Chuyên đề Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta

Ngày nay, chúng ta đã và đang nói nhiều đến toàn cầu hoá-một xu thế khách quan gắn liền với sự phát triển của các quá trình đan xen, hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi quốc tế. Nhưng trong xu thế đó, rất nhiều người còn băn khoăn liệu có thực sự là toàn cầu hoá hay “Mĩ toàn cầu” bởi sự thiết lập các giá trị nước Mĩ trên toàn thế giới. Một biểu hiện rõ nét nhất mà chúng ta có thể nhận thấy được là tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển. Qua những phân tích về nguyên nhân của dollar hoá cũng như việc đưa ra một số những giải pháp, bản thân em cũng nhận thức rõ hơn về thưc trạng dollar hoá ở Việt Nam. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, sinh viên ngành NH nói riêng chính là niềm hy vọng lớn lao trong quá trình chống dollar hoá. Như chúng ta đã biết, tiền tệ là vấn đề hết sức nhạy cảm, hơn thế nó lại liên quan chặt chẽ đến ngành NH, một sự điều chỉnh tăng lãi suất của cục dự trữ liên bang Mĩ (Fed) có thể gây ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất ngoại tệ trong nước và từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện trạng ứ thừa vốn ngoại tệ trong năm 1999, 2000, dân chúng liên tục chuyển đổi VND sang USD, NH gửi ngoại tệ ở nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn. NHTƯ đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách tiền tệ của mình bởi dollar hoá, nền kinh tế cũng đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn, “cầu đầu tư và tiêu dùng giảm sút”. Như vậy, dù liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề tiền tệ, tất cả mọi ngành mọi cấp và mọi người dân cần thiết nâng cao trình độ về vấn đề dollar hoá và cách thức hạn chế dollar hoá một cách hữu hiệu nhất. Lịch sử dân tộc đã để lại cho chúng ta ngững bài học quý báu về mở rộng giao lưu quan hệ với các nước, song vẫn giữ gìn được độc lập dân tộc, bảo vệ nét văn hoá truyền thống.Thực chất quá trình dollar hoá ở Việt Nam là quá trình đấu tranh gay gắt để VND giữ được sự tin tưởng vững chắc trong lòng người dân Việt Nam so với USD; phấn đấu đưa VND trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế. Mở cửa với bên ngoài, làm bạn với các nước trên thế giới dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng vào khả năng bảo vệ giá trị của VND, bảo vệ một nét văn hoá lâu đời của dân tộc.

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Ngày 9/01/2001, Tổng thống Ecuador chấp nhận đồng dollar Mĩ (USD) là một công cụ tiền tệ chính thức, hợp pháp. Ngày nay, trong một thời đại phát triển như vũ bão với sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đều có nhu cầu về một đồng tiền mạnh (USD là một trong số đó). Và vì vậy những sự kiện về việc phá giá đồng tiền nước nào đó so với đồng USD hay chấp nhận USD được lưu hành một cách rộng rãi trên đất nước đó không còn là quá xa lạ với chúng ta. Người ta gọi hiện tượng đó bằng thuật ngữ “Dollar hoá”, song để hiểu được bản chất cũng như mặt tích cực hay tiêu cưc của nó hoàn toàn không phải vấn đề đơn giản. Với vị thế của một nước đang phát triển, Việt Nam đang vấp phải bao vấn đề nan giải, khó khăn trong đó có vấn đề về đồng vốn đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước để góp phần thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đã làm cho luồng vốn ngoại tệ chảy mạnh vào trong nước. Thêm vào đó, tâm lý ưa chuộng đồng USD của người dân Việt Nam khiến đồng USD ngày càng bành trướng và việc sử dụng USD trong các giao dịch hàng ngày ngày càng phổ biến. Nếu cứ sử dụng USD ngày một nhiều hơn trên thế giới, đồng tiền này sẽ trở thành quốc tế hoá mạnh hơn trong điều kiện toàn cầu hoá. Chúng ta đang xúc tiến quá trình hội nhập với thế giới nhưng vẫn phải giữ được vị thế của một nưóc độc lập, có chủ quyền riêng. Thừa nhận rằng nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng dollar hoá, mà cụ thể hơn là dollar hoá tiền gửi, bởi một vài năm gần đây các Ngân hàng ứ thừa vốn ngoại tệ không cho vay được trong khi nền kinh tế đang cần vốn đầu tư phát triển là một thực trạng đáng buồn. Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng: Các nước đang phát triển nên dollar hoá nền kinh tế hoàn toàn hay một phần tức là sử dụng song song cả USD và nội tệ. Dollar hoá sẽ cho chúng ta thấy những lợi thế: Tránh khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán. Song dollar hoá như một lẽ tự nhiên sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Đứng trước một vấn đề gay gắt và nóng bỏng, lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố tâm lý, ngành Ngân hàng cũng như các ngành khác cần nỗ lực phấn đấu trong quá trình chống dollar hoá. Là một sinh viên ngành Ngân hàng, em xin đóng góp một số ý kiến của bản thân về nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta. nội dung phần i: vài nét về dollar hoá và thực trạng dollar hoá ở việt nam. i. Khái quát về dollar hoá: 1.Thế nào là dollar hoá ? Thông thường, mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ gỉam xuống thì người dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như làm thước đo giá trị. Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ đươc sử dụng một cách rông rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số các chức năng của tiền tệ thì có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá” hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do đó là một ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đổi lớn nên thuật ngữ dollar hoá được xem là đồng nghĩa với ngoại tệ hoá. Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một nước có thể xác định qua các hình thức: _ Đồng dollar được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, trong công chúng qua các hành vi mua bán hàng hoá, chi trả dịch vụ, thanh toán nợ và tạo lập tài sản danh nghĩa bằng đồng dollar. _Hệ thống ngân hàng cho sử dụng rộng rãi các hình thức kí thác các loại tiền gửi, tiền tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu ngân hang bằng đồng dollar và cho vay bằng đồng dollar. 