Chuyên đề Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng

Qua những nghiên cứu ở trên ta có thể rút ra một số kết luận sau:Phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta và một số nước trên thế giới cho thấy vị trí của kinh tế hộ nông dân trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Khẳng định về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn. Kinh tế hộ nông dân tồn tại khách quan không phụ thuộc vào chế độ kinh tế xã hội. Kinh tế hộ nông dân là một tổ chức kinh tế tự chủ, là hình thức kinh tế có hiệu quả phù hợp với sản xuất nông nghiệp. Hiện nay kinh tế hộ nông dân cung cấp phần lớn nông sản phẩm cho nước ta và thế giới.

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất của các hộ nông dân Kết quả điều tra và phỏng vấn các hộ nông dân trong vùng nghiên cứu cho thấy khả năng tích tự tập trung vốn của đại bộ phận các hộ nông dân ở Cao Bằng thấp. Các hộ sản xuất trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, bình quân các hộ nông dân sử dụng vốn lưu động để đầu tư cho sản xuất còn rất thấp, chỉ khoảng 100.000 đ đến 120.000 đồng có một số hộ đầu tư cao cũng chỉ đến 500.000 đồng . Ngoài vốn đầu tư cho sản xuất, một số hộ sử dụng khoảng 50- 100 nghìn đồng để đầu tư mua công cụ phục vụ sản xuất. Do ít vốn nên hộ nông dân chủ yếu sử dụng vốn vào mua giống và một ít lượng phân hoá học, thuốc sâu, một số hộ nghèo không có vốn để mua vật tư, phân bón đã dẫn đến tình trạng cấy chay, chủ yếu khai thác độ phì tự nhiên của đất. Trên cơ sở tổng hợp các phiếu điều tra cho thấy, trong năm 2000 bình quân 1 hộ nông dân ở Cao Bằng chỉ tiêu khoảng 900.000 đến 1.000.000 đồng. Trong đó chi cho sản xuất khoảng 150.000- 200.000 đồng (chiếm khoảng 20%). Như vậy xét cả về số tuyệt đối và tương đối thì việc sử dụng vốn đầu tư cho sản xuất của hộ nông dân ở Cao Bằng còn rất thấp. Qua điều tra cho thấy tích luỹ hệ thống của hộ nông dân cũng phải dựa trên 1 nền nông nghiệp thặng dư của sự tích luỹ là chủ yếu do ăn dè hà tiện của người nông dân, những nông sản phẩm được bán đi để mua vật tư cho sản xuất đôi khi chính là những sản phẩm trong khẩu phần ăn hàng ngày mà họ tiết kiệm (tiêu dùng hạn chế). Nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân của các hộ nông dân chủ yếu là sản phẩm của ngành trồng trọt và chăn nuôi trong kinh tế hộ gia đình. Do thiếu vốn nên đã hạn chế nhiều đến việc mở rộng việc làm trong các hộ, hạn chế việc mở mang ngành nghề, thay đổi cơ cấu sản xuất, hạn chế thâm canh trong sản xuất nông nghiệp. 2. Tình hình tổ chức sản xuất của các hộ nông dân. Qua điều tra nghiên cứu về tình hình tổ chức sản xuất của các hộ nông dân còn duy trì cơ cấu sản xuất và phương thức canh tác đã hình thành từ lâu đời, tuy những năm gần đây đã có sự thay đổi nhất định nhưng nhìn chung sự thay đổi diễn ra rất chậm chạp. Các hộ nông dân với tập quán sản xuất chủ yếu là để tiêu dùng mà ít chú ý tới sản xuất hàng hoá. Cơ cấu sản xuất của hộ nông dân vẫn lấy trồng trọt (chủ yếu là sản xuất lương thực) là chính. Tuy nhiên với điều kiện là một tỉnh miền núi, quy mô đất canh tác của hộ thấp, do đó ở một số hộ đã chú ý tới chăn nuôi, coi chăn nuôi là một nguồn thu nhập quan trọng của kinh tế hộ gia đình. Kết quả điều tra cho thấy, nhìn chung trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giá trị bình quân của một số cơ cấu như sau: Ngành trồng trọt: 57,3% Ngành chăn nuôi: 37,6% Ngành rừng: 5,1% Riêng ở tiểu vùng bồn địa, nơi mà đất đai tương đối bằng phẳng đất ruộng đã được thâm canh. Đây là vùng trọng điểm sản xuất lúa, thuốc lá của tỉnh Cao Bằng thì giá trị sản lượng của ngành trồng trọt trong cơ cấu sản xuất của các hộ nông dân chiếm tới 68,3% tỷ trọng ngành chăn nuôi chỉ chiếm 29,2%. Trong ngành trồng trọt, sản xuất lương thực vẫn là chủ yếu, thu từ sản xuất lương thực của các hộ chiếm tới 90% giá trị của ngành trồng trọt. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, do tỉnh thực hiện tốt công tác giao đất, giao rừng, các hộ được quyền sử dụng đất lâu dài, cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt cũng bắt đầu có sự chuyển hướng ở một số hộ nông dân có khả năng tích luỹ và biết cách làm ăn. Kết quả điều tra cho thấy có một số hộ thuộc tiểu vùng bồn đại (huyện Hoà An và ngoại vi thị xã) đã có thu nhập từ nghề làm vườn mỗi năm từ 10- 15 triệu đồng. Đây là xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá của hộ nông dân cần được mở rộng trong những năm tới. Bảng 7: Cơ cấu sản xuất của các hộ nông dân ở Cao Bằng (Đơn vị: %) Hạng mục Chung toàn tỉnh Tiểu vùng núi đất Tiểu vùng bồn địa Tiểu vùng núi đá Tổng thu 100 100 100 100 1. Thu từ trồng trọt 57,3 68,3 49,7 49,9 2. Thu từ chăn nuôi 37,6 29,2 43,8 41,7 3. Thu từ nghề rừng 5,1 2,5 6,5 8,4 Nguồn: Tính toán từ kết quả điều tra năm 2000 của viện kinh tế. - Về phương thức canh tác Nhìn chung, kỹ thuật canh tác mới đã được các hộ nông dân ở Cao Bằng tiếp thu nhanh chóng và đã có sự thay đổi đáng kể, các giống cây, con mới đã được đưa vào sản xuất, sự thay đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng và chế độ kỹ thuật canh tác đã được nông dân chú ý đến. Để làm rõ vấn đề này, trong quá trình nghiên cứu, chúng ta cần đi sâu để tìm hiểu việc bố trí cơ cấu cây trồng hiện nay của các hộ nông dân ở Cao Bằng Kết quả điều tra chúng tôi thấy, hiện nay ở Cao Bằng có các cơ cấu cây trồng theo các công thức dưới đây + Lúa xuân- lúa mùa : đây là mô hình cây trồng tiến bộ trên đất ruộng đang được các hộ nông dân tìm mọi biện pháp để mở rộng quy mô. Hệ thống cây trồng đã đảm bảo bền vững cả về kinh tế, môi trường và xã hội, giá trị sản lượng thu được trên 1 ha đất canh tác thực hiện hệ thống cây trồng này đạt 12- 16 triệu đồng (tùy thuộc vào điều kiện sản xuất và trình độ thâm canh của các hộ). +Lúa mùa- bỏ hoá vụ Đông Xuân: Đây là mô hình cây trồng đặc thù cổ truyền của vùng Bắc Bộ nói chung và ở tỉnh Cao Bằng nói riêng. Hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng này thấp, giá trị sản lượng trên 1 ha đất canh tác chỉ đạt 5- 6 triệu đồng. Tuy nhiên, do điều kiện sản xuất thiếu nước nên hiện nay ở Cao Bằng vẫn còn tới 50% diện tích đất ruộng thực hiện chế độ canh tác này. +Lúa mùa- ngô xuân: Đây là mô hình đặc thù, truyền thống trên đất ruộng ở tiểu vùng núi đá của tỉnh Cao Bằng. Để nâng cao độ phì của đất, một số hộ nông dân đã đưa cây đậu mèo vào trồng cùng với ngô trong vụ xuân. Đây là hệ thống cây trồng vừa đảm bảo bền vững về kinh tế, vừa có tác dụng nâng cao độ phì của đất. Giá trị sản lượng thu được trên 