Qua hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ vô cùng to lớn của bạn bè trên thế giới, một trong những thiện chí đó là nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ đã dành cho Việt Nam.
Vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trong đó một số dự án đã hoàn thành và phát huy tác dụng tích cực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các vấn đề xã hội được quan tâm hơn. Các ngành, địa phương được đáp ứng một phần nhu cầu vốn phục vụ đầu tư phát triển. Qua việc thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam được nâng cao trình độ và trưởng thành trông thấy.
Bên cạnh những thành công, mức giải ngân thấp trong những năm qua luôn là một thách thức lớn và chưa được giải quyết tốt. Muốn sử dụng nguồn vốn này hiệu quả hơn, chúng ta cần tập trung giải quyết tồn tại này.
Được sự tận tình giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Vũ Cương, cán bộ hướng dẫn Nguyễn Thanh Hương và các cô, các chú ở Văn phòng Thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi đã hoàn thành " luận văn tốt nghiệp " của mình với mong muốn sẽ góp phần vào việc đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do sự hiểu biết và năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của những ai quan tâm đến vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA.
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất định, góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển chung của các tỉnh trong vùng. 7 năm qua (1993-1999), vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ đã thu hút một khối lượng ODA trị giá khoảng 1 tỷ USD, chiếm 10% lượng ODA đã ký kết.
2-Nghiên cứu và đánh giá một số Nghị định liên quan đến giải ngân
nguồn vốn ODA
Các Nghị định liên quan đến giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức như Nghị định 87/CP ngày 5 tháng 8 năm 1997 về Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 ban hành Quy chế đầu tư và xây dựng, Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999 ban hành Quy chế đấu thầu, Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 về giải phóng mặt bằng là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu, chỉnh sửa và thay đổi nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế. Ưu điểm của các Nghị định này là cơ bản, song vẫn có nhiều bất cập mới xuất hiện trong quá trình thực hiện. Dưới đây là những xem xét, đánh giá về hai trong số những Nghị định nêu trên:
1.1.1-Nghị định 87/CP
Nói chung, Nghị định này được hoan nghênh và đánh giá cao vì nó chỉnh sửa được cơ bản những thiếu sót của Nghị định 20/CP ngày 15 tháng 3 năm 1994 ban hành trước đó:
Thứ nhất, nó đã quy định một cách cụ thể trách nhiệm, chức năng , quyền hạn của các bộ, ngành có tham gia vào quá trình quản lý, điều phối nguồn vốn ODA, đặc biệt là năm cơ quan tham mưu như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Văn phòng Chính phủ.
Thứ hai, có sự phân cấp mạnh trong quá trình thẩm định, phê duyệt các dự án ODA theo hướng trao trách nhiệm nhiều hơn cho các bộ và địa phương.
Thứ ba, thủ tục tinh gọn hơn một cách đáng kể nên đã đẩy nhanh quá trình tiếp nhận và giải ngân nguồn vốn ODA, nhất là những dự án đầu tư.
Thứ tư, nội dung các văn bản liên quan đã thống nhất với nhau hơn, đặc biệt là những văn bản trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Tuy nhiên, Nghị định 87/CP cũng còn có những tồn tại cần được chỉnh sửa như sau:
-Nghị định đã quy định sự tham gia quản lý của một số cơ quan Nhà nước đối với nguồn vốn ODA. Đó là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Văn phòng Chính phủ, Bộ Khoa học- Công nghệ và Môi trường. Tuy nhiên, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan này cần được nghiên cứu để điều chỉnh nhằm tránh tình trạng có nhiều đơn vị quản lý mà vẫn lỏng lẻo, chậm chạp.
-Một số ý kiến đề xuất việc xem xét tính phù hợp của các quy định phân cấp phê duyệt dự án như mức 500.000 USD trong dự án do Chính phủ phê duyệt đối với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại. Hơn nữa, Nghị định 87/CP đã quá chú trọng các khâu đầu như kêu gọi, chuẩn bị dự án, thẩm định, trình duyệt... mà coi nhẹ khâu kiểm tra, theo dõi và đánh giá dự án. Ngoài ra, chưa có công cụ chế tài để kiểm tra chặt chẽ chế độ báo cáo của các chủ dự án và cơ quan chủ quản.
-Thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA cần được cải tiến cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay, trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, chậm trễ.
-Cơ cấu cho vay lại theo quyết định số 02/2000/QĐ-BTC của Bộ Tài chính cần được xem xét lại vì nếu tính lãi suất ưu đãi trong trường hợp cho vay bằng ngoại tệ bằng 2/3 lãi suất thương mại tham chiếu tại thời điểm ký hiệp định cộng với phí nước ngoài (nếu có) và phí dịch vụ cho vay lại điều đó sẽ gây khó khăn rất lớn cho chủ dự án.
- Hiện nay, nguồn vốn cho xây dựng đề cương, báo cáo tiền khả thi đối với các dự án tiền khả thi vẫn chưa được cấp. Có nhiều ý kiến miễn thuế (nhập khẩu, VAT...) đối với những dự án ODA.
1.1.2-Nghị định 22/1998/NĐ-CP
Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/8/1998 đã thể hiện những mặt tiến bộ sau:
-Chính sách đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng đã được áp dụng thống nhất trong mọi trường hợp đất bị Nhà nước thu hồi như dự án thu hồi đất sử dụng vào sản xuất kinh doanh, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp. Dự án thu hồi đất vào xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phi sản xuất vật chất. Dự án sử dụng vốn trong nước và dự án có vốn nước ngoài...
-Nghị định đã chi tiết và cụ thể hoá các trường hợp được đền bù thiệt hại về đất, về tài sản cho phù hợp với thực tế quản lý, sử dụng đất đai, tài sản ở nước ta và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện.
-Nghị định đã có những quy định để đảm bảo mức đền bù tương xứng với mức thiệt hại thực tế. Chẳng hạn, giá đền bù đất và tài sản không những được quy định phù hợp với giá trị thực tế cho người có đất bị thu hồi mà Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi phải di chuyển đến nơi ở mới hoặc ổn định tại chỗ cho họ.
