Chuyên đề Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng

Sau khi nghiên cứu tình hình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, tôi nhận thấy việc nâng cao tỷ trọng tín dụng trung_dài hạn cho nhu cầu phát triển kinh tế là hết sức cần thiết. Nền kinh tế nước ta đang đang chuyển sang cơ chế thị trường do đó nhu cầu vốn vừa đảm bảo được an toàn ttrong kinh doanh đặt Chi nhánh trước bao thử thách. Để chiến thắng những khó khăn đó đòi hởi Ngân hàng cần phải lỗ lực vươn lên không ngừng. Ngân hàng phải xem xét lại công tác này, phải không ngừng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ trong đó có công tác thẩm định dự án. Chi nhánh cần tìm hiểu thị trường và tìm hiểu bạn hàng, quan hệ hợp tác với khách hàng và chiếm lĩnh thị trường là điều kiện tiên quyết để dẫn đến thành công.

doc59 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31/12/1996 31/12/1997 31/12/1998 Số tiền (tr đ) Tỷ trọng (%) SốTiền (tr đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr đ) Tỷ trọng (%) Tổng 80657 100.0 100306 100.0 108591 100.0 -QD 64805 80.3 87557 87.3 99396 91.5 -NQN 15852 19.7 12807 12.7 9245 8.5 Qua biểu 5: “Chi tiết về cho vay trung dài hạn theo các thành phần kinh tế” Ta thấy các ngành có quan hệ vay vốn trung dài hạn tại ngân hàng công thương Hai Bà Trưng chủ yếu là các ngành xây dựng, ngành giao thông vận tải, ngành công nghiệp chế biến, khách sạn nhà hàng... Sở dĩ có đặc trưng như vậy một phần là do địa bàn quận Hai Bà Trưng chủ yếu tập trung các tổng công ty, các doanh nghiệp hoạt động theo các lĩnh vực trên là chủ yếu. Còn lại một số ngành khác như ngành lâm nghiệp, mặc dù tổng công ty Vi Na cà phê là một trong những khách hàng lớn nhất của Ngân hàng với mức dư nợ thường xuyên khoảnh 100 tỷ đồng nhưng lại không có nhu cầu vay vốn trung dài hạn mà chỉ vay vốn ngắn hạn. Có thể còn do nhiều yếu tố mà Ngân hàng và khách hàng còn chưa gặp nhau trong việc cho vay trung và dài hạn nhưng qua phân tích ta thấy tình hình cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh là rất đa dạng và phong phú. Để nghiên cứu kỹ hơn về tình hình cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng công thương Hai Bà Trưng ta tiến hành phân tích quan hệ cho vay trung dài hạn của chi nhánh với từng ngành kinh tế : +Ngành giao thông vận tải: Có mức dư nợ năm 1996 là 21139 triệu đồng chiếm tỷ trọng 26.2% , năm 1997 dư nợ : 34751 triệu đồng tăng 64% so với năm 1996, chiếm tỷ trọng 34.6% và tính đến 31/12/1998 tổng dư nợ ngành này là: 36319 triệu đồng, tăng 4.5%, chiếm tỷ trọng 33.5%. Mặc dù trong năm 1998 tốc độ tăng dư nợ ngành này có chậm lại nhưng nhìn chung thông qua số liệu trên ta thấy mức đầu tư trung dài hạn cho ngành giao thông vận tải của Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chính là do đây là ngành tập trung chủ yếu các dự án đầu tư máy móc, thiết bị để tăng năng suất và chất lượng thi công các công trình thuộc chiến lược phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của đất nước. Trong năm1998 Ngân hàng đã tiến hành đầu tư mới hàng loạt các dự án với số lượng vốn khoảng 20 tỷ VND và 700.000 USD cho ngành giao thông vận tải để mua sắm các thiết bị thi công như: Cần cẩu, máy xúc, trạm trộn bê tông, các phương tiện vận tải... Cho các tổng công ty như: Tổng công ty xây dựng đường thuỷ, tổng công ty xây dựng công thình 1, các công ty trực thuộc tổng công ty cầu Thăng Long... Để thi công các công trình phát triển giao thông đường bộ, xây dựng các cầu trên quốc lộ 1A... +Ngành xây dựng: Năm 1996 dư nợ đạt 21186 triệu đồng chiếm 26.3% tổng dư nợ trung dài hạn, năm 1997 đạt 8405 triệu đồng, giảm 60.3% so với năm 1996 và chiếm tỷ trọng 8,3%. Sang năm 1998 dư nợ đối với ngành xây dựng chỉ còn: 2812 triệu đồng tức giảm 66.5% so với năm 1997 và chiếm 2.6%. Qua số liệu trên ta thấy được sự giảm sút nhanh chóng trong dư nợ của ngành này từ 21186 triệu đồng (năm 1996) xuống còn 2812 triệu đồng (năm 1998). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do đặc điểm hoạt động của ngành chủ yếu cần vốn lưu động để mua sắm nguyên vật liệu, chi phí nhân công đến khi công trình bàn giao họ có thể hoàn vốn lại cho Ngân hàng ngay vì vậy họ chủ yếu có nhu cầu vay vốn ngắn hạn. Bên cạnh đó sau một thời gian tăng nhanh chóng các công trình xây dựng đến nay số lượng các công trình xây dựng giảm đi một cách nhanh chóng do những biến động về kinh tế xã hội, các doanh nghiệp này hiện nay gặp rất nhều khó khăn do chính phủ chưa phê duyệt các dự án xây dựng lớn, cũng như kế hoạch quy hoạch tổng thể đến năm 2010. Tính đến nay chỉ còn ba doanh nghiệp còn dư nợ trên tài khoản đó là: Tổng công ty xây dựng Hà Nội dư nợ:450 triệu đồng, Công ty xây dựng số 1 dư nợ: 787 triệu đồng, công ty xây dựng số 4 dư nợ: 1575 triệu đồng. +Ngành công nghiệp: Năm 1996 dư nợ 10320 triệu đồng chiếm13%, năm 1997 dư nợ: 39806 triệu đồng tăng 3.85 lần so với năm 1996 và chiếm:39.6%,đến năm 1998 doanh nghiệp đạt 53680 triệu đồng tăng 1.34 lần so với năm 1997 và chiếm tỷ trọng 49.4%. Như vậy ta thấy có một sự tăng trưởng đáng kể trong dư nợ cho vay trung và dài hạn trung dài hạn đối với ngành công nghiệp, sự tăng trưởng trên là do trong thời gian qua ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã chú trọng đến việc đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu như: Công ty may Chiến Thắng, công ty gốm Hữu Hưng... Để đầu tư mua sắm các trang thiết bị sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và nước ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu. *Về quan hệ giữa cho vay và thu nợ: Xem xét cụ thể biểu 7: “Tình hình cho vay và thu nợ trung dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng” ta thấy: Trong năm 1996 doanh số cho vay trung dài hạn đạt: 58320 triệu đồng, trong đó kinh tế quốc doanh chiếm 97.9%. doanh số thu nợ trung dài hạn trong năm đạt: 37664 triệu đồng và cũng như cho vay thu nợ trung dài hạn chỉ tập trung vào khu vực kinh tế quốc doanh. Sang năm 1997mặc dù dư nợ trung dài hạn tăng nhưng doanh số cho vay và thu nợ bị giảm cụ thể: Doanh số cho vay trung dài hạn chỉ bằng 94% so với năm 1997, doanh số thu nợ chỉ bằng 92% so với năm 1997. Tuy nhiên tính đến năm 1998 thì tình hình lại có chuyển biến ngược lại:Doanh số cho vay trung và dài hạn58057 triệu đồng tăng 6% so với năm 1997, doanh số thu nợ trung dài hạn đạt 49706 triệu đồng tăng 43% so với 1997. Trong đó cũng chủ yếu là cho vay và thu nợ đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Qua phân tích trên đây ta thấy mặc dù có giảm về doanh số cho vay và thu nợ trong năm 1997 nhưng sang năm 1998 lại tăng chứng tỏ tình hình cho vay và thu nợ của chi nhánh đang phát triển theo chiều hướng tốt. Nhìn chung doanh số cho vay và thu nợ trong các năm là khá cân bằng. 2. Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh. Nhìn chung tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của cho vay là tương đối thấp cụ thể như sau: Đến 31/12/1997 tổng nợ quá hạn 18488 triệu đồng và chiếm tỷ lệ 3.32% trên tổng dư nợ. Sang đấu năm 1998 do ảnh hưởng biến động nhỏ của nền kinh tế dẫn đến nợ quá hạn có tăng, tính đến 30/6/1998 tổng dư nợ quá hạn là: 20403 triệu đồng với tỷ lệ 3.55% trên tổng dư nợ. