Trong môi trường nền kinh tế thị trường không ngừng biến động và phát triển ở Việt Nam hiện nay, các ngân hàng phải luôn tự hoàn thiện mình để thoả mãn mọi nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Hơn thế nữa, việc Việt Nam gia nhập vào WTO đã mở ra một cơ hội mới cho sự hình thành và phát triển của một loạt các ngân hàng cổ phần và sự xâm nhập của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Chính vì thế mức độ cạnh tranh trong nghành ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt. Để cạnh tranh được với các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Thanh Hoá- Chi nhánh Ba Đình, theo sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên dã triển khai nhiều chính sách mới nhằm nâng cao doanh số dư nợ. Trong quá trình kinh doanh, chi nhánh phải biết chấp nhận rủi ro ở mức nhất định vì mục tiêu tăng trưởng mà vẫn đảm bảo hoạt động ổn định, phát triển vững chắc. Để làm được điều đó chi nhánh Ba Đình phải tăng cường quản lí toàn bộ hoạt động của ngân hàng trên các lĩnh vực và đặc biệt là hoạt động tín dụng, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể để đưa ra những biện pháp phù hợp nhất để quản lí rủi ro một cách hiệu quả.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá - Chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông thôn Thanh Hoá. Trụ sở giao dịch đóng tại số 77 Đinh Công Tráng, phường Ba Đình, thành phố Thanh Hoá, là địa điểm trung tâm của thành phố Thanh Hoá. Vào thời điểm chi nhánh được thành lập thành phố Thanh Hoá đã thành lập được 6 năm, cư dân khu trung tâm đông đúc, kinh tế chủ yếu là kinh doanh, thương mại dịch vụ và đang ngày càng phát triển.
Chi nhánh đóng trên địa bàn phường Ba Đình, chủ yếu quản lí, phục vụ thị trường 3 phường: phường Lam Sơn, phường Ba Đình, phường Ngọc Trạo.
Trong quá trình hoạt động, được sự ủng hộ nhịêt tình của Đảng bộ và chính quyền địa phương cùng sự chỉ đạo trực tiếp của ngân hàng tỉnh và đặc biệt là sự cố gắng của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên chi nhánh nên ngân hàng Ba Đình đã dần đi vào hoạt động bình thường, ổn định và ngày cành phát triển, khẳng định được vai trò đối với sự phát triển kinh tế nói chung và đặc biệt là đối với sự phát triển công thương nghiệp trong vùng. Khách hàng ngày càng tin tưởng và tìm đến với ngân hàng nhiều hơn, đối tượng khách hàng ngày càng mở rộng không chỉ là các khách hàng trong phạm vi quản lí mà còn thu hút một lượng lớn khách hàng trong thành phố và những khu vực lân cận. Cơ sở vật chất ban đầu còn hạn chế, trụ sở giao dịch của ngân hàng ngày đầu thành lập chỉ là một ngôi nhà mái bằng gồm có 3 phòng, sau một thời gian hoạt động và phát triển nhằm phù hợp với quy mô giao dịch của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu, tạo sự thuận tiện, thoải mái cho khách hàng, vào tháng 03/2006 chi nhánh đã được hội sở chính đầu tư xây mới hoàn toàn trở thành một văn phòng có 3 tầng và một tầng trệt dùng làm nơi để xe của khách hàng và cán bộ nhân viên ngân hàng. Việc hoàn thành xây dựng cơ sở mới đã góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của ngân hàng trong lòng khách hàng đồng thời tạo ra môi trường làm việc tốt hơn cho cán bộ nhân viên ngân hàng.
Trong tương lai khu vực ngân hàng quản lí sẽ trở thành khu công nghiệp – thương mại – dịch vụ lớn của thành phố, chi nhánh Ba Đình đã và đang đổi mới, phát triển, nâng cao vị thế uy tín của mình trên địa bàn nhằm phù hợp với yêu cầu của một ngân hàng hiện đại, đáp ứng tối đa những nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của khách hàng, góp phần vào sự phát triển của khu vực, của tỉnh và của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh.
Chi nhánh Ba Đình là đơn vị thành viên trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá, hoạt động trên địa bàn thành phố thanh hoá với tổng số nhân viên là 20 người. Cơ cấu tổ chức bao gồm các phòng ban chính như sau: Giám đốc, phòng tín dụng kinh doanh, phòng tài chính kế toán, bộ phận quỹ, bảo vệ. Trong đó:
- Phòng tín dụng kinh doanh: gồm 6 cán bộ tín dụng, 1 trưởng phòng tín dụng có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc, trực tiếp thẩm định kinh tế kĩ thuật, kinh tế đầu tư, cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi thành phần kinh tế,
- Phòng tài chính kế toán: gồm có 5 nhân viên kế toán và 1 trưởng phòng kế toán; có nhiệm vụ lập kế hoạch cân đối nguồn vốn và tổ chức hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
+ Bộ phân huy động vốn: là 1 bộ phận của phòng kế toán huy động các nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn từ mọi thành phần kinh tế xã hội.
- Bộ phận ngân quỹ: bao gồm 4 cán bộ thu ngân làm nhiệm vụ thu chi, lưu trữ,bảo quản tiền mặt của các ấn chi, ấn phẩm như: sổ tiết kiệm, kì phiếu, các chứng từ có giá mà khách hàng cầm cố tại ngân hàng.
- Bộ phận bảo vệ: có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho tài sản và các hoạt động của ngân hàng và khách hàng.
3. Đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh.
* Tình hình xã hội:
- Tổng số phường: 03 phường.
- Tổng số hộ: 1.551 hộ, trong đó phân loại theo thu nhập:
+ Hộ giàu, khá: 465 hộ
+ Hộ trung bình: 1.063 hộ
+ Hộ nghèo: 23 hộ
* Tình hình kinh tế:
- Tổng số doanh nghiệp trên địa bàn: 95 trong đó có quan hệ với ngân hàng nông nghiệp 48 doanh nghiệp.
- Hộ sản xuất kinh doanh phân theo ngành nghề:
+Hộ sản xuất nông nghiệp: 0
+Hộ sản xuất công nghiệp: 0
+Hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp: 35
+Hộ kinh doanh dịch vụ: 600
+Hộ làm nghành nghề khác: 200
Trong đó:
+Số hộ đủ điều kiện vay vốn: 1000
+Số hộ đã vay NHNo: 800
+Số hộ vay tổ chức tín dụng khác: 200
+Số hộ đủ điều kiện nhưng không có nhu cầu vay: 200
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã tạo điều kiện thay đổi bộ mặt kinh tế của tỉnh nói chung và của thành phố nói riêng. Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc ngân hàng, các phòng ban của NHNo & PTNT tỉnh, cùng sự nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên chi nhánh đã có những thành tích tốt song cũng có không ít những khó khăn ảnh hưởng đến kết quả thực hiện mục tiêu, định hướng mà chi nhánh phải khắc phục.
3.1.Những thuận lợi.
Năm 2007 mặc dù có những tác động bất lợi của nền kinh tế thế giới và thiên tai, dịch bệnh trong nước song nền kinh té Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưỏng 8.5%, là tốc độ phát triển cao nhất trong vòng 10 năm qua và đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.Trong năm nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng như: quy định về thanh toán bằng tiền mặt và triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010…
Các cơ chế chính sách của nghành cũng được tiếp tục bổ sung,hoàn thiện sát dần với các chuẩn mực quốc tế.
