngân hàng đại lý thanh toán. Mỗi lần rút tiền không quá 5 Triệu đồng, mỗi ngày thẻ được rút một lần. Nếu mất thẻ người sử dụng phải thông báo ngay bằng văn bản để Ngân hàng biết. Ngân hàng phát hành thẻ có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền trên biên lai do ngân hàng đại lý chuyển đến. Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày viết hoá đơn cung ứng dịch vụ thanh toán. Người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ phải nộp lại biên lai vào ngân hàng đại lý để đòi tiền, quá thời hạn ghi quy định trên ngân hàng không thanh toán. Hình thức thanh toán bằng thẻ thuận lợi, văn minh, lịch sự nhưng vì điều kiện nước ta hiện nay chưa thể phát triển mạnh, vì người bán hàng đòi hỏi phải có máy hiện đại để đọc thẻ kiểm tra mật mã và nhiều yếu tố khác như: Mua thẻ phải trả phí thanh toán. Chính vì vậy cần có sự quan tâm đầu tư từng bước cho phù hợp với tình hình thực tế từ NHNN. III. Đánh giá chung Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới và thực hiện chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nghành ngân hàng nói chung và NHNT nói riêng đã có một bước chuyển biến tích cực trong việc triển khai chương trình cải cách. Có thể đánh giá một số thành tựu nổi bật của NHNT trong những năm qua: Thứ nhất trong thời gian ngắn NHNT đã khắc phục được một cách cơ bản tình hình nợ xấu. Thứ hai, ngân hàng đã xây dựng được một chiến lược phát triển đúng đắn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đảng và chính phủ đã đề ra và phù hợp với chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Thứ ba, NHNT đã làm tốt vai trò ngân hàng chủ đạo trong thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. Với thị phần thanh toán quộc tế và kinh doanh ngoại tệ chiếm 30% và doanh số mua bán ngoại tệ trong và ngoài nước lên tới gần 20 tỷ USD một năm, NHNT đã thực sự trở thành một công cụ quan trọng của chính phủ và NHNN trong việc bình ổn tỷ giá và lịch sử ở nước ta. Thứ tư, NHNT là ngân hàng đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại, tạo ra nhiều dịch vụ mới theo tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao như dịch vụ thẻ tính dụng quốc tế, thẻ rút tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử Có thể nói NHNT là ngân hàng đi đầu được trang bị công nghệ hiện đại trong hệ thống ngân hàng của chúng ta. Thường xuyên đổi mới công nghệ và phát triển các sản phẩm mới, chuẩn bị tiền đề để sớm hoà nhập với bên ngoài. Mỗi dịp đưa công nghệ mới vào vận hành là mỗi lần nâng cao cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại và cũng là dịp để NHNT đưa ra các sản phẩm ngân hàng có chất lượng cao phục vụ khách hàng. Đặc biệt, vào ngày 5/2002 với việc khai trương hệ thống ngân hàng trực tuyến (VCB-Online) đã mang lại tầm vóc mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại NHNT, nó mang lại cho khách hàng những tiện ích khi mọi giao dịch được thực hiện tức thì (Real Time) không cần qua khâu trung gian nào. Đặc biệt khách hàng có thể thực hiện được các giao dịch tại máy ATM gần nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá có tính chính xác cao. Còn hệ thống giao dịch tự động (Connect24) cho phép khách hàng giao dịch ở bất cứ đâu- nơi có cơ sở giao dịch của NHNT, giúp khách hàng vượt qua được hạn chế về không gian và thời gian. Những dịch vụ ngân hàng hiện đại của NHNT đã góp phần tích cực trong quá trình cải thiện văn minh thanh toán, tăng tính cạnh tranh của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp và trở thành một công cụ quan trọng để ngân hàng tham gia hội nhập với các nước trong khu vực cũng như quốc tế. Hiện Đại Hoá Công Nghệ ngân hàng là một trong 4 định hướng cơ bản có tính chất chiến lược trong tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng thì việc đổi mới công nghệ ngân hàng