Để nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế nói riêng và của các doanh nghiệp, công ty nói riêng, Chính phủ cần phải có những chính sách, biện pháp hỗ trợ thích hợp để giúp đỡ các doanh nghiệp, đó là các công việc như:
♦ Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách
Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách hơn nữa, theo hướng phù hợp với các quy định mà Việt Nam đã ký và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp. Có thể hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách thì Việt Nam mới có thể tạo ra được một môi trường kinh doanh hấp dẫn, thông thoáng, minh bạch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Hành chính phức tạp, rườm rà với những bất cập chính là sự cản trở việc xâm nhập của các công ty quốc tế, là sự quản trở quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và công ty tại Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải làm tốt hơn nữa công việc cải cách, tinh giản bộ máy hành chính của mình để tạo ra sự bôi trơn, thúc đẩy quá trình phát triển của nền kinh tế trong nước và ngăn chặn tiêu cực.
Các chinh sách của Việt Nam cần ưu tiên hơn nữa tới sự phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, tạo lập một môi trưòng thân thiện cho hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng.
♦ Tăng cường ổn định thị trường trong nước
Đối với các công ty thương mại, kinh doanh xuất khẩu hàng hoá, thị trường trong nước chính là nơi cung cấp nguồn hàng cho hoạt động của công ty. Do đó, sự ổn định của thị trường trong nước chính là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các công ty xuất khẩu có thể tiến hành suôn sẽ. Điều này đòi hỏi cần phái có các tác động của Chính phủ nhằm kìm hãm các biến động phát sinh và giúp đỡ các công ty xuất khẩu vượt qua khó khăn khi thị trưòng có những thay đổi bất lợi.
67 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại SONA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếp nhận lao động.
Đào tạo dạy nghề dài hạn: Nhằm cung cấp lao động có nghề cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các khu công nghiệp tại Việt Nam.
Tổ chức dịch vụ phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
SONA áp dụng một hệ thống các biện pháp hỗ trợ người lao động bắt đầu từ khâu hoàn tất thủ tục phía Việt Nam đến quá trình sống và làm việc ở nước ngoài. Hệ thống hỗ trợ này giúp cho ngời lao động tiếp cận thị trường lao động quốc tế và đảm bảo an toàn khi làm việc tại nước ngoài.
Công ty SONA đã thiết lập hệ thống văn phòng đại diện của công ty tại những nước có số lượng lớn lao động của công ty làm việc như: Đài Loan, Malaysia, Lybia, Qatar, Dubai và Hàn Quốc để giải quyết những vướng mắc, mâu thuẫn của người lao động khi làm việc tại nước sở tại.
Xuất khẩu: SONA là một trong những công ty hàng đầu Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2008 đạt hơn 22 triệu USD. Công ty hàng năm được Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Thương mại, UBND thành phố Hà Nội tặng bằng khen về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiện nay, công ty xuất khẩu các mặt hàng:
• Các sản phẩm nông sản như hạt điều, cà phê, gạo, cao su.
• Lâm sản chế biến, sản phẩm từ gỗ như các hàng thủ công mỹ nghệ.
• Một số mặt hàng khác như: mỹ phẩm, chất tẩy rửa công nghiệp và gia dụng, hàng dệt may, hải sản, vật liệu xây dựng và dược liệu.
Nhập khẩu: Các sản phẩm bằng cao su, gốm, sứ, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng, thiết bị trang trí nội thất, phương tiện vật tải, hàng tiêu dùng, thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, vật tư vật liệu sản xuất, nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất.
Kinh doanh hoá chất, kinh doanh khoáng sản, kinh doanh các chứng từ vận chuyển và đại lý vé máy bay.
Tư vấn du học toàn cầu: Công ty SONA đã được phép của Bộ Giáo dục - Đào tạo tại công văn số: 3187/DH ngày 17/4/2002 và của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội tại Quyết định 1550/2003/QD BLDTBXH ngày 25/10/2003 cho phép công ty: "Tư vấn cho công dân Việt Nam đi du học nước ngoài theo chế độ tự túc”. Công ty thực hiện các nghiệp vụ sau:
Tư vấn miễn phí bất kỳ trường nào, ngành nào bạn muốn - từ hệ Vừa học vừa làm, Học nghề đến Cao đẳng, Đại học, Thạc sỹ, Tiến sỹ ở nước ngoài - phù hợp với trình độ và khả năng tài chính của bạn.
Cung cấp thông tin mới nhất về nước đến, trường, ngành học, chi phí học tập, ăn, ở, thủ tục hồ sơ, phong tục tập quán, pháp luật nước sở tại.
Trợ giúp Visa và giải quyết có hiệu quả các thủ tục nhập học theo quy định của trường, nước bạn trong thời gian sớm nhất. Sinh viên được tư vấn bởi Công ty SONA có tỷ lệ đạt Visa nhập cảnh cao.
2.2 Thực trạng kinh doanh XK hàng hoá của Công ty SONA giai đoạn 2005-2008
Báo cáo tài chính của công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2005-2008 như sau
Bảng 2.3 Thực trạng kinh doanh công ty SONA giai đoạn 2005-2008
2005
2006
2007
2008
Vốn
54,167,441,332
88,873,425,351
131,864,514,422
409,191,160,598
Doanh thu
55,792,717,254
92,218,145,886
137,981,668,688
426,891,022,609
Lãi truớc thuế
1,625,275,922
5,722,795,211
6,117,154,266
17,699,862,011
Nguồn: Phòng kế toán công ty Đơn vị: VNĐ
Thông qua bảng số liệu trên, có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong giai đoạn 2005 – 2008 vừa qua, Công ty SONA đã thành công trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Năm 2005, mức doanh thu của Công ty chỉ là 55.79 tỷ VNĐ với lãi trước thuế đạt 1.62 tỷ VNĐ thì số liệu tương ứng năm 2008 là 426.89 tỷ VNĐ và 17.7 tỷ VNĐ. Như vậy, chỉ sau 4 năm, mức lãi của Công ty SONA đã tăng 10.9 lần, đây là một mức tăng khá cao. Cụ thể tốc độ tăng lãi suất của công ty là 352 % năm 2006, 107 % năm 2007 và 289 % năm 2008. Mức tăng trung bình đạt 249 %/ năm trong giai đoạn vừa qua.
Có thể nhận thấy rõ hơn sự hiệu quả kinh doanh của Công ty SONA thông qua biểu đồ thể hiện doanh thu và lợi nhuận trước thuế sau:
Bảng 2.4 Doanh thu và lãi trước thuế giai đoạn 2005-2008
Nguồn: Phòng kế toán công ty Đơn vị: 100,000 VNĐ
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty SONA trong giai đoạn 2005-2008 đó là: cao su, cà phê, hạt điều, hàng tiêu dùng, đá, tinh bột khoai mì, cụ thể số lượng xuất khẩu của các mặt hàng này được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 2.5 Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2005-2008
Tên
Đơn vị
2005
2006
2007
2008
Cao su
Tấn
1,049
993
1727
257
Cà phê
Tấn
815
21
Đá
m2
1,433
30,398
165,475
Hạt điều
LB
207,200
840,000
905,800
974,600
HTD
Thùng
51,272
61,975
48,902
19,603
TBKM
Tấn
1,667
513
760
Nguồn: Phòng kế toán công ty
Trong đó: HTD = Hàng tiêu dùng
TBKM = Tinh bột khoai mì
LB = pound = 454 g
2.3 Phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty SONA
2.3.1 Đánh giá các đối thủ cạnh tranh
♦ Công ty Intimex Hồ Chí Minh
Lĩnh vực hoạt động: Công ty Intimex Hồ Chí Minh hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá và kinh doanh thương mại tại thị trường nội địa. Trong quá trình phát triển của công ty, lĩnh vực xuất khẩu luôn là hoạt động kinh doanh trọng tâm.