Nền kinh tế Thanh Hoá năm 2007 cũng đạt mức tăng trưởng cao 10.5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Sản lượng lương thực vượt mục tiêu kế hoạch đề ra. UBND tỉnh đã chủ động phối hợp với các nhà máy chế biến giải quyết một số vướng mắc về phát triển vùng nguyên liệu, vì vậy sản lượng mía, sắn đạt cao nhất từ trước tới nay.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, hoạt động của NHNo & PTNT Thanh Hoá cũng gặp không ít những khó khăn.
3.2.Những khó khăn.
- Tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động, đặc biệt là chỉ số giá tăng kỉ lục, lên tới 12,63%. Giá dầu, giá vàng và các vật tư thiết yếu tăng cao, ảnh hưởng khó khăn tới hoạt động tiền tệ tín dụng.
- Ngân hàng Nhà Nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quản lí chặt chẽ tỷ lệ cho vay chứng khoán và những tháng đầu năm 2008 là cho vay đối với đàu tư bất động sản đã phần nào ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và NHNo nói riêng.
- Địa bàn Thanh Hoá bị thiên tai nặng nề, gây tổn thất rất lớn đối với nền kinh tế trong tỉnh trong đó vốn ngân hàng bị thiệt hại không nhỏ.
- Trên địa bàn có một số ngân hàng mới được thành lập đã tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt hơn.
4. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
4.1.Hoạt động huy động vốn.
Chi nhánh đã xác định được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, đây là khâu đầu tiên quyết định quy mô và cơ cấu hoạt động tín dụng, đầu tư của NHTM. Mặc dù địa bàn hoạt động của chi nhánh rất nhỏ hẹp chỉ gồm 3 phường song chi nhánh luôn chú trọng công tác huy động vốn bằng nhiều hình thức huy động vốn như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, phát hành tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, thực hiện tư vấn, chăm sóc khách hàng… nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Nhìn vào bảng và biểu đồ dưới đây ta có thể thấy:
Tổng nguồn vốn huy đông qua các năm liên tục tăng với tốc độ tăng ngày càng cao. Cụ thể: năm 2006 tổng vốn huy động tăng lên 20,001 triệu đồng tức là đã tăng 14.29% so với năm 2005, tuy nhiên tốc độ tăng vốn này chưa cao và mới hoàn thành được 86.5% chỉ tiêu được giao của năm, nguyên nhân của chính là do lượng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác giảm 10.815 triệu đồng tức là đã giảm 56.6% so với năm 2005. Nếu loại trừ ảnh hưởng của nguồn vốn này thì thực tế, nguồn vốn huy động của ngân hàng trong dân cư đã tăng lên 830,816 triệu đồng tức là bằng 26.2% so với năm 2005, đây là một trong những năm nguồn vốn trong dân cư tăng với tỉ lệ tốt nhất từ khi ngân hàng được thành lập.
Bảng1: Cơ cấu huy động vốn theo thành phần kinh tế:
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng VHĐ
136,724
156,725
205,756
-VHĐ trong dân cư
117,620
148,436
196,403
-VHĐ khác
19,104
8,289
9,353
Năm 2007, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng lên 49,031 triệu đồng tức là đã tăng 31% so với năm 2006, đồng thời ngân hàng cũng đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được giao, tỉ lệ thực hiện kế hoạch đạt 105%. Đạt được kết quả này là do cả nguồn vốn huy động trong dân cư lẫn vốn huy động khác đều tăng. Nguồn vốn huy động trong dân cư đã tăng 47,967 triệu đồng tức là đã tăng 32.3%, nguồn vốn huy động khác cũng tăng 1,064 triệu đồng tức là đã tăng 12.8%. Điều này cho thấy ngân hàng ngày càng chiếm được lòng tin của cư dân và các tổ chức kinh tế, xã hội khác trên địa bàn. Hơn thế nữa cơ cấu vốn theo thành phần kinh tế của ngân hàng có xu hướng giảm nguồn vốn của các tổ chức kinh tế xã hội, tăng nguồn vốn huy động từ trong dân cư một phần là do quy mô của chi nhánh nhỏ, các tổ chức kinh tế xã hội sẽ giao dịch trực tiếp với trụ sở chính NHNo &PTNT Thanh Hoá nằm trên cùng địa bàn thành phố chứ không cần thông qua chi nhánh, mặt khác chi nhánh Ba Đình dã ngày càng tạo dựng được hình ảnh và niềm tin trong tâm trí người dân và do đó thu hút được lượng vốn lớn trong dân cư.
4.2.Hoạt động cho vay.
Hiện nay trên địa bàn hoạt động của ngân hàng có 2 đối tượng khách hàng có nhu cầu tín dụng chủ yếu là hộ sản xuất và người vay tiêu dùng và tập trung vào 2 hình thức cho vay là cho vay từng lần và vay theo hạn mức tín dụng, việc quyết định cho vay theo hình thức nào phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh và mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với người vay vốn. Tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu tín dụng theo thời hạn.
(Đv: triệu đồng)
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
125,575
136,965
154,303
Dư nợ ngắn hạn
72,651
83,549
90,422
Dư nợ trung dài hạn
52,924
53,416
63,881
Nhìn vào bảng và biểu đồ trên ta có thể thấy được tổng dư nợ qua các năm liên tục tăng lên. Cụ thể: Năm 2006 tổng dư nợ tín dụng đã tăng 11,390 triệu đồng tức là 9.1% so với tổng dư nợ năm 2005 tuy nhiên chi nhánh vẫn chưa hoàn thành được chỉ tiêu kế hoạch được giao mà mới chỉ thực hiện được 97.1% kế hoạch. Có được kết quả trên là do dư nợ ngắn hạn đã tăng lên 9,898 triệu tức là tăng 15% so với năm 2005 và dư nợ trung và dài hạn cũng đã tăng 492 triệu tức là 8%. Cơ cấu tín dụng cũng thay đổi, tỷ lệ tín dụng ngắn hạn tăng từ 57.9% năm 2005 lên 61% năm 2006 điều này đồng nghĩa với việc giảm tỷ lệ tín dụng ngắn hạn. Năm 2007 tổng dư nợ tín dụng tăng 17338 triệu tương đương với 13% so với năm 2006. Đồng thời chi nhánh cũng đã hoàn thành được chỉ tiêu kế hoạch được giao, tỷ lệ thực hiện kế hoạch là 100%. Trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 6873 triệu đồng tức là tăng 8.2% so với năm 2006, dư nợ trung và dài hạn tăng 10465 triệu đồng tức là đã tăng 19.6% so với năm 2006. Chỉ tiêu dư nợ tuy đạt được mục tiêu kế hoạch song vẫn xảy ra tình trạng tăng dồn vào quí 4. Trong 3 quí đầu năm chi nhánh luôn trong tình trạng thừa vốn cho vay, đến cuối năm mới có khả năng tăng trưởng mạnh nhưng vẫn không thể bổ sung thêm được chỉ tiêu kế hoạch. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do tính quy luật về nhu cầu vốn tín dụng thường tăng cao vào những tháng cuối năm. Mặt khác về phía chủ quan, việc thực hiện chiến lược khác hàng trong đầu tư tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn lối suy nghĩ thụ động chờ khách hàng, thiếu tính chủ động khai thác khách hàng mới, chưa cập nhập kịp các thông tin từ các đối thủ cạnh tranh để có giải pháp hữu hiệu giữ khách hàng lớn, khách hàng tốt. Cơ cấu tín dụng có xu hướng thay đổi ngược chiều so với năm trước. Cụ thể, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn giảm xuống còn 58.6% tổng dư nợ, tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn tăng lên 41.4% tổng dư nợ.