-Nghị định đã có những quy định cụ thể về khâu tổ chức thực hiện, trong đó cơ chế bảo đảm quyền tự chọn phương thức đền bù (bằng đất, bằng tiền...) cho người có đất bị thu hồi đã được thay cho cơ chế áp đặt từ phía Nhà nước. Đồng thời, Nghị định cũng giao trách nhiệm tổ chức thực hiện đề bù, giải phóng mặt bằng cho địa phương, tạo điều kiện cho địa phương chủ động trong việc thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.
Tuy nhiên, Nghị định 22/1998/NĐ-CP còn có những tồn tại nhất định cả về chính sách và công tác tổ chức thực hiện, cụ thể như sau:
-Nghị định chưa có quy định về mức đất ở đối với những trường hợp đã sử dụng đất đai trước ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành, nhất là các trường hợp thừa kế đất do ông, bà, cha, mẹ để lại. Điều đó đã dẫn đến những vướng mắc khó xử khi xác định mức đền bù thiệt hại về đất ở, làm chậm tiến độ thực hiện dự án, gây khiếu kiện nhiều.
-Các điều kiện được đền bù hoặc không được đền bù thiệt hại về đất và quy định đền bù về đất được quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 10 và Điều 11... của Nghị định 22/CP chưa cụ thể, chưa thống nhất với các văn bản về thu tiền sử dụng đất. Điều này dẫn đến cách hiểu và cách làm khác nhau.
-Việc xác định hệ số để tính giá đất đền bù khiến việc tính toán trở lên phức tạp và nếu thực hiện quy định đó thì chi phí đền bù sẽ tăng, khiến chủ dự án không thể chịu nổi.
-Quy định hiện hành nêu rằng, ngoài việc phải đền bù thiệt hại theo quy định tại Nghị định 22/CP, các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đủ đất, cho thuê đất phải nộp tối thiểu 40% tiền sử dụng đất hoặc phải trả tiền thuê đất. Quy định này bất hợp lý và gây khó khăn cho người được giao đất, thuê đất và ít khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Vì như vậy, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải bỏ chi phí tương đương với số tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sau đó họ còn phải nộp 40% tiền sử dụng đất.
-Chính sách tái định cư chưa chi tiết và chưa đồng bộ. Điều đó đã ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng, làm chậm tiến độ thực hiện dự án và tác động của việc phải di chuyển chỗ ở tới người bị thu hồi đất chưa được giải quyết một cách thống nhất.
-Một số khái niệm về người bị thu hồi đất, giá đền bù, công trình bất hợp pháp của các tổ chức tài trợ như WB, ADB và Việt Nam tuy có nội dung gần giống nhau nhưng có tên gọi khác nhau. Điều này đã dẫn đến sự khác nhau trong tổ chức thực hiện ở không ít trường hợp.
-Nghị định chưa quy định thật cụ thể và chặt chẽ đối với một số lĩnh vực về tổ chức thực hiện, làm ảnh hưởng tới sự phối hợp giữa các ngành ở Trung ương với địa phương. Chẳng hạn như công tác giám sát đền bù, tái định cư.
Trước thực trạng đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc khẩn trương sửa đổi, bổ sung Nghị định 22/1998/NĐ-CP nhằm tập trung giải quyết những ách tắc, đáp ứng nhu cầu đền bù giải phóng mặt bằng đang diễn ra hàng ngày, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đẩy nhanh tiến độ đầu tư của các dự án. Đồng thời cần đưa ra một số quy định cụ thể về tái định cư để kiểm nghiệm trong thực tế nhằm tiến tới nghiên cứu xây dựng Pháp lệnh về đền bù và tái định cư.
3-Ưu nhược điểm của việc giải ngân ODA trong những năm qua
3.1-Ưu điểm
Trong tình hình thế giới gặp nhiều khó khăn, một số nhà tài trợ tập trung nguồn lực để đối phó với những khó khăn trong nước nên đã cắt giảm nguồn ODA cho các nước đang phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại các nước Đông Nam á lan sang một số nước châu á khác vốn là các nền kinh tế mạnh của châu lục cũng đã có những tác động nhất định đến tình hình cung cấp viện trợ của nước ngoài cho Việt Nam. Giá trị của các khoản giải ngân những năm qua đều được quy ra đồng đô la Mĩ. Do đó, trong bối cảnh các đồng ngoại tệ mạnh giảm giá so với đồng đôla Mĩ thì mức giải ngân trong những năm gần đây là tích cực. Nguyên nhân đạt được những kết quả trên là do:
-Qua 7 năm tiếp nhận và sử dụng ODA, cán bộ Việt Nam đã dần làm quen với các thủ tục triển khai vốn ODA, có kinh nghiệm trong việc thực hiện dự án ODA.
-Có sự phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ, đặc biệt là ba đối tác lớn của Việt Nam là Nhật Bản, Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu á kể từ khâu hình thành, lựa chọn đến khâu thực hiện các chương trình, dự án ODA.
-Các cơ quan quản lý phía Việt Nam cũng đã nghiên cứu và đưa ra được hàng loạt các biện pháp cải thiện đáng kể các thủ tục trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA như thủ tục rút vốn, cấp phát vốn đối ứng...
-Một số dự án lớn đã vượt qua được những khó khăn trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư như thẩm định , giải phóng mặt bằng, xét thầu... để đi vào thực hiện. Chính phủ đã có nhiều cố gắng để tháo gỡ các vướng mắc gây chậm giải ngân, đặc biệt là Chính phủ đã cho phép bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA có khả năng bị chậm thực hiện vì thiếu vốn đối ứng.