1 ha đạt 8,0- 8,5 triệu đồng. +Thuốc lá xuân + lúa mùa:đây là mô hình cây trồng truyền thống và đặc thù ở tiểu vùng Bồn Địa (huyện Hoà An). Đây là hệ thống cây trồng có ý nghĩa tạo ra sản phẩm hàng hoá, tăng thu nhập và giải quyết thêm việc làm cho các hộ nông dân. Có thể nói đây là hệ thống cây trồng vừa đảm bảo bền vững cả về mặt kinh tế, cả về mặt xã hội vừa làm cho các hộ nông dân tiếp cận thị trường theo hướng sản xuất hàng hoá. Giá trị sản lượng thu được trên 1 ha sản phẩm thực hiện theo hệ thống cây trồng này đạt 14- 15 triệu đồng. +Ngô- đậu tương: là mô hình cây trồng khá phổ biến, được hầu hết các hộ nông dân tổ chức sản xuất, nhất là các hộ nông dân ở tiểu vùng núi đá. Hệ thống cây trồng này trên 1 ha hàng năm thu hoạch 2,5 tấn ngô và 6- 7 tạ đậu tương, giá trị sản lượng đạt từ 5- 6 triệu trên 1 ha. +Ngô- hè thu: là mô hình cây trồng cổ truyền được sản xuất trong mùa mưa, chủ yếu cung cấp lương thực và thức ăn cho chăn nuôi của các hộ nông dân. Giá trị sản lượng/ha của hệ thống cây trồng này chỉ đạt 2,8- 3 triệu đồng. +Lúa nương- sắn- rừng: đây là mô hình cây trồng hiện các hộ nông dân ở tiểu vùng núi đất đang tổ chức thực hiện nhiều. Theo phương thức đốt nương làm rẫy, khai thác độ phì nhiêu của đất và nhờ nước trời với chu kỳ luân canh 2 năm đầu trồng lúa cả, 2 năm tiếp trồng sắn, sau đó bỏ hoá 5- 6 năm (rừng tái sinh). Mô hình cây trồng này cho hiệu quả kinh tế thấp, bình quân giá trị sản lượng thu được mỗi năm khoảng 2 triệu đồng. + Đất chuyên mía: đây là mô hình cây trồng sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá của các hộ nông dân trong vùng nguyên liệu mía cung cấp cho nhà máy đường của tỉnh. Giá trị sản lượng đạt 12- 14 triệu đồng/ha. + Đất chuyên trồng cây ăn quả: cây ăn quả trong các vườn của hộ nông dân ở Cao Bằng rất đa dạng và phong phú, tuỳ thuộc vào từng tiểu vùng mà có các loại cây ăn quả khác nhau, nhưng nhìn chung gồm có lê, hồng, mơ, mận, cam, quýt, nhãn... do hiện nay chưa có kiến tạo nên thu nhập từ hệ thống này chưa cao, mới chỉ đạt 8- 10 triệu đồng/ha. Bảng 8:Hiệu quả kinh tế một số hệ thống cây trồng do các hộ nông dân tổ chức thực hiện ở Cao Bằng. Hệ thống cây trồng Sản lượng (tấn) Tổng thu (1000 đồng) Tổng chi (1000 đồng) Thu nhập (1000 đồng) 1. Lúa xuân- lúa mùa 7 14.000 5.560 8.440 2. Lúa mùa- thuốc lá 14.400 7.500 6.900 - Lúa mùa 3,5 7.000 2.600 4.400 - Thuốc lá xuân 9,7 7.400 4.900 2.500 3. Lúa mùa- ngô xuân 5,5 9.800 4.800 5.000 4. Ngô- đậu tương 6.600 3.000 3.600 - Ngô 2,5 3.800 1.800 2.000 - Đậu tương 0,7 2.800 1.200 1.600 5. Hệ thống nương rẫy 1,0 2.000 700 1.300 6. Hệ thống trồng mía 54 13.000 4.100 8.900 7. Hệ thống cây ăn quả 3 9.000 4.000 5.000 Nguồn: Sở Nông nghiệp vàphát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng. 3. Kết quả sản xuất và tình hình thu nhập của hộ nông dân + Kết quả sản xuất Kết quả sản xuất của các hộ nông dân phụ thuộc vào yếu tố sản xuất của các hộ (đất đai, lao động, vốn) và hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh của các hộ. Nhìn chung hiện nay các hộ nông dân ở Cao Bằng mới tập trung vào sản xuất các loại nông sản phục vụ chủ yếu cho nhu cầu tiêu dùng của các hộ theo kiểu tự cấp tự túc, lấy cây lúa, cây ngô, con trâu, con lợn là những đối tượng sản xuất chủ yếu của các hộ. Kết quả điều tra về sản xuất của các hộ nông dân ở các tiểu vùng sinh thái của tỉnh Cao Bằng được trình bày trong bảng sau: Bảng 9:Kết quả sản xuất của các hộ nông dân ở Cao Bằng (Tính bình quân/hộ) Hạng mục ĐVT Chung toàn tỉnh Tiểu vùng núi đất Tiểu vùng bồn địa Tiểu vùng núi đá 1. Sản lượng thóc kg 1584 1994 1310 1320 2. Sản lượng ngô kg 505 30 955 260 3. Sản lượng khoai, sắn kg 305 305 505 105 4. Sản lượng đậu tương kg 30 30 30 30 5. Số lượng trâu con 1,45 1,1 2,2 1,1 6. Số lượng lợn con 3,00 2,9 3,6 2,5 8. Số lượng gia cầm con 19 22 18 17 Nguồn:Niên giám thống kê Cao Bằng năm 2000 Qua bảng trên cho thấy hiện nay ở khu vực điều tra vấn đề an ninh lương thực cơ bản đã được giải quyết, bình quân lương thực của các hộ đạt từ 1600- 2400 kg/năm. Tính bình quân cho một nhân khẩu thì ở tiểu vùng núi đá là 296kg/người, tiểu vùng núi đất là 323 kg/người, và tiểu vùng bồn địa là 460 kg/người. Về cơ cấu lương thực, nhìn chung trên địa bàn toàn tỉnh có 72,7% là thóc, 27,3% là màu quy thóc. Tại tiểu vùng bồn địa, nơi có cánh đồng tập trung, có trình độ thâm canh lúa cao, tỷ trọng thóc trong tổng sản lượng lương thực là 85%. Tại tiểu vùng Núi đất, nơi chủ yếu tập trung sản xuất trên đất dốc có tỷ trọng thóc chỉ có 53,5%, còn lại 46,5% là màu quy thóc. Đặc trưng là sản phẩm trồng trọt mang tính hàng hoá chủ yếu hiện nay của các hộ gia đình, bình quân mỗi hộ hàng năm sản xuất được 25- 30 kg đậu tương. Ngoài sản xuất lương thực chăn nuôi đã được chú ý phát triển trong kinh tế hộ nông dân, bình quân mỗi hộ có khoảng 3 con trâu, bò, 2,6 con lợn và 19 con gia cầm. Tiểu vùng núi đất chăn nuôi phát triển hơn so với các tiểu vùng sinh thái khác, bình quân ở tiểu vùng này mỗi hộ nuôi 5 con trâu, bò và 3,2 con lợn. Qua điều tra cho thấy ở tiểu vùng này có một số hộ nuôi từ 6- 10 con trâu, bò và bắt đầu có xu hướng phát triển trâu bò để làm hàng hoá nhưng quy mô còn nhỏ (2- 3 con lợn và 80- 100 con gà). * Tình hình thu nhập Thu nhập của các hộ nông dân phụ thuộc chủ yếu vào kết quả sản xuất và phương thức phân phối. Mức thu nhập phản ánh trình độ sản xuất. Nó quy định mức sống, khả năng tiêu dùng và khả năng tích luỹ, khả năng tái sản xuất của hộ. Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới của đất nước và sự hỗ trợ của nhà nước cho các tỉnh miền núi, việc chuyển sang phát triển kinh tế hộ, lấy hộ làm đơn vị kinh tế cơ bản trong nông thôn thì thu nhập và mức sống của các hộ nông dân ở Cao Bằng đã được cải thiện đáng kể, số lượng hộ thiếu đói ngày càng giảm. Theo số liệu điều tra thì ở vùng nông thôn Cao Bằng tỷ lệ hộ nghèo đói giảm từ 33% năm 1994 xuống còn 25% năm Kết quả điều tra cho thấy mức thu nhập của các hộ nông dân bình quân của tỉnh năm 2000 đạt khoảng 5,27 triệu đồng, bình quân mức thu nhập một khẩu là 73.250 đồng/người/tháng. Như vậy hiện nay, mức thu nhập của các hộ nông dân ở Cao Bằng còn thấp và không đồng đều giữa các vùng. Mức thu nhập bình quân trên 1 khẩu ở tiểu vùng bồn địa gấp 1,5 lần so với tiểu vùng núi đá. Điều này phù hợp với điều kiện sản xuất của các hộ ở tiểu vùng sinh thái như đã trình bày ở trên. Bảng 10: Mức thu nhập của các hộ nông dân ở Cao Bằng (Đơn vị tính: 1000 đồng) Hạng mục Chung toàn tỉnh Tiểu vùng bồn địa Tiểu vùng núi đất