• Xuất khẩu: công ty xuất khẩu các mặt hàng nông sản như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cao su, sắn lát và một số mặt hàng nông sản khác.
• Nhập khẩu: Intimex chủ yếu nhập khẩu các nguyên vật liệu dùng trong sản xuất,xây dựng, điện tử - gia dụng, các loại máy móc, hàng thực phẩm và tiêu dùng. Bên cạnh các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
• Kinh doanh nội địa: công ty Intimex Hồ Chí Minh còn đẩy mạnh kinh doanh nội địa bằng việc thiết lập các mạng lưới bán buôn, bán lẻ, hệ thống siêu thị …
Đánh giá: Công ty Intimex Hồ Chí Minh là một công ty lớn, nằm trong số 500 doanh nghiệp lớn tại Việt Nam với mức độ tăng trưởng kim ngạch và doanh thu bình quân từ 20 – 50%/ năm. Đặc biệt, công ty là một trong những công ty hàng đầu vế xuất khẩu cà phê và hồ tiêu với kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân đạt 302 triệu USD, doanh thu hàng năm đạt hơn 7,200 tỷ đồng.
♦ Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu tổng hợp I Việt Nam ( tên giao dịch là GENERALEXIM)
Lĩnh vực hoạt động: Generalexim hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nhưng sau đó đã nhanh chóng chuyển sang công ty kinh doanh đa ngành nghề, trong đó xuất nhập khẩu chiếm khoảng 85% doanh thu và lợi nhuận hàng năm.
• Xuất khẩu: chủ yếu là các sản phẩm nông sản như: cà phê, hạt tiêu, gạo, lạc nhân, hành đỏ, hạt điều, chè, hoa hồi, quế, sắn lát,các loại đậu...; các sản phẩm gỗ; hàng may mặc; hàng công nghiệp nhẹ; khoáng sản; hàng thủ công mỹ nghệ...
• Nhập khẩu: các thiết bị công nghiệp (máy cán thép, băng tải...), máy móc, phân bón, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu cho các ngành sản xuất và xây dựng (sắt, thép, nhôm, đồng, bột thức ăn gia súc, gia cầm, nguyên liệu sản xuất thuốc thú y...), các loại hoá chất (theo quy định nhà nước cho phép), hàng tiêu dùng.
• Sản xuất: công ty có xí nghiệp gia công hàng may mặc xuất khẩu tại Hải Phòng.
• Dịch vụ: làm đại lý mua và bán hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước; cho thuê văn phòng, kho hàng tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Tp.Hồ Chí Minh; XNK uỷ thác, các dịch vụ về thương mại, giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, tạm nhập - tái xuất...
Đánh giá: Generalexim là một công ty lớn kinh doanh đa ngành nghề. Đây là một ưu điểm khi công ty có thể lưu chuyển vốn linh hoạt qua các hoạt động kinh doanh khác nhau khi có biến động của thị trường. Khi có một hoạt động lâm vào bế tắc, công ty có thể chuyển hướng sang hoạt động khác để có thể duy trì sự phát triển của công ty. Tuy nhiên, tiến hành kinh doanh đa nghành nghề cũng kéo theo những bất lợi. Quy mô kinh doanh phát triển nhanh sẽ gặp khó khăn khi khả năng quản lý của công ty không theo kịp. Mặt khác, việc mở thêm các hoạt động kinh doanh mới sẽ đòi hỏi có nhiều vốn và có nhiều rủi ro hơn các hoạt động đã tiến hành; điều này còn có thể dẫn đến mất dần sự chuyên môn hoá và làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các hoạt động chính của công ty.
2.3.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của công ty SONA
♦ Các chỉ tiêu định lượng
Tiến hành phân tích một số chỉ tiêu tài chính của Công ty SONA và một số công ty cạnh tranh, ta có bảng so sánh sau:
Bảng 2.6 So sánh chỉ tiêu năng lực cạnh tranh
SONA
Generalexim
Intimex Hồ Chí Minh
Vốn kinh doanh
176,320,822,261
445,158,221,736
694,781,015,770
Tổng doanh thu
555,697,758,424
1,085,726,413,837
5,202,517,735,571
Lợi nhuận trước thuế
6,828,945,816
40,410,641,269
21,823,193,091
Tỷ suất lợi nhuận (TSLN)
TSLN trước thuế/vốn kinh doanh
3,873%
9.078%
3.141%
TSLN trước thuế/doanh thu
1,229%
3.721%
0.419%
Nguồn: tổng hợp số liệu tài chính ba công ty Đơn vị: VNĐ
Thông qua bảng so sánh, có thể nhận thấy Công ty SONA có tổng nguồn vốn kinh doanh thấp, là công ty có quy mô nhỏ so với 2 công ty còn lại. Số liệu về doanh thu được thể hiện cho thấy doanh thu của công ty Intimex Hồ Chí Minh đạt mức cao nhất, gấp 5 lần so với công ty Generalexim và gần gấp 10 lần so với mức doanh thu của Công ty SONA. Tuy nhiên, mức doanh thu chỉ có thể nói lên quy mô kinh doanh của các công ty mà không thể phán ánh được sự hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu để đánh giá năng lực kinh doanh, năng lực sử dụng các nguồn lực hay chính là thể hiện năng lực cạnh tranh của các công ty chính là tỷ súât lợi nhuận. Công ty nào có mức tỷ suất lợi nhuận càng cao đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường càng lớn và ngược lại.
Qua kết quả của bảng so sánh, ta thấy hai tiêu chí tỷ suất lợi nhuận của Công ty SONA đều ở mức giữa. Trong đó, tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của Công ty SONA gấp 3 lần Công ty Intemex Hồ Chí Minh và tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh gấp 1,23 lần. Điều này cho thấy khả năng sinh lời từ nguồn vốn của Công ty SONA cao hơn, và hiệu quả kinh doanh tốt hơn do tỷ lệ lợi nhuận tạo nên từ doanh thu ở mức cao. Qua đó phản ánh năng lực cạnh tranh của Công ty SONA trong ba công ty được so sánh nằm ở mức trung bình.
♦ Các chỉ tiêu định tính
− Cơ cấu sản phẩm
Có thể thấy rằng các sản phẩm xuất khẩu của Công ty SONA phần lớn là các sản phẩm nông nghiệp, đây là các sản phẩm có giá trị xuất khẩu không cao, thường hay gặp sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản khác trong khu vực.