được NHNTVN đặc biệt coi trọng mà trọng tâm hướng vào phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ ngân hàng, tạo lập sự hoạt động toàn diện của một ngân hàng hiện đại, xây dựng cơ sở kỹ thuật hiện đại để hoà nhập quốc tế trước hết là về kế toán và thanh toán. Công nghệ ngân hàng là một trong những tiêu chuẩn để hội nhập, chính vì vậy cần phải hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống thanh toán nội bộ ngân hàng hiện đại để kết nối tất cả các chi nhánh của ngân hàng trong phạm vi cả nước, qua đó việc thanh toán của khách hàng tham gia trong cùng hệ thống được thực hiện ngay tức thời. Lịch sử 40 năm đổi mới vừa qua, ngân hàng đã nhanh chóng nối mạng thanh toán quốc tế, sử dụng phương tiện SWIFT để chuyển các khoản thanh toán đi và nhận các khoản thanh toán đến từ các ngân hàng đại lý ở nước ngoài, vì các khoản thanh toán qua hệ thồng SWIFT thực hiện chỉ trong vòng vài giây và chi phí rất thấp. Hệ thống SWIFT của NHNTVN với công nghệ và quy trình sử lý cũng như quản lý theo chuẩn mực cao của quốc tế đã xếp NHNTVN vào một trong số ít ngân hàng trên thế giới đạt tỷ lệ 98% điện thanh toán đủ điều kiện xử lý tự động theo tiêu chuẩn của các ngân hàng Mỹ, giúp NHNTVN duy trì thị phần thanh toán quốc tế 30% của cả nước liên tục trong nhiều năm. Sản phẩm Connect24 (thẻ rút tiền tự động, vừa có khả năng cung ứng dịch vụ thẻ nội địa vừa có khả năng chập nhận thẻ thanh toán quốc tế đã đưa NHNTVN trở thành ngân hàng có hệ thống cung ứng dịch vụ bán lẻ đầu tên hội nhập quốc tế. Loại thẻ này có khả năng mở rộng và phát triển thêm nhiều loại hình dich vụ mới để trở thành thẻ đa năng, tiện ích. Những năm qua, NHNNTW luôn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ chế thanh toán cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, các hình thức TTKDTM được cải thiện và bổ sung, nhiều hình thức mới ra đời như sec, thư tín dụng, thẻ thanh toán Mạng lưới thanh toán giữa các ngân hàng đã và đang được tin học hoá, hiện đại hoá. Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu về công tác thanh toán ngày càng cao. Công tác TTKDTM không chỉ dừng lại ở kết quả đã có mà phải không ngừng cải tiến để vươn lên đạt kết quả cao hơn. Mặt khác, công tác TTKDTM ở các NHTM còn nhiều vấn đề tồn tại vẫn là khâu yếu cần được tập trung giải quyết trong những năm tới. Theo như đánh giá chung của ngành ngân hàng, công tác TTKDTM còn những tồn tại sau : Việc triển khai mở rộng phạm vi thanh toán trong dân cư rất chậm, các phương tiện thanh toán chưa phát huy được hiệu quả, TTKDTM ngoài hệ thống chưa thực sự phổ biến và chiếm tỷ trọng thấp Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thanh toán mặc dù đã có nhưng chưa phải là công nghệ cao, chưa rộng khắp trong toàn quốc. Thực trạng trên đã và đang được phản ánh nhiều trên công luận. TTKDTM đang thực sự là điểm nóng. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt I. Giải pháp mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiên mặt tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 1. Giải pháp chung Qua thời gian nghiên cứu thực tế, qua trao đổi thực tế với khách hàng và với các cán bộ làm chuyên môn về quản trị kinh doanh ngân hàng, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác TTKDTM như sau: Trước sức ép cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, để tạo đà cho phát triển bền vững, NHNT xác định mục tiêu đến hết năm 2005, phấn đấu đưa NHNT đạt trình độ tiên tiến ở khu vực trên cả hai phương diện: quy mô và chất lượng hoạt động. Muốn vậy, NHNT phải thực hiện tốt những giải pháp chính. Thúc đẩy nhanh tiến trình áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào quản lý và cung ứng dịch vụ: Hệ thống quản lý bao gồm quản lý, quản lý tín dụng, quản lý tài chínhsẽ được hoàn thiện và nâng cao chất lượng theo