Tiểu vùng núi đá 1. Thu nhập bình quân hộ/năm 5274,30 5402 5862,00 4116,00 2. Thu nhập bình quân hộ/tháng 439,525 450,16 488,50 343,00 3. Thu nhập bình quân khẩu/năm 879,05 1059,21 781,60 762,22 4. Thu nhập bình quân khẩu/tháng 73,25 88,26 65,13 63,51 Nguồn: Theo số liệu điều tra năm 2000 của Viện kinh tế. 4. Đánh giá chung về thực trạng kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng Trên cơ sở phân tích thực trạng kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng cho phép rút ra một số nhận xét chung như sau: 4.1. Những kết quả đạt được. Đến nay kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng đã được khẳng định là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp, đây là thành phần kinh tế sản xuất ra hầu hết khối lượng sản phẩm nông nghiệp của tỉnh hiện nay (ở Cao Bằng không có nông trường quốc doanh). Cùng với sự phát triển kinh tế chung của kinh tế hộ nông dân trong cả nước, kinh tế hộ nông dân Cao Bằng đã phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, phát triển tổng hợp, giảm dần tỷ lệ hộ chuyên sản xuất lương thực, hộ sản xuất hàng hoá ngày càng tăng, hình thức kinh tế trang trại đã xuất hiện và ngày càng tăng, hình thức kinh tế trang trại đã xuất hiện và ngày càng mở rộng, đã có một số hộ phát triển kinh tế trang trại quy mô tới 2- 3 ha, kết quả này mở ra hướng mới về phát triển kinh tế hộ gia đình ở Cao Bằng trong những năm tới. Hiện nay đã có một số hộ nông dân trong phát triển kinh tế hộ đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, nên đã đạt giá trị sản lượng 15- 20 triệu đồng trên 1 ha đất canh tác (tăng 2- 3 lần so với trước đây), nhiều hộ trồng cây ăn quả đã được 20- 30 triệu đồng/năm. Kết quả trên đã góp phần làm giảm tỷ lệ hộ đói nghèo, tăng tỷ lệ hộ giàu của tỉnh. Các chủ hộ nông dân ở tiểu vùng bồn địa Hoà An và các xã thuộc khu vực I miền núi của tỉnh, thông qua việc tổ chức thực hiện phát triển kinh tế hộ gia đình đã nâng cao được năng lực tổ chức quản lý, trình độ chuyên môn và hiểu biết về thị trường. Đây là nhân tố hết sức quan trọng để chuyển nông nghiệp của tỉnh sang sản xuất hàng hoá. 4.2. Những tồn tại, hạn chế đối với sự phát triển kinh tế hộ nông dân. Bình quân đất canh tác của hộ ít dẫn đến dư thừa lao động trong nông nghiệp, diện tích đất đai bình quân của hộ nông dân có xu hướng giảm do quá trình tách hộ giãn bản, trong khi đó trình độ sử dụng ruộng đất của các hộ nông dân còn hạn chế, chủ yếu vẫn dựa vào khai thác tự nhiên, thâm canh, luân canh cây trồng, tăng vụ còn thấp, sử dụng ruộng đất chưa gắn với việc bảo vệ đất, vì vậy với đặc điểm địa hình là đồi núi dốc, phương thức canh tác lạc hậu càng làm cho đất đai dễ bị rửa trôi, mất chất dinh dưỡng ảnh hưởng không tốt đến vấn đề phát triển sản xuất nông nghiệp và làm mất cân bằng sinh thái. + Công cụ sản xuất thô sơ vừa thiếu lại vừa lạc hậu, chủ yếu là cầy bừa, thủ công số hộ nông dân sử dụng máy móc các loại không đáng kể, nếu có (như máy kéo nhỏ, máy tuốt lúa, máy xay xát, máy bơm nước) đều là máy móc cũ kỹ, chắp vá có thể nói với trình độ trang bị công cụ lao động sản xuất như hiện nay đã hạn chế nhiều đến năng suất lao động và khả năng thâm canh trong nông nghiệp. + Kinh tế nông hộ của hộ hiện nay chủ yếu là sản xuất thuần nông, tỷ lệ sản xuất kinh doanh tổng hợp còn rất ít. + Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, số lao động có trình độ văn hoá cao rất ít thậm chí vẫn còn nhiều người mù chữ, lao động chủ yếu là giản đơn, ít am hiểu kỹ thuật, sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn theo kinh nghiệm. Đây là một khó khăn lớn để tổ chức phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá. + Mức thu nhập của các hộ hiện nay còn thấp, chỉ đạt 400- 500 nghìn đồng/hộ/tháng, nên khả năng tích luỹ vốn để đầu tư cho phát triển sản xuất còn hạn chế. + Cơ sở hạ tầng yếu kém là một cản trở lớn cho việc phát triển kinh tế hộ nông dân nhất là các hộ sản xuất hàng hoá, giao thông ở các vùng đi lại khó khăn, việc vận chuyển hàng hoá vất vả, điện nước thiếu, trường học, trạm xá không đủ. Chương III Định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng I. Định hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng trong thời gian tới. 1. Một số quan điểm phát triển kinh tế hộ nông dân. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về mặt lý luận kinh tế hộ nông dân của các nước trên thế giới, thự trạng và xu thế phát triển kinh tế hộ nông dân của nước ta nói chung và Cao Bằng nói riêng. Có thể đưa ra một số quan điểm phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng trong thời gian tới như sau: -Kết hợp hợp lý chuyên môn hoá và phát triển sản xuất tổng hợp, thâm canh, để chuyển kinh tế hộ nông dân từ sản xuất tự cấp tự túc, là chủ yếu sang sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phát triển kinh tế nông hộ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay Đảng ta chủ trương thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng giảm dần ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và ngành nghề trên cơ sở đó thực hiện phân công lại lao động, chuyển một phần lao động nông nghiệp sang nghề nghiệp dịch vụ. Do đó phát triển kinh tế hộ nông dân cũng phải theo hướng phát triển đó. - Để phát triển kinh tế hộ nông dân cần phát triển kinh tế trang trại và các hình thức kinh tế hợp tác. Từ thực trạng và xu hướng vận động của kinh tế hộ cho thấy: muốn kinh tế hộ phát triển chúng ta phải từng bước đưa kinh tế hộ nông dân ở Cao bằng từ kinh tế tiểu nông hiện nay lên hình thức phát triển hơn có hiệu quả hơn. Đó là nông trại gia đình quy mô nhỏ. Coi đây là hình thức tổ chức kinh tế hộ nông dân phổ biến và thích hợp đối với sản xuất nông nghiệp ở nông thôn Cao Bằng trong những năm tới.Đồng thời coi trọng và tạo điều kiện phát triển các hình thức kinh tế hợp tác để giúp đỡ kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại cùng phát triển. 