− Chất lượng hàng hoá
Do nguồn cung cấp hàng hoá cho hoạt động xuất khẩu của Công ty SONA là thị trường trong nước, do đó chất lượng của hàng hoá không tốt làm giảm sức cạnh tranh.
− Khả năng thích ứng và đổi mới
SONA là một công ty nhà nước, chính vì vậy Công ty không thể có được sự thay đổi linh hoạt, những cải tiến nhanh chóng như các công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn.
− Uy tín của Công ty
Là một công ty hoạt động khá lâu năm trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá, Công ty SONA đã tạo dựng được tên tuổi và uy tín đối với đông đảo khách hàng trong và ngoài nước thông qua việc thực hiện tốt các hợp đồng được ký kết đã không ngừng tự hoàn thiện.
2.3.3 Đánh giá
2.3.3.1 Những thành tựu
Trong giai đoạn vừa qua, Công ty đã kinh doanh xuất khẩu hàng hoá có hiệu quả khi đạt mức lợi nhuận dương và tăng theo từng năm. Điều này thể hiện sức cạnh tranh của Công ty ở mức khá cao.
Quá trình hoạt động, Công ty SONA đã luôn thực hiện tốt các hợp đồng được ký kết, không xảy ra trường hợp khiếu nại. Điều này đã làm cho uy tín của Công ty với các khách hàng và bạn hàng ngày càng tăng cao.
Hoạt động nghiên cứu thị trường ngày càng được quan tâm hơn, trong thời gian qua công ty đã không ngừng có gắng phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu của mình.
Năng lực cạnh tranh của công ty ngày càng được nâng cao khi Công ty luôn cố gắng thúc đẩy đa dạng hoá sản phẩm, hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, Công ty đã mở thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới như: mật ong, đá xẻ, chè xanh.
2.3.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân
Những tồn tại:
Nguồn hàng của Công ty là thị trường trong nước, là các sản phẩm của nông sản Việt Nam. Công ty không phải là đơn vị trực tiếp sản xuất. Chính vì vậy không thể tác động tới chất lượng của sản phẩm mà phụ thuộc vào nhà cung cấp. Do các hàng nông sản của Việt Nam có chất lượng thường không ổn định, số lượng thay đổi theo vụ mùa và thời tiết nên sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Công tác phát triển thị trường mặc dù đã được quan tâm, tuy nhiên hoạt động này chưa đi vào chuyên nghiệp. Công ty chưa có những chiến lược phát triển thị trường cụ thể.
Năng lực cạnh tranh của Công ty SONA chỉ ở mức trung bình, điều này được thể hiện rõ qua sự chênh lệnh giữa các tỷ suất lợi nhuận của Công ty so với Công ty Generalexim. Khả năng tạo ra lợi nhuận từ nguồn vốn kinh doanh của Công ty còn thấp. Do đó, trong thời gian tới Công ty cần phải có những biện pháp phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh doanh và gia tăng lợi nhuận.
Nguyên nhân:
− Nguyên nhân khách quan:
• Việt Nam là nước còn mang nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nông sản xuất khẩu nói riêng còn tồn tại nhiều bất cập. Việc không có quy hoặch phát triển sản xuất theo vùng, quá trình sản xuất tự phát và sử dụng các công nghệ kỹ thuật lạc hậu là nguyên nhân của sự không ổn định về chất lượng và sự yếu kém về chất lượng sản phẩm. Do đó, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam nói chung và những công ty xuất khẩu nông sản nói riêng như SONA. Bên cạnh đó, các mặt hàng xuất khẩu khác của Công ty cũng là hàng hoá sản xuất tại thị trường nội địa của Việt Nam, có chất lượng không cao bằng sản phẩm của các quốc gia áp dụng công nghệ tốt hơn.
• Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều bất cập. Hệ thống kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến bãi, kho hàng của Việt Nam còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xuất khẩu. Bên cạnh đó, các chi phí cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam bị tăng cao do thiếu các cảng biển nước sâu khiến hàng hoá phải chở sang các cảng trung chuyển như Singapore hay Hồng Kông để chuyển tàu. Tình trạng tiêu cực và bảo kê tại các cảng xuất khẩu hàng làm cho chi phí của các công ty xuất khẩu tăng cao, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
− Nguyên nhân chủ quan
• Công ty SONA chưa tiến hành cổ phần hoá, vẫn là một công ty đơn thuần trực thuộc nhà nước, chính vì vậy khó có thể phát huy được hết nguồn lực của mình. Đội ngũ nhân viên còn thiếu những nhân viên chuyên nghiệp, có nhiều kinh nghiệm. Mặt khác, do là một công ty nhà nước nên sự cạnh tranh trong công việc không cao, tạo nên sức ỳ trong sự phát triển của công ty.
• Công ty chưa có phòng nghiên cứu và phát triển thị trường riêng biệt. Do đó hoạt động này còn có những hạn chế nhất định.
• Nguồn vốn kinh doanh của Công ty chưa lớn để mở rộng thêm quy mô kinh doanh, phát triển thêm nhiều nguồn hàng mới.
• Các sản phẩm xuất khẩu của Công ty chủ yếu là hàng nông sản hoặc đã nguyên liệu. Đây là các mặt hàng có giá trị thấp, khả năng tạo lợi nhuận không cao. Trong thời gian tới, SONA cần phát triển thêm các mặt hàng mới có khả năng sinh lợi cao.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty SONA
3.1 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng phát triển khách quan chi phối đến nền kinh tế của các quốc gia. Quá trình này sẽ thúc đẩy sự liên kết giữa các nền kinh tế, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội. Một sản phẩm sẽ không chỉ được sản xuất đơn thuần ở một quốc gia mà có thể tiến hành sản xuất từng bộ phận tại các quốc gia khác nhau để tận dụng lợi thế cạnh tranh. Qua đó, các nền kinh tế sẽ có sự gắn kết mật thiết, ngày càng chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ xoá bỏ đi những rào cản đối với các nền kinh tế. Sẽ không còn những rào cản nhằm hạn chế các sản phẩm nước ngoài, sẽ không còn những biện pháp bảo hộ đối với hàng hoá trong nước. Thay vào đó, chúng ta sẽ có một thị trường chung thống nhất, đó chính là thị trường thế giới. Các quốc gia sẽ có thể dễ dàng tham gia vào thị trường này, tận dụng các lợi thế cạnh tranh của mình để thu lợi nhuận. Các sản phẩm, các nguồn lực sẽ có thể tự do di chuyển trên toàn thế giới trong một thị trường bình đẳng chung cho tất cả.
Không nằm ngoài xu hướng chung đó, Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này mở ra những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp, công ty ở Việt Nam. Đó là sự tiếp cận với rất nhiều thị trường mớí, sự xoá bỏ của những rào cản xâm nhập đối với những thị trường này; là sự cạnh tranh bình đẳng không phân biệt đối xử đối với những quốc gia khác nhau. Thông qua hội nhập, Việt Nam có thể tận dụng những lợi thế cạnh tranh của quốc gia, tận dụng những nguồn lực to lớn của đất nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhằm đảm bảo xây dựng một quốc gia giàu đẹp, đảm bảo cuộc sống ngày càng được cải thiện cho người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội do quá trình hội nhập đem lại thì cùng với nó là những thách thức vô cùng to lớn. Khi Việt Nam hội nhập, chính phủ sẽ phải mở cửa nền kinh tế cho hàng hoá nước ngoài, sẽ không còn các biện pháp bảo hộ cho các doanh nghiệp, công ty trong nước. Do đó, các doanh nghiệp và công ty của Việt Nam phải đối đầu với sự cạnh tranh rất khốc liệt của các công ty nước ngoài, phải đối đầu với sự đào thải khắc nghiệt của các quy luật thị trường. Xuất phát từ thực tế đó, các công ty, doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể tồn tại và phát triển.