Bảng 3: Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế (Đơn vị: triệu đồng)
2005
2006
2007
Cho vay hộ sản xuất
87,903
98,615
112,641
Cho vay tiêu dùng
37,672
38,350
41,662
Như trên đã trình bày, dư nợ tín dụng của chi nhánh Ba Đình trong thời gian qua liên tục tăng trưởng, tuy những tháng cuối năm có khó khăn do không còn chỉ tiêu dư nợ để cho vay song đã có sự điều hành linh hoạt nên vẫn đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, không xảy ra tình trạng ách tắc. Cơ cấu dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế phản ánh một phần thực trạng về cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Trong các năm 2005, 2006, 2007 tỷ trọng dư nợ tín dụng của hộ sản xuất lần lượt là 70%, 72% và 73%, điều này có thể được giải thích bởi thực tế, địa bàn hoạt động của ngân hàng chủ yếu là 3 phường Lam Sơn, Ba Đình, Ngọc Trạo, là các phường trung tâm của thành phố, nơi có các tuyến đường chính của thành phố đi qua nên hầu hết các hộ đều buôn bán kinh doanh. Người dân ở đây chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ, buôn bán nhỏ lẻ các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng với đặc điểm kinh doanh là nguồn vốn quay vòng nhanh chóng và không phải đầu tư quá lớn. Đây là nguyên nhân khiến tỷ trọng vốn ngắn hạn lại chiếm phần lớn tổng nguồn vốn như trên ( bảng 2) đã trình bày. Năm 2006, dư nợ của các hộ sản xuất tăng 10712 triệu đồng tức là 12.2% so với năm 2005, dư nợ cho vay tiêu dùng cũng tăng 10678 triệu đồng tức là 28.3%. Năm 2007 mức tăng lần lượt là 14026 triệu đồng tức là 14.2% và 3312 triệu đồng tức là 8.64% so với năm 2006. Có thể thấy chính sách khuyến khích tín dụng tiêu dùng của ngân hàng đã phát huy được tác dụng và đang dần ổn định khi nhu cầu tiêu dùng của người dân được thoả mãn phần nào.
4.3.Kinh doanh dịch vụ.
Chi nhánh Ba Đình là một chi nhành nhỏ trực thuộc NHNo & PTNT Thanh Hoá, địa bàn hoạt động lại nhỏ hẹp nên các dịch vụ được chi nhánh cung cấp là không nhiều mà chỉ cung cấp một số dịch vụ như:
- Dịch vụ thanh toán trong nước.
- Dịch vụ chuyển tiền nhanh.
- Các dịch vụ ngân quỹ như thu mua ngoại tệ (ngân hàng không được phép bán ngoại tệ ra ngoài mà chỉ thực hiện huy động và chi trả tiền gửi ngoại tệ), cung ứng tiền mặt…
Tuy nhiên ngân hàng đã thực hiện rất tốt việc cung ứng các dịch vụ cho khách hàng. Năm 2006, doanh thu từ dịch vụ của ngân hàng đạt 571 triệu đồng hoàn thành 105.4% kế hoạch được giao. Năm 2007 doanh thu là 782 triệu đồng, tăng 37% so với năm 2006, hoàn thành 92% kế hoạch được giao.
II. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Hoá chi nhánh Ba Đình
1. Tình hình nợ xấu.
Bản chất của tín dụng là việc ứng trước cho người vay vì vậy rủi ro tín dụng là một thuộc tính vốn có của tín dụng. Rủi ro tín dụng có thể được biểu hiện trực tiếp là vốn cho vay ra không thu hồi được đầy đủ gốc hoặc lãi đúng hạn cũng có thể được biểu hiện dưới dạng rủi ro tiềm ẩn khi ngân hàng đầu tư quá tập trung vào một hoặc một số nghành hay lĩnh vực nào đó.
Thước đo được sử dụng phổ biến nhất để đo lường rủi ro tín dụng là tỉ lệ nợ xấu. Căn cứ theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi bổ sung một số điều về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam đã ban hành quyết định số 636/QĐ-HĐQT-XLRR về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lí rủi ro tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Theo đó, tại khoản 1, điều 2, quy định: “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của chi nhánh là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động kinh doanh, do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.” Khoản 6 điều này quy định:
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 quy định trong quyết định này. Tỷ lệ nợ xấu tính trên tổng dư nợ là tỉ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của chi nhánh.
Để đánh giá thực trang rủi ro tín dụng của chi nhánh Ba Đình chúng ta cùng phân tích bảng số liệu sau:
Bảng 4: Tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh Ba Đình qua các năm
(Đ.V: triệu đồng)
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
125,575
136,965
154,303
Nợ xấu
2,734
2,054
1,234
Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ
2.1%
1.5%
0.8%
Nhìn vào số liệu và các biểu đồ trên có thể thấy nợ xấu của chi nhánh đang có xu hướng giảm dần cả về tỉ lệ so với tổng dư nợ lẫn giá trị tuyệt đối, mặc dù tổng dư nợ vẫn không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ rủi ro tín dụng của chi nhánh đang giảm đi, chất lượng tín dụng đang được nâng cao, chi nhánh đã và đang có những biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng giúp cho hoạt động tín dụng của chi nhánh an toàn và hiệu quả hơn. Năm 2006 dư nợ xấu giảm đi 685 triệu đồng bằng 25% so với năm 2006 mặc dù tổng dư nợ vẫn tăng 9.1% (như đã phân tích ở trên). Năm 2007 dư nợ xấu tiếp tục giảm 820 triệu, bằng 39.9% so với năm 2006 trong khi tổng dư nợ tăng 13%. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cũng giảm dần từ 2.1% năm 2005 xuống 1.5% năm 2006 và 0.8% năm 2007. Chi nhánh đã duy trì được mức tăng trưởng dư nợ sát với chỉ tiêu kế hoạch được giao, đáp ứng tốt nhu cầu và cơ cấu đầu tư phát triển trên địa bàn đồng thời có những bước xử lí tích cực đối với các khoản nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng. Chi nhánh vẫn có thể đạt được những thành quả trên mặc dù trong năm qua Thanh Hoá là địa phương phải gánh chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân và tình hình kinh tế trên địa bàn tỉnh là do địa bàn hoạt động của chi nhánh nằm trong khu vực trung tâm thành phố hầu như không có khách hàng là hộ nông dân do đó ít chịu các tác động trên.