2. Định hướng xây dựng các mô hình kinh tế hộ nông dân. Trên cơ sở điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ở các tiểu vùng sinh thái của tỉnh Cao Bằng, thực tế các loại hình kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng và xu hướng phát triển kinh doanh như đã đề cập ở các phần trên. Trong những năm tới trên đại bàn tỉnh Cao Bằng có thể xây dựng kinh tế hộ nông dân theo các loại hình hộ sau đây: - Loại hộ phát triển sản xuất lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi theo sản xuất hàng hoá. Loại hộ nông dân phát triển theo hướng này tập trung chủ yếu ở các hộ hiện nay lương thực sản xuất bình quân trên 500 kg/ người, ở các xã vùng trọng điểm trồng thuốc lá thuộc tiểu vùng Bồn Địa. Sản phẩm hàng hoá của các hộ nông dân phát triển kinh tế theo mô hìnhg này gồm lúa, thuốc lá, lợn và gia cầm. Loại hộ tự đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm và làm giàu bằng cây dài ngày và kinh doanh nghề trồng rừng. Mô hình phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng này được áp dụng cho những khu vực có bình quân đất ruộng/ hộ đạt khoảng từ 0,4 - 0,5 ha trên hộ và đất trồng cây dài ngày 1,0 ha/ hộ đất rừng từ 3 - 5 ha/ hộ. Với bình quân đất ruộng như trên, các hộ nông dân sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, chăn nuôi. Trên cơ sở an toàn lương thực sẽ có điều kiện để đầu tư phát triển cây dài ngày (chè, hồi, cây ăn quả) và phát triển nghề rừng theo hướng sản xuất hàng hoá. Sản phẩm hàng hoá của các hộ nông dân thuộc mô hình phát triển kinh tế này gồm sản phẩm cây công nghiệp dài ngày, hoa quả và lâm sản. - Loại hộ phát triển mía, hàng hoá, kết hợp với sản xuất kinh doanh. Mô hình phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng này, tập trung ở vùng nguyên liệu nhà máy đường Tà Lùng. Theo hướng này các hộ tập trung phát triển mía để cung cấp cho nhà máy, bên cạnh đó để phát huy lợi thế so sánh và tận dụng lao động của các hộ nông dân, đi đôi với sản xuất mía nguyên liệu các hộ cần phát triển chăn nuôi lợn và ép mật làm đường phên (loại đường mật truyền thống của tỉnh. Sản phẩm hàng hoá chính của các nông hộ thuộc mô hình phát triển kinh tế này là mía cây, đường phên, thịt lợn, đậu tương (đậu tương trồng luân canh với mía). - Loại hộ phát triển kinh tế theo hướng nông - lâm kết hợp kiểu trang trại. Loại hình này thường tổ chức sản xuất theo đất dốc tuỳ từng điều kiện ở từng khu vực mới có cây con chủ đạo loại hình này hiện nay bắt đầu được phát triển ở các xã thuộc khu vực nông thôn của thị xã Cao Bằng, các xã vùng núi huyện Hoà An, các xã thuộc huyên Thạch An và huyện Nguyên Bình (những nơi giao thông thuận lợi, gần thị trường). - Loại hộ lấy chăn nuôi làm kinh tế hàng hoá, kết hợp với các ngành kinh doanh khác. Loại hộ nông dân phát triển kinh tế theo hướng này có trể phát triển ở 2 khu vực. + Lấy chăn nuôi trâu bò làm chính, phát triển ở các xã miền núi đất đai nhiều. +Lấy chăn nuôi gà công nghiệp và chăn nuôi lợn nái làm chính, phát triển các ven thị xã, thị trấn. II. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng. Để thực hiện các định hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao bằng trong những năm tới như đã nêu ở trên nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, tăng tích luỹ, nâng cao sức sống của các hộ nông dân. Theo em cần giải quyết tốt một số biện pháp sau đây: 1. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực tế về việc phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta nói chung và ở Cao Bằng nói riêng trong những năm vừa qua đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng trong các chính sách của nhà nước để tạo ra những động lực tích cực thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đã cho rằng với mô hình kinh tế nông nghiệp của nhà nước ta hiện nay, kinh tế hộ hoạt động đã và sẽ có những khả năng huy động nông dân một cách có hiệu quả vào sự nỗ lực phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bởi lẽ hiện nay nông dân đã hưởng ứng những biện pháp khuyến khích mới và nhà nước đã có những chính sách đầu tư cụ thể giúp các hộ nông dân phát triển kinh tế. Chính vì vậy trong thời gian tới để thúc đẩy kinh tế hộ nông dân ở nước ta nói chung và ở Cao Bằng nói riêng, nhà nước cần có sự đổi mới các chính sách hướng tới sự cải tiến trong cơ chế, tạo ra một hệ thống tổ chức kinh tế nông nghiệp tiến bộ hơn, trong đó kinh tế hộ nông dân phải được ưu tiên phát triển để được sự hưởng ứng đồng tình của các hộ nông dân và hệ thống kinh tế hộ nông dân tiếp cận được với thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó cần có một hệ thống chính sách nhằm vào việc mở rộng khả năng sản xuất vật chất của kinh tế nông hộ bao gồm các chính sách hướng tới mọi sự phát huy những khả năng cung cấp công nghệ cải tiến các công cụ tốt hơn cho các nông hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tiến hành thâm canh trong nông nghiệp. Với hướng trên để tạo điều kiện cho hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế hoàn toàn độc lập, tự chủ huy động được mọi nguồn lực của các hộ nông dân để đóng góp cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Cao Bằng, nhà nước thông qua các cấp chính quyền ở tỉnh cần phải thực thi tốt một số giải pháp để phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn tỉnh sau đây: + Trên cơ sở các luật định ban hành, nhà nước cần phải giải quyết thoả đáng quan hệ kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ thực sự. Muốn vậy, trước hết phải khuyến khích các thành phần kinh tế đều phát triển để người nông dân không bị rơi vào tình trạng bất lợi trong việc lựa chọn dịch vụ của các hợp tác xã và cũng như vậy HTX mới có những giải pháp để làm dịch vụ rẻ, được nông dân chấp nhận và như vậy HTX mới thực sự có lợi cho nông dân. Với nguyên tắc nông dân nhận đất từ chính quyền nhà nước thay vì HTX hiện nay. Nhà nước cần có biện pháp ngăn chặn việc hỗ trợ đóng góp theo đầu diện tích đang phổ biến hiện nay. Chỉ có như vậy công dân mới tự do kinh doanh hơn và lợi ích của họ mới được đảm bảo. + Nhà nước cần có chính sách ưu đãi trong nghiên cứu phát triển (kể cả nhập từ ngoài vào) các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, đưa tiến bộ kỹ thuật canh tác, công nghệ mới vào sản xuất. Tỉnh cần nghiên cứu xây dựng, ban hành các chính sách về chế độ đãi ngộ với các cán bộ khuyến nông, cán bộ khuyến lâm, chính sách hỗ trợ sản xuất giống, chính sách sản xuất cây đặc sản, chính sách trợ vốn... để khuyến khích việc đưa tiến bộ kỹ thuật vào các hộ nông dân nhằm nâng cao trình độ sản xuất cho các hộ gia đình nông dân. + Nhà nước cần có các chính sách cho hộ nông dân vay vốn để không chỉ đầu tư vào vốn lưu động mà cả vốn cố định để các hộ nông dân có điều kiện mở rộng ruộng đất, tăng cường thiết bị phục vụ sản xuất, tăng cường áp dụng công nghệ mới và tiền thuê nhân công nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá cao. + Thực hiện nghiên cứu các chính sách xã hội kết hợp với chính sách kinh tế như chính sách bảo hiểm và bảo trợ giá sản xuất hàng hoá, khuyến khích làm giàu, xoá đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, giảm