3.2 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của một số quốc gia
3.2.1 Hàn Quốc
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính - tiền tệ vào năm 1997-1998, Hàn Quốc là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Để có thể nhanh chóng phục hồi được nền kinh tế của mình, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động cải cách nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của các tập đoàn, công ty của Hàn Quốc. Các biện pháp này có thể chia thành các nhóm sau:
♦ Các biện pháp về cải thiện khả năng tài chính của các công ty:
Sau cuộc khủng hoảng, có rất nhiều công ty của Hàn Quốc, kể cả các tập đoàn lớn lâm vào tình trạng khó khăn về vốn và đứng trên bờ vực của phá sản. Để có thể phục hồi lại các công ty này, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành cắt giảm lãi suất, chuyển nợ thành cổ phiếu để giảm áp lực cho các công ty, trong đó việc cắt giảm lãi suất đã tạo thành nhiều tác đông tích cực.
Chính phủ Hàn Quốc tiến hành việc phân loại các công ty thành ba loại: không có khả năng tồn tại, có khả năng tạm thời và có khả năng tồn tại. Đối với các công ty không có khả năng tồn tại sẽ tiến hàng đưa ra khỏi ngành, tuyên bố phá sản. Đối với hai nhóm còn lại, Chính phủ Hàn Quốc sẽ hỗ trợ tài chính thông qua các chủ nợ hoặc thông qua các hợp đồng chuyển nợ thành cổ phần. Chính phủ cũng tiến hành mua cổ phiếu của các công ty cần thiết.
♦ Các biện pháp về cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh:
Chính phủ Hàn Quốc theo đuổi chiến lược tạo ra các tập đoàn doanh ngiệp có tính cạnh tranh quốc tế cao, họ cho rằng trong một thế giới toàn cầu hoá, các tập đoàn phải có quy mô đồ sộ và chuyên môn hoá. Thông qua các biện pháp tài chính như đe doạ cắt tín dụng ưu đãi, đưa ra quy định vốn vay ngân hàng thấp hơn 25% so với vốn cổ phẩn. Chính phủ Hàn Quốc đã buộc các tập đoàn của mình phải chọn ra 3-5 ngành gnề trụ cột chính mà họ có thể cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới, những cơ sở sản xuất không được coi là trụ cột hoặc sẳn xuất các sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường sẽ phải tiến hành hoán đổi hoặc sáp nhập với nhau.
♦ Các biện pháp về tăng cường các nguyên tắc điều tiết và kiểm soát:
Trong nhóm các biện pháp này, Chính phủ Hàn Quốc chú trọng đến việc tách quyền quản lý ra khỏi quyền sở hữu công ty. Thực tế tại Hàn Quốc trong giai đoạn này, một số thành viên trong những gia đình lớn nắm giữ phần lớn số cổ phiếu của các công ty, tập đoàn lớn. Do đó, các quyết định quản lý sẽ bị bóp méo, không tuân theo các nguyên tắc thị trường, dẫ đến việc sử dụng các nguồn lực không hiệu quả. Chính phủ Hàn Quốc đưa ra quy định đối với 30 tập đoàn hàng đầu là số cổ phần của cổ đông nắm quyền kiểm soát công ty trong các công ty mẹ phải giảm xuống còn 25% giá trị tài sản thực tế, đồng thời là những quy định nhằm tăng cường quyền của các cổ đông nắm quyền kiểm soát thiểu số cổ phiếu.
Chính phủ Hàn Quốc tiến hành áp dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn toàn cầu., làm tăng tính minh bạch của khu vực công ty thông qua những cải cách nhằm nâng cao chất lượng của hạot động kiểm toán. của các nguyên tắe kế toán và xây dựng các bảng cân đối thanh toán thống nhất dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn toàn cầu. Bên cạnh đó, Hàn Quốc tiến hành cải thiện các tiêu chuẩn phóng ngừa được áp dụng chủ yếu trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Nhằm tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp sau khủng hoảng, nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành sửa đổi nhiều quy định trong Luật doanh nghiệp, chủ yếu là những quy định về sáp nhập và mua lại công ty. Mặt khác, chính phủ Hàn Quốc cũng ban hành Luật phá sản nhằm tạo thuận lợi cho những doanh nghiệp không thể tiếp tục duy trì sản xuất.
♦ Các biện pháp về cải thiện trình độ công nghệ:
Chính phủ Hàn Quốc đã bỏ tiền tăng cuờng khả năng cạnh tranh cho 8 ngành công nghiệp then chốt của quốc gia. Đó là các ngành: xe hơi, bán dẫn, chế tạo máy, điện tử, dệt, hoá chất, đóng tàu và ngành thép. Tiền của Chính phủ được đầu tư pháp triển 80 loại công nghệ chiến lược liên quan đến các ngành nói trên, trong đó bốn ngành bao gồm công nghiệp xe hơi, điện tử, bán dẫn và chế tạo máy đang là những ngành xuất khẩu hàng đầu của Hàn Quốc.
3.2.2 Đài Loan
Đài Loan là một lãnh thổ rất thành công trong việc xây dựng các ngành công nghệ cao thông qua chiến lược thích nghi, tức là biến chiến lược công nghệ nước ngoài thành chiến lược bản địa. Sử dụng công nghệ của Mỹ và Nhật để học hỏi, Đài loan rât nhanh chóng hấp thu và nội địa hoá các công nghệ này thành công nghệ bản địa. Sự thành công này có được phải nhắc đên sự hỗ trợ tích cực Chính quyền thông qua các chính sách khuyến khích:
♦ Hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động R&D:
Thông qua việc thành lập Công viên khoa học Tân trúc trực thuộc Hội đồng khoa học quốc gia. Chính quyền không những đã khuyến khích các công tu khoa học công nghệ tham gia vào công viên, mà cả các trường đại học, các viện nghiên cứu, thông qua các biện pháp như giảm thuế doanh thu, cung cấp dịch vụ hành chính, thu hút vốn và nhân lực từ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp vốn ưu đãi cho hoạt động R&D. Để khuyến khích các công ty trong công viên đầu tư vào R&D, công viên đã thành lập quỹ tặng thưởng với mức cao nhất là 5 triệu đôla Đài loan trong 5 năm.
♦ Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động R&D:
Trước năm 1990, Chính quyền Đài Loan ban hành Luật khuyến khích đầu tư, trong đó khuyến khích tất cả các loại đầu tư cơ bản. Sau năm 1990, khi Luật Nâng cấp các ngành công nghiệp được ban hành, đã nhấn mạnh đến hiệu quả đầu tư, đặc biệt đối với R&D, đào tạo cán bộ. Ngoài việc định hướng vào phát triển các sản phẩm công nghệ thông tin, Chính quyền Đài Loan còn khuyến khích phát triển các sản phẩm mới có khả năng chiếm lĩnh thị trường toàn cầu nhằm đối mặt với cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt.