chuẩn mực quốc tế. Trong đó đặc biệt quan tâm đến quản lý rủi ro. Kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ sẽ được cấu trúc lại theo chuẩn mực quốc tế. Cụ thể là quy trình nghiệp vụ, quy trình giao tiếp khách hàng sẽ được chuẩn hoá trong toàn hệ thống vừa để tạo thuận lợi cho khách hàng vừa để đảm bảo tính an toàn, quản trị được rủi ro. Phát triển và ứng dụng các dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ tiên tiến có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, nhằm tạo nhiều tiện ích mới, tăng tính cạnh tranh. Phát triển và mở rộng mạng lưới hoạt động để trở thành một tập đoàn tài chính đa năng: Xu hướng vận động và phảt triển của hệ thống ngân hàng thế giới là chuyển hướng thành các tập đoàn tài chính đa năng, đan xen nhiều hình thức thanh toán. Trong tương lai NHNT cũng sẽ không phải là một ngoại lệ nếu không tiếp tục phát triển. NHNT có chủ trương đa dạng hoá hình thức thanh toán (thanh toán điện tử) cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, công ty trực thuộc ở nước ngoài. Với những thành quả, uy tín đạt được trong 40 năm xay dựng và trưởng thành, mà nhiều thế hệ các bộ nhân viên NHNT đã dày công gây dựng, thế hệ các bộ NHNTVN phải phấn đấu nhiều hơn nữa để phát huy truyền thống Ngân hàng để xứng đáng là một trong những NHTM chủ lực của nhà nước, duy trì vai trò chủ đạo trên thanh toán tiền tệ và hội nhập quốc tế thành công. Để đạt được các mục tiêu đề ra, NHNT phải quyết tâm tiếp tục triển khai các nội dụng dịch vụ thanh toán, mà trước măt thực hiện thành công các giải pháp nêu ra nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trên con đường đổi mới phát triển và hội nhập quốc tế cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác những nỗ lực của bản thân là chưa đủ mà bên cạnh đó cần có sự quan tâm hỗ trợ hơn nữa của nhà nước, của NHNN về chính sách, về vốnđể tạo dựng một tiền đề vững chắc cho NHNT đủ sức sánh vai với các Ngân hàng nước ngoài trong thời gian tới. Trong những năm qua công tác thanh toán TTKDT tại NHNTVN đã đạt được kết quả cao là nhờ việc thực hiện một cách đầy đủ, chính xác, có hiệu quả các văn bản pháp quy của chính phủ cũng như của NHNN về lĩnh vực thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên để hoạt động thanh toán phát huy được hết khả năng của nó thì NNNTVN vẫn phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, cải tiến và hoàn thiện các văn bản pháp quy đó sao cho phù hợp, thống nhất với hoạt động thanh toán của các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng, đồng thời nghiên cứu để có thể đưa ra một cơ chế thanh toán hoàn chỉnh nhất áp dụng cho công tác thanh toán, thanh toán của các ngân hàng trong cùng hệ thống NHNTVN. Đặc biệt, trước yêu cầu Hiện đại hoá - Công nghệ ngân hàng đòi hỏi sự chính xác và nhanh chóng trong công tác thanh toán, chủ yếu là thanh toán qua mạng điện tử, thì nhất thiết NHNTVN cần có biện pháp: - Cần phải sớm bổ sung và hoàn thiện các văn bản có liên quan đến các chứng từ điện tử như: Quy định về nghiệp vụ kế toán, thanh toán điện tử trong hệ thống NHNNVN và một số quy định khác. - Cần phải đề ra các quy chế bảo mật, bảo đảm an toàn trong quá trình thanh toán, cũng như cải tiến các quy trình kỹ thuật có liên quan đến thanh toán điện tử để thanh toán điện tử luôn đảm bảo, an toàn, chính xác và thực hiện các nghiệp vụ một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. - Ngân hàng cũng cần phải ban hành một quy chế đồng bộ, toàn diện về việc dân cư mở tài khoản tiền gửi tại các NHTM và thanh toán qua ngân hàng, đồng thời xác định các thể thức, thủ tục mở tài khoản và thanh toán của dân cư với phương châm đơn giản, nhanh chóng, an toàn và chi phí thấp. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và cải tiến quy trình công nghệ. Để có thể thanh toán cho khách hàng một cách chính xác , nhanh chóng, an toàn, NHNTVN cần phải đổi mới hệ thống công nghệ ngân hàng đưa vào hiện tại các ngân hàng trong hệ thống, mặc dù NHNTVN đã có một bước nhảy vọt về đổi mới công nghệ trong những năm gần đây: ngân hàng duy nhất ở Việt Nam mở hoạt động kinh doanh chuyển đổi ở hai đầu đất nước (Sở giao áp dụng hệ thống bán lẻ đầu tiên (Chính phủ coi đó là thí điểm) Tuy nhiên, các hình thức đó mới chỉ phổ biến ở các thành phố lớn còn với những người dân ở xa hơn vẫn chưa hiểu gì về hình thức đó dù chưa được tiếp cận thông qua giao dịch. Trong thời đại ngày nay, yêu cầu đặt ra cho hệ thống ngân hàng không ít. Để thực hiện tốt chủ trương đặt ra của nhà nước, ngân hàng cần phải làm tốt hơn nữa vai trò là tổ chức trung gian tài chính: - Huy động tối đa nguồn lực trong xã hội với phương châm đổi mới: An toàn- Hiệu quả- Phát triển. - Ngân hàng cần theo sát các định hướng chiến lươc phát triển của đảng và nhà nước tiếp cận với các chương trình kinh tế trọng điểm để chủ động bố trí vốn đầu tư, mở rộng các dịch vụ Ngân hàng ngân hàng, đưa dịch vụ đến từng doanh nghiệp, từng người dân, đưa văn minh thanh toán đến với mọi nhà, mọi người và giảm tới mức tối thiểu thanh toán dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tăng lưu lượng và những phương tiện thanh toán hiện đại qua ngân hàng. - Cũng cố và hoàn thiện hệ thống thanh toán liên hàng vì hệ thống này sẽ xử lí thanh toán bù trừ tự động tất cả các khoản thanh toán điện tử phát sinh trong cả nước giữa các ngân hàng khác hệ thống với nhau. - Cần phải đầu tư vốn để trang bị máy móc hiện đại và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực thanh toán từng bước hệ thống hoá các dây chuyền công nghệ, phát triển các phần mềm ứng dụng tiên tiến để đảm bảo sự chính xác, nhanh chóng, an toàn số liệu trong các dịch vụ thanh toán. Tranh thủ áp dụng các kỹ thuật hiện đại của thế giới để phát triển công cụ thanh toán là con đường ngắn nhất và tiết kiệm nhất. Các ngân hàng trong nước tuy có ít lợi thế hơn ngân hàng nước ngoài về kỹ thuật và kinh nghiệm trong thanh toán. Vì vậy, NHNTVN và các NHTM nên nối mạng trực tiếp với nhau để thanh toán rút ngắn thời gian so với việc thanh toán qua NHNN. - Ngân hàng cần phải áp dụng dịch vụ kinh tế mới, chẳng hạn như dịch vụ ngân hàng qua điện thoại. Dịch vụ mới này sẽ cho phép khách hàng truy cập vào tài khoản 24/24 giờ qua điện thoại, khách hàng có thể thu nhận thông tin về tài khoản về bản sao kê tài khoản mà chi phí thấp tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng tham gia giao dịch qua ngân hàng dù ở bất cứ đâu. - Ngân hàng cần có chiến lược hội nhập và chủ động tham gia hội nhập với lộ trình và biện pháp phù hợp, nhất là nâng cao được năng lực quản trị điều hành theo kịp các chuẩn mực của quốc tế để đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Đặc biệt là phải cạnh thắng lợi ngay cả trên thị trường nội địa với các tổ chức tín dụng nước ngoài vốn mạnh hơn về năng lực tài chính, kỹ năng quản lý điều hành, kinh nghiệm và công nghệ. - Luôn luôn quan tâm đến vấn đề bảo đảm an toàn hệ thống, phát triển một cách có hiệu quả, bền vững, gắn liền với chính sách tiền tệ, duy trì có hiêu quả việc kiểm soát lam phát, ổn định vĩ mô về kinh tế để góp phần ổn định chính trị xã hội đi đôi với nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng nhằm bảo đảm hoạt động tín dụng ngân hàng lành mạnh. Và trong quá trình đó phấn đấu để sớm trở thành những ngân hàng đạt được chuẩn mực của các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và sánh ngang các ngân hàng đó cả về năng lực tài chính lẫn về hiệu quả và năng lực quản trị kinh doanh. Thứ nhất về công tác đào tạo cán bộ Với yêu cầu nâng cao khả năng vạch chiến lược phát triển các nghiệp vụ và công nghệ thanh toán theo hướng