mức tăng dân số, tránh rủi ro cho các hộ nông dân. + Nhà nước cần có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, chính sách đổi mới ruộng đất, chính sách đẩy mạnh đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong nông nghiệp và phát huy năng lực nội tại của các hộ gia đình. Bởi vì như chúng ta đã biết kinh tế hộ nông dân phát triển trong những môi trường nhất định. Môi trường chính là khung cảnh diễn ra trong các hoạt động kinh doanh của các hộ nông dân. Các hộ nông dân phát huy các năng lực sản xuất của nó tới mức nào tuỳ thuộc vào môi trường được tạo ra thuận lợi hay cản trở đến sự phát triển của nó. Đối với các tỉnh miền núi, cần quan tâm đến các chương trình, dự án sau: *Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách và thường xuyên của tỉnh Cao Bằng. Mục tiêu phấn đấu đến hết năm 2002 không còn hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10%. Tỉnh tập trung mọi nguồn lực để phát triển vững chắc nền kinh tế xã hội ở nông thôn, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn, tiến hành phân công, bố trí lại lao động, phát triển nhiều ngành nghề. Xây dựng các dự án đầu tư, tập trung mọi nguồn vốn trong nước, tranh thủ vốn nước ngoài, để tạo vốn cho người nghèo phát triển sản xuất. Cần ưu tiên các hộ đói nghèo các dân tộc vùng cao, được cấp vốn, cấp vật tư hoặc vay vốn với lãi suất ưu đãi. - Đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục tiểu học xoá mù chữ, giảm được số trẻ em bỏ học, suy dinh dưỡng tới mức thấp nhất, tiến tới xoá bỏ mù chữ. - Xây dựng nông thôn mới, cải thiện điều kiện nhà ở, thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc, nhất là ở vùng sâu, vùng cao biên giới. Muốn vậy cần có các giải pháp và chính sách đồng bộ về trợ giúp vốn ưu đãi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ vùng cao, chính sách miễn giảm thuế, miễn giảm các khoản đóng góp, miễn giảm viện phí, học phí... cho đồng bào ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Chương trình xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng được tập trung ưu tiên ở 130 xã đặc biệt khó khăn nằm ở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Muốn xoá đói giảm ngèo phải thực hiện tốt các chương trình đồng bộ về phát triển kinh tế xã hội như: chương trình quốc gia về việc làm, chương trình định canh định cư, kinh tế mới, chương trình phát triển lâm nghiệp xã hội ... phải xây dựng các dự án đồng bộ có tính khả thi cao cho từng xã, tỉnh huyện cùng với xã chỉ đạo cho bằng được xoá xong 130 xã đói nghèo trong năm 2002. Đồng thời xây dựng cơ sơ hạ tầng đồng bộ cho các hộ nghèo, trước mắt tập trung xây dựng các cụm xã như Bản Bó – Bảo Lạc, Cần Yên huyện Thông Nông, Tổng Cọt huyện Hà Quảng, Đàm Thuỷ - Trùng Khánh, Canh Tân - Thạch An, Thị Hoa, Bằng Ca - Hạ Lang. * Thực hiện công tác định canh, định cư: Định canh định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số là một chủ chương lớn nằm trong chính sách dân tộc của Đảng, được nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng núi, dân tộc. Trong nhiều năm gần dây và cho đến nay tỉnh Cao bằng luôn luôn quan tâm tới định canh định cư nhằm từng bước ổn định lâu dân cư, sắp xếp lại sản xuất, phát triển kinh tế xã hội ở các bản, các xã và các vùng trong tỉnh, đặc biệt là các xã, bản thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Công tác định canh định cư của Cao Bằng đã có những đóng góp đáng kể trong việc ổn định dân cư, phát triển kinh tế và tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân thuộc đối tượng này. Tuy nhiên kết quả của vấn dề định canh, định cư chỉ mới thực hiện được một phần nhỏ so với yêu cầu vì vấn đề đó đang gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đem lại. Việc tổ chức thực hiện định canh định cư còn chậm và hiệu quả kinh tế chưa cao, thực hiện định canh định cư chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất. Tình trạng du canh du cư tự do và định canh định cư chưa ổn định, du anh du cư, định canh định cư của Cao Bằng vẫn còn nhiều. Điều đó làm ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế xã hội và văn hoá của vùng, làm mất cân đối về nhu cầu phục vụ xã hội tại chỗ như đường xá, trường học, nước sinh hoạt, hàng tiêu dùng cũng như kế hoạch di dân và đầu tư vốn cho các vùng dự án. Đời sống về vật chất và tinh thần của đồng bào thuộc đối tượng ĐCĐC của tỉnh Cao Bằng hiện tại còn rất khó khăn lớn nhất là trình độ dân trí thấp và không đồng đều, tỷ lệ mù chữ cao đã hạn chế đến việc tiếp thu và triển khai thực hiện dự án của nhà nước. ở những vùng thực hiện dự án thì kết quả đạt được còn thấp, hiệu quả chưa cao. Tuy nhiên thông qua đầu tư hỗ trợ về vốn, cách làm ăn, mối quan hệ giữa nhà nước và dân được củng cố, đồng bào tin tưởng hơn vào đường lối của Đảng và Nhà nước, tích cực thực hiện tốt các chính sách, đặc biệt xoá bỏ dần tình trạng sản xuất độc canh và lối sống lạc hậu. 2. Các giải pháp giúp cho các hộ nông dân phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá. Do sự phát triển của sức sản xuất và tập quán xã hội, nên nói chung trình độ kinh tế tiền tệ ở nông thôn thấp xa so với thành thị, thị trường sức lao động và thị trường hàng hoá dịch vụ chưa phát triển thậm chí ở nhiều vùng nông thôn còn tồn tại hình thức kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp. Để phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải có những điều kiện vật chất nhất định mà trước hết phải có vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu gồm: Vốn tự có của các chủ hộ, vốn ngân sách, vốn cho vay của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, vốn đầu tư trực tiếp hay gián tiếp của nước ngoài. Do đó tỉnh cần nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp hỗ trợ mang tính cụ thể phù hợp với điều kiện của tỉnh dể giúp các hộ nông dân phát triển sản xuất, cần chú trọng các biện pháp sau: - Tiếp tục hoàn thiện các chính sách về thuế có mối quan hệ mật thiết với nông nghiệp, nông thon theo đơn giản hoá những quy định về thuế suất, diện chịu thuế, thu hẹp số lượng thuế suất. Đối với vùng núi, vùng cao là địa bàn làm ăn sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số có mức sống và trình độ dân trí thấp, kinh tế lạc hậu, nên miễn toàn bộ các khoản đống góp bao gồm cả thuế. - Hoàn thiện các chính sách nhằm tạo điều kiện cho hộ nông dân phát triển sản xuất: Các chính sách chủ yếu là tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế của hộ nông dân là chính sách đất đai, tín dụng, chính