♦ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Để phát triển các ngành công nghệ cao, Chính quyền chủ trương tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nghệ, gia tăng các môn học có liên quan trong chương trình đào tạo.
♦ Chính sách tạo vốn đàu tư mạo hiểm
Đầu tư vào hoạt động R&D là một lĩnh vực có độ rủi ro cao. Chính vì vậy, đẻ có nguồn vốn đầu tư cần thiết cho lĩnh vực này, Chính quyền Đài Loan đã khuyến khích thành lập các công ty đầu tư mạo hiểm. Nguồn vốn được huy động từ các doanh nghiệp địa phương và các cá nhân. Đến năm 2001, Đài Loan đã có 199 công ty hoạt động với tổng số vốn đầu tư 134,1 tỷ đola Đài lOan, đứng thứ 2 trên thị trường toàn cầu trong lĩnh vực này.
3.2.3 Trung Quốc
Khi chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị trường, Chính phủ Trung Quốc quan tâm đến việc cải tổ khu việc cải tổ khu vực doanh nghiệp nhằm duy trì vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước và tạo điều kiện phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân. Quá trình cải cách này ở Trung Quốc được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn một (1979-1984): Chính phủ Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp tự quyết định và hưởng một phần thu nhập mới tạo ra, nhằm khuyến khích sức sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp và từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Các biện pháp chính được áp dụng trong giai đoạn này là tăng lương, thưởng, trích lợi nhuận, phân quyền cho địa phương trong việc quản lý và phân bổ các nguồn lực
Giai đoạn hai (1984-1990): giai đoạn này, Trung Quốc tập trung vào việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính, phân quyền quản lý cho các doanh nghiệp và cải cách thuế. Các biện pháp chính đuợc áp dụng là việc giảm bớt các kế hoạch mệnh lệnh, tăng thêm quyền hạn cho doanh nghiệp như quyền bán sản phẩm, quyền được định giá, quyền được lựa chọn các nguồn cung đầu vào, quyền sử dụng ngân quỹ, phân phối lương thưởng. Đặc biệt trong giai đoạn này tiến hành chuyển lợi nhuận thành thuế, theo đó một phần lợi nhuận thu được được phép phân chia trong phạm vi doanh nghiệp.
Giai đoạn ba (1990-hiện nay): Trung Quốc tiến hành cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước thông qua thương mại hoá, Luật công ty được ban hành vào năm 1993 là cơ sở pháp lý để thực hiện việc chuyển đổi này, các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, được quyền sở hữu và kinh doanh. Nhà nước chỉ sở hữu phần vốn mình đóng góp và có đại diện tương ứng trong hội đồng quản trị. Theo Luật công ty, các doanh nghiệp có quyền sáp nhập, liên hợp, bán và cho thuê, hợp tác cổ phần và phá sản.
Khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, đó là:
– Khuyến khích các hoạt động liên kết giữa các doanh nghiệp duới các hình thức khác nhau và các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất-kinh doanh trong đó có việc thành lập các hiệp hội, ngành nghề.
– Phát triển hoạt động đào tạo và bồi duỡng kiến thức, tay nghề cho lực lượng lao động, coi tri thức là công cụ để cạnh tranh.
– Tiến hành hiện đại hoá phương thức quản lý doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, các quy luật quốc tế và các cơ chế mà quốc tế công nhận.
– Coi cổ phần hoá là hình thức chủ yếu để cải cách vấn đề sở hữu doanh nghiệp, vì theo đó, sở hữu tài sản rỗ ràng, quyền lợi và trách nhiệm phân minh, quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp được tách riêng biệt.
– Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.2.4 Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Thông qua kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam như:
• Vai trò của chính phủ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước là rất quan trọng, tuy nhiên, chính phủ không nên có những sự can thiệp quá sâu. Chính phủ chỉ nên tác động thông qua hệ thống chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục hành chính, đang là rào cản hoạt động của các doanh nghiệp. Trong nhiều năm gần đây, Việt Nam tuy đã tiến hành cải cách nhưng vẫn chưa thực sự triệt để, nhiều quá trình cải cách chỉ là bình mới rượu cũ như quy chế một cửa trong xin giấy phép đầu tư của doanh nghiệp.
• Trong thời gian vừa qua, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp FDI của Việt Nam phát triển rất mạnh, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, kéo theo đó là những công nghệ được chuyển đến Việt Nam. Việt Nam phải cố gắng nội địa hoá được những công nghệ này để có thể có được những sản phẩm của riêng mình. Để làm được điều này, Chính phủ Việt Nam phải có đầu tư thích đáng cho hoạt động R&D và hoạt động phát triển nguồn nhân lực sử dụng công nghệ cao. Kinh nghiệm phát triển các ngành công nghệ cao của Đài Loan là một bài học quý giá cho Việt Nam.
• Chính phủ cần khuyến khích, giúp đỡ phát triển các hiệp hội, liên kết của các tổ chức hơn nữa. Hiện nay, các hiệp hội ngành nghề hoạt động còn nhiều khó khăn do sự thiếu thốn về kinh phí, kinh nghiệm, thiếu luật và cơ chế hoạt động cụ thể. Điều này khiến cho hoạt động của các hiệp hội tại Việt Nam hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Về lâu dài, Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các hiệp hội, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, công ty trong nước có thể dễ dàng liên kết với nhau nhằm gia tăng sức cạnh tranh trước sức ép ngày càng gia tăng từ các doanh nghiệp nước ngoài.
• Có thể thấy rằng Việt Nam hiện vẫn đang còn sử dụng nhiều tiêu chuẩn của riêng mình trong nhiều lính vực, điều này đã gây trở ngại đển hoạt động sản xuất của các công ty, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong nước. Có thể thấy rõ điều này qua quy định về chiều cao của container là vấn đề được tranh cải cách đây vài năm. Việc áp dụng tiêu chuẩn riêng như vậy vô hình chung sẽ gây thiệt hại cho chính chúng ta và gây khó khăn trong quá trình hội nhập với quốc tế. Chính vì vậy cần phải áp dụng rộng rãi các tiêu chuẩn của quốc tế trong sản xuất, kinh doanh để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
• Qua thành công của các quốc gia nêu trên, có thể thấy đuợc vai trò quan trọng của đội ngũ quản lý, bao gồm cả đội ngũ quản lý thực hiện chính sách của nhà nước và đội ngũ quản lý của các doanh nghiệp, tâp đoàn. Quá trình thực hiện các chính sách của Chính phủ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước sẽ không thể thực hiện suôn sẽ nếu không có một đội ngũ lãnh đạo tốt. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý này cũng là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, Chính phủ cần có chủ trương khuyến khích trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo quản lý. Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý.