hiện đại hoá, nhằm thích ứng với môi trường cạnh tranh, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kế toán là một bức xúc thường xuyên. Vấn đề con người là then chốt, những thành quả cũng như những tổn thất của hoạt động thanh toán đã khẳng định một chân lý, con người có vai trò quyết định. Vấn đề rút ra là cần phải hiểu vấn đề con người một cách toàn diện, hội đủ các yếu tố đạo đức về pháp luật và kiến thức chuyên môn. Sự thiên lệch thái quá về một yếu tố nào cũng không đem lại hiệu quả cho hoạt động thanh toán, thậm chí mang lại những nguy cơ rủi ro. Do Vậy NHNTVN cần tăng cường công tác đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ kế toán, đó là một công việc cần được thực hiện vì vấn đề con người luôn được đặt vào vị trí trọng tâm. Quá trình xây dựng và trưởng thành, nhân tố có tính quyết định đến sự thành công trong mọi thời kỳ đó là vai trò làm chủ của các thế hệ cán bộ NHNTVN. Để khẳng định vai trò vị trí trung tâm đó: - Ngân hàng cần phải nhìn thẳng vào những mặt hạn chế của nguồn nhân lực hiện có đó là sự bất cập về trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để từ đó đưa ra một chiến lược con người rõ ràng, năng động. - Ngân hàng cần phải tiến hành tạo, bổ sung kiến thức cho cán bộ mới, tuyển dụng và đào tạo bồi dưỡng thường xuyên nhằm cập nhật kiến thức cho cán bộ đương nhiệm để tạo ra một đội ngũ cán bộ kế toán, từ kế toán viên đến cán bộ lãnh đạo được nâng cao về trình độ, tạo được sức mạnh tổng hợp cho toàn ngân hàng. - Ngân hàng cũng cần quan tâm đế việc đa dạng hoá hình thức đào tạo như: Tập trung, tại chức, dài hạn, ngắn hạn, đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước, hay phải đổi mới và cải thiện nôi dung đào tạo sao cho phù hợp với yêu cầu đổi mới ngân hàng như kiến thức nghiệp vụ, công nghệ ngân hàng, tin học ngoại ngữ để đào tạo một đội ngũ cán bộ kế toán có một diện mạo mới: Thành thạo, hiện đại, văn minh, lịch sự trong giao tiếp và phục vụ. - Ngân hàng cũng cần phải động viên khuyến khích nhân viên thông qua việc thưởng phạt vật chất, tạo điều kiện làm việc thuận lợi nhất giúp cho cán bộ công nhân viên của ngân hàng hoàn thành tốt công việc. Thứ hai, tuyên truyền quảng cáo, mở rộng môi trường phục vụ Việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán là một thói quen rất lâu đời của người dân Việt Nam, hơn nữa trình độ dân trí còn thấp, sự hiểu biết về hoạt động TTKDTM qua ngân hàng là rất ít nên để thay đổi được thói quen đó không phải là một việc dễ dàng. Hơn nữa trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, thu nhập của người dân chưa cao nên việc mở tài khoản cá nhân qua ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp (chủ yếu ở các thành phố lớn). Để mở rộng TTKDTM các ngân hàng đó thực sự được dân cư hưởng ứng rộng rãi thì: Ngân hàng cần phải tăng cường rông rải tiện ích của các công cụ thanh toán một cách hợp lý, tuyên truyền hướng dẫn cụ thể các quy trình thủ tục các thể thức thanh toán trên các phương tiện thông tin đại chúng, nơi công cộng, các trung tâm thương mạiđể người dân thấy được cái lợi của công cụ đó là an toàn, tiện lợi, và lựa chọn được hình thức thanh toán phù hợp. Từ đó giúp cho mọi người dần dần làm quen với hình thức thanh toán mới. Mở rộng môi trường sử dụng cho các công cụ này. Tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể sử dụng thanh toán một cách nhanh nhất. Ngân hàng cần phải có chế độ khen thưởng, khuyến khích khách hàng. Bên cạnh việc trích thưởng cho cán bộ công nhân viên trong quy chế, việc nên làm là đề ra các biên pháp khen thưởng cả về phía khách hàng vì họ cũng thực sự là người tạo nên thành công của ngân hàng. Lợi nhuận thu được được thực hiện do các hoạt động sản xuất kinh doanh, xin vay, gửi tiền hay các giao dịch thanh toán mà họ tin tưởng uỷ nhiệm cho ngân hàng nếu không có khách hàng thì hàng loạt các dịch vụ của ngân hàng không còn có ý nghĩa. 