2. Phân loại dollar hoá: Theo IMF, tỷ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng (M2). Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi là gặp phải tình trạng dollar hoá cao. Theo đánh giá của IMF năm 1998, trường hợp này có mười tám nước. Ba mươi tư nước khác được IMF xếp là nước có mức độ “dollar hoá vừ phải” với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4%, Việt Nam được IMF xếp vào loại này. Về cơ bản, dollar hoá gồm ba loại chính là: Dollar hoá không chính thức (unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức (semioficial dollarization) và dollar hoá chính thức (official dollarization). _Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ “dollar hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp. ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trừ phi được cấp phép. Dollar hoá không chính thức có thể gồm các loại sau: _Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài; _Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài; _Tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước; _Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. Dollar hoá không chính thức được chia thành 3 giai đoạn: Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của dollar hoá không chính thức là giai đoạn “thay thế tài sản” (asset substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản sung công mà một số nước đã làm. Giai đoạn thứ hai của dollar hoá không chính thức được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ” (currency substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng ngày như hàng tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nôị tệ, nhưng với những tài sản giá trị hơn như ôtô và nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn cuối cùng của dollar hoá không chính thức, giá cả của hàng hoá được tính bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái. Dollar hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển. Ví dụ: ở thời điểm tháng1-2000, hầu hết các nước Mĩ_Latinh và Caribe như argentina, Bolivia, Mecico, Peru, Trung Mĩ; hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ như Armenia, Azerbajian, Georgia, Russia và Ukraine; nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey và Việt Nam đều ở tình trạng dollar hoá không chính thức. _Dollar hoá bán chính thức: Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “Dollar hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ví dụ: Bahamas, Cambodia, Laos, Thailand, Liberia. ở các nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Không giống các nước có dollar hoá chính thức, các nước dollar hoá bán chính thức duy trì Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn tương ứng để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. _Dollar hoá chính thức: Hay còn được gọi là dollar hoá hoàn toàn (full dollarization) xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là các đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường chỉ áp dụng dollar hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Dollar hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước dollar hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp, nhưng chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Pezota của Tây Ban Nha. ở hầu hết các nước dollar hoá chính thức, cá đối tác tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý. Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là cá nước dollar hoá chính thức. Theo nghiên cứu của hệ thống dự trữ Liên bang Mĩ, hiện tại, người nước ngoài nắm giữ khoảng 55% đến70% số dollar Mĩ lưu hành. Còn theo ước tính của Bundesbank, người nước ngoài giữ khoảng 40% tổng số DM được lưu hành. ii. Thực trạng dollar hoá ở việt nam Việc “xuất hiện” tình trạng dollar hoá ở Việt Nam ai cũng có thể nhận biết rằng, chỉ sau những năm đầu của công cuộc đổi mới kinh tế, Nhà nước và mọi tầng lớp dân chúng mới có dịp tiếp cận khá nhiều và thường xuyên sử dụng USD cho nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác nhau của người dân. Cũng từ thời điểm đó, người ta mới có dịp làm quen với tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối, kinh tế ngoại tệ. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước đã thực sự làm cho mọi cách cửa để phát triển kinh tế, giao lưu kinh tế với nước ngoài; được mở ra chiều hướng, đa dạng, phong phú về hình thức và chủng loại. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối, ngoại tệ, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Chính sách mở cửa của Nhà nước không chỉ khuyến khích các nhà đầu tư từ nước ngoài mà còn động viên, cổ vũ, khích lệ các nhà đầu tư trong nước. Đây chính là ngòi nổ, đột phá khẩu cho việc đẩy mạnh, phát triển và tăng cường mọi giao lưu kinh tế với bên ngoài. Việc phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện của một nền kinh tế lạc hậu, đặc biệt trong điều kiện mà đồng tiền quốc gia không chuyển đổi được không chỉ là một thử thách cực kì lớn mà còn là một bài toán cần có lời giải. Do vậy, Luật Đầu tư Nhà nước ra đời, luật quản lý ngoại hối được thông qua đã mở cửa cho các luồng vốn từ nước ngoài và đồng USD nhanh chóng khẳng định vai trò của nó như sẵn có trên thị trường toàn cầu. Tình trạng dollar hoá ở Việt Nam có những biểu hiện chính sau: Thứ 1 Hệ thống Ngân hàng sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ bằng đồng dollar. Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trên thế giới cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư. Mặt khác, lãi suất tiết kiệm USD tăng dần khiến dân cư lựa chọn giải pháp an toàn là tiết kiệm bằng ngoại tệ. Điều này làm cho tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng lên. Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống Ngân hàng Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3 VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 . Đơn vị: % (Số liệu tính đến hết tháng 9 năm 2001) Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước 1999 và thời báo Ngân hàng số 78/2000. Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh toán cho các hoạt động buôn bán, các bên xuất_nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ đồng tiền của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông thường là các đồng tiền mạnh. Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của Ngân hàng nhờ đó mà tăng hơn. Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng. Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 ngoại tệ 38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6 VND 61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Đơn vị: % (Số liệu tính đến hết tháng 10 năm 2000) Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000. Tin tức (TTXVN) số 534/2000. Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế dollar hoá, các ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đến 20% tổng số dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Như vậy, những biểu hiện của hiện tượng dollar hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái dollar hoá tiền gửi. Thứ 2 Các Ngân hàng thương mại (NHTM) có một khối lượng USD lớn ở các ngân hàng (NH) nước ngoài được xem như là “Xuất khẩu tư bản”. Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay bằng ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ được NH sử dụng để dầu tư kiếm lời cho mình thông qua các hoạt động trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống NH. Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ trọng 135 148 141 104 73 47 33 Đơn vị: % (Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000; Tin tức (TTXVN) số 534/2000, Báo cáo thường niên của NHNN năm 1999). Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ, trong giai đoạn 1994_1997, cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động của các NH, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998_2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các NH kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thương mại của cả nước là nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu cấp bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nước ngoài thì chúng ta lại gửi một khối lượng USD không nhỏ ở nước ngoài. Sự “đảo hối” này do chính sách tiền tệ và những chính sách kinh tế vĩ mô khác tạo ra là chưa hợp lý. Thứ 3 Xu hướng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa. Đặc biệt dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lưu thông tiền trong nước tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ lớn nhiều hơn so với chỉ số giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là 145,4% và năm 1991 là 203,1%. Và hiện nay cũng vậy, đáng quan tâm là hai năm 1999 và 2000 trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%) thì sức mua đối nội của VND tăng lên, nhưng sức mua đối ngoại của VND lại giảm 4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000 giảm 3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến nay tăng nhanh nhất là từ tháng 6 đến nay nhưng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa trở nên hấp dẫn hơn. Thứ 4 Đồng USD được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam một cách tương đối phổ biến. USD được sử dụng để biểu hiện giá trị và đo lường giá trị của các hàng hoá và dịch vụ. Giá cả hàng hoá được công khai ấn định bằng USD và được đăng tải trên các thông tin và giá cả thị trường. Thứ 5 Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành như một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với những tên gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1vé). Hiện tượng này có thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ. Song song tồn tại việc thanh toán bằng VND thì ở các nhà hàng, khách sạn, các siêu thị, khách hàng kể cả người dân trong nước và người nước ngoài đều có thể dể dàng thanh toán bằng USD. Hiện tượng sử dụng USD đã bắt đầu xâm nhập vào mọi hoạt động của người dân Việt Nam, từ việc mua linh kiện của máy vi tính cho đến phương tiện đi lại như xe máy người ta cũng có thể dễ dàng giao dịch bằng USD. Ngoài ra, USD còn là phương tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp với các hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu. phần ii: nguyên nhân của tình trạng dollar hoá và những ảnh hưởng của dollar hoá đến nền kinh tế việt nam. I. nguyên nhân của tình trạng dollar hoá. Hiện tượng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua, các nhà NH cũng như các nhà kinh tế học đã đề xuất những ý kiến khác nhau về những nguyên nhân nào gây ra hiện tượng dollar hoá. Họ đều phát hiện ra rằng hiện tượng dollar hoá thường xảy ra ở các nước mà nền kinh tế có lạm phát cao và hậu quả của lạm phát. Tuy nhiên lạm phát không phải là nguyên nhân duy nhất để giải thích được hiện tượng dollar hoá trong thời kì hiện nay khi lạm phát đã được kìm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp. 1. Nguyên nhân sâu xa: Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới thì đó là: _Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế đó. Dollar hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp, các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ, nhất là buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiêu ngạch. _Trình độ dân trí, cùng tâm lý người dân. Các nước có trình độ dân trí chưa cao, người dân còn có thói quen nắm giữ vàng và dollar thì thường là nền kinh tế có mức dollar hoá cao. _Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh toán. Rõ ràng là khi hệ thống NH còn non trẻ, hoạt động thanh chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng dollar hoá ở nền kinh tế. _Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Néu như đồng nội tệ ổn định, cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng dollar hoá nền kinh tế rất khó xảy ra. Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ_đồng tiền của quốc gia đó. 2. Nguyên nhân trực tiếp: Ngoài những nguyên nhân trên, tình trạng dollar hoá còn do những yếu tố sau: _Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống NH trong những năm qua, đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của các tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990; sự tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế Mĩ đã làm cho đồng dollar Mĩ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm giá trị của đồng Việt Nam, và ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế trong nước. Trong khi đó, thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, với tâm lý muốn tiết kiệm để lo cho cuộc sống tương lai thì người dân lựa chọn những đồng tiền mạnh và ổn định. Đồng dollar được sử dụng khá tự do. Trong cơ chế quản lý ngoại hối hiện nay của nhà nước ta, cho phép người Việt Nam nhận tiền kiều hối, tiền của người thân ở nước ngoài chuyển về bằng ngoại tệ mà không bắt buộc phải bán cho NH, nhận VND như trước đây. Trong bối cảnh VND liên tục giảm giá so với USD, lãi suất USD hấp dẫn nên rõ ràng họ không dại gì mà chuyển đổi sang nội tệ_VND. Đối với các doanh nghiệp trước đây quy định phải kết hối 80% nhưng tỷ lệ kết hối quy định giảm xuống còn 40% tức là một doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, trước đây quy định phải bán ngay tới 80% cho NH, thì nay chỉ phải bán 40%. Trước diễn biến về tỷ giá và thị trường việc bán ngoại tệ thì dễ mà mua lại ngoại tệ của NH thì hết sức khó khăn. Trong khi đó, tỷ giá thì tháng này một mức tháng sau lại khác. Do đó, các doanh nghiệp sẽ hết sức tỉnh táo khi chỉ bán ngoại tệ theo tỷ lệ kết nối quy định, thậm chí còn chần chừ, trì hoãn việc bán ngay mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu. _Thu nhập bằng USD trong tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là do người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài đi xuất khẩu lao động hay đi học tập, tiền kiều hối gửi về, tiền của người Việt Nam đi hội thảo, học tập và làm việc ngắn hạn ở nước ngoài mang về. Người Việt Nam đi du lịch ra nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo giá cả tour du lịch bằng USD. Do đó, muốn đi du lịch phải có ngoại tệ, phải tích trữ USD. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài phải đặt cọc một khoản bằng USD trong tài khoản NH. Mà số lượng người này cũng tăng lên rất nhanh rong thời gian qua. Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du học nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu là đi du học tự túc đang tăng lên gấp bội. Muốn được chấp nhận vào học ở nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được năng lực tài chính của mình, thể hiện bằng số dư tiền gửi USD trong các NH Việt Nam. Tiếp đến trong quá trình học, gia đình ở trong nước phải thường xuyên chuyển tiền cho con em mình theo học bằng USD thông qua các NH. Do đó phải có số dư tiền gửi USD tại các NH để chuyển tiền ra nước ngoài cho con em du học. _Cơ chế về lãi suất đã làm cho khuynh hướng dollar hoá không giảm. Thể hiện ở chỗ, từ năm 1991 đến nay, trong công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam, lãi suất tín dụng NH (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) đã được điều chỉnh hạ thấp nhiều lần. Lãi suất tín dụng bằng VND vẫn luôn cao hơn lãi suất tín dụng bằng USD. Biên độ chênh lệch giữa lãi suất tín dụng bằng USD và VND tạo ra khe hở cho việc lợi dụng ăn chênh lệch lãi suất, nhất là đối với các doanh nghiệp vay vốn và kích thích vay vốn tín dụng bằng USD làm cho khuynh hướng dollar hoá không được giảm đi. Với quy định số 08 NH/QĐ ngày 14/01/1991 và thông tư số 02/2000/NHNN7 ngày 24/02/2000, quyết định số 180/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ của các tổ chức có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50% các NHTM được nâng lãi suất tiền tiết kiệm USD để thu hút ngoại tệ. Khi vốn ngoại tệ bị ứ đọng, các NHTM đã gửi vốn ra nước ngoài hưởng lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngoại tệ ở trong nước. Tất cả những điều chỉnh ấy đã kích thích người dân, các doanh nghiệp tìm kiếm nắm giữ ngoại tệ, chuyển dịch tài sản của họ từ VND sang USD bằng cách gửi tiết kiệm ngoại tệ vào NH để hưởng lãi kép (lãi tiết kiệm và lãi tỷ giá). _Mệnh giá của tờ VND thấp (cao nhất chỉ 100.000Đ, chưa bằng 7USD), thực chất chỉ đáp ứng những nhu cầu lưu thông chi trả bình thường còn giá cả những mặt hàng thông dụng phải sử dụng tới các mệnh giá cao nhất. Đó cũng là một lý do dẫn tới việc sử dụng USD trở nên rất thích hợp, thuận tiện về nhiều phương diện. Mệnh giá đồng tiền chỉ là vấn đề kỹ thuật của chế độ tiền tệ nhưng nếu không thích ứng cũng là một yếu tố để USD chiếm vị trí của đồng bản tệ và thúc đẩy quá trình dollar hoá. _Thời kì từ năm 1992 đến nay khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, Chính phủ đã quyết định chấm dứt sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN. Nhưng trong thực tế, việc còn sử dụng một bộ phận vốn tiền phát hành và sử dụng một bộ phận USD của quỹ điều hoà ngoaị tệ của NHNN để làm nguồn vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước hoặc vốn cho vay trung hạn của các NHTM quốc doanh, thực chất vẫn là bù đắp thiếu hụt NSNN và là nguyên nhân thúc đẩy thêm quá trình dollar hoá ở Việt Nam. _Hệ thống kho bạc Nhà nước huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu (USD) để bù đắp thiếu hụt NSNN cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình dollar hoá ở Việt Nam. _Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn lậu qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các cửa hàng kinh doanh, các cửa hiệu vàng bạc bán hàng thu ngoại tệ, thu đổi ngoại tệ còn tuỳ tiện, diễn biến phổ biến. ii. ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá đến nền kinh tế việt nam. Dollar hoá không chỉ là một vấn đề ở Việt Nam mà đang là một vấn đề lớn đã và đang diễn ra trên thế giới. Có nhiều người cho rằng dollar hoá là một hiện tượng hoàn xấu và cần xoá bỏ. Có ý kiến lại cho rằng dollar hoá nó cũng có mặt tích cực cần được phát huy. Đặc biệt với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay nhiều cuộc thảo luận về vấn đề dollar hoá chính thức nền kinh tế đối với các nước chậm phát triển đã được tổ chức. Tuy nhiên một hiện tượng nào đó cũng có hai mặt của nó, có khi mặt đúng, mặt tích cực của thời kì trước có thể trở thành mặt tiêu cực của thời kì phát triển sau. Bởi vậy ta cũng có thể thấy được hiện tượng dollar hoá có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực. 1. Tác động tích cực. _Có một lượng lớn ngoại tệ, các NH có điều kiện mở rộng các hoạt động của mình nhất là các hoạt động đối ngoại. Hơn nữa, sự tồn tại của các khoản tiền gửi bằng USD tại các NH trong nước tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế. _Một lực lượng USD được gửi trong các NH tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế, hạn chế được việc phải đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của các NH gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các NH trong nước đem gửi ở nước ngoài. Rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà, các NH cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích như ở phần trên. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. _Thêm vào đó, thời kì cả cán cân thương mại và cán cân thanh toán đều thâm hụt nghiêm trọng việc thu hút mọi nguồn USD trôi nổi trên thị trường và các chính sách để thu hút kiều hối qua NH là một giải pháp tích cực để đảm bảo nhiều cân đối vật chất khác của nền kinh tế. _Một đất nước với một đồng tiền riêng thường được phát hành bởi NHTƯ-sẽ có chính sach tiền tệ của nó. Trên lý thuyết thì điều này cho phép NHTƯ quản lý được mức cung tiền, lãi suất, tỷ giá nhằm đến mục tiêu chỉ vì lợi ích của riêng đất nước đó. Trên thực tế thì hầu như tất cả các nước đang phát triển đã trải qua những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tiền tệ của họ-đó chính là việc các nước này thiếu rất nhiều những thể chế cũng như kinh nghiệm cần thiết về thiết kế, điều hành, thực thi chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh đó thì việc dollar hoá dường như là một bước tiến quan trọng trong việc ổn định gía cả trong nước, đặc biệt là những nước thường mắc phải những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ. 2.Tác động tiêu cực. _Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi có những cuộc khủng hoảng xảy ra. Dollar hoá làm giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ: +Gây khó khăn cho việc dự báo diễn biến tổng phương tiện thanh toán. Qua đó, việc quyết định tăng, giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xácvà kịp thời. +Dollar hoá cũng làm cho cầu đồng Việt Nam nhạy cảm hơn đối với những thay đổi từ bên ngoài, những cố gắng trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay đều trở nên kém hiệu quả. +Tình trạng dollar hoá có tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Dollar hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định do người cư trú có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang dollar Mĩ làm cầu dollar Mĩ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. _Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi dân cư bằng ngoại tệ cao như hiện nay, thì các NH sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán khi có những biến động làm người dân đổ xô đi rút ngoại tệ trong khi số ngoại tệ này đã được NH cho vay, đặc biệt cho vay dài hạn, khi đó NHNNVN cũng sẽ không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành dollar Mĩ. _Các NHTƯ vốn có một chức năng có tính lịch sử là chức năng người cho vay cuối cùng với các NHTM. Là người cho vay cuối cùng, NHTƯ sẵn sàng cung cấp các khoản cho vay thanh toán đối với hệ thống NH khi có sự rút tiền khỏi hệ thống NH một cách có hệ thống. NHTƯ thực hiện chức năng này chủ yếu bằng nguồn vốn tự có của mình để tạo ra khả năng thanh toán-một nghiệp vụ không thể có được trong hệ thống dollar hoá. Bởi vậy, dollar hoá sẽ làm hạn chế vai trò của NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Hạn chế các đặc quyền riêng của NHTƯ trong phát hành tiền để mua ngoại tệ, tăng quỹ dự trữ ngoại tệ và sử dụng nó không chỉ với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ mà còn là mục tiêu tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước. _Dollar hoá sẽ tăng hạn chế vai trò của tỷ giá hối đoái trong chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ. Nó có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Nhưng trong nền kinh tế bị dollar hoá, tỷ giá bị cố định, nên sẽ hạn chế việc thực hiện chính sách xuất khẩu. Mặt khác lại kích thích nhập siêu (trong đó có cả nhập lậu) do VND chịu sức ép tăng giá so với USD. _Dollar hoá trong xã hội đã như chất xúc tác giúp một bộ phận dân chúng quen thói làm ăn bất chính sử dụng USD vào việc buôn lậu hàng nhập khẩu qua biên giới, tiếp tay cho một số Việt kiều làm ăn không đàng hoàng, tiến hành đầu tư chui đến nay vẫn chưa gỡ xong. Bên cạnh đó, tình trạng đào hối chảy máu ngoại tệ qua biên giới, cửa khẩu quốc tế và nạn rửa tiền ma tuý gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến tình trạng dollar hoá. Như vậy, khi nền kinh tế bị dollar thì không tước được vũ khí lợi hại (USD) của các kẻ buôn lậu trên các tuyến, phá rối thị trường và làm cho các doanh nghiệp sản xuất ở trong nước bị đình đốn. _VND không làm được trọn vẹn các chức năng của mình và phải “cạnh tranh” trong thế yếu so với một đồng tiền mạnh, tự do chuyển đổi ở tất cả các nước. Từ đó mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không dược coi trọng. Mọi người đều coi đồng tiền của nước mình là biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Và khi một nước dollar hoả chính thức thì cũng tạo điều kiện cho các chính khách nước đó dễ dàng đổ lỗi cho chính sách tiền tệ của Mĩ hay nước nào đó mà có đồng tiền đang được sử dụng ở nước ngoại tệ hoá, khi mà họ vướng mắc phải những điều kiện khó khăn, bất ổn về kinh tế do việc điều hành, quản lý yếu kém. Đối với Mĩ, đây là vấn đề được quan tâm đầu tiên khi vấn đề dollar hoá nổi lên. phần iii. các phương pháp và kiến nghị. i. quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề dollar hoá. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHNN trong vấn đề dollar hoá là “Xoá bỏ dollar hoá trong nền kinh tế-xã hội nước ta phải thực hiện từng bước từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước, phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hôi trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ NH cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong chức năng thuộc tính của tiền tệ”. Giải đáp tại kì họp Quốc hội năm 2000 về vấn đề dollar hoá, Thống đốc NH Lê Đức Thuý nói: “Tình trạng dollar hoá đang gia tăng, xử lý vấn đề này về hình thức có vẻ đơn giản nhưng trên thực tế thì rất khó. Đó là một cuộc chiến gay go và chắc chắn là chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều. Bởi vì mỗi người có góc độ lợi ích riêng của mình, cho nên cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng sẽ có nhiều giải pháp đụng đến thói quen ấy, nhất định sẽ có nhiều phản ứng. Mong được sự chia sẻ, đồng tình và hỗ trợ của Quốc hội”. Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong vấn đề dollar hoá ở nước ta rất rõ ràng. Từ những nhìn nhận nói trên đặt ra trước mắt các nhà hoạch định chính sách, thiết lập cơ chế quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ ngoại hối, cần có chung quan điểm thực tiễn và kiên trì để có đối sách đúng đắn và nhất quán trong vấn đề xử lý dollar hoá ở nước ta. Rõ ràng dollar hoá không đơn thuần là vấn đề kinh tế-tiền tệ-ngoại hối của riêng ngành NH phải giải quyết, mà còn là vấn đề chính trị-xã hội, vấn đề an ninh kinh tế và mặt nào đó cũng có tính chất quốc tế gắn với xu thế và hội nhập trong điều kiện mới của thế giới ngày nay. ii. các giải pháp và kiến nghị. 1. Một số giải pháp đã được đề xuất. Vấn đề dollar hoá đã có những biểu hiện ở Việt Nam trong năm 2000. Thời gian qua trên các báo và tạp chí thuộc lĩnh vực kinh tế-tài chính-ngân hàng đã đăng nhiều bài viết tranh luận về vấn đề dollar hoá ở nước ta. Nhiều giải pháp giải quyết vấn đề này đã được đưa ra. Nhiều người đã đề xuất giải pháp như sau: Xoá bỏ cơ chế đa sở hữu ngoại tệ, tập trung việc thu chi ngoại tệ vào NH; không trả kiều hối bằng ngoại tệ; không huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ để nhất quán với việc NHNN không thực hiện bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ; không cho vay và bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để nhất quán với việc NHNN không cho NHTM vay chiết khấu bằng ngoại tệ; thực hiện kết hối 100% ngoại tệ các doanh nghiệp có thu ngoại tệ phải bán hết cho NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ; mọi nhu cầu chi ngoại tệ cần thiết và hợp lý đều được mua tại NH theo kế hoạch dự trù và được NH thoả thuận. 2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất. _Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ phải mở tài khoản ngoại tệ tại một NH được phép. Giải pháp này thực ra không phải mới mẻ đối với nước ta bởi trước đây trong quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như để thực hiện biện pháp kết hối theo kế hoạch, NH đã đưa ra giải pháp yêu cầu các doanh nghiệp phải mở một tài khoản ngoại tệ tại một NH. Quy định này đã gây ra không ít khó khăn cho doanh nghiệp và tạo sự phản ứng mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp. Nếu quy định như vậy có nghĩa là doanh nghiệp chỉ được quan hệ tín dụng thanh toán và sử dụng dịch vụ khác của NH khác từ một NH, không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng để nâng cao chất lượng dịch vụ NH, gây ra sự rủi ro mà doanh nghiệp sẽ gặp phải khi toàn bộ vốn bằng ngoại tệ được gửi tại một NH gạp khó khăn về tài chính. Do đó biện pháp nay hoàn toàn không khả thi. _Tăng tỷ lệ kết hối lên 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai. Đây là một giải pháp mang nặng tính hành chính là hạn chế về ngoại hối trong các giao dịch vãng lai. Việc quy định bắt buộc phải kết hối 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai sẽ đẩy các rủi ro về tỷ giá về các doanh nghiệp trong khi các công cụ chống rủi ro về tỷ giá của ta còn chưa phát triển. _Về giải pháp chi trả tiền kiều hối bằng VND và không cho cá nhân được gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ. Trước tiên, phải thừa nhận rằng đây là một giải pháp hành chính để giảm tình trạng dollar hoá đang diễn ra ở Việt Nam. Nhưng một điều không thể phủ nhận rằng chính sách kiều hối của ta trong giai đoạn vừa qua đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể chuyển về Việt Nam, được chứng minh bằng số ngoại tệ chuyển về tăng qua các năm: năm 1997 là 400 triệu USD; năm 1998 là 950 triệu USD; năm 1999 là 1,2 tỷ USD; năm 2000 gần 1,7 tỷ USD. Cho người Việt Nam nhận kiều hối bằng ngoại tệ là một giải pháp tình thế trước mắt góp phần không nhỏ giảm bớt sự mất cân đối về cung cầu ngoại tệ trong thời gian qua. Trong khi giá trị VND còn chưa được ổn định bền vững và không thể quay lại việc điều hành tỷ giá theo cơ chế đa tỷ giá, đưa ra tỷ giá ưu đãi đối với người Việt Nam nhận tiền ở trong nước. Do trong thời gian qua lãi suất bằng USD trên thị trường quốc tế tăng, đặc biệt, khi cục dự trữ liên bang Mĩ tăng lãi suất chỉ đạo ba lần trong năm 2000 làm ảnh hưởng đến lãi suất huy động bằng USD trong nước. Vì vậy, lượng ngoại tệ của dân cư gửi tại các NHTM cũng tăng lên. Giả sử giải pháp không cho cá nhân người Việt Nam gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ được áp dụng thì điều gì sẽ xảy ra khi người gửi tiền rút tiền mặt ngoại tệ ra khỏi NH hoặc phải bán ngoại tệ cho các NH. Lúc đó người gửi tiền sẽ dùng lại VND để mua lại ngoại tệ tại thị trường bên ngoài gây ra áp lực lên giá giữa VND với USD và sẽ gây không ít khó khăn cho NHNN trong việc kiểm soát đối tượng tiền tệ trong lưu thông. Mặt khác, biện pháp này sẽ làm kém đi việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nội lực trong nước trong khi nhìn tổng thể Việt Nam là một đất nước đang thiếu vốn. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy là một nước luôn đưa ra chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ, tuy có lượng dự trữ ngoại hối tương đối lớn vào khoảng 150 tỷ USD, đồng Nhân dân tệ luôn giữ ổn định giá trị, nhưng Trung Quốc vẫn áp dụng cho phép cá nhân gửi tiền tiết kiệm bằ ng ngoại tệ. Bởi vậy đi đôi với việc huy động bằng ngoại tệ, chúng ta cần phải xem xét một cách đúng mức phạm vi cho vay ngoại tệ để đảm bảo cân đối nguồn huy động và cho vay bằng ngoại tệ của các NHTM. 3. Những giải pháp kiến nghị. Dollar hoá là một hiện tượng kinh tế khách quan chỉ mang tính lịch sử và vì vậy trong tất cả các nước theo chính sách kinh tế thị trường mở cửa, người ta không cứng nhắc dùng luật pháp hành chính để xoá bỏ nó khi chưa hội đủ những điều kiện kinh tế-xã hội khách quan cho phép. Với Việt Nam mức dollar hoá không quá trầm trọng. Tuy nhiên, với tình hình dollar hoá chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Do vậy, ở nước ta Đảng và Chính phủ nhận rõ vấn đề này. Việc thực hiện từng khân từng bước trong tiến trình chung của nỗ lực ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, trên góc độ toàn bộ nền kinh tế cần: _Tạo môi trường đầu tư trong nước, tạo sự hấp thụ vốn ngoại tệ, tập trung vào đổi mới và cải cách các doanh nghiệp, cải cách hành chính. Trước mắt mở rộng một số dự án đầu tư của Chính phủ: Dầu khí, cầu đường, điện lực. _Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu. Đa dạng các danh mục đầu tư trong nước. _Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính NH. Kết hợp với kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. _Tình trạng nhập siêu kéo dài trong nhiều năm cần phải hạn chế. Tiếp tục hạn chế nhập siêu các mặt hàng tiêu dùng bằng cách yêu cầu các NH không bán ngoại tệ cho nhu cầu thanh toán này. NH không cho vay ngoại tệ để nhập những mặt hàng tiêu dùng, cắt giảm hạng ngạch nhập khẩu các mặt hàng này. Tuy nhiên, đây chỉ là một giải pháp tạm thời bởi xu hướng quốc tế hoá hiện nay, Việt Nam cũng phải dần dần tự do hoá thương mại, đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đang xin gia nhập WTO. Về lâu dài, một chính sách đa dạng hoá các mặt hàng, đa dạng hoá thị trường, xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao đi đôi với chính sách nhập khẩu có trọng điểm hướng tới tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cao. Để từ đó hạn chế việc nhập siêu để giảm sự mất cân đối về ngoại tệ. _Trên góc độ ngành ngân hàng: Việc xử lý vấn đề dollar hoá ở nước ta không chỉ trách nhiệm riêng của ngành NH. Nhưng đứng trên góc độ ngành NH ta thấy vấn đề dollar hoá cũng do sự yếu kém của ngành NH. Đặc biệt là hoạt động thanh toán chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu. Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Nếu như cơ chế quản lý ngoại hối của ta chặt chẽ thì tình trạng dollar hoá thường khó xảy ra. Bởi vậy, là một ngành chủ đạo của nền kinh tế, ngành NH cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong vấn đề xử lý dollar hoá ở nước ta. Hệ thống NH không ngừng nâng cao và phát triển. Xin đưa ra một vài đề nghị như sau: Không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối, thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ. Về biện pháp tăng tỷ lệ kết hối là một giải pháp mang nặng tính hành chính và có những hạn chế như đã nêu trên, không được các doanh nghiệp ưa thích. Nhưng đến nay vẫn rất cần thiết vì chưa có giải pháp lựa chọn nào khác trước tình hình những biêủ hiện của dollar hoá chưa có chiều hướng thuyên giảm và sự mất cân đối trên thị trường ngoại hối. Cần phải duy trì và thực hiện nghiêm quy định về kết hối để tăng cung ngoại tệ trên thị trường.Tỷ lệ kết hối của Việt Nam áp dụng hiện nay không phải là cao vì ngay Trung Quốc cũng có thời kì kết hối 95% đối với tất cả các doanh nghiệp. Mặt khác, các quy định về kết hối cần xiết chặt hơn, tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại các NH cũng như doanh nghiệp. _Vấn đề người dân gửi, rút tiết kiệm và kiều hối bằng ngoại tệ. Nó chỉ là hiện tượng lịch sử giải pháp tình thế. Vậy khi nào có thể chấm dứt vấn đề này, đó hoàn toàn do điều kiện kinh tế xã hội. Khi nền kinh tế nước ta phát triển ổn định, VND mạnh, có khả năng chuyển đổi, người dân thấy cất trữ và đầu tư bằng VND thuận tiện và lợi ích hơn ngoại tệ thì các hiện tượng trên không còn tồn tại. Vậy NH có thể mua với tỷ giá cao hơn đổi kiều hối, vì vậy số ngoại tệ này, NH không mất phí chuyển đổi từ tiền mặt sang chuyển khoản. Mặt khác, NHTM có thể chấp nhận lỗ khi mua bán ngoại tệ để thu lãi phí ở dịch vụ thanh toán quốc tế. Nếu như vậy thì chắc chắn lượng kiều hối bán lại cho NHTM tăng lên, thay vì yêu cầu nhận ngoại tệ tiền mặt tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ. _Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách tỷ giá để phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối nhằm khắc phục tình trạng dollar hoá trong nền kinh tế. Hiện nay việc lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Vì chế độ tỷ giá đó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa theo quy luật cung-cầu của thị trường, vừa phát huy vai trò quản lý điều tiết linh hoạt của Nhà nước để đạt các mục tiêu yêu cầu phát triển knh tế. Tuy nhiên để có chính sách tỷ giá hợp lý cần phải hoàn thiện các vấn đề có tính chất then chốt như: Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng-một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều hành tỷ giá. NHNN phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Xác định được một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá ngoại tệ mạnh để làm căn cứ ấn định tỷ gía đồng Việt Nam chứ không nên chỉ neo giữ VND vào USD... _Những biểu hiện của hiện tượng dollar hoá trong thời gian qua là do lãi suất huy động tiền gửi bằng USD cao hơn VND. Mặc dù NHNN đã có những giải pháp tích cực điều chỉnh lãi suất theo hướng có lợi cho VND. Tuy nhiên những giải pháp chưa thực sự mang tính chủ động của NHNN nếu như không có những tác động từ các yếu tố khách quan bên ngoài. Ta thấy rằng việc lãi suất huy động tiền gửi bằng USD cao lên trong thời gian qua là một yếu tố khách quan do lãi suất ở Mĩ tăng và trên thị trường thế giới tăng. Do đó chúng ta phải có nhìn nhận đúng về nguyên nhân của nó để tìm ra những giải pháp đúng đắn. Trong thời gian qua lãi suất huy động tiền gửi VND thấp hơn USD một mặt là do Nhà nước ta có chủ trương hạ thấp lãi suất tiền gửi bằng VND để kích cầu. Nhưng xét về thực tế, biện pháp này đã không cải thiện được tình hình. Chúng ta nên nhìn nhận lại vấn đề từ nhiều góc độ, không nên đi theo một lối mòn để có hướng điều chỉnh phù hợp. kết luận Ngày nay, chúng ta đã và đang nói nhiều đến toàn cầu hoá-một xu thế khách quan gắn liền với sự phát triển của các quá trình đan xen, hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi quốc tế. Nhưng trong xu thế đó, rất nhiều người còn băn khoăn liệu có thực sự là toàn cầu hoá hay “Mĩ toàn cầu” bởi sự thiết lập các giá trị nước Mĩ trên toàn thế giới. Một biểu hiện rõ nét nhất mà chúng ta có thể nhận thấy được là tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển. Qua những phân tích về nguyên nhân của dollar hoá cũng như việc đưa ra một số những giải pháp, bản thân em cũng nhận thức rõ hơn về thưc trạng dollar hoá ở Việt Nam. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, sinh viên ngành NH nói riêng chính là niềm hy vọng lớn lao trong quá trình chống dollar hoá. Như chúng ta đã biết, tiền tệ là vấn đề hết sức nhạy cảm, hơn thế nó lại liên quan chặt chẽ đến ngành NH, một sự điều chỉnh tăng lãi suất của cục dự trữ liên bang Mĩ (Fed) có thể gây ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất ngoại tệ trong nước và từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện trạng ứ thừa vốn ngoại tệ trong năm 1999, 2000, dân chúng liên tục chuyển đổi VND sang USD, NH gửi ngoại tệ ở nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn. NHTƯ đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách tiền tệ của mình bởi dollar hoá, nền kinh tế cũng đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn, “cầu đầu tư và tiêu dùng giảm sút”. Như vậy, dù liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề tiền tệ, tất cả mọi ngành mọi cấp và mọi người dân cần thiết nâng cao trình độ về vấn đề dollar hoá và cách thức hạn chế dollar hoá một cách hữu hiệu nhất. Lịch sử dân tộc đã để lại cho chúng ta ngững bài học quý báu về mở rộng giao lưu quan hệ với các nước, song vẫn giữ gìn được độc lập dân tộc, bảo vệ nét văn hoá truyền thống.Thực chất quá trình dollar hoá ở Việt Nam là quá trình đấu tranh gay gắt để VND giữ được sự tin tưởng vững chắc trong lòng người dân Việt Nam so với USD; phấn đấu đưa VND trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế. Mở cửa với bên ngoài, làm bạn với các nước trên thế giới dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng vào khả năng bảo vệ giá trị của VND, bảo vệ một nét văn hoá lâu đời của dân tộc. tài liệu tham khảo _Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 1+2/2000. _Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 13/2002. _Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2002. _Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 277-tháng6/2001. _Tạp chí Ngân hàng số 6/2001. _Báo Thời báo ngân hàng số 95-tháng11/2000. _Tạp chí Ngân hàng số 6/2001. _Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 8-9/2000. mục lục Lời nói đầu ................................................................................. 1 nội dung...................................................................................... 2 phần i. vài nét về dollar hoá và thực trạng dollar hoá ở việt nam .................................................................... 2 I. Khái quát về dollar hoá. ......................................................... 2 1. Thế nào là dollar hoá?................................................... 2 2. Phân loại dollar hoá...................................................... 3 II. Thực trạng dollar hoá ở Việt Nam............................................ 5 phần ii. nguyên nhân của tình trạng dollar hoá và những ảnh hưởng của dollar hoá đến nền kinh tế việt nam...................................................................................................... 10 I. Nguyên nhân của tình trạng dollar hoá............................... 10 1. Nguyên nhân sâu xa...................................................... 10 2. Nguyên nhân trực tiếp.................................................. 11 II. ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá đến nền kinh tế Việt Nam.................................................................................. 13 1. Tác động tích cực.......................................................... 14 2. Tác động tiêu cực.......................................................... 14 phần iii. các giải pháp và kiến nghị................................. 17 I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề dollar hoá........ 17 II. Các giải pháp và kiến nghị.................................................... 18 1. Một số giải pháp đã được đề xuất................................. 18 2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất....... 18 3. Những giải pháp kiến nghị............................................ 20 kết luận........................................................................... 23 Tài liệu tham khảo.................................................... 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0590.doc
Tài liệu liên quan