3.3 Các giải pháp cho Công ty SONA
3.3.1 Thu hút và sử dụng vốn hiệu quả
Các doanh nghiệp tại Việt Nam phần lớn đều có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn có nhiều hạn chế. Thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh là một khó khăn cho các doanh nghiệp, gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh, là rào cản đối với việc mở rộng quy mô, thực hiện các thay đổi cần thiết, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, các công ty, doanh nghiệp cần phải có những giải pháp tốt trong quá trình thu hút vốn và sử dụng nguồn vốn thật hiệu quả để tận dụng tối đa các nguồn lực, giảm thiểu chi phí nhằm nâng cao khả năng trên thị trường.
Để có thể thu hút được nguồn vốn cho quá trình kinh doanh, là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty SONA có thể thực hiện các biện pháp như sau:
– Đề nghị nhà nước hỗ trợ cung cấp vốn để mở rộng quy mô kinh doanh của Công ty hoặc có thể trích từ nguồn vốn nộp ngân sách Nhà nước để gia tăng vốn kinh doanh.
– Huy động nguồn vốn từ đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty dưới các hình thức vay ngắn hạn hoặc dài hạn với lãi suất khuyến khích. Bên cạnh đó, có thể áp dụng mức thế chấp nhất định đối với nhân viên mới vào làm tại Công ty.
– Tiến hành cổ phẩn hoá công ty để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường. Trong đó, Nhà nước vẫn nắm giữ 51% cổ phần để nắm quyền khống chế Công ty.
Cùng với việc thực hiện các biện pháp thu hút thêm vốn kinh doanh, Công ty cần phải sử dụng các nguồn vốn thật hiệu quả, tránh gây lãng phí, thuất thoát. Để thực hiện điều này, Công ty cần phải thực hiện chế độ quản lý phù hợp, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý tài chính, kế toán tiên tiến, tiến hành kiểm tra thường xuyên đối với các báo cáo tài chính, kế toán của Công ty.
3.3.2 Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn
Chiến lược phát triển là điểm yếu của rất nhiều công ty Việt Nam, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ. Thường thì các công ty này chỉ đặt ra mục tiêu hoạt động ngắn hạn mà thiếu tầm nhìn xa, định hướng lâu dài. Do đó, công ty thường gặp khó khăn khi có nhiều biến động xảy ra. Để khắc phục nhược điểm này và đạt được những mục tiêu đề ra, Công ty SONA cần phải xây dựng được một chiến lược phát triển lâu dài cho mình. Cần phải có những dự đoán cần thiết về sự biến động của thị trường trong một khoảng thời gian dài, các phương pháp ứng phó với những biến động này và phòng ngừa những rủi ro có thể xảy đến. Có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ các công ty tư vấn có uy tín.
3.3.3 Phát triển nguồn nhân lực
Có thể nói rằng yếu tố con người chính là một yếu tố quyết định tới sự thành công, tới sự phát triển và hưng thịnh của bất cứ công ty nào. Đặc biệt trong nền kinh tế tri thức hiện nay, vai trò của con người ngày càng được đề cao hơn nữa trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Giá trị của một công ty không chỉ được đánh giá thông qua những tài sản mà công ty sở hữu mà còn thông qua năng lực của đội ngũ nhân viên. Chính vì vậy, đầu tư cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hợp lý, hiệu quả lao động là sự đảm bảo cho quá trình phát triển ổn định và mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty nên xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm và phải có định hướng lâu dài và phải hoàn thành tốt những công việc sau:
Cần phải sử dụng nhân viên đúng việc, đúng vị trí, phù hợp với trình độ chuyên môn. Công ty phải có chế độ khen thưởng rõ ràng để khích lệ nhân viên, bên cạnh đó cũng cần phải có những quy định chặt chẽ về trách nhiệm đối với công việc được giao. Thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, các chương trình giúp cho đội ngũ nhân viên có thể hiểu nhau hơn, tạo không khí thoải mái và thân thiện trong công việc.
– Công ty nên có các biện pháp khuyến khích khả năng sáng tạo của cán bộ nhân viên trong công việc. Có thể lập ra một quỹ khen thưởng để kịp thời động viên những cá nhân có ý kiến xuất sắc. Mặt khác, nên cho phép các nhân viên có thể mạnh dạn đưa ra ý kiến mới trong các cuộc họp công ty; có thể lập một hộp thư hay một đường dây nóng để đón nhận các ý kiến đóng góp này thường xuyên.
– Xác định được nhu cầu về nguồn nhân lực trong tương lai của Công ty, sao cho phù hợp với sự phát triển và quy mô kinh doanh. Từ đó thực hiện tốt khâu tuyển dụng để chọn ra những ứng viên thật sụ phù hợp và có tâm huyết. Đảm bảo cho Công ty không bị thiếu nhân viên, ảnh hưởng tới hoạt động của toàn Công ty.
– Xuất phát từ chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Công ty cần xác định những nhân viên cần thiết, phù hợp để đưa đi đào tạo thêm, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên, góp phần tăng năng suất lao động. Sử dụng phương pháp đào tạo hợp lý như đào tạo tại chỗ, cử đi học, đào tạo ngắn hạn hay dài hạn. Kết hợp các phương pháp này để đạt được hiệu quả cao nhất mà không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Công ty.
3.3.4 Xây dựng chương trình phát triển thị trường hợp lý
Thị trường là yếu tố then chốt, quyết định tới sự tồn tại phát triển của tất cả các công ty dù trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào. Trước hết, thị trường là đầu ra của sản phẩm, dịch vụ, là nơi tạo ra nguồn doanh thu, lợi nhuận cho công ty. Nếu không thể duy trì và ngày càng phát triển được thị trường kinh doanh, công ty sẽ không tiêu thụ được sản phẩm, không thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và đi đến phá sản. Mặt khác, thông qua sự phản hồi của thị trường, công ty sẽ nắm được các biến động, sự thay đổi của quan hệ cung cầu, giá cả, thái độ và mong muốn của khách hàng. Dựa trên những thông tin đó, công ty sẽ có những phản ích tích cực, đề ra những giải pháp kịp thời trước những biến động, tiến hành các thay đổi và xây dựng các chiến lược kinh doanh thích hợp với yêu cầu của thị trường. Chính vì vậy, công ty cần phải giữ vững và củng cố những thị trường sẵn có, duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác lâu dài với các đối tác trước đây. Bên cạnh đó, cần phải thực hiện nhiều biện pháp phát triển, mở rộng thị trường như sau:
• Thành lập một phòng, hoặc có thể chỉ cần sử dụng một nhân viên thật giỏi, chuyên môn cao chuyên nguyên cứu về thị trường. Nhân viên này sẽ có nhiệm vụ tìm kiếm các quốc gia, đối tác tiềm năng thông qua hệ thống kênh thông tin hỗ trợ của nhà nước, qua hệ thống website của nước ngoài; tìm kiếm các tư liệu về đối tác và các quy định của nước sở tại. Hoặc Công ty có thể thuê các công ty chuyên về nghiên cứu và phát triển thị trường làm việc cho mình. Việc lựa chọn phương thức nào cần dựa trên chi phí và sự tiện lợi cho Công ty và tuỳ từng giai đoạn phù hợp.