sách bảo trợ, bảo hiểm sản xuất... cho nên cần giải quyết một số vấn đề như đa dạng hoá các hình thức sử hữu, khuyến khích tích tụ và tập trung ruộng đất. Nhà nướcc tổ chức ra các quỹ mua nông sản phẩm của nông dân với giá bảo trợ cho người sản xuất khi có những biến động trên thị trường. - Từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng chuyên môn hoá và kết hợp với kinh doanh tổng hợp, khôi phục các ngành nghề truyền thống như làm đồ gỗ gia dụng, đan lát mây tre... phát triển đa dạng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn mà trước hết là công nghiệp sơ chế như: xay xát gạo, chế biến các sản phẩm từ gạo (bún bánh, miến, tương...) chế biến thức ăn gia súc, làm bánh kẹo... mở rộng cơ khí sửa chữa, nghề rèn, gò, tiện... cần hình thành các cơ sở dịch vụ cho phát triển nông nghiệp như dich vụ làm đất, dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ bảo vệ thực vật... các cơ sở và hoạt động dịch vụ sẽ tạo việc làm tăng thu nhập cho hộ nông dân phát triển ngành nghề, dịch vụ còn tạo điều kiện cho qua trình tích tụ ruộng đất vào tay những người làm nông nghiệp giỏi, mở mang những nông trại sản xuất hàng hoá, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nhanh chóng chuyển nền kinh tế tự cấp sang sản xuất hàng hoá. - Mở rộng thị trường ở nông thôn: đây là vấn đề hết sức quan trọng để phát triển sản xuất và nâng cao đời sống, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Nhà nước, tỉnh cần có chính sách giúp đỡ hướng dẫn nông hộ thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, tạo được những nông sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Tỉnh cần tạo điều kiện hỗ trợ nhanh chóng xây dựng các chợ nông thôn và đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng mà đặc biệt là hệ thống giao thông để nông sản phẩm được nhanh chóng đến với người tiêu dùng với giá cả hợp lý. -Tiêu thụ sản phẩm:Khuyến khích các hộ sản xuất hàng hoá trên cơ sở phân vùng quy hoạch của tỉnh. Để lưu thông hàng hoá thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp từ sản xuất đến tiêu thụ như đầu tư nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng cường cơ sở chế biến trên cơ sở gắn vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến, đầu tư đổi mới công nghệ bảo quản chế biến, đẩy mạnh công tác nghiên cứu dự báo thị trường, nâng cao công nghệ Marketing... Cần phát huy vai trò của Công ty nhà nước trong việc ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân, tránh mọi hiện tượng ép cấp, ép giá. 3. Nhóm các giải pháp tăng cường năng lực sản xuất của hộ nông dân. Kết quả điều tra về kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng như đã trình bày ở phần trên cho thấy tuy hiện nay nguồn lực để phát triển kinh tế hộ nông dân của các hộ nông dân ở Cao Bằng còn thấp, (đặc biệt là khả năng về vốn) nhưng việc khai thác hiệu quả các nguồn lực đó để phát triển kinh tế hộ trong những năm qua cũng chưa được chú ý đúng mức. Theo em bên cạnh sự công tác hỗ trợ của nhà nước, chúng ta cần có những giải pháp để khai thác có hiệu quả nguồn lực của các hộ nông dân nhằm góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn tỉnh. Qua nghiên cứu em thấy cần áp dụng một số giải pháp sau đây: 3.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai của hộ nông dân: Nhằm khắc phục manh mún đất đai, tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu cho thấy bình quân giá trị sản lượng thu được trên 1 ha đất trồng trọt của các hộ nông dân ở Cao Bằng hiện nay mới chỉ đạt khoảng 6,0 triệu đồng/ ha. Diện tích đất được gieo trồng 1 vụ trong năm chiếm 30 - 40% đất đai do hộ quản lý. Từ thực tế trên cho thấy đất đai của các hộ nông dân ở Cao Bằng hiện nay tuy không nhiều nhưng sử dụng còn kém hiệu quả. Vì vậy để nâng cao năng lực sản xuất của hộ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ, trong thời gian tới cần thực hiện đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng và thực hiện đa dạng hoá cây trồng, đưa một số cây trồng cạn vào vụ xuân (tiến bộ kỹ thuật này đang được thực hiện ở Cao Bằng) để nâng cao giá trị sản lượng trên 1 ha đất cânh tác lên gấp 2 - 2,5 lần hiện nay nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình (hiện nay ở Cao Bằng đã có nhiều mô hình sử dụng đất đạt 12 - 15 triệu đồng/ ha). 3.2. Nâng cao kỹ thuật sản xuất cho hộ nông dân: Đây là một giải pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khai thác hiệu quả nguồn năng lực sản xuất của hộ nông dân nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế hộ. Qua điều tra cho thấy việc đầu tư nâng cao kỹ thuật sản xuất của các hộ gia đình hiện nay chưa được quan tâm thích đáng. Các hộ mới tập trung vào việc làm sao để đảm bảo đủ yêu cầu chi tiêu trước mắt, chưa chú ý đến học hành, nâng cao trình độ của người lao động (các thành viên trong gia đình). Thực tế ở phần trên cho thấy rằng ở những hộ mà chủ hộ có trình độ văn hoá, kỹ thuật cao thường có kết quả sản xuất khá và mưc thu nhập của hộ cao. Do đó trong những năm tới một mặt các hộ phải có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, mặt khác các cấp chính quyền có biện pháp để giúp đỡ các thành viên trong gia đình các hộ nông dân nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế thị trường, nâng cao năng suất... Để đến năm 2010 phổ cập giáo dục tiểu học cho toàn dân, phổ cập cấp II cho người lao động ở những nơi có điều kiện để nâng cao năng lưc lao động của các hộ nông dân. 3.3. Đầu tư tăng cường hệ thống công cụ sản xuất. Qua kết quả điều tra ở phần thực trạng cho thấy công cụ sản xuất của các hộ nông dân ở Cao Bằng hiện nay ở trình độ thấp. Để tăng năng suất lao động, khai thác các nguồn lực của các hộ nông dân đi đôi với việc nâng cao trình độ sản xuất của người lao động cần phải đầu tư đưa công nghệ mới, sử dụng các công cụ cải tiến, máy móc loại nhỏ phù hợp với điều kiện từng khu vực. Hiện nay một số hộ làm ăn khá (hộ giàu) ở tỉnh đã mở rộng phát triển kinh tế hộ theo hướng này. 3.4. Đa dạng hoá nguồn thu và chuyển đổi cơ cấu thu nhập của hộ theo hướng tăng dần các khoản thu phí nông nghiệp: Đây là một giải pháp nhằm tăng cường vốn đầu tư cho phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng phát triển kinh tế tổng hợp, thoát dần nền kinh tế thuần nông. Mặt khác phát triển kinh tế tổng hợp đòi hỏi trình độ quản lý của chủ hộ phải được nâng cao để đáp ứng, mặt khác phải sử dụng triệt để nguồn nhân lực vào sản xuất. 4. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn của tỉnh. Sau gần 20 năm khắc phục hậu quả chiến tranh biên giới, Cao bằng đã khắc phục và xây dựng mới được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và đời sống mặc dù hiện nay hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhưng đây là thành quả và tiền đề quan trọng của bước đi ban đầu để tạo điều kiện hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng phát triển, nâng cao mức sống cho cộng đồng các dân tộc ở trong tỉnh, trong những năm tới đi dôi với việc đầu tư nâng cấp tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất hiện có, trên địa bàn tỉnh cấn xây dựng thêm một số cơ sở hạ tầng nông thôn dưới đây: - Về đường giao thông: Làm mới 38,7 km đường tránh quốc lộ 34 tại huyện Nguyên Bình, 232 km tỉnh lộ. 218 km đường huyện lộ, 69 km đường đo thị, 181 km đường ô tô tới trung tâm các xã hiện chưa có đường ô tô tới xã và 2,160 km đường giao thông nông thôn. - Về hệ thống công trình thuỷ lợi: đầu tư xây dựng thêm 4 hệ thống kênh mương, 9 hồ chứa, 2 pha đập và 60 công trình thuỷ lợi nhỏ (phai đập, trạm). - Về trạm tại kỹ thuật nông nghiệp: Ngoài việc đầu tư nâng cấp trung tâm thực nghiệm kỹ thuật nông nghiệp Cao bằng, Công ty giống cây trồng Cao bằng, Công ty chăn nuôi Cao bằng, cần đầu tư xây dựng các cơ sở nhân giống lúa lai, ngô lai, đậu tương và giống cây ăn quả để cung cấp giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ nông dân. - Về hệ thống chợ nông thôn: Xây dựng thêm 416.000 m2 chợ nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh, để giúp các hộ nông dân có điều kiện trao đổi hàng nông sản và mua vật tư, công cụ phục vụ phát triển sản xuất. - Xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc thông suốt từ tỉnh, huyện xuống đến các xã nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. 5. Giải pháp về đất đai: Tỉnh cần thực hiện nghiêm túc chủ trương giao đất giao rừng tới các hộ nông dân. Vì đất đai là vấn đề then chốt với phát triển kinh tế hộ của tỉnh. Đối với các hộ nông dân ở Cao bằng đất đai như một thứ tài sản, một nguồn vốn được tích tụ lại. Do việc thực hiện tốt các chính sách về đất đai và tạo ra sự ổn định về đất đai cho các hộ nông dân yên tâm sản xuất để phát triển kinh tế hộ gia đình. Hiện nay Cao Bằng đã giao được 83% tổng quỹ đất nông nghiệp cho các hộ gia đình tổ chức quản lý sử dụng, trong thời gian tới cần tiép tục giao phần còn lại cho các hộ nông dân để các hộ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Tuy nhiên trong những năm trước mắt khó có thể tăng quy mô diện tích cho các hộ nông dân, mặc dù nhiều hộ nông dân có nhu cầu tăng diện tích. Vì vậy con đường cơ bản để các hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho từng hộ phù hợp với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng, của huyện, tỉnh theo hướng chuyên môn hoá và phát triển tổng hợp. Trên cơ sở cây trồng đã xác định, các hộ phải chuyển dần phương thức sản xuất từ quảng canh sang thâm canh. Đây là con đường cơ bản và lâu dài trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Từng bước quy hoạch và bố trí sản xuất phù hợp với đặc điểm địa hình đồi núi của miền vùng cao nhằm hạn chế rửa trôi đất, bảo vệ môi trường sinh thái. Triển khai nhanh chóng và toàn diện việc cấp giấy quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân và các chính sách cụ thể thời gian sử dụng đất được giao, về sự chuyển nhượng đất đai để tạo địa bàn sản xuất ổn định cho các hộ nông dân và hướng vào việc tăng quy mô kinh tế cho các hộ nông dân. Để thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá, nhà nước và địa phương cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất, trước hết cần tránh hiện tượng đất đai manh mún phân tán như hiện nay. 6. Giải pháp về tín dụng: Nhà nước cần có chính sách về tín dụng thích hợp với từng loại hộ nông dân tự cung tự cấp cần tăng cường hình thức tín dụng qua các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên đối với hình thức tín dụng này cần có sự thống nhất quản lý chung trên phạm vi tỉnh, đánh giá tổng kết để rút kinh nghiệm nhất là kinh nghiệm về giải quyết mối quan hệ giữa cho vay ưu đãi với hướng dẫn sản xuất và tiêu thụ cho các hộ nông dân nhằm đẩy nhanh quá trình xoá đói giảm nghèo. Đối với các hộ sản xuất hàng hoá cần tăng cường vốn vay và thời gian cho vay ( chủ yếu là vốn trung và dài hạn) để các hộ có điều kiện đầu tư theo chiều sâu. Trong quá trình sử dụng vốn của các hộ nông dân, cần tăng cường vai trò giúp đỡ hướng dẫn của các tổ chức tín dụng, các tổ chức khuyến nông, các hộ nông dân sản xuất giỏi, các tổ chức kinh tế xã hội khác. Đối với các hộ nghèo muốn phát triển sản xuất nông lâm nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay thì cần phải có vốn do đó để tạo nên các nguồn vốn, ngoài việc đầu tư của nhà nước, tỉnh, địa phương cần huy động vốn trong dân, các nguồn vốn của dự án, của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn vay nước ngoài, đặc biệt là vốn của các tổ chức kinh tế cá nhân trong nước, như vậy tạo nên một nguồn vốn đa dạng phong phú. Ngoài các biện pháp huy động vốn trên thì cần phát triển mạnh hơn các kênh chuyển vốn nhất là quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức hiệp hội các ngành khác. Bên cạnh việc tạo nên các nguồn vốn vay thì cơ chế vay vốn cũng rất quan trọng với nông nghiệp và nông thôn. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có cơ chế kinh tế mới, cơ chế mở cửa và giao quyền chủ động cho hộ nông dân. Song thực tế không phải chỉ có cơ chế mà bởi lẽ người nông dân, đặc biệt là hộ nông dân nghèo không có đủ tài sản để thế chấp khi đi vay, mặt khác do thiếu vốn, nghèo nàn khi gặp những rủi ro trong sản xuất thường không trả nợ kịp. Vì vậy thực hiện cơ chế cho vay thích hợp đối với các hộ nghèo cần tạo điều kiện cho các hộ nông dân có chế độ cho vay trung hạn và dài hạn, nên giảm tỷ lệ lãi suất đang áp dụng là 12%/ tháng xuống còn 1%/ tháng. Cần phải xây dựng quỹ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp dựa vào sự đóng góp của người sản xuất, sự hỗ trợ của nhà nước và các ngành hàng... tăng cường cải tiến và các hoạt động đối với các tổ chức tín dụng để đáp ứng và cải tiến các nhu cầu về vốn cho sản xuất đòi hỏi các hệ thống tín dụng có sự tổ chức chặt chẽ cải tiến công tác quản lý của mình, tránh phiền hà. Cần bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng và tuyên truyền rộng rãi tín dụng cho nhân dân. 7. Hoàn thiện tổ chức khuyến nông và khuyến lâm. Thực tế Cao Bằng trong những năm qua cho thấy để đưa những tiến bộ kỹ thuật mới vào các hộ nông dân và mở rộng được các mô hình và chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả trung tâm khuyến nông và khuyến lâm của tỉnh đã tổ chức triển khai tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm từ tỉnh đến cơ sở. Trong thời gian tới cần tiếp tục làm tốt công tác này để làm sao đào tạo được cho mỗi xã có ít nhất một cán bộ khuyến nông, khuyến lâm để triển khai thực hiện việc đưa các hệ thống cây trồng được lựa chọn đến các hộ gia đình, có vậy mới có điều kiện để thực hiện các mục tiêu về mở rộng các hệ thống cây trồng, phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp. Công tác khuyến nông, khuyến lâm ở Cao bằng phải được coi là sự nghiệp có tầm quan trọng trong việc đưa các giống cây trồng mới vào sản xuất và thực hiện chuyển đổi. Phải sản xuất và củng cố các trạm khuyến nông, khuyến lâm ở các huyện. Đối với các xã phải chọn những nông dân giỏi, có hiểu biết, được nông dân tín nhiệm để đào tạo thành cán bộ khuyến nông, khuyến lâm ở cơ sở và có chế độ đãi ngộ thích hợp để động viên khuyến khích các hộ này tích cực hướng dẫn đồng bào cách làm ăn mới. Tỉnh cần nghiên cứu xây dựng các cơ chế hỗ trợ thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến lâm do các hộ nông dân đề xuất hoặc yêu cầu. Đồng thời tạo điều kiện và hỗ trợ để các doanh nghiệp nhà nước (nông lâm trường, trạm kỹ thuật...) làm tốt công tác dịch vụ con giống và vật tư đảm bảo chất lượng, thu mua sản phẩm và phổ biến kỹ thuật cho nông dân. 8. Đào tạo bồi dưỡng người lao động và cho các chủ hộ. ở Cao bằng trình độ của những người lao động còn rất thấp thậm chí còn mù chữ vì vậy để thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, không thể không chú ý đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho người lao động. Tuỳ theo đặc điểm của từng vùng, từng loại hộ nông dân mà hình thức đào tạo, bồi dưỡng cũng nên có sự khác nhau. Đối với hộ nông dân tự cung tự cấp ở các vùng cao vùng sâu cần duy trì và phát triển hình thức giáo dục nội trú cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số vì đây là lực lượng lao động quan trọng trong tương lai. Có chính sách ưu đãi cho lực lượng giáo viên lên giảng dạy ở vùng sâu, vùng xa. Chú trọng các hình thức đào tạo bồi dưỡng lực lượng lao động hiện tại thông qua các chương trình khuyến nông, các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo. Đối với các hộ nông dân ở vùng thấp, gần giao thông thị trấn, thị xã cần mở các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn cho các chủ hộ, cho lực lượng lao động trẻ và có cấp giấy chứng nhận. Các chương trình đào tạo cần có sự quản lý tập trung thống nhất cả về mặt nội dung chương trình, thời gian và đối tượng tham gia... Phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong quá trình tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia chương trình bắt buộc và tự nguyện. Kết luận và kiến nghị I. Kết luận: Qua những nghiên cứu ở trên ta có thể rút ra một số kết luận sau:Phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta và một số nước trên thế giới cho thấy vị trí của kinh tế hộ nông dân trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Khẳng định về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn. Kinh tế hộ nông dân tồn tại khách quan không phụ thuộc vào chế độ kinh tế xã hội. Kinh tế hộ nông dân là một tổ chức kinh tế tự chủ, là hình thức kinh tế có hiệu quả phù hợp với sản xuất nông nghiệp. Hiện nay kinh tế hộ nông dân cung cấp phần lớn nông sản phẩm cho nước ta và thế giới. Tỉnh Cao Bằng với 3 tiểu vùng sinh thái khác nhau (tiểu vùng bồn địa, tiểu vùng núi đất, tiểu vùng núi đá). ở mỗi tiểu vùng có những nét đặc trưng về điều kiện sản xuất, tập quán sản xuất, trình độ dân trí... chính những yếu tố trên đã làm cho kinh tế hộ nông dân gắn với các tiểu vùng sinh thái. Kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng mới thực sự phát triển, từng bước chuyển dần trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Trong quá trình phát triển, kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng đã phát triển. Do vậy tỷ trọng hộ giàu, hộ sản xuất hàng hoá ngày càng cao. Hình thức kinh tế trang trại đã xuất hiện và ngày càng mở rộng. Tuy nhiên kinh tế hộ nông dân ở Cao bằng còn phát triển ở mức thấp, đa số hộ nông dân sản xuất với mục tiêu tự cấp tự túc, chủ yếu tập trung vào sản xuất lương thực, chăn nuôi để đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho các thành viên trong hộ gia đình. - Để phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân ở Cao Bằng đúng với vị trí kinh tế của hộ trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, tuỳ theo điều kiện cụ thể ở từng tiểu vùng sinh thái và từng khu vực mà phát triển kinh tế hộ nông dân theo các mô hình kinh tế hộ nông dân cần áp dụng đồng bộ các giải pháp của nhà nước và các giải pháp khai thác nguồn nội lực hiện có của các hộ nông dân để phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng theo hướng chuyển từ sản xuất thuần nông sang kinh doanh tổng hợp và từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. II.Kiến nghị: Để tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng phát triển theo hướng đã đề ra. Đề nghị Nhà nước và các cấp chính quyền ở tỉnh cần làm tốt một số vấn đề sau: 1. Tiến hành khẩn trương việc giao đất, giao rừng và cấp giấy quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân để các hộ nông dân chu động trong sản xuất kinh doanh. 2. Nhà nước tạo điều kiện cho các hộ nông dân vay vốn để hỗ trợ kinh tế hộ nông dân phát triển. Vì hiện nay vấn đề thiếu vốn sản xuất là một trong những yếu tố hạn chế lớn trong phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng. 3. Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn và có các chính sách phù hợp nhằm tạo môi trường cho các hộ nông dân phát triển kinh tế. Đồng thời tăng việc đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật cho lực lượng lao động của các hộ nông dân. Tài liệu tham khảo 1. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 2. Giảo trình kinh tế nông nghiệp - NXB Nông nghiệp 1996 3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp-NXB Nông nghiệp 1996 4. Kinh tế hộ - NXB Khoa học xã hội 1995 5. Tạp chí kinh tế và phát triển số 34 năm 2000 6. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn số 11 năm 2001 7. Niên giám thống kê của tỉnh Cao Bằng năm 2000 8. Tài liệu của Viện Kinh Tế 9. Một số tài liệu khác Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33593.doc
Tài liệu liên quan