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình hình có chuyển biến ngược lại. Tính đến31/12/1998 tổng dư nợ quá hạn giảm xuống còn 15286 triệu đồng và với tỷ lệ 1.81% trên tổng dư nợ cho vay. Nếu so sánh với tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng nói chung (thường tỷ lệ này khoảng 5%) thì đối với chi nhánh vấn đề nợ quá hạn có thể chấp nhận được. Có được những kết quả như trên một phần là nhờ vào việc các cán bộ tín dụng luôn bám sát khách hàng vay vốn tạo điều kịên cho các khoản vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả cao, các khoản vay đến thời gian thu hồi đều được các cán bộ tín dụng theo dõi sát sao, có nhiều hình thức đôn đốc đơn vị vay trả nợ kịp thời và có được những kết quả như vậy là nhờ vào việc chi nhánh có được số lượng khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín và đặc biệt là có quan hệ lâu dài với Ngân hàng nhìn chung việc thu hồi vốn đều được tiến hành nhanh, thuận lợi đảm bảo an toàn vốn. “Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.” Ta thấy dư nợ quá hạn ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là rất lớn trong tổng dư nợ quá hạn tính đến cuối năm 1997là: 4785 triệu đồng chiếm gần 30% tổng dư nợ quá hạn. Trong khi đó mức dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cùng thời gian đó chỉ chiếm khoảnh 32% trên tổng dư nợ. Chính vì tình trạng trên mà Ngân hàng có su hướng giảm cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhờ đó mà nợ quá hạn đã giảm xuống đáng kể đối với khu vực ngoài quốc doanh vào cuối năm 1998 và đầu năm 1999. Đến 31/12/1998 tổng nợ quá hạn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm xuống còn 3216 triệu đồng chiếm 26.2% tổng dư nợ quá hạn và với tỷ tệ 22.2% trên tổng dư nợ ngoài quốc doanh. Đến 31/03/1999 nợ quá hạn khu vực này còn 3061 triệu đồng chiếm tỷ lệ 22.1% trên tổng dư nợ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua phân tích trên đây ta thấy trên thực tế nợ quá hạn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có giảm nhưng thực chất lại là do doanh số cho vay của khu vực này giảm. Chính vì vậy nếu so sánh tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của kinh tế ngoài quốc doanh thì ta thấy tỷ lệ này không hề giảm thậm chí còn tăng và tỷ lệ này còn quá cao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu hẹp cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của ngân hàng công thương Hai Bà Trưng. Vấn đề đặt ra cho chi nhánh trong thời gian tới không những phải nâng dần doanh số cho vay với khu vực ngoài quốc doanh mà còn phải hạ thấp dần tỷ trọng nợ quá hạn của khu vực này tạo ra sự cân bằng giữa các thành phần kinh tế trong việc đầu tư tín dụng của chi nhánh. Khu vực kinh tế quốc doanh tuy rằng tỷ trọng nợ quá hạn so với tổng dư nợ thấp nhưng mức dư nợ nợ quá hạn không phải là nhỏ cụ thể như sau: Vào thời điểm cuối năm 1997nợ quá hạn là: 13703 triệu đồng, sang năm 1998 vào những tháng đầu năm mức dư nợ quá hạn có tăng nhưng lai giảm vào những tháng cuối năm và đến 31/12/1998 tổng dư nợ quá hạn đối với khu vực kinh tế quốc doanh là:12052 triệu đồng chiếm tỷ trọng 2.24% trên tổng dư nợ khu vực quốc doanh, đến 31/03/1999 còn tiếp tục giảm và chỉ còn: 7084 triệu đồng chiếm tỷ trọng 1.3% trên tổng dư nợ khu vực kinh tế quốc doanh. Nhìn chung các doanh nghiệp quốc doanh có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên các doanh nghiệp này thường vay với số tiền lớn nên khi gặp rủi ro bất khả kháng thì dư nợ quá hạn của kinh tế quốc doanh sẽ làm tăng nhanh chóng dư nợ quá hạn của toàn chi nhánh. Biểu phân tích nợ quá hạn theo kỳ hạn nợ tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng Chỉ tiêu 12/1998 01/1999 02/1999 03/1999 Tổng dư nợ 551735 531909 563808 558480 -Trong đó NQH (tr đ) 15268 11454 9759 10145 -Tỷ lệ (%) 2.76 2.15 1.73 1.80 Phân theo kỳ hạn nợ 1.Cho vay ngắn hạn STổng dư nợ (tr đ) 443144 424067 45808 445997 -Trong đó NQH (tr đ) 13042 9311 7521 7904 -Tỷ lệ (%) 2.90 2.19 1.64 1.77 +NQH < 6 tháng 0 2283 494 878 +NQH 6T - 12T 3850 7 7 7 +NQH > 12 T 9192 7021 7020 7019 2.Cho vay trung dài hạn STổng dư nợ (tr đ) 108591 107542 107000 112463 -Trong đó NQH (tr đ) 