-Môi trường pháp lý được cải thiện: Chính phủ đã ban hành Nghị định 87/CP về quy chế quản lý và sử dụng ODA nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. Sau khi Nghị định được ban hành, hàng loạt các Thông tư hướng dẫn nhằm cụ thể hoá tới mức cao nhất nội dung Nghị định
3.2-Nhược điểm
Bên cạnh những kết quả bước đầu trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, trong thời gian qua vấn đề mức giải ngân ODA thấp luôn luôn là vấn đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương và đa phương nhằm tìm ra những nguyên nhân và vạch ra những giải pháp để khắc phục. Qua tình hình thực hiện ODA trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân nổi cộm sau:
3.2.1-Nguyên nhân khách quan
Quy định về điều kiện tài trợ của các nhà tài trợ rất đa dạng, có khi phức tạp. Quy trình thực hiện của các nước, các tổ chức tài trợ quốc tế và quy trình của Việt Nam có những điểm chưa phù hợp lẫn nhau. Có các khoản vay ràng buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn. Có nhiều dự án thực hiện trên địa bàn trải rộng (Các dự án dân số, y tế, giáo dục, cấp nước, giao thông nông thôn thường trải dài trên phạm vi từ 6 đến 18 tỉnh). Một số nhà tài trợ chậm trả lời những vấn đề phát sinh hoặc thay đổi đột ngột chính sách tài trợ. Ngoài ra, gần đây còn có nguyên nhân do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực đã làm cho một số dự án gặp khó khăn do thiếu vốn và do việc ký vay bằng tiền tệ nhưng hợp đồng mua sắm hoặc xây dựng căn cứ theo giá tính bằng USD , quy ra bản tệ theo giá cố định. Khi đồng bản tệ bị mất giá, nhà thầu bị lỗ vốn không thể thực hiện dự án theo cam kết.
3.2.2-Nguyên nhân chủ quan
Để triển khai thực hiện dự án theo cơ chế quản lý ODA đòi hỏi phải có sự đồng bộ trong tất cả các khâu của qui trình, trong đó vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là hết sức quan trọng từ khâu vận động ODA đến việc xét duyệt dự án, phân bổ vốn, đấu thầu và xét duyệt nhà thầu, những khâu này là cơ sở để bắt đầu thực thi dự án. Tuy nhiên trong thực tế việc qui định trách nhiệm của từng Bộ, ngành, chủ dự án trong từng khâu chưa được rõ ràng, chặt chẽ dẫn đến sự chồng chéo chức năng. Đồng thời, từng Bộ, ngành chưa thấy được và cũng chưa làm hết được trách nhiệm của mình nên việc thực hiện dự án bị ách tắc ở nhiều khâu. Vấn đề này đã và đang được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 87/CP ngày 5/8/1997 về ban hành quy chế nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và Nghị định 90/CP ngày 7/11/1998 (thay thế Nghị định 58/CP) ban hành quy chế vay và trả nợ nước ngoài đã được Chính phủ ban hành.
Bên cạnh nguyên nhân bao trùm trên, các yếu tố chính ảnh hưởng đến qúa trình giải ngân là: Không thực hiện đúng chu trình dự án; Quá trình đấu thầu mua sắm kéo dài; Quá trình giải phóng mặt bằng chậm; Có nơi, có lúc vốn đối ứng bố trí không đủ; Năng lực quản lý dự án của các ban quản lý dự án còn hạn chế; Chính sách thuế đối với các dự án ODA còn chưa nhất quán; Qúa trình làm thủ tục giải ngân chậm, cụ thể như sau:
-Việc thẩm định, phê duyệt dự án còn bị kéo dài: Nhiều hiệp định đã ký nhưng mới chỉ có tên dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi, chưa hoàn thành thủ tục để phê duyệt dự án đầu tư như các hiệp định vay của Nhật Bản (tài khoá 1993), Pháp, ấn Độ, Đan Mạch, Thụy Sỹ do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và bộ chủ quản. Qúa trình lập, duyệt dự án không kịp thời thường mất từ 1 đến 3 năm, có dự án sau khi ký hiệp định lại thay đổi qui trình công nghệ (dự án điện Phú Mỹ 1 vay JBIC), hay thay đổi mục tiêu dự án (như dự án cầu Bình Lợi vay JBIC ). Có một số dự án trong quá trình lập nghiên cứu khả thi thấy rằng không hiệu quả lại chuyển sang dự án khác (như dự án điện thoại nông thôn, nước khoáng Kim Bôi, điện Yaly vay của Pháp, máy nghiền sàng đá vay của Thái Lan). Một số dự án do thời gian chuẩn bị khá lâu nên đến khi thẩm định phê duyệt thì nhiều hạng mục trong dự án đã lạc hậu so với tình hình mới.
-Qúa trình đấu thầu mua sắm kéo dài: Nhìn chung việc đấu thầu mua sắm và xây lắp thường bị kéo dài do Việt Nam mới bắt đầu làm quen với các nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế (như dự án điện Phả Lại, điện Phú Mỹ vay của Nhật việc đấu thầu kéo dài hơn 2 năm), hoặc giá cả cao do buộc phải mua sắm thiết bị từ nước tài trợ nên chủ dự án không chấp nhận. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ chủ quản và các chủ dự án phải kéo dài thời gian đàm phán, thẩm định, ký hợp đồng (như thủy điện sông Hinh vay của Thụy Điển), trong một số trường hợp phải chuyển sang các dự án khác (như vốn vay của Thái Lan, Trung Quốc...). Quan hệ giữa các nhà thầu chính và thầu phụ chưa rõ ràng.
-Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng: Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng đối với các công trình giao thông (Đặc biệt là các dự án sử dụng vốn vay của WB, ADB) khác với chính sách của Việt Nam nên quá trình thương lượng, điều chỉnh chính sách để đi đến thống nhất kéo dài hơn một năm. Có những dự án đã thống nhất về chính sách nhưng việc triển khai đền bù của các chủ dự án tiến hành chậm: Quốc lộ 1A, quốc lộ 5... Giải phóng mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, việc làm hoặc đền bù. Hơn nữa, vấn đề năng lực, trình độ của cán bộ quản lý thực hiện công tác này và vấn đề thông tin cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời dẫn đến làm chậm tiến độ triển khai dự án (chậm bàn giao mặt bằng cho nhà thầu), ví dụ dự án quốc lộ 18 vốn Hàn Quốc (15 điểm ở Quảng Ninh), dự án quốc lộ 1 (đoạn Pháp Vân - Thường Tín, đoạn thuộc Hà Tĩnh), dự án cầu trên quốc lộ 1 (chậm bàn giao mặt bằng tới 6 tháng đối với cầu Đuống), dự án thủy lợi đồng bằng sông Hồng vốn ADB ( trạm bơm An Lá II, kênh trục nam Thái Bình, bắc Hưng Hải...), dự án nhiệt điện Phả Lại II (mặt bằng kênh thải tuần hoàn chưa giải phóng được vì 100 hộ dân chưa chấp nhận đơn giá đền bù).