• Cử cán bộ đi công tác nước ngoài, trực tiếp liên hệ với các trung tâm xúc tiến thương mại của nước ngoài, các công ty môi giới để mở rộng thị trường lao động, mở rộng tìm kiếm các đối tác XNK hàng hoá; mở rộng hợp tác với các trường, tổ chức nước ngoài tiếp nhận học sinh Việt Nam.
• Thuê tư vấn, tham khảo ý kiến chuyên gia trong việc xây dựng chiến lược phát triển thị trường ngắn và dài hạn, các phương thức, kinh nghiệm trong quá trình phát triển thị trường.
3.3.5 Đẩy mạnh hoạt động Marketing
Có thể nói rằng hoạt động Marketing, quảng bá hình ảnh là một yếu tố không nhỏ đóng góp trong sự thành công của một công ty. Có thể làm tốt được điều này thì mới có thể khiến cho thông tin về một công ty được lan truyền rộng rãi trong công chúng. tạo ra một mối liên hệ giữa công ty và hệ thống khách hàng. Thông qua marketing, những thông tin về dịch vụ, lợi ích mà công ty có thể đem lại cho khách hàng sẽ được phổ biến, làm cho khách hàng có thể nhận thức rõ công ty này có thể đem lại được những gì cho mình. Qua đó cũng tác động thay đổi thái độ của khách hàng đối với công ty và xây dựng được một thương hiệu đặc thù của công ty, khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh như thế nào. Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua các phương thức phổ biến như sau :
• Thông qua trang web của công ty: hiện nay, Công ty SONA đã có trang web tại địa chỉ www.sona.com.vn . Trang web này đã được xây dựng bằng hai thứ tiếng là tiếng việt và tiếng anh để tiện cho khách hàng trong nước và các công ty đối tác nước ngoài có thể tiện tham khoả. Trên trang web của Công ty đã có đầy đủ thông tin về quá trình thành lập và các lĩnh vực hoạt động của Công ty. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa trang web của mình. Trên trang web cần cập nhật thường xuyên các đợt tuyển dụng lao động nước ngoài của Công ty cùng với mức chi phí và các thủ tục kèm theo để thuận tiện cho khách hàng tra cứu.
• Qua hệ thống quảng cáo của truyền hình, quảng cáo mạng: Công ty có thể tiến hành quảng cáo thông qua các kênh truyền hình quốc gia hoặc địa phương. Đây là cách quảng cáo có tác dụng đến nhiều tầng lớp nhân dân, và truyền đạt thông tin trực tiếp nhất đến đối tượng khách hàng tiềm năng của Công ty là người lao động tại các khu vực nông thôn. Mặt khác, công ty cũng có thể thuê quảng cáo tại một số trang web có uy tín, có đông dảo người truy cập, hoặc một số trang web của nước ngoài để tìm kiếm đối tác.
• Đẩy mạnh sự giao thiệp với cộng đồng : tham gia hoặc tài trợ vào các chương trình dành cho cộng đồng là một trong những giải pháp mà nhiều công ty áp dụng. Một mặt, những hoạt động này sẽ giúp truyền bá hình ảnh của công ty tới công chúng, khẳng định thương hiệu của công ty tới các khách hàng và đối tác. Mặt khác, sẽ giúp cho nhiều cá nhân có năng lực biết đến công ty, tạo thuận lợi cho việc tuyển dụng, bổ sung nhân viên.
3.3.6 Tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ
Hiện nay, trong một lĩnh vực, có rất nhiều công ty trong và ngoài nước cùng hoạt động, cạnh tranh lẫn nhau. Những công ty này đưa ra các sản phẩm, dịch vụ có nhiều điểm tương đồng với nhau, vì vậy chúng có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Nếu một công ty có khả năng tạo ra được sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ của mình so với công ty khác sẽ dễ dàng gây được sự chú ý với khách hàng và sẽ nắm được nhiều khả năng tiêu thụ sản phẩm hơn đối thủ. Do đó, luôn tạo ra sự khác biệt đối với công ty khác chính là một phương thức giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của một công ty.
Bên cạnh đó, Công ty SONA cần phải không ngừng tìm tòi, khám phá các sản phẩm mới, các sản phẩm đặc biệt đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. Khi có thể cung cấp một sản phẩm mới có nhiều tiềm năng, công ty sẽ dễ dàng chiếm lĩnh được thị trường và thu được lợi nhuận cao do độc quyền trong thời gian đầu. Dưới đây là một đoạn trích của bài báo về một sản phẩm khá độc đáo. Một doanh nhân đã mang chim ưng gỗ sang các nước Trung Đông và thu được lợi nhuận cao. Doanh nhân này đã thành công do nhận thấy đây là một thị trường thiếu gỗ, chính vì vậy đồ sản xuất từ gỗ là những sản phẩm được ưa chuộng. Ngoài ra, chim ưng là con vật được các gia đình khá giả, giàu có ở khu vực này yêu thích nên sản phẩm này đã đáp ứng được tâm lý khách hàng.
Chim gỗ Việt Nam bay sang Trung Đông
Một doanh nhân của Tp.HCM sang dự Hội chợ quốc tế Dubai (UAE), mang... thử hai container chim gỗ, nào ngờ ngay hôm khai mạc đã bán hết veo lại còn bị mắng: "Sao mà mang sang ít thế?".
Ông gọi điện về nhà chuẩn bị, và lên ngay máy bay về thành phố, chở thêm ba container bằng máy bay cargo sang, vì hội chợ chỉ diễn ra trong bảy ngày. Kết quả là trừ mọi chi phí ăn ở, đi lại... còn gần 200.000 USD lãi ròng!
3.3.7 Một số kiến nghị với chính phủ
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế nói riêng và của các doanh nghiệp, công ty nói riêng, Chính phủ cần phải có những chính sách, biện pháp hỗ trợ thích hợp để giúp đỡ các doanh nghiệp, đó là các công việc như:
♦ Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách
Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách hơn nữa, theo hướng phù hợp với các quy định mà Việt Nam đã ký và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp. Có thể hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách thì Việt Nam mới có thể tạo ra được một môi trường kinh doanh hấp dẫn, thông thoáng, minh bạch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Hành chính phức tạp, rườm rà với những bất cập chính là sự cản trở việc xâm nhập của các công ty quốc tế, là sự quản trở quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và công ty tại Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải làm tốt hơn nữa công việc cải cách, tinh giản bộ máy hành chính của mình để tạo ra sự bôi trơn, thúc đẩy quá trình phát triển của nền kinh tế trong nước và ngăn chặn tiêu cực.
Các chinh sách của Việt Nam cần ưu tiên hơn nữa tới sự phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, tạo lập một môi trưòng thân thiện cho hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng.
♦ Tăng cường ổn định thị trường trong nước
Đối với các công ty thương mại, kinh doanh xuất khẩu hàng hoá, thị trường trong nước chính là nơi cung cấp nguồn hàng cho hoạt động của công ty. Do đó, sự ổn định của thị trường trong nước chính là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các công ty xuất khẩu có thể tiến hành suôn sẽ. Điều này đòi hỏi cần phái có các tác động của Chính phủ nhằm kìm hãm các biến động phát sinh và giúp đỡ các công ty xuất khẩu vượt qua khó khăn khi thị trưòng có những thay đổi bất lợi.