Bảng 5: Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế
(đơn vị: triệu đồng)
2005
2006
2007
Tổng dư nợ xấu
2,739
2,054
1,234
-Hộ sản xuất, kinh doanh
2,520
1,767
1,086
-Vay tiêu dùng
219
287
148
Cơ cấu nợ xấu theo thành phần kinh tế những năm qua có nhiều thay đổi. Năm 2005 tỷ lệ nợ xấu trong cho vay hộ sản xuất chiếm tới 92% tổng số nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu trong cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 8%. Năm 2006 tỷ lệ nợ xấu trong cho vay hộ sản xuất giảm chỉ chiếm 86% tổng số nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu trong cho vay tiêu dùng tăng lên chiếm 14%. Có sự thay đổi trên một phần là do trong năm 2006 tỷ lệ dư nợ trong cho vay tiêu dùng đã tăng 28.3% so với năm 2005 và chiếm tới 27% tổng dư nợ. Năm 2007 tỷ lệ nợ xấu trong cho vay hộ sản xuất lại tăng lên chiếm 88% tổng nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu trong cho vay tiêu dùng giảm xuống chiếm 12% điều này cũng dễ hiểu vì dư nợ trong cho vay tiêu dùng trong năm đã có xu hướng tăng chậm hơn năm 2006 (mức tăng là 8.64%) và chậm hơn mức tăng của dư nợ cho vay hộ sản xuất ( tăng 14.2%). Trong các năm tỷ lệ nợ xấu trong cho vay hộ sản xuất luôn chiếm một tỷ lệ cao tuyệt đối trong tổng nợ xấu cho thấy đối tượng khách hàng truyền thống của chi nhánh chính là những khách hàng đem đến rủi ro cho chi nhánh nhiều nhất, tuy nhiên đây cũng là lẽ dĩ nhiên bởi dư nợ cho vay hộ sản xuất của chi nhánh cũng luôn chiếm trên 70% tổng dư nợ. Hơn thế nữa hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động nhiều rủi ro nên việc tài trợ vốn cho các hộ để phục vụ mục đích kinh doanh cũng gặp nhiều rủi ro hơn so với việc tài trợ một phần nhu cầu tiêu dùng thông thường của các hộ gia đình. Để giảm bớt rủi ro tín dụng từ đối tượng khách hàng này đem đến chi nhánh cần kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các khoản tín dụng cấp cho đối tượng này.
2.Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Hoá chi nhánh Ba Đình.
2.1.Các biện pháp của chi nhánh Ba Đình nhằm ngăn ngừa và xử lí rủi ro.
Trong thời gian qua ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động tín dụng để làm giảm bớt nợ quá hạn, nợ xấu mới đồng thời cũng nỗ lực hết mình nhằm xử lí nợ tồn đọng và đã đạt được một số thành tựu thực tế.
2.1.1.Các biện pháp của chi nhánh trong việc hạn chế nợ quá hạn mới.
- Tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng:
Để hạn chế nợ quá hạn mới, các cán bộ tín dụng của chi nhánh luôn tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng, từ việc xem xét hồ sơ, phân tích tín dụng để đánh giá khách hàng nhằm đưa ra được các quyết định tín dụng đúng đắn, thực hiện giải ngân theo đúng hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của khách hàng được liên tục, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của khách hàng nhằm đảm bảo nắm bắt kịp thời mọi thông tin liên quan đến việc thực hiện kế hoạch trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ tín dụng khác của khách hàng, đến việc thông báo, đốc thúc khách hàng trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Trong quy trình này việc nghiên cứu tìm hiểu kỹ khách hàng trước khi đưa ra quyết định tín dụng là bước quan trọng nhất. Khách hàng là đối tượng chính gây ra rủi ro cho ngân hàng vì thế việc đánh giá khách hàng một cách đúng đắn, kỹ càng trên nhiều phương diện có thể xác định được mức độ rủi ro thực tế và tiềm ẩn mà ngân hàng phải đối mặt khi có quan hệ tín dụng với khách hàng. Đây là bước cần thiết nhằm hạn chế sự không cân xứng về thông tin giữa khách hàng và ngân hàng khi ngân hàng đứng ở vị thế thông tin không cân xứng. Những thông tin có được sẽ là cơ sở để cán bộ tín dụng đưa ra các quyết định về việc cho vay hay không, mức cho vay bao nhiêu, áp dụng mức lãi suất nào, làm cơ sở cho việc áp dụng các quy định khác nhau về giám sát tín dụng, điều kiện tín dụng…Khách hàng càng xấu càng phải giám sát chặt chẽ và có các điều kiện tín dụng chặt chẽ.
-Thực hiện bảo đảm tín dụng: Để đảm bảo tính an toàn trong hoạt động tín dụng đối với các đối tượng khách hàng mới hoặc có mức độ rủi ro cao chi nhánh đã sử dụng công cụ là các hình thức bảo đảm bằng tiền vay. Hiện nay ở chi nhánh áp dụng 4 hình thức bảo đảm theo đúng quy định trong quyết định số 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 3/12/2007 của hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam về việc ban hành quy định thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam là:
+ Cầm cố tài sản trong đó hình thức chủ yếu là nhận cầm cố thẻ tiết kiệm của khách hàng và thường là sổ do chính chi nhánh cấp cho khách hàng.
+ Thế chấp tài sản: Tài sản thế chấp chủ yếu được chi nhánh áp dụng là các tài sản hiện có của khách hàng như nhà ở, quyền sử dụng đất…
+ Ký quỹ: Đây là hình thức bảo đảm mới được áp dụng ở chi nhánh nên chưa được áp dụng phổ biến mà chủ yếu áp dụng với một số ít các khách hàng là doanh nghiệp.
+ Bảo lãnh: Để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố tài sản tại chi nhánh theo đúng quy định. Tại chi nhánh chủ yếu là các trường hợp người thân trong gia đình bảo lãnh cho nhau.
Chi nhánh ngân hàng đã nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc và điều kiện đảm bảo tín dụng đã ban hành. Đối với các tài sản được sử dụng làm bảo đảm trong hợp đồng tín dụng cán bộ tín dụng của chi nhánh phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra tài sản nhằm đảm bảo bảo tồn được hiện trạng cũng như giá trị của tài sản tránh tình trạng mất mát, hao mòn, hư tổn tài sản bảo đảm. Tuy nhiên hiện nay không chỉ riêng chi nhánh mà hầu hết các ngân hàng ở Việt Nam gặp phải một số vấn đề khi áp dụng các hình thức bảo đảm bằng tài sản. Vấn đề đầu tiên là việc ngân hàng gặp khó khăn khi xác định quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng đối với tài sản đảm bảo đặc biệt là đối với các tài sản như đất đai, nhà ở. Tình hình này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của chi nhánh, dặc biệt là khi tài sản bảo đảm bị phát mại.Vì không nắm trong tay quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản bảo đảm nên ngân hàng rất bị động trong việc xử lí tài sản bảo đảm để thu hồi vốn tín dụng.Việc định giá tài sản bảo đảm cũng là vấn đề còn nhiều khúc mắc cần giải quyết. Việc định giá chỉ có thể thực hiện được khi có sự hỗ trợ của hệ thống thông tin về thị trường và giá cả bất động sản mọt cách đầy đủ, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vấn đề định giá tài sản bảo đảm còn mang tính áp đặt dưới sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng và tuỳ vào kinh nghiệm của từng ngân hàng trong khi đó việc mua bán tài sản bằng phát mại, đấu giá lại là hình thức mua bán theo giá thị trường, do vậy việc định giá tài sản bảo đảm mang nặng tính hình thức. Do phải định giá tài sản trong điều kiện hiện nay, chi nhánh đã phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra quyết định về giá trị của tài sản bảo đảm của khách hàng để từ đó xác định mức cho vay phù hợp.
- Lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp cho các khoản nợ khó đòi. Chi nhánh luôn phải theo dõi và đánh giá tài sản có để thực hiện trích lập các khoản dự phòng bù đắp rủi ro kịp thời theo đúng quy định trong quyết định số 636/QĐ-HĐQT-XLRR ngày 22/06/2007 của hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
Bảng 6: Thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tại chi nhánh
( Đ.vị: triệu đồng)
2006
2007
Tổng dư nợ
136,965
154,303
Trích lập dự phòng rủi ro
2,054
3,086
Tỷ lệ trích lập DPRR/tổng dư nợ
1.5%
2%
Nhìn vào bảng trên có thể thấy rằng tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của chi nhánh năm 07 đã tăng so với năm 06 trong khi nợ xấu có xu hướng giảm chứng tỏ tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh đã tăng lên đồng thới chi nhánh cũng đã quan tâm chú ý hơn đến việc trích lập dự phòng rủi ro theo đúng quy định.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Việc kiểm tra kiểm soát được thực hiện xen kẽ giữa các bước của quy trình tín dụng, thể hiện qua việc xét duyệt thông qua của trưởng phòng tín dụng, giám đốc của chi nhánh nhằm giám sát chặt chẽ việc chấp hành các quy trình, quy phạm nghiệp vụ kinh doanh của cán bộ tín dụng. Đồng thời tiến hành các cuộc kiểm tra kiểm soát theo định kì do đó đã hạn chế tối đa việc vi phạm nguyên tắc của cán bộ tín dụng.
2.1.2.Nỗ lực xử lí nợ tồn đọng của NHNo&PTNT Thanh Hoá chi nhánh Ba Đình.
- Đối với các khoản nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo:
+ Đối với tài sản thế chấp, cầm cố hoặc tài sản thế chấp của bên bảo lãnh, tài sản gán nợ, tài sản toà án giao cho thì chi nhánh đã chủ động xử lí theo các hình thức như tự bán công khai trên thị trường, bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. trường hợp giá bán tài sản thu về thấp hơn giá trị nợ tồn đọng thì phần chênh lệch được bù đắp từ nguồn dự phòng rủi ro của chi nhánh.
+ Đối với loại nợ có tài sản bảo đảm thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết nhưng chưa giao cho chi nhánh thì chi nhánh đề nghị cơ quan thi hành án nhanh chóng giao cho chi nhánh để xử lí.
+ Đối với những tài sản đảm bảo chưa bán được thì chi nhánh nâng cấp, cải tạo tài sản để bán,cho thuê…
- Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ vẫn đang tiếp tục hoạt động thì chi nhánh có thể bán nợ để thu hồi vốn hoặc cơ cấu lại nợ bằng cách giãn nợ, miễn giảm lãi suất đồng thời tư vấn cho khách hàng các biện pháp nhằm khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu hồi được đầy đủ các khoản nợ.
- Đối với các khoản nợ của các khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản hoặc cá nhân bị chết hoặc mất tích chi nhánh có thể sử dụng các khoản dự phòng để xử lí đồng thời hạch toán khoản nợ đã xử lí ra ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để.
Bảng 7.Thực hiện xử lí và thu hồi nợ đã xử lí rủi ro của chi nhánh
(Đơn vị: triệu đồng)
2006
2007
Nợ đã xử lí rủi ro
1,995
2,764
Thu hồi nợ đã xử lí RR
333
348
Tỷ lệ thu hồi nợ đã xử lí RR
16.7%
12.6%
Nhìn vào bảng trên có thể thấy năm 2006 chi nhánh đã thu hồi được 16.7% tổng nợ đã xử lí rủi ro nhưng vẫn chỉ đạt được 77% chỉ tiêu kế hoạch được giao. Năm 2007 số nợ thu hồi có tăng lên nhưng tỷ lệ thu hồi vẫn giảm đi do số nợ đã xử lí rủi ro cũng tăng nhanh, chi nhánh cũng chỉ hoàn thành được 62% chỉ tiêu kế hoạch được giao.
- Đối với các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí, việc xử lí rủi ro phải thực hiện theo quy định của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam.
2.2. Tồn tại ở chi nhánh và nguyên nhân.
2.2.1.Những tồn tại ở chi nhánh.
Mặc dù qua 6 năm hoạt động chi nhánh đã thu được nhiều kết quả đáng mừng như: lợi nhuận luôn tăng trưởng qua các năm, tổng vốn huy động và tổng dư nợ cũng liên tục tăng, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm chứng tỏ chất lượng tín dụng của chi nhánh đang được cải thiện. Chi nhánh ngày càng tạo dựng được uy tín và hình ảnh tốt đẹp trong tâm trí khách hàng và cư dân trên địa bàn và khu vực lân cận. Song bên cạnh những thành công bước đầu đó không thể không nói đến những mặt tồn tại cần được chi nhánh quan tâm khắc phục.
- Tuy tỷ lệ nợ xấu đã giảm đi theo từng năm nhưng chất lượng tín dụng vẫn là một vấn đề đáng quan tâm nhất là tín dụng hộ sản xuất kinh doanh, đối tượng khách hàng chính của chi nhánh. Năm 2007 tỷ lệ nợ xấu của chi nhánh chỉ chiếm 0.8% nhưng nếu tính cả nợ đã xử lý rủi ro thì tỷ lệ nợ xấu lên tới 2.6%.
- Vẫn còn tồn tại nợ khoanh tuy số nợ khoanh qua các năm không lớn nhưng nó vẫn làm ứ đọng vốn của chi nhánh.
- Việc thực hiện đảm bảo tín dụng ở chi nhánh còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết như đã phân tích ở trên, hơn thế nữa các cán bộ tín dụng của chi nhánh có phần chủ quan lơ là khi thực hiện bảo đảm tín dụng đối với các khách hàng quen, đôi khi chỉ mang tính hình thức.
2.2.2. Nguyên nhân.
* Nguyên nhân do khách hàng vay vốn: nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính và truyền thống nhất. Các đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các hộ sản xuất vay vốn với mục tiêu đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình vay vốn nhằm bù đắp phần thiếu hụt trong nhu cầu tiêu dùng của gia đình và một số doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong quy mô gia đình. Bất cứ một biến cố rủi ro nào xảy đến cho các đối tượng khách hàng cũng đều khiến ngân hàng có thể gặp phải rủi ro, hơn thế nữa các hành vi gian lận, lừa đảo của các khách hàng càng khiến chi nhánh gặp phải các rủi ro lớn hơn. Những nguyên nhân gay rủi ro cho ngân hàng từ phía khách hàng thường là:
- Khách hàng là các doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty TNHH): những khách hàng là doanh nghiệp của chi nhánh thường là các doanh nghiệp nhỏ, thường được phát triển từ hoạt động kinh doanh mang tính chất nhỏ lẻ của gia đình, do đó chủ doanh nghiệp thường là những người quản lí dựa vào kinh nghiệm nhiều năm kinh doanh là chủ yếu chứ hầu hết không được đào tạo từ các trường lớp một cách chuyên nghiệp về quản lí và về chính nghành nghề mà họ đang hoạt động. Chính vì thế hoạt động kinh doanh của họ thường không được lên kế hoạch thu chi một cách cụ thể, chính xác nên việc sử dụng đồng vốn của ngân hàng không thực sự hiệu quả dẫn đến kinh doanh thhua lỗ, không thể hoàn lại vốn cho ngân hàng.
Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh mang tính nhỏ lẻ, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, dễ thay đổi,cũng xuất phát từ hạn chế về trình độ mà các hoạt động kinh doanh thương mại thường mang tính phong trào, người này thấy người khác “làm ăn” được trong một lĩnh vực mới thì bắt chước làm theo mà không quan tâm đến nhu cầu thị trường, mức độ cạnh tranh và thường đưa ra các quyết định kinh doanh sai lầm, đầu tư vào những lĩnh vực gần như đã bảo hoà vì vậy mà kinh doanh thua lỗ mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng.
Kinh doanh nhỏ cũng đồng nghĩa với việc chỉ đầu tư vào một mặt hàng, không thể đa dạng hoá trong kinh doanh, do đó chỉ cần có quyết định đấu tư sai lầm thì vốn của doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng, hoạt động kinh doanh thua lỗ không được bù đắp bởi các nguồn khác, mất đi nguồn chính để trả nợ ngân hàng doanh nghiệp sẽ không thể trả được nợ.
Một nguyên nhân gây ra rủi ro lớn nhất cho chi nhánh là việc doanh nghiệp cố tình lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng, sử dụng vốn sai mục đích. Đây là hành vi lừa đảo phổ biến của các doanh nghiệp tư nhân mà cán bộ tín dụng không thể lường trước được.
- Khách hàng là các cá nhân, hộ vay tiêu dùng:
Nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng từ phía đối tượng khách hàng này là do các cá nhân, hộ gia đình không lập được các kế hoạch chi tiêu một cách chính xác, không lường trước được các biến cố có thể xảy ra ảnh hưởng đến nguồn thu, chi của mình (như bị mất việc, giảm lương, ốm đau, tai nạn…) dẫn đến không thể thực hiện được kế hoạch trả nợ cho ngân hàng.
Một nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng chung cho mọi đối tượng khách hàng là rủi ro đạo đức từ phía khách hàng, tức là khách hàng có khả năng trả nợ nhưng lại không có thiện chí trả nợ, chây ì không chịu thanh toán cho ngân hàng. Cho vay theo tổ nhóm xuất hiện nhiều trường hợp tổ trưởng thu nợ không nộp cho ngân hàng, đây là vấn đề cần quan tâm trong việc triển khai quy trình quản lí của chi nhánh.
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
- Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đặc biệt là địa bàn thành phố rất nhiều chi nhánh của các ngân hàng cổ phần được thành lập. Trước sức ép cạnh tranh từ phía các đối thủ cạnh tranh mới cùng với sức ép trong việc hoàn thành chỉ tiêu dư nợ được giao, để lôi kéo khách hàng nhiều cán bộ tín dụng đã cố tình vi phạm quy trình tín dụng, nới lỏng điều kiện cho vay, lựa chọn các phương án kinh doanh nhiều rủi ro khiến ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng.
- Việc thực hiện tài sản bảo đảm cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Nếu ngân hàng áp dụng chặt chẽ các quy định về tài sản bảo đảm khi đưa ra quyết định tín dụng thì có thể bỏ qua nhiều khách hàng tốt, có tiềm năng nhưng không đủ tài sản đảm bảo theo quy định. Ngược lại nếu ngân hàng không áp dụng chặt chẽ các điều kiện này thì sẽ phải đối mặt với rủi ro mất vốn khi khách hàng mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ tín dụng. Việc lựa chọn giữa lợi nhuận và an toàn đôi khi có quyết định sai lầm dẫn đến rủi ro cho chi nhánh.
- Chi nhánh chưa thực hiện thật tốt việc quản lí rủi ro. Hiện nay ở chi nhánh hầu như chỉ chú trọng tới khâu thẩm định trước khi đưa ra quyết định tín dụng mà lơ là, chưa quan tâm đến khâu kiểm tra, giám sát tín dụng trong giai đoạn khách hàng sử dụng vốn do vậy mà không kiểm soát được hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng, không kịp thời có các biện pháp can thiệp nhằm đảm bảo thu hồi đầy đủ vốn tín dụng.
- Thực hiện chưa đầy đủ các phương thức san sẻ rủi ro. Chi nhánh chủ yếu sử dụng nguồn vốn của mình vào hoạt động cho vay còn các hoạt động đầu tư khác là không đáng kể do đó rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ không thể được bù đắp san sẻ bởi các nguồn thu khác dẫn đến hậu quả là rất nặng nề.
- Khó khăn trong việc đánh giá và phân loại các khoản cho vay. Việc phân loại các khoản cho vay theo các tiêu thức khác nhau giúp cho việc quản lí hoạt động tín dụng sát thực hơn và ngân hàng thấy được khả năng thu nợ của mình từ đó đưa ra biện pháp hợp lí để đề phòng nợ quá hạn hay mất vốn. Hiện tại chi nhánh mới thực hiện phân loại nợ theo thời hạn và theo thành phần kinh tế mà chưa phân loại theo khả năng thu hồi nợ nên việc giám sát tín dụng gặp nhiều khó khăn.
- Chi nhánh chưa thực sự có chính sách quản lí rủi ro tín dụng. Chi nhánh chưa quan tâm đúng mức tới việc phân loại và theo dõi khách hàng theo các tiêu chí khác nhau, chưa có biện pháp phân tán rủi ro…Thực tế chi nhánh chưa có một chính sách, cơ chế về quản lí rủi ro tín dụng đầy đủ để định hướng cho cán bộ tín dụng thực hiện.
- Cán bộ tín dụng của chi nhánh vẫn chưa tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng. Vẫn còn tồn tại hiện tượng vì các mối quan hệ quen biết mà cán bộ tín dụng đưa ra quyết định cho vay dù khách hàng không đáp ứng được yêu cầu theo quy định chính vì thế gây ra rủi ro cho ngân hàng.
- Nhận thức của cán bộ tín dụng đối với rủi ro tín dụng còn hạn chế do đó họ chưa quan tâm đúng mức tới những biến cố có thể gây ra rủi ro tín dụng, chưa quan tâm tới việc phân loại khoản cho vay theo nghành nghề và xem xét tác động của nghành nghề đến khách hàng để có thể dự báo trước những biến động của nghành và kịp thời điều chỉnh hoạt động cho vay sao cho phù hợp. Một số cán bộ tín dụng có trình độ hạn chế gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định các phương án, dự án cho vay nên có thể đưa ra các quyết định sai lầm. Một nguyên nhân quan trọng là ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ chưa cao, chưa thực hiện đúng quy trình tín dụng.
* Nguyên nhân rủi ro do môi trường kinh doanh: trong thời gian qua do sự thay đổi trong chính sách tiền tệ quốc gia nhằm nỗ lực kiềm chế lạm phát, hội đồng quản trị NHNo&PTNT đã có nhiều quyết định điều chỉnh về chính sách tín dụng trong đó nổi bật là sự thay đổi liên tục của lãi suất cho vay, gây ra nhiều khó khăn cho việc tính toán và thực hiện trả lãi của khách hàng do không kịp thay đổi kế hoạch tài chính.
Ngoài ra trong thời gian qua Thanh Hoá là một tỉnh phải hứng chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh, từ đợt rét đậm rét hại vừa qua đến các dịch bệnh trên gia súc gia cầm như cúm gia cầm, lợn tai xanh… Tuy khách hàng chính của chi nhánh không phải là nông dân, không trực tiếp chịu ảnh hưởng của các tai hoạ trên nhưng hoạt động kinh tế trên toàn tỉnh đều bị tác động nên khách hàng của ngân hàng cũng gánh chịu các hậu quả chung vì thế cũng gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của chi nhánh.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Ba Đình
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi vì thế mọi nỗ lực của ngân hàng là nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đến mức tối đa trên cơ cở đảm bảo doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Hoạt động tín dụng trên thực tế cho thấy rằng một ngân hàng với hệ thống tổ chức tốt thường có khả năng tiếp thu và giải quyết tốt các tổn thất, quản lí và kiểm soát được rủi ro tốt hơn vì thế giảm được phần nào rủi ro về tín dụng.