-Vốn đối ứng: Vốn đối ứng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số vốn đầu tư cho dự án nhưng lại ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án. Từ trước đến nay, việc kế hoạch hoá vốn đối ứng chưa làm tốt (kể cả vốn cấp phát và vốn tín dụng). Do khâu lập dự toán của chủ dự án chưa phản ánh đủ hoặc không kịp thời hạn đưa vào kế hoạch ngân sách năm nên việc bố trí vốn đối ứng thuộc ngân sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngay từ đầu năm chưa đủ, việc điều chỉnh vốn đối ứng có khó khăn gây bị động cho ngân sách Nhà nước. Đối với dự án thuộc diện vay lại của ngân sách Nhà nước, chủ dự án không chủ động thu xếp nguồn vốn đối ứng.
- Năng lực của các ban quản lý dự án: Nhìn chung các ban quản lý dự án còn hàn chế về năng lực, trình độ ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý, khả năng phân tích, đàm phán hợp đồng cho nên quá trình xét thầu, ký kết các hợp đồng mua sắm, xây lắp kéo dài. Có dự án chấp nhận thanh toán cho nhà thầu ngoài phạm vi hợp đồng ký (như dự án cải tạo lưới điện vay vốn WB) nên Bộ Tài chính (Tổng cục Đầu tư Phát triển) không thể duyệt hồ sơ cho thanh toán.
-Chính sách thuế: Việc áp dụng thuế đối với các dự án ODA lâu nay chưa được nhất quán và phải xử lý từng trường hợp. Bộ Tài chính đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ ban hành về qui định chính sách thuế đối với các dự án vốn ODA nhằm khắc phục tình trạng này.
-Thủ tục giải ngân cho các dự án: Trước năm 1995 do mới tiếp cận công tác quản lý ODA với các thủ tục phức tạp của các nhà tài trợ, thủ tục đầu tư trong nước và trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý còn hạn chế nên khâu xét duyệt hồ sơ để rút vốn và luân chuyển chứng từ có chậm. Đến nay Bộ Tài chính đã ban hành quy chế, theo đó thời gian xác nhận hồ sơ hợp lệ và làm thủ tục rút vốn tối đa từ 5 đến 8 ngày. Tuy nhiên, tiến độ rút vốn phần lớn phụ thuộc vào tiến độ thực hiện các dự án và tập hợp đầy đủ hồ sơ rút vốn hợp lệ của các chủ dự án phải phù hợp với thoả thuận cam kết được các nhà tài trợ quốc tế chấp nhận (thường nhà thầu lập hồ sơ thanh toán gửi cho tư vấn, sau 20 đến 26 ngày tư vấn mới xác nhận gửi cho chủ đầu tư, chủ đầu tư xem xét và duyệt hồ sơ khoảng 10 ngày, có trường hợp hàng tháng, sau đó bộ chứng từ mới được chuyển đến Bộ Tài chính để làm thủ tục rút vốn đối với phía nước ngoài).
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác gây chậm trễ cho việc triển khai thực hiện dự án từ đó dẫn đến chậm giải ngân như thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu thiết bị, thủ tục hải quan, xin cấp đất xây dựng văn phòng...
Chương III
những giải pháp nhằm đẩy nhanh Tiến độ
giải ngân ODA giai đoạn 2001-2005
I-dự báo xu hướng thu hút và giải ngân oda ở Việt
nam giai đoạn 2001-2005
1-Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-
2010 và của Kế hoạch 5 năm 2001-2005
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 là không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập. Chiến lược trong 10 năm tới là chiến lược hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững để đảm bảo không ngừng nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân theo hướng:
-Về lĩnh vực kinh tế: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển. Từng bước xây dựng nền tảng để trở thành nước công nghiệp.
-Về lĩnh vực ngoài kinh tế: Không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế.
Kế hoạch 5 năm tới (2001-2005) là bước quan trọng thực hiện chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường hiệu quả và sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. Thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Khai thác tối đa tiềm lực trong nước, đồng thời tranh thủ nhiều hơn các nguồn lực bên nngoài, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn cho phát triển. Kết hợp thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ chiến lược: Phát triển ổn định hiệu quả cao; Xây dựng về cơ bản cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Tạo thế và lực để chuẩn bị hội nhập thắng lợi. Nhằm đáp ứng yêu cầu trên, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm tới (2001-2005) là:
Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ. Giải quyết vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ổn định và cải thiện vững chắc đời sống của nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tạo các tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Những mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá trong kế hoạch 5 năm như sau:
-Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm tối thiểu 7%, tích cực tạo điều kiện thực hiện mức tăng trưởng cao hơn và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo.
-Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm.
-Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn thiện một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn.
-Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương.
-Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính- tiền tệ, tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hiện triệt để tiết kiệm. Tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển, duy trì ổn định các cân đối vĩ mô. Phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội.
-Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ. Tập trung vào: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý, triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại, chuẩn bị các bước đi cần thiết để tiếp cận dần nền kinh tế tri thức.
-Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc: tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền lương; xoá đói, giảm nghèo; chống tệ nạn xã hội. ổn định vững chắc và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
-Đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao nhiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở phường, xã và các đơn vị cơ sở.
-Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế- xã hội.
2-Chủ trương của Nhà nước Việt Nam đối với việc thu hút và giải
ngân nguồn vốn ODA.
Trong khuôn khổ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn ODA vận động và đi vào thực hiện có vai trò quan trọng. Chủ trương của Việt Nam tiếp tục tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức song phương và đa phương. Đặc biệt phải nâng cao tốc độ giải ngân nguồn vốn này. Nguồn vốn ODA tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả bằng cách tăng cường khả năng giải ngân và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí tiêu cực.