♦ Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan quản lý của Chính phủ có tác động rất lớn tới hoạt động của cả nền kinh tế. Đây cũng chính là đội ngũ đề ra những chính sách, chiến lược phát triển cho nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, Chính phủ cần phải có những chương trình đào tạo, bồi dưõng thích hợp để không ngừng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, nhằm đáp ứng được những yêu cầu do quá trình phát triển kinh tế đặt ra.
Bên cạnh đó, đạo đực, phẩm chất của các nhân viên nhà nước cũng là một vấn đề rất đang quan tâm. Tình trạng nhũng nhiếm, quan liêu, tham ô trong đội ngũ cán bộ quản lý sẽ tạo thành sức ỳ, là rào cản cho sự tiến bộ chung của nền kinh tế. Nếu để tồn tại nhiều cán bộ nhà nước bị suy thoái sẽ gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, sự tha hoá đạo đức còn dẫn đến những tổn thất, chi phí rất lớn cho các doanh nghiệp. Các chi phí phát sinh do tiêu cực này sẽ tạo nên sức nặng cho các doanh nghiệp, khiến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp suy giảm. Vì vậy, Chỉnh phủ cần tích cực tuyên truyền và giáo dục, nâng cao ý thức, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước.
♦ Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình, các công ty cần phải có một đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, trình độ chuyên môn cao. Điều này đòi hỏi không chỉ quá trình đào tạo bồi dưõng nhân viên của các công ty mà cần phải có sự hỗ trợ của Chính phủ trong các chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Trước hết, chính phủ cần đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động đào tạo, đó là xây dựng thêm các trung tâm dạy nghề, hỗ trợ các trưòng đại học, các cơ sở đào tạo xây dụng thêm phòng học, mở rộng quy mô đào tạo thông qua trực tiếp đàu tư hoặc chính sách cho vay ưu đãi.
Hiện nay, các chưong trình đào tạo, giáo dục đang còn nhiều hạn chế, nhược điểm. Một vấn đề mà các doanh nghiệp, công ty gặp phải đó là sinh viên khi ra trưởng có kiến thức khá nhiều nhưng không phù hợp với công việc, với những yêu cầu đặt ra của các công ty. Do đó, các chương trình đào tạo cần có sự thay đổi phù hợp theo hướng khuyến khích sinh viên, học sinh thực hành và sáng tạo. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục cần đào tạo thêm các kỹ năng phát triển cá nhân, các kỹ năng mềm cho học sinh, sinh viên. Các kỹ năng này sẽ có tác động hỗ trợ cho cá nhân không chỉ trong công việc mà trong cả quá trinh phát triển.
♦ Xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu
Chi phí logistics (gồm vận chuyển, bốc xếp hàng hóa, các dịch vụ hỗ trợ…) của Việt Nam chiếm đến 25% GDP (tổng thu nhập trong nước). Như vậy mỗi năm Việt Nam phải chi hơn 17,5 tỷ USD cho hoạt động của logistics. Đó là con số được đưa ra tại hội thảo quốc tế về “Quản lý rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng” diễn ra tại TP Hồ Chí Minh ngày 18-9 vừa qua.
Theo tiến sĩ Nguyễn Tuấn Hoa - Phó giám đốc Công ty Tư vấn Phát triển Duyên Hải, nếu so với một số nước khác thì chi phí logistics của Việt Nam là khá cao. Ở Trung Quốc chi phí này chỉ chiếm 21%, Hàn Quốc 16%, Nhật Bản 11% , Mỹ chỉ có 9,5%... Hiện nay Việt Nam không có cảng nước sâu nên không thể vận chuyển hàng hóa một cách trực tiếp mà phải thông qua khâu trung chuyển. Trong khi đó, chi phí cho mỗi container trung chuyển là 400USD, đưa chi phí trung chuyển lên đến 1,72 tỷ USD/năm.
Chi phí logistics ( bao gồm vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, các dịch vụ hỗ trợ … ) của Việt Nam hiện nay khá cao, chiếm đến 25% GDP của cả nước. Đây chính là một gánh nặng cho các công ty xuất khẩu, làm gia tăng chi phí trong quá trình hoạt động. Kết quả tất yếu sẽ dẫn đến việc phải gia tăng giá của sản phẩm xuất khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá. Nguyên nhân là do cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam hiện nay rất kém. Hệ thống giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hoá dễ dẫn đến ách tắc, hệ thống kho tàng, bến bãi thiếu thốn, quy mô nhỏ gây hạn chế cho hoạt động lưu giữ hàng hoá. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có cảng biển đạt hệ thống quốc tế, không thể cho các tàu biển có tải trọng lớn cập bến. Hàng xuất khẩu của Việt Nam phải tiến hành trung chuyển tới càng lớn và làm đội chi phí.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần phải có một chiến lược cụ thể nhằm phát triển hệ thống hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu. Chính phủ trực tiếp hoặc kêu gọi sự đầu tư vào xây dựng, nâng cấp các cảng biển theo tiêu chuẩn quốc tế. Tiến hành cải thiện hệ thống kho chứa, các công cụ hỗ trợ vận chuyển, tháo dỡ hàng hoá. Đầu tư phát triển hệ thống giao thông tại các khu vực xung quanh các cảng biển nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động vận chuyển hàng hoá.
Kết luận
Việt Nam đang ngày càng hội nhập hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Quá trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu trong nước khi có thể tiếp cận với những thị trường lớn hơn, có thể hợp tác với những đối tác mới. Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh đối với các công ty cũng tăng lên khi đối thủ của chúng ta là rất nhiều công ty nước ngoài với quy mô lớn. Để có thể tồn tại và phát triển, các công ty của Việt Nam cần phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Là một công ty thương mại hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá, SONA cũng phải đối mặt với yêu cầu hoàn thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để làm được điều này, SONA cần có các chiến lược phát triển thích hợp trong giai đoạn tới. Công ty cần hoàn thiện hệ thống quản lý để có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong quá trình kinh doanh; chú ý phát triển, nâng cao năng lực, kỹ năng đội ngũ cán bộ nhân viên công ty và có chiến lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp với những yêu cầu đặt ra của quá trình phát triển, mở rộng hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, SONA cần phải không ngừng tìm kiếm, phát triển các thị trường mới; tìm kiếm những sản phẩm mới có tiềm năng cao. Công ty cần chú trọng tới những hoạt động marketing, quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu để có thể tìm kiếm các đối tác mới, nâng cao uy tín của công ty đối với các khách hàng.
Cuối chuyên đề, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Thường Lạng và các cô chú, anh chị trong Công ty SONA đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề.
Danh mục tài liệu tham khảo
− Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch và công tác năm 2005, 2006, 2007, 2008 Công ty SONA
− Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (đồng chủ biên ), Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động xã hội-2005
− Vũ Trọng Lâm, Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, NXB Chính trị quốc gia 2006
− Số liệu phòng kế toán Công ty SONA
− Tư liệu văn phòng Công ty SONA
− Nguyễn Hữu Thắng, Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, NXB Chính trị quốc gia 2008
− www.generalexim.com.vn
− www.intimexhcm.com
− www.sona.com.vn
− www.saga.vn ( trang web giải pháp kinh tế )
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22209.doc