1. Công tác tổ chức cán bộ.
- Tiến hành thực hiện công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng của chi nhánh:
Trong hoạt động tín dụng, chất lượng nguồn nhân lực mà trực tiếp là các cán bộ tín dụng đóng vai trò quyết định đến chất lượng cuẩ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng bị tha hoá về đạo đức, thiếu trình độ nghiệp vụ thì có thể tạo điều kiện cho khách hàng lũng đoạn ngân hàng. Thực tế cho thấy khi cán bộ tín dụng cấu kết với khách hàng hay thông đồng với nhau thực hiện hành vi lừa đảo sẽ gây thiệt hại nặng nề cho ngân hàng. Thực hiện công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng là việc cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng đối với mọi ngân hàng. Chi nhánh Ba Đình là một chi nhánh nhỏ trực thuộc NHNo&PTNT Thanh Hoá, việc phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào chính sách của NH cấp trên do đó ban lãnh đạo ngân hàng phải kiến nghị với NHNo&PTNT Thanh Hoá có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức có lên quan đến nghiệp vụ của các cán bộ đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. Một ngân hàng mạnh thì điều kiện hàng đầu là phải có đội ngũ tín dụng có đủ tư cách, phẩm chất đạo đức tốt và có trình độ chuyên môn giỏi. Qua các đợt đào tạo nghiệp vụ trình độ của các cán bộ tín dụng sẽ được nâng cao giúp họ kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế công việc giúp công việc đạt hiệu quả tốt hơn.
- Nâng cao chất lượng của công tác kiểm soát nội bộ.
Tại chi nhánh, các cán bộ tín dụng hầu như đảm đương toàn bộ mọi công việc trong quy trình tín dụng từ công tác thẩm định, ra quyết định và cấp tín dụng đến việc kiểm tra giám sát tín dụng và thu nợ. Hiện tượng này không tránh khỏi sự bất công trong xử lí nghiệp vụ, khó hạn chế tiêu cực, móc ngoặc giữa khách hàng với cán bộ tín dụng phụ trách họ, là nghuyên nhân gây ra nợ khó đòi. Tuy nhiên với quy mô nhỏ bé của chi nhánh việc xây dựng một cơ cấu tổ chức nhân sự theo hướng chuyên môn hoá là không hợp lí, không đảm bảo lợi ích kinh tế cho chi nhánh. Do đó để hạn chế tối đa các vi phạm của cán bộ tín dụng cách tối ưu là chi nhánh phải đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh công tác kiểm tra, kiểm soát giữa các giai đoạn trong quy trình tín dụng của lãnh đạo cấp trên.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm và quyền lợi đối với cán bộ ngân hàng:
Các cán bộ tín dụng phải được giao trách nhiệm đầy đủ đồng thời cũng phải được thông báo rõ ràng về quyền lợi mà họ được hưởng. Công việc được giao càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả công việc càng cao bấy nhiêu và hiệu quả công việc cần được đánh giá công bằng và cụ thể. Cán bộ lãnh đạo phải luôn có quan điểm làm theo năng lực hưởng theo lao động, phải có chính sách khen thưởng chính xác tạo không khí thi đua, làm việc trong ngân hàng, hạn chế các hiện tượng xấu và loại bỏ các cá nhân tiêu cực trong bộ máy hoạt động. Ban giám đốc phải luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ tín dụng để từ đó phát hiện những ưu điểm, nhược điểm của từng người để giao nhiệm vụ phù hợp đồng thời có các biện pháp khen thưởng, xử phạt đúng lúc đúng người.
2. Các quy chế tín dụng
- Tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng:
Tuân thủ quy trình tín dụng có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng của từng khoản vay và hạn chế được rủi ro xảy đến. Quy trình tín dụng được thực hiện một cách nghiêm túc sẽ giúp cho việc cho vay của ngân hàng chặt chẽ, đúng đối tượng, đủ cơ sở pháp lý, giảm bớt được phần nào rủi ro tiềm ẩn. Để đảm bảo thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng của tất cả các cán bộ tín dụng ban giám đốc chi nhánh cần thực hiện tốt các chỉ đạo điều hành của NHNo&PTNT Thanh Hoá nhất là trong việc hướng dẫn thực hiện lãnh đạo kiểm tra nhân viên, cấp trên kiểm tra cấp dưới và kiểm tra lẫn nhau trong việc thực hiện quy trình cấp tín dụng cho khách hàng. Cần xử lý nghiêm túc các trường hợp vi phạm, làm sai quy trình tín dụng. Đặc biệt ngân hàng cần tránh xu hướng buông lỏng các điều kiện tín dụng trong cạnh tranh với các ngân hàng khác nhằm lôi kéo thu hút khách hàng dẫn tới không đảm bảo được chất lượng tín dụng.
Trong quy trình tín dụng cần chú trọng tăng cường công tác thẩm định cho vay. Công tác thẩm định đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo an toàn tín dụng do vậy các cán bộ ngân hàng phải tiến hành tìm hiểu kĩ khách hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để đưa ra các quyết định tín dụng chính xác và phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự phù hợp giữa kế hoạch tài chính của khách hàng và kế hoạch thu nợ của ngân hàng.
- Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng:
Hiệu quả của công tác tín dụng phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của thông tin nên nâng cao chất lượng thông tin tín dụng là một đòi hỏi khách quan cấp bách. Hiện nay ở chi nhánh Ba Đình cán bộ tín dụng hầu như phải tự thu thập thông tin dựa trên những quan hệ cá nhân nên rất vất vả và độ tin cậy không cao, các quyết định tín dụng đưa ra chr yếu dựa vao kinh nghiệm và đánh giá chủ quan của từng cán bộ tín dụng nên rủi ro vào mức cao. Chi nhánh cần đầu tư nhiều hơn vào công nghệ thu thập và xử lý và lưu trữ thông tin tín dụng để làm tăng số lượng cũng như độ chính xác, cập nhật thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng
3. Xây dựng một chính sách kinh doanh hiệu quả
Hoạt động cho vay là hoạt động có tầm quan trọng và quy mô lớn vì vậy phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng dựa trên tình hình hoạt động thực tế và các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Chính sách tín dụng phải trở thành hướng dẫn chung cho các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng tạo sự thống nhất chung nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời
- Đa dạng hoá danh mục đầu tư:
Như đã phân tích hoạt động tín dụng ở chi nhánh còn có tập trung vào đối tượng cho vay là các hộ sản xuất kinh doanh. Để hạn chế rủi ro ngân hàng nên đầu tư vào nhiều ngành nghề khách nhau như: Thương nghiệp, dịch vụ, tiêu dùng…
Thực hiện đa dạng hoá đầu tư không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn đối với đầu tư khác. Ngân hàng có thể san sẻ rủi ro thông qua việc đầu tư vào các trái phiếu chính phủ, tham gia góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng khác, mua cổ phần của doanh nghiệp… cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán đã mở ra cho chi nhánh một hướng đầu tư mới vừa đem lại lợi nhuận vừa đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng vừa san sẻ một phần rủi ro do tập trung đầu tư quá nhiều vào hoạt động tín dụng.