Thực hiện chủ trương thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA nói trên, những phương hướng ưu tiên sử dụng nguồn lực này là:
-Phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó lấy chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo bao gồm cả công tác định canh định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc gặp khó khăn làm trọng tâm với các mục tiêu là giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống 7% năm 2005, bình quân mỗi năm giảm 3 vạn hộ nghèo.
-Các dự án ODA hướng vào nội dung hỗ trợ phát triển toàn diện nông thôn, giao thông, thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt, trồng và bảo vệ rừng, điện khí hoá, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, xây dựng các cảng cá với hệ thống thông tin liên lạc và phương tiện đánh bắt đủ đảm bảo an toàn cho ngư dân, cải tạo và xây dựng mới trường học, bệnh viện.
Phát triển tín dụng nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ được coi trọng nhằm tạo vốn cho người nông dân phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập.
-OAD hỗ trợ các chương trình quốc gia dân sinh xã hội, trong đó:
+Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình làm giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,6%, nhịp độ tăng dân số năm 2005 dưới 1,6%.
+Chương trình thanh toán bệnh xã hội với mục tiêu năm 2005 thanh toán triệt để bệnh phong trong cả nước, thanh toán các bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh, sởi, bạch hầu, ho gà, khống chế viêm gan B, viêm não Nhật Bản, tả, thương hàn.
+Chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn với mục tiêu năm 2005 đảm bảo 95% dân số được dùng nước sạch, 85% dân số có hố xí hợp vệ sinh, giúp nông dân tái tạo phân bón hữu cơ và xử lý chất thải.
+Chương trình giải quyết việc làm với mục tiêu hàng năm giải quyết việc làm cho 1,3 đến 1,35 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố xuống 3%, nâng quỹ sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.
-Cải tạo, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị cho các bệnh viện tỉnh, thành phố. Tăng cường năng lực cho hệ thống y tế xã, huyện, xây dựng một số xí nghiệp dược, tăng cường năng lực kiểm soát sử dụng thuốc.
-Phát triển giáo dục và đào tạo, vừa tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác dạy và học, vừa nâng cao trình độ giáo viên các cấp. Chú trọng và hoàn thiện, phát triển mạng lưới các trường dạy nghề.
Trong khi cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học trong nước đang trong quá trình chuẩn bị, phải dành một phần ODA để gửi sinh viên ra nước ngoài học tập.
-Tiếp tục phát triển hệ thống cấp nước ở một số thành phố, thi xã hiện chưa có dự án. Phát triển hệ thống thoát nước, xử lý rác thải ở một số thành phố, thị xã đông dân, môi trường đang bị ô nhiễm nặng.
-sử dụng hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA, kết hợp với các nguồn vốn khác như đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trong nước để tiếp tục phát triển các nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và các trạm biến thế phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt trong tương lai.
Hỗ trợ phát triển giao thông vận tải, giành nguồn ODA thích đáng phát triển các đường nhánh, đường xương cá nối với các đường quốc lộ, đảm bảo giao thông thông suốt đến các vùng dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa.
-Sử dụng ODA hợp lý kết hợp với các nguồn vốn khác (đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trong nước) để cải tạo, nâng cấp và xây mới một số cảng biển, sân bay phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
-Đối với thông tin liên lạc, ưu tiên sử dụng ODA để phát triển viễn thông nông thôn.
-Dành một phần ODA vào việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng (đường, hệ thống cấp, thoát nước; thông tin liên lạc; nhà ở dân cư...) xung quanh các khu công nghiệp, nhất là các tỉnh có nhiều khó khăn, thu nhập thấp.
Sử dụng ODA để thực hiện nghiên cứu cơ bản (tổng quan, quy hoạch, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi), chuyển giao công nghệ, phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan nghiên cứu và quản lý.
-Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho các công trình công nghiệp nhằm tạo nguồn vốn thực hiện các biện pháp cải cách doanh nghiệp, đầu tư theo chiều sâu, tăng cường và đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Việt Nam chủ trương trong quá trình phát triển, nguồn lực trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng và nguồn vốn ODA đến được tay người dân và cộng đồng mới thực sự trở thành chất xúc tác cho quá trình phát triển nhanh và bền vững.
3-Yêu cầu đặt ra đối với việc thu hút và giải ngân ODA của Việt
Nam thời gian tới.
Trong những năm qua, về cơ bản chúng ta đã tạo được những điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách kinh tế. 5 năm tới sẽ bắt đầu thời kỳ cải cách kinh tế chiến lược 10 năm (2000-2010) với những yêu cầu thực hiện toàn diện hơn, sâu và mạnh hơn, Đi vào những vấn đề mới khó khăn và phức tạp hơn so với giai đoạn trước. Thêm vào đó là những đòi hỏi về vốn và công nghệ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần khoảng 9 tỷ USD vốn ODA để cân đối cho đầu tư phát triển. Do đó, nhiệm vụ đặt ra là trong 5 năm 2001-2005 phải thu hút được 13 tỷ USD và đưa vào giải ngân 10 tỷ USD.
Trong 5 năm tới, nhu cầu về vốn ODA là rất lớn. Tuy nhiên, lượng vốn ODA thu hút có thể sẽ tăng không đáng kể. Vì vậy, cần thực hiện triệt để các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA để tránh tình trạng lãng phí vốn trong khi nền kinh tế trong nước đang thiếu vốn cho phát triển.
Khi nền kinh tế tăng trưởng, một số vấn đề xã hội như đói nghèo, bệnh tật, mù chữ... được đẩy lùi thì nguồn vốn ODA không hoàn lại chắc chắn sẽ giảm đi, lượng ODA vốn vay sẽ tăng lên. ODA vốn vay là món nợ của chính phủ. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng là yêu cầu cấp bách nhất, kết quả mới là thước đo đánh giá việc sử dụng ODA có hiệu quả hay không. Vì lý do đó, hơn bao giờ hết, việc sử dụng ODA cần có quy hoạch tổng thể, hợp lý, khảo sát nhu cầu vốn của từng ngành thật chính xác, dự án phải mang tính thiết thực, tránh để tình trạng công trình đã hoàn thành nhưng không được đưa vào sử dụng hoặc sử dụng với công suất thấp. ODA không hoàn lại cần tập trung cho việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Cơ hội và thách thức của nước ta trong việc thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA thời gian tới là rõ ràng. Cơ hội rất thuận lợi nhưng thách thức cũng rất lớn. Chúng ta phải tăng cường các biện pháp thúc đẩy giải ngân và sử dụng ODA để mang lại hiệu quả kinh tế chứ không phải để thế hệ con cháu còng lưng trả nợ.