2. Giải pháp đối với các hinh thức thanh toán không dùng tiền mặt 2.1. Uỷ nhiệm thu - Uỷ nhiệm chi Để khắc phục được nhược điểm của hai thể thức thanh toán này thì Ngân hàng nên áp dụng thể thức UNC, UNT theo định kỳ. Hàng tháng các bộ phân dich vụ như nhà máy nước, bưu điện, thuế hay tổ chức kinh doanh khác thay vì gửi giấy tới đòi tiền cho khách hàng, họ sẽ trực tiếp tới Ngân hàng nơi khách hàng mở tài khoản, ngân hàng tự động trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán. Nếu như các tổ chức trên cũng mở tài khoản tại một ngân hàng thì quá trình thanh toán đó sẽ rất tiện lợi. Theo quy định mỗi lần phát sinh các nghiệp vụ giao dich trên tài khoản tiền gửi, ngân hàng phải kịp thời gửi giấy báo cho khách hàng. Khi áp dụng hình thức này vào thời điểm cuối năm ngân hàng và khách hàng sẽ tất toán toàn bộ doanh số thanh toán UNC trong thời gian một năm. Đầu năm sau khách hàng lập lại UNC gửi vào Ngân hàng và quá trình lại tiếp diễn. Tương tự như vậy người thụ hưởng cũng có thể lập UNT định kỳ nhờ Ngân hàng thu hộ những khoản thu có tính chất thường xuyên mà khi trả tiền chưa áp dụng hình thức UNC định kỳ, quá trình thanh toán hoàn toàn giống như trên. Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của nhân dân đã được nâng cao tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ thanh toán phát triển và mở rộng hơn, kéo theo sự phát triển của hình thức thanh toán UNC và UNT. Khi làm việc với loại hình thức này ngân hàng cần phải chú ý là khối lượng công việc mà ngân hàng phải tăng lên đáng kể, do vậy ngân hàng cần phải xem xét lại về thu phí thanh toán theo một tỷ lệ phần trăm nhất định sao cho hợp lý. 2.2. Thẻ tín dụng Hiện nay chi phí sử dụng thẻ còn rất nhiều bât hợp lý, chưa phù hợp với thực trạng tiêu dùng và sử dụng của khách hàng đặc biệt là đối tượng khách hàng là người dân Việt Nam. Trong khi sử dụng thẻ, ngoài phí thường niên thì chủ thẻ phải trả thêm các khoản khác như lãi xuất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí trả chậm, phí rút tiền mặt, phí xin cấp phépcác khoản chi phí này làm hạn chế việc sử dụng thẻ, thêm nữa lãi xuất đối với thẻ tín dụng cao hơn so với tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Theo thực trạng thống kê số khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu là người nước ngoài (chiếm 75%) còn lại là trong nước. Đây là một sự mất cân bằng lớn bởi vì người Việt Nam với những khoản chi tiêu ít ỏi thì họ sử dụng trực tiếp bằng tiền mặt chứ không cần dùng đến phương tiện thẻ thanh toán. Trong điều kiện hiện nay, khách hàng là người Việt Nam đại bộ phân đều cho rằng tỷ lệ phí, lãi áp dụng cho các giao dịch thẻ của NHNT là quá cao. Để thu hút mọi tầng lớp dân cư trong nước, NHNTVN cần tạo ra những loại thẻ tín dụng nội địa phù hợp với đặc điểm thị trường trong nước. Trong những năm trước ngân hàng đã tạm ngừng việc phá thẻ ATM và thẻ VCB CARD, trong năm 2002 tiếp tục triển khai hệ thống thanh toán nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn. Việc mở rộng phát hành hai loại thẻ tín dụng quốc tế là Master và Visa Card. Theo cách phát hành này, ngân hàng có thể phát hành thêm thẻ ghi nợ Master và Visa Card. Phát hành thêm thẻ ghi nợ một mặt có thể đẩy mạnh được hoạt động phát hành và sử dụng thẻ tại ngân hàng, mặt khác đây cũng là một hình thức huy động vốn. Cách sử dụng thẻ ghi nợ không khác gì so với thẻ tín dụng thẻ này chỉ khác ở một điểm là chi tiêu bảng thẻ ghi nợ tuỳ thuộc vào số dư tài khoản tại ngân hàng hiện có của chủ thẻ chứ không theo hạn mức tín dụng. II. Những kiến nghị Đối với thẻ thanh toán đây là một hình thức rất hữu ích. Nó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Đối với các mặt hàng khác khi muốn khuyến