- Mở rộng hình thức cho vay:
Hiện nay ngân hàng đang áp dụng các hình thức cho vay cầm cố, thế chấp, kí quỹ, bảo lãnh, cho vay không có hồ sơ bảo đảm bằng tài sản và tín chấp. Trong đó đại đa số đều vay theo các hình thức có bảo đảm bằng tài sản (chủ yếu là cầm cố và thế chấp), với hình thức này ngân hàng có được một sự đảm bảo chắc chắn hơn trong việc thu hồi vốn vay ngay cả khi khách hàng mất khả năng thanh toán nhưng mặt khác ngân hàng cũng có thể sẽ bỏ qua những khách hàng tốt có tiềm năng trong tương lai nhưng hiện tại lại không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn. Vì thế ngân hàng nên xem xét áp dụng hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản cho những khách hàng có các phương án, dự án kinh doanh khả thi sau khi đã có những kết luận hoàn hảo từ nghiệp vụ phân tích, thẩm định khách hàng. Có như vậy ngân hàng mới có thể thu hút được khách hàng và tận dụng tối đa cơ hội kinh doanh.
- Sử dụng hợp lí và có hiệu quả các công cụ bảo đảm tín dụng:
Tài sản bảo đảm là công cụ quan trọng trong quản lí tiền vay của ngân hàng, là cơ sở giúp ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ giúp ngân hàng giảm thiểu thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Đồng thời việc ngân hàng nắm giữ tài sản đảm bảo của khách hàng trong tay cũng là một biện pháp ràng buộc trách nhiệm pháp lí cũng như ý thức sử dụng vốn vay có hiệu quả của khách hàng. Chính vì vậy tài sản bảo đảm cần phải được thẩm định kĩ lưỡng đảm bảo đủ điều kiện để thế chấp, cầm cố và đủ giá trị để đảm bảo cho khoản vay theo đúng quy định. Trong trường hợp khách hàng được bảo lãnh bởi bên thứ 3 thì ngân hàng phải thẩm định, đánh giá uy tín của người bảo lãnh hoặc yêu cầu người bảo lãnh thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay khi người được bảo lãnh không trả được nợ. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng phải thường xuyên theo dõi và đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm để đảm bảo giá trị đảm bảo của tài sản còn nguyên vẹn.
Không thể phủ nhận vai trò của tài sản bảo đảm đối với việc phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng nhưng không vì thế mà ta tuyệt đối hoá vai trò của nó trong tín dụng. Mục đích của tín dụng không phải chỉ là thu được nợ mà chính là giúp khách hàng có thể duy trì hoặc mở rộng quy mô tăng lợi nhuận mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội. Một khi phải mang tài sản đảm bảo ra phát mại thì điều đó chứng tỏ rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thuận lợi dẫn đến không thể thực hiện nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng. Mặt khác không phải tài sản đảm bảo nào cũng có thể bán dễ dàng trên thị trường và thu về được đầy đủ giá trị để ngân hàng có thể thu hồi đủ vốn. Do vậy đối với một số khách hàng ngân hàng đã thẩm định thấy rõ tiềm năng tương lai và uy tín của khách hàng thì không nên quá coi trọng vấn đề tài sản bảo đảm mà có thể xem xét cho vay theo hình thức không có tài sản bảo đảm như đã trình bày ở trên.
- Thực hiện các biện pháp san sẻ rủi ro:
Ngân hàng có thể thực hiện việc cho vay đồng tài trợ đối với các dự án lớn, như vậy ngân hàng vừa có thể đảm bảo tỷ lệ cho vay theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh vừa có thể san sẻ rủi ro cho nhiều đối tác nhờ thế mà hậu quả phải gánh chịu nếu rủi ro xảy ra cũng nhỏ hơn rất nhiều. Vì vậy cách tốt nhất để chi nhánh có thể hạn chế được rủi ro khi cho vay các hợp đồng tín dụng lớn đó là chỉ cho vay với tỉ lệ nhất định phù hợp với khả năng nguồn vốn của chi nhánh.
Bên cạnh đó ngân hàng có thể kí kết các hợp đồng bảo hiểm nhằm san sẻ rủi ro, bù đắp một phần thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Hiện nay ngành bảo hiểm ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, chưa thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng nên việc chi nhánh trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp là không khả thi. Tuy nhiên ngân hàng vẫn có thểư dụng các hình thức bảo hiểm tín dụng như: yêu cầu khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm nghành nghề mà họ kinh doanh, bằng các đó những khoản tín dụng của ngân hàng cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Hoặc ngân hàng tự bảo hiểm cho mình bằng cách lập quỹ dự phòng để bù đắp những thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng.
4. Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ trực tiếp từ khách hàng.
Chi nhánh cần xác định lại các khoản nợ xấu, tiến hành tái thẩm định đối với khách hàng để đánh giá thực trạng nợ khó đòi của từng hồ sơvà khả năng thu hồi trên cơ sở đó đưa ra các phương án thích hợp để thu hồi tối đa số nợ. Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp linh hoạt trong quá trình truy thu như giãn nợ, giảm lãi suất, miễn giảm một phần gốc…tạo điều kiện tối đa để khách hàng có thể khôi phục và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nguồn thu để trả nợ ngân hàng trong tương lai. Biện pháp này chỉ áp dụng với các doanh nghiệp tuy gặp khó khăn nhưng vẫn duy trì được hoạt động, có nguồn thu và có thiện chí trả nợ và có tài sản bảo đảm dễ phát mại. Ngân hàng cũng có thể giúp đỡ khách hàng bằng việc sử dụng kinh nghiệm và các mối quan hệ của mình tư vấn, giới thiệu cho khách hàng biện pháp giải quyết vấn đề, vượt qua khó khăn.
Trường hợp khách hàng cố tình chây ì, kông có thiện chí trả nợ, ngân hàng nên phối hợp với các cơ quan pháp luật dùng các biện pháp từ thuyết phục khách hàng tự giác giao nộp tài sản trả nợ đến biện pháp cưỡng chế tịch thu tài sản gán nợ.
Kết luận
Trong môi trường nền kinh tế thị trường không ngừng biến động và phát triển ở Việt Nam hiện nay, các ngân hàng phải luôn tự hoàn thiện mình để thoả mãn mọi nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Hơn thế nữa, việc Việt Nam gia nhập vào WTO đã mở ra một cơ hội mới cho sự hình thành và phát triển của một loạt các ngân hàng cổ phần và sự xâm nhập của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Chính vì thế mức độ cạnh tranh trong nghành ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt. Để cạnh tranh được với các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Thanh Hoá- Chi nhánh Ba Đình, theo sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên dã triển khai nhiều chính sách mới nhằm nâng cao doanh số dư nợ. Trong quá trình kinh doanh, chi nhánh phải biết chấp nhận rủi ro ở mức nhất định vì mục tiêu tăng trưởng mà vẫn đảm bảo hoạt động ổn định, phát triển vững chắc. Để làm được điều đó chi nhánh Ba Đình phải tăng cường quản lí toàn bộ hoạt động của ngân hàng trên các lĩnh vực và đặc biệt là hoạt động tín dụng, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể để đưa ra những biện pháp phù hợp nhất để quản lí rủi ro một cách hiệu quả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32987.doc