4-Dự báo khả năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA giai đoạn
2001-2005
Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế xã hội trong những năm qua, Việt Nam hiện vẫn là một trong những nước nghèo của khu vực và thế giới. Đây là lợi thế của Việt Nam đối với việc thu hút nguồn vốn này, vì đối tượng cung cấp ODA của các nhà tài trợ là các nước nghèo, có mức thu nhập thấp.
Thời gian qua, Việt Nam đã có những thành công lớn trong chính sách đối ngoại, vai trò của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Một trong những thành công đó là chúng ta đã thu hút được sự quan tâm của các nhà tài trợ quốc tế, thể hiện ở sự gia tăng về quy mô tài trợ và số lượng các nhà tài trợ đến với Việt Nam. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn tới, chắc chắn quan hệ của Việt Nam với các nhà tài trợ song phương và đa phương sẽ tiếp tục được cải thiện.
Dự báo trong 5 năm tới, Việt Nam có thể vận động các nhà tài trợ cung cấp khoảng 16 tỷ USD, khối lượng ODA cam kết sẽ tăng đều và ổn định hơn. Với bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện ODA trong những năm qua, chắc chắn chung ta sẽ cải thiện được tỷ lệ giải ngân. Nếu tỷ lệ giải ngân đạt 45% thì chúng ta sẽ có 7,5 tỷ USD vốn ODA cho giai đoạn 2001-2005, trung bình mỗi năm có 1,5 tỷ USD.
Cơ cấu ODA trong thời gian tới sẽ thay đổi, viện trợ không hoàn lại sẽ giảm, tập trung chủ yếu vào hình thức ODA vốn vay. Dự kiến những năm tới, nguồn vốn này sẽ chiếm trên 85% tổng vốn ODA. Khối lượng vốn ODA này cũng ưu tiên cho lĩnh vực năng lượng và giao thông vận tải. ODA không hoàn lại sẽ tập trung vào các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa để phát triển nông nghiệp nông thôn và xoá đói giảm nghèo.
Xét từ nhiều phương diện và trên cơ sở xem xét thực trạng giải ngân ODA ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể nhận xét rằng triển vọng giải ngân ODA trong thời gian tới sẽ có bước cải thiện vì nó xuất phát từ lợi ích của bản thân quốc gia và chúng ta đang có những biện pháp từng bước tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến vấn đề này.
II-Những biện pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân ở Việt Nam
Giai đoạn 2001-2005
Xung quanh vấn đề về tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn ODA có nhiều ý kiến khá trái ngược nhau. Theo đánh giá của các chuyên gia WB thì tốc độ giải ngân vốn ODA như vậy là chậm, do đó chương trình viện trợ của WB dành cho Việt Nam từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431 triệu USD năm 1999. Có thể thấy chương trình viện trợ của WB đang có xu hướng thu hẹp lại. Trong năm 2000, WB dự báo tình hình giải ngân sẽ không có nhiều cải thiện so với những năm qua. Trái ngược với quan điểm của WB, đại diện của Ngân hàng hợp tác và đầu tư Nhật Bản lại tỏ ra lạc quan về tốc độ giải ngân ODA và dự tính rằng trong năm 2000, mức giải ngân các khoản cam kết của Nhật Bản cho Việt Nam sẽ đạt 700 triệu USD, gấp ba lần năm 1999.
Tuy nhiên xét từ khía cạnh người sử dụng vốn ODA, cụ thể là trong các chương trình, dự án ở Việt Nam thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA trong những năm qua là rất chậm. Sự chậm trễ này không chỉ do phía Việt Nam gây ra mà còn ở cả phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn vốn ODA của 45 nhà tài trợ khác nhau, trong khi môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, năng lực cán bộ còn hạn chế mà phải tiếp nhận 45 quy định khác nhau về quy trình thủ tục giải ngân, tỷ lệ vốn đối ứng... của các nhà tài trợ thì việc chậm trễ tốc độ giải ngân tại một số dự án là không thể tránh khỏi.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong những năm tới cần phải tiến hành những giải pháp mang tính toàn diện sau:
1-Đồng bộ hoá khung pháp lý của Việt Nam cho việc thực hiện ODA
Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA là nguyên nhân chính gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này.
Những quy định trong việc đấu thầu, xét thầu đang gây ra những trở ngại không nhỏ cho qúa trình thực hiện dự án. Về vấn đề đồng bộ khung pháp lý liên quan đến nguồn vốn ODA còn phải kể đến Nghị định 22/CP về đền bù, giải phóng mặt bằng. Đây là văn bản có 7 nội dung cần sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng là một trong những khâu phức tạp trong quá trình triển khai các dự án ODA ở các lĩnh vực khác nhau. Trong khi đó, Nghị định 22 quy định đền bù chưa được cụ thể, chưa thống nhất với các văn bản về thu tiền sử dụng đất dẫn đến các cách hiểu khác nhau giữa các dự án. Thêm vào đó công tác quản lý đất đai giữa các địa phương chưa đồng bộ khiến chính quyền địa phương lúng túng trong việc lập đền bù, gây khó khăn cho việc triển khai giải phóng mặt bằng của các dự án.
Thực tế đòi hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng các ban ngành chức năng cần có những cuộc tiếp xúc, trao đổi với các nhà tài trợ và thông qua Hội nghị những nhà tài trợ cho Việt Nam hàng năm để xúc tiến qúa trình làm hài hoà thủ tục liên quan đến ODA ở cả hai phía. Sự hài hoà trong các thủ tục của cả hai phía có thể khắc phục sự chậm chễ trong tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA một cách tích cực. Các nhà tài trợ chỉ nên thống nhất với Chính phủ về các quy định có tính chung nhất, các chi tiết cụ thể nên giao quyền cho các địa phương thống nhất để phù hợp với các đặc thù của họ, hạn chế được những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án sau này. Việc bổ sung, sửa đổi khung pháp lý cần sự phối hợp giữa Ban quản lý dự án tại các địa phương, các tỉnh có dự án khi đưa ra những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án để các cơ quan chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại phục vụ công tác giải ngân... có thể tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy một cách đồng bộ, toàn diện.
2-Về chính sách thuế
Theo đánh giá của các dự án sử dụng vốn ODA, vướng mắc lớn nhất trong khâu giải ngân ODA là thủ tục của phía Việt Nam, trong đó thủ tục hải quan, đặc biệt là chính sách thuế đang được xem là khâu cần phải chấn chỉnh ngay để thúc đẩy được tốc độ giải ngân ODA trong thời gian tới. trên thực tế, chỉ trừ những dự án ODA ở dạng viện trợ không hoàn lại mới được miễn thuế hàng hóa ( bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng), còn các dự án vay lại từ phía Chính phủ thì tiền thuế cho các hàng hoá thuộc dự án đều được giải ngân từ nguồn vốn đối ứng, lấy từ ngân sách Nhà nước. Do đó, việc đánh thuế hàng hoá các dự án sử dụng vốn ODA thực chất là "lấy từ túi này bỏ sang túi kia" của Nhà nước. Trong khi đó, Bộ Tài chính cho rằng việc đánh thuế là nguyên tắc của một nền kinh tế hoàn hảo, vì thế chưa thể xếp các dự án ODA là một ngoại lệ. Do đó một giải pháp cần làm trước mắt là áp dụng hình thức ghi thu- ghi chi trong việc đánh thuế hàng hoá nhập khẩu phục vụ các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, tiến tới đề nghị Bộ Tài chính miễn thuế nhập khẩu, VAT đối với các hàng hoá nhập khẩu của dự án.
3-Rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án
-Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA trong thời gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
4-Cải tiến công tác đấu thầu, xét thầu
Qua thực tế triển khai, các quan chức Chính phủ, các nhà tài trợ cũng như các ban quản lý dự án (QLDA) đều cho rằng cần phải chỉnh sửa các văn bản đó vì giữa chúng có sự thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế và chưa hài hoà với quy trình thủ tục của bên tài trợ. Riêng với Quy chế Đấu thầu 88/CP và Quy chế quản lý Đầu tư 52/CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ban quản lý dự án và các nhà tài trợ đều thừa nhận rằng có sự thiếu nhất quán trong hai quy định này, chẳng hạn như quy định mang tính nguyên tắc về lựa chọn nhà thầu chưa phù hợp với đặc thù của từng dự án, các nội dung về quản lý đấu thầu và chỉ định thầu còn nhiều điểm chưa đồng nhất khiến việc thực hiện dự án gặp phải những vướng mắc không đáng có, những quy định về năng lực cửa các nhà thầu chưa sát thực tế gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước khi muốn đấu thầu. Do đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nghị định 52/CP và Nghị định 88/CP sẽ tạo điều kiện cho cả nhà đầu tư trong và ngoài. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ sửa đổi quy định đối với những dự án có giá trị dưới 1 tỷ đồng và các gói thầu tư vấn dưới 500 triệu đồng được áp dụng hình thức chỉ định thầu, sự thay đổi này cũng tạo ra sự thông thoáng hơn trong các văn bản pháp quy về quy chế đấu thầu của Việt Nam.
5-Chính sách và công tác đền bù, giải phóng mặt bằng
Dưới đây là một số nội dung chủ yếu cần sớm được sửa đổi, bổ sung:
(1) Cần làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998. Cần có quy định rõ thời điểm sử dụng đất để đảm bảo không vi phạm quy hoạch của cấp có thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ công trình. Không lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời có quy định rõ ràng về thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này sẽ theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất qua các giai đoạn khác nhau: cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp...
(2) Có quy định cụ thể về mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là vấn đề hệ trọng và có nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp.
(3) Đối với việc tính giá đất đền bù, nên bỏ hệ số k và thực hiện việc tính giá đất đền bù phù hợp với khả năng sinh lời hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương. Giá tính đất đền bù do UBND tỉnh quyết định để đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, cần cho phép UBND tỉnh dựa trên quy định của Chính phủ về giá đất khi quy định đó đã phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng thực tế của đất đai để làm giá đất tính đền bù thiệt hại ở địa phương để giảm công việc cho địa phương.
(4) Đối với việc đền bù thiệt hại về tài sản, cần có quy định thống nhất với Nghị định 22/1998/NĐ-CP. Đó là đền bù 100% giá xây dựng đối với nhà cấp bốn vì loại nhà này chủ yếu là của các đối tượng nghèo nên cần được ưu tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đồng thời, phải có quy định rõ về việc đền bù theo mức thiệt hại thực tế cho nhà từ cấp ba trở lên để đảm bảo cho mức đền bù phù hợp với những thiệt hại mà người có đất bị thu hồi.
(5) Cần đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm những quy định về: Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới; Điều kiện bắt buộc về cơ sơ hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống nhân dân; Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại nơi tái định cư nhằm phát huy tinh thần dân chủ tại cơ sở và tránh sự áp đặt từ phía Nhà nước; Đề ra nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện.
(6)Cần bổ sung một số nội dung cụ thể về hội đồng đền bù và hội đồng thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể như sau:
-Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập hội đồng đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh thì lãnh đạo sở chủ quản của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án trong việc lập và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng.
-Bổ sung những quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của hội đồng cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng như chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện của những người bị thu hồi đất.
-Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng.
-Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng.