khích phát triển, Nhà nước thường xuyên giảm thuế cho mặt hàng đó. Hiện nay mức thuế nhà nước áp dụng cho thẻ thanh toán là 10% (GTGT), đây là mức thuế bình thường áp dụng cho các loại hình dịch vụ khác. Để khuyến khích nhà nước nên giảm xuống còn khoản 5% là hợp lý. Tuy nhiên bởi vì giá trang thiết bị của loại hình này là rất đắt nếu đánh giá cao sẽ làm tăng giá thành. Việc đặt máy thanh toán tự động (ATM) ở những nơi công cộng rất thuận tiện cho khách hàng nhưng sợ rằng chi phí bỏ ra để bảo vệ máy có thể cao hơn lợi nhuận thu được từ máy đó. Vì vậy Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện một hành lang pháp lý hoàn chỉnh nhằm giúp người dân có ý thức tuân thủ pháp luật tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh phát triển hơn. Kết luận Công tác thanh toán không dùng tiền mặt đang là mục tiêu cho các ngân hàng hướng tới và có thể tiến xa hơn trong hình thức thanh toán nhằm bảo vệ an toàn vốn tài sản của ngân hàng cũng như của khách hàng, đồng thời tạo điều kiện thuân lợi nhanh chóng trong thanh toán trao đổi. Đi kèm với sự phát triển kinh tế là sự phát triển của các giao dịch mang tính chất thương mại, là kết quả dẫn tới sự gia tăng trong lĩnh vực thanh toán, sự phát triển kinh tế này ngày một không ngừng nên nhu cầu về phương thức thanh toán cũng thay đổi sao cho công tác thực hiện được đảm bảo một cách tốt nhất. Do đó thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng không thể không đổi mới mà ngược lại phải đổi mới liên tục để đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá phức tạp hiện nay. Bởi vậy tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm làm cho cơ chế thị trường trở nên sôi động hơn. Sau một thời gian ngắn thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam em được tìm hiểu về nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, một phần em được tiếp cận với phương thức thanh toán này, tuy không còn mới mẻ nhưng cũng chưa thực sự phổ biến rộng rãi trong từng người dân Việt Nam. Với bài viết này em có trình bày một số ý kiến về công tác thanh toán không dùng tiền mặt với mong muốn góp phần đẩy mạnh việc sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên do thời gian còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong nhận được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn, các cán bộ ngân hàng để chuyên đề này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Thông tư hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng hình thức thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ. Quyết định số 1284/2002/QĐ- NHNN ngày 21/11/2002 của thống đốc NHNN về việc ban hành “Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNN và tổ chức tín dụng” quy định. Báo cáo tổng kết năm 2002, 2003 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Giáo trình môn kế toán Ngân hàng Các số tạp chí ngân hàng và các tạp chí liên quan Bảng 3: hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam Đơn vị: Triệu đồng Hình thức thanh toán Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch Số món Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng/ Giảm (+/-) Tỷ trọng (%) 1. Séc 12.784 1,8% 939.508 0,1% 11.158 0,8% 653.227 0,1% -286.281 0 Trong đó: Séc bảo chi 4.049 0,6% 613.126 0,1% 2.734 0,2% 352.026 0,03% -261.100 -0,07% 2. UNC- chuyển tiền 562.709 77,2% 741.316.023 96,5% 862.261 63,2% 1.094.342.026 96,4% 353.026.452 -0,01% 3. UNT 8.035 1,1% 32.654 0,08% 8.736 0,6% 30.740 0,01% -1.905 -0,07% 4. Thẻ 102.045 13,99% 189.261 0,02% 441.202 32,5% 643.909 0,09% 445.648 0,07% 5. Thanh toán khác 43.724 5,91% 25.097.359 3,3% 40.655 2,9% 38.206.013 3,4% 13.108.091 0,1% Cộng 729.297 100 768.187.931 100 1.364.012 100 1.134.227.941 100 366.292.005 0 (Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH393.doc
Tài liệu liên quan