6-Chuẩn bị tốt vốn đối ứng
Vốn đối ứng là một phần tài chính quan trọng và nhiều khi là điều kiện cung cấp vốn ODA của các nhà tài trợ. Vốn đối ứng có thể hiểu là phần đóng góp tài chính của phía Việt Nam trong các dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Nhìn chung, các nhà tài trợ không bao giờ cung cấp toàn bộ số vốn cho các chương trình, dự án. Tuy nhiên, việc quy định lượng vốn đối ứng và tiến trình giải ngân không cố định một cách cứng nhắc mà tuỳ thuộc vào công tác đàm phán giữa hai bên.
Chuẩn bị tốt vốn đối ứng là một khâu quan trọng trong tiến trình thúc đẩy tốc độ giải ngân. Các nhà tài trợ bao giờ cũng đòi hỏi một khoản vốn đối ứng của phía Việt Nam nhằm bảo đảm tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA mà họ cung cấp. Điều này gây khó khăn cho việc giải ngân, nhưng lợi ích mà nó mang lại là rất lớn và về lâu dài, thể hiện thiên chí của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.
Hiện nay, ngoài các dự án nhóm A được Chính phủ quan tâm giải quyết, địa phương phải tự cân đối nguồn vốn đối ứng hàng năm. Điều này làm cho một số tỉnh, thành phố lúng túng bởi phần vốn được giao phải cân đối nằm ngoài khả năng của họ. Vì vậy, Chính phủ cần có sự chỉ đạo về hướng giải quyết cho các tỉnh, thành phố gặp khó khăn.
Về phía địa phương, cần thành lập Quỹ phát triển và có kế hoạch chi tiết hàng năm về cấp và quản lý tốt nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA đã được phân cấp quản lý trực tiếp.
7-Thủ tục giải ngân cho các dự án
Tiếp tục cải thiện thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA đã quy định trong Nghị định 87/CP sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, tốn nhiều thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán trả chậm, điều này sẽ gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với một số dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khối lượng đã hoàn thành không được giải ngân gây khó khăn cho nhà thầu.
Ban hành chế độ, chính sách đặc thù riêng về thủ tục và trình tự giải ngân để đặc biệt đối xử với một số dự án gặp nhiều khó khăn song vẫn phải đảm bảo tính công bằng và minh bạch. Hiện nay, các quy định về thủ tục và trình tự giải ngân vẫn mang tính chung chung, chưa lường trước được những khó khăn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án.
Rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn nhằm cải tiến thủ tục rút vốn theo hướng giảm phiền hà trong quá trình này.
Quy định về việc mở một tài khoản riêng phục vụ công tác lập đề cương và xây dựng báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi cho dự án, vì hiện nay nguồn kinh phí này hầu như không được cấp, ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA.
8-Phát triển nguồn nhân lực cho các dự án ODA, xây dựng quy chuẩn, tiến tới chuyên nghiệp hoá các Ban QLDA
Trong những năm tới đây, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự án là một trong những việc cần làm ngay. Chúng ta có thể mời các chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn công việc của dự án cho cán bộ dưới hình thức đào tạo ngắn ngày theo kiểu tập trung hoặc đào tạo ngay tại cơ sở làm việc đối với một số nghiệp vụ đặc thù của dự án. Về lâu dài, cần chuẩn hoá trình độ cán bộ thực hiện dự án phải có trình độ đại học trở lên và thông thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh chóng, chính xác các công việc của dự án.
Song song với quá trình sửa đổi, bổ sung các quy định mang tính pháp quy trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, việc xây dựng, chuẩn hoá các Ban QLDA sử dụng vốn ODA cũng cần phải được coi trọng. Để hoạt động hiệu quả, các Ban QLDA cần phải được trang bị những trang thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc cần thiết. Đối với những dự án có quy mô lớn, số lượng các dự án đơn vị nhiều thì cần duy trì một Ban QLDA trung ương có nhiệm vụ quản lý, giám sát hoạt động của các dự án thành viên. Ngoài ra Ban QLDA trung ương phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan quản lý vốn ODA của Chính phủ về tiến độ triển khai thực hiện dự án cũng như những trách nhiệm liên đới khác.
kết luận
Qua hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ vô cùng to lớn của bạn bè trên thế giới, một trong những thiện chí đó là nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ đã dành cho Việt Nam.
Vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trong đó một số dự án đã hoàn thành và phát huy tác dụng tích cực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các vấn đề xã hội được quan tâm hơn. Các ngành, địa phương được đáp ứng một phần nhu cầu vốn phục vụ đầu tư phát triển. Qua việc thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam được nâng cao trình độ và trưởng thành trông thấy.
Bên cạnh những thành công, mức giải ngân thấp trong những năm qua luôn là một thách thức lớn và chưa được giải quyết tốt. Muốn sử dụng nguồn vốn này hiệu quả hơn, chúng ta cần tập trung giải quyết tồn tại này.
Được sự tận tình giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Vũ Cương, cán bộ hướng dẫn Nguyễn Thanh Hương và các cô, các chú ở Văn phòng Thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi đã hoàn thành " luận văn tốt nghiệp " của mình với mong muốn sẽ góp phần vào việc đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do sự hiểu biết và năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của những ai quan tâm đến vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA.
danh mục tài liệu tham khảo
Tình hình tổng quan về viện trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, báo cáo của Chương trình Phát triển LHQ tại Việt Nam (UNDP) xuất bản năm 1999.
Đánh giá viện trợ, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới xuất bản năm 1999.
Nguồn vốn ODA và các vùng kinh tế, Vụ Kinh tế đối ngoại- Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2000.
Các văn bản pháp luật :
Nghị định 87/CP ban hành ngày 5-8-1997.
Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 24-4-1998.
Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ban hành ngày 1-9-1999.
Thông tư số 15-1997/ TT-BKH ban hành ngày 24-10-1997
Thông tư liên tịch số 81/1998/TTLT-BTC-NHNN ban hành ngày 17-6-1998.
Tạp chí Tin kinh tế - xã hội các số 47,48/1999; 17,18,30,39/2000.
Tạp chí Kinh tế và dự báo số 2,10+11/2000.
Thời báo Kinh tế Việt Nam số 1/2000.
Thời báo Tài chính Việt Nam số 33,134/2000.
Tạp chí Kinh tế phát triển số 37,42/2000.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 9/2000.
Tạp chí Con số và sự kiện số 1+2/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36763.doc