2117 2034 2129 2132 -Tỷ lệ (%) 1.95 1.88 1.98 1.90 +NQH < 6T 1177 659 1879 757 +NQH 6T - 12T 285 250 250 250 +NQH > 12 T 655 1125 0 1125 3. Cho vay khác Nợ quá hạn (tr đ) 109 109 109 109 III. Đánh giá hiệu quả tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng Như đã đề cặp đến khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá cho vay trung và dài hạn ở chương I. Vì vậy để xem xét hiệu quả cho vay trung dài hạn tại ngân hàng công thương Hai Bà Trưng chúng ta sẽ dựa trên các chỉ tiêu đó để đánh giá những kết quả và những tồn tại. 1. Những kết quả đạt được. a.Xét về phía xã hội. Thực hiện chủ trương của toàn ngành Ngân hàng không ngừng nâng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong những năm qua tín dụng trung dài hạn của ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã đóng góp một phần đáng kể về mặt xã hội như: Nhờ có những dụ án dầu tư cho vay theo chiều sâu dẫn đến sử dụng được một khối lượng lớn lao động trong xã hội như dự án cho vay đối với công ty may Chiến Thắng mua sắm thiết bị đã tạo ra được hơn 200 đơn vị việc làm cho cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp... Ngân hàng cũng tham gia đầu tư vốn vào nhiều cơ sở hạ tầng cho đất nước như cho cho tổng công ty cầu Thăng Long vay vốn để đầu tư xây dựng một số cầu trên quốc lộ 1A, quốc lộ 36, cho vay dự án nâng cấp sân bay Nội Bài... Ngoài ra hoat động đầu tư của Ngân hàng cũng góp phần đán kể vào việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua việc cho vay các công ty như: Công ty may chiến thắng, Công ty may 10 để đầu tư sản xuất các mặt hàng suất khẩu. Xét về phía nhà doanh nghiệp Một là: Tỷ lệ dư nợ tín dụng trung dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng đã tăng trưởng không ngừng qua các năm 1996, 1997, 1998. Tuy nhiên năm1998 tỷ lệ này mới chỉ đạt khoảng 20%, nhỏ hơn mức chung của toàn hệ thống Ngân Hàng Công Thương Việ Nam(khoảng 25%). Song dù sao cũng là kết quả của sự lỗ lực không ngừng của toàn chi nhánh. Thời gian qua chi nhánh đã thực hiện phương châm phục vụ đổi mới nến kinh tế theo chiều sâu. Nhu cầu của các doanh nghiệp lúc này là đổi mới kỹ thuật, công nghệ để khắc phục tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, gia tăng các máy móc thiết bị mới, hiện đại để tăng hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mở rộng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng là một giải pháp đúng đắn để chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với môi trường cạnh tranh gay gắt. Những kết quả bước đầu của ngân hàng công thương Hai Bà Trưng là tích cực cung cấp nguồn vốn trung dài hạn cho nhu cầu phát triển kinh tế, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đậi hoá đất nước tháo gỡ những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, tạo động lực bước đầu cho các doanh nghiệp phát triển. Hai là: trong những năm qua để tạo điều kiện cho hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi cho vay đã cố gắng xem xét các dự án để cung cấp vốn nhanh chóng, chính sác, phát tiền vay đúng tiến độ công trình. Vì mục tiêu lợi nhuận và cũng để tạo điều kiện chi nhánh các doanh nghiệp vay vốn dễ dàng nhanh chóng trong khuân khổ các quy chế và quy trình tín dụng để đảm bảo an toàn tín dụng. Ba là: Ngân hàng còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoat động có hiệu quả thông qua các hoạt động tư vấn của mình. Bởi lẽ Ngân hàng là một tổ chức liên quan đến mọi ngành kinh tế, chính vì vậy Ngân hàng sẽ là một cơ quan có hiểu biết tổng hợp trên mọi lĩnh vực. Các doanh nghiệp sẽ rất yên tâm nếu như được Ngân hàng tư vấn cho hoạt động của mình. Tuy rằng khả năng này của chi nhánh chưa thật vững vàng song những năm qua chi nhánh đã triển khai công tác tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành sớm các thủ tục xin vay, Ngân hàng luôn cử các cán bộ tín dụng theo dõi quá trình hoạt động của các đơn vị vay vốn nhằm giám sát và sớm tìm ra những giải pháp cần thiết nếu đơn vị vay vốn gặp khó khăn. Bốn là: Vì là chi nhánh trực thuộc của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.chịu sự quản lý của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam: Mức lãi suất mức phán quyết của chi nhánh đều do Ngân Hàng Công Thương Việt Nam quy định và kiểm tra rất sát sao. Song dựa vào mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp, chi nhánh luôn tạo điều kiện ưu đãi về lãi suất cho các khách hàng, khuyến khích khách hàng vay vốn thường xuyên tại chi nhánh ví dụ: 3/1998 chi nhánh xin Ngân Hàng Công Thương Việt Nam giảm 0.1% lãi suất cho tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty xây dựng công trình, Tổng công ty xây dựng Hà Nội, Tổng công ty cầu Thăng Long... Ưu đãi cho vay đối với hàng suất khẩu cho một số công ty: Công ty may Chiến Thắng, Công ty dung dịch hoá phẩm...Nhằm giúp cho những doanh nghiệp này mở rộng sản xuất kinh doanh tăng sản lượng hàng hoá cung cấp ra thị trường nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời cũng tạo quan hệ lâu dài giữa Ngân hàng với doanh nghiệp, tăng sức hấp dẫn đối với khách hàng. Năm là: Chi nhánh đã bám sát được các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xem xét đầu tư vốn hợp lý, giúp các doanh nghiệp này từng bước ổn định sản xuất kinh doanh. Xét về phía Ngân hàng Một là:Sau nhiều năm hoạt động với kinh nghiệm của bản thân, đến nay Ngân hàng đã có quan hệ với những khách hàng có uy tín, khả năng tài chính vững mạnh, thuộc những ngành nghề mũi nhọn, những công trình trọng điểm của Nhà nước để mở rộng và tăng vốn đầu tư nhằm phát huy hiệu quả tín dụng. Ví dụ như đầu tư cho tổng công ty thép Việt Nam bao tiêu thép cho công ty thép Thái Nguyên, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, các đơn vị trực thuộc bộ giao thông như: Tổng công ty xây dựng cầu Thăng Long, Tổng công ty xây dựng công trình 1 và các đơn vị trực thuộc. Đây là một trong những thành công lớn nhất của chi nhánh. Nhờ có những thành công này chi nhánh đã thu được kết quả kinh doanh khả quan, trong đó có sự đóng gópmột phần không nhỏ của lược khách hàng ổn định và có uy tín trên đây. Hai là: Thực hiện nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn không chỉ đơn giản là thẩm định các dự án đàu tư, thẩm định món vay rồi tung vốn cho vay mà còn là cả một quá trình kiểm tra. Trong những năm qua, ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã thực hiện tốt công tác kiểm tra bao gồm: ãKiểm tra trước khi cho vay: Đây chính là bước kiểm tra tính khả thi của dự án vay vốn. ãKiểm tra trong khi cho vay: Là nghiệp vụ thực hiện mỗi lần phát tiền vay nhằm đảm bảo số tiền vay phải bao gồm giá trị khối lượng máy móc, thiết bị và các chi phí thực tế phát sinh của công trình. ãKiểm tra sau khi cho vay: Là việc kiểm tra chứng từ vay vốn, đảm bảo nghiệp vụ cho vay có đúng chế độ, thể lệ Nhà nước ban hành. Kiểm tra đơn vị sử dụng tiền vay có đúng mục đích xin vay không? Tiền vay phát ra có thực sự được dùng để đầu tư máy móc thiết bị hay chi phí cho công trình theo đúng mục đích đã cam kết trong đơn xin vay không?. Ba là: Sở dĩ chi nhánh đạt được kết quả như hiện nay là nhờ hoạt động đầu tư có tính chất trọng điểm. Chi nhánh ưu tiên đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng suất khẩu có uy tín như: Tổng công ty cà phê Việt Nam, Công ty giầy Thụy Khuê, Công ty may Chiến Thắng... Bốn là: Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động thông qua việc mở phòng giao dịch Cầu Diễn, mở các địa điểm cho vay tai các phường, nhằm thu hút vốn và có điều kiện hoạt động tốt đối với khách hàng ở địa bàn lân cận. Năm là: Chi nhánh đã không ngừng tổ chức đào tạo cán bộ, lựa chọn những cán bộ đủ đức, đủ tài, nhiệt tình công tác vào những công trình trọng điểm gặp nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư hoàn tất thủ tục vay vốn trong thời gian ngắn nhất để đưa công trình vào sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Sáu là: Trong những năm qua, ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã đẩy mạnh đầu tư trung dài hạn, nâng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trên tổng dư nợ. Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Bảy là: Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã tận dụng triệt để các nguồn huy động trong và ngoài nước để cho vay với lãi suất hợp lý. 2. Những tồn tại trong hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng công thương Hai Bà Trưng. Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây trong quá trình hoạt động của mình Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng cũng còn một số tồn tại chủ yếu sau: Thứ nhất: Sự đóng góp của vốn đầu tư đối với việc giải quyết việc làm cho xã hội còn ở mức hạn chế. Nguyên nhân của vấn đề này là do tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay còn quá nhỏ chỉ khoảng 18 - 19%. Thứ hai: Cũng như lo lắng của nhiều Ngân hàng nguồn vốn cho vay trung và dài hạn lấy từ đâu là vấn đề nan giải đạt ra đối với chi nhánh. Theo lẽ thường nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn chủ yếu lấy từ nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các nguồn tài trợ khác với kỳ hạn tương ứng. Song trong những năm qua Ngân hàng còn thiếu nguồn vốn này cả nội tệ và ngoại tệ. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế nước ta trong những năm vừa qua còn chưa thực sự ổn định cho nên người dân chư yên tâm gửi tiền với kỳ hạn dài. Chính vì vậy huy động nguồn vốn loại này là rất khó khăn đây cũng là những khó khăn chung của toàn ngành Ngân hàng. Thứ ba: Tồn tai này nảy sinh do tồn tại thứ hai. Trên thực tế mặc dù dư nợ tín dụng trung dài hạn của chi nhánh đạt khoảng18% trên tổng dư nợ nhưng phần lớn các dự án cho vay đề là trung hạn ít có dự án dài hạn. Có thể nói nhiệm vụ nhiệm vụ cho vay trung dài hạn trách nhiệm phần nhiều thuộc về Ngân hàng Đầu tư và phát triển nhưng điều đó cũng không có nghĩa là các Ngân hàng thương mại khác không cho vay trung dài hạn. Vì mục tiêu phát triển kinh tế đất nước Ngân Hàng Công Thương Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu “Cho vay trung và dài hạn ở mức hợp lý” Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Năm 1998 Ngân Hàng Công Thương Việy Nam đã đề ra chỉ tiêu cho vay trung và dài hạn trên tổng dư nợ đạt 25-30% nhưng tỷ lệ này ở Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng chỉ đạt khoảng 20%. Thứ tư: Các doanh nghiệp cho rằng thời gian xét duyệt của một công trình còn quá kéo dài, thủ tục rườm rà vì có quá nhiều giấy tờ biểu mẫu. Những qui định này do Ngân hàng cấp trên ban hành các chi nhánh buộc phải thực hiện. Việc thực hiên này làm cho các cán bộ tín dụng mất nhiều thời gian đồng thời tạo cho doanh nghiệp đi vay tâm lý chán nản, vì vấn đề này mà dẫn đến một số một số khách hàng rời bỏ Ngân hàng trong nước để đến với các Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tất nhiên vấn đề này nhiều khi cũng không hoàn toàn do riêng chi nhánh nhưng xét trên góc độ bên ngoài, tức góc độ từ các doanh nghiệp nhìn vào thì đây cũng là vấn đề đáng để Ngân hàng quan tâm nghiên cứu và tìm cách tháo gỡ. Thứ năm: Từ khi có nghị định 49 của Chính Phủ qui định các Doanh Nghiệp Nhà nước vay vốn không cần tài sản thế chấp, không giới hạn theo vốn điều lệ mà căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cho nên Ngân hàng lại vấp phải những khó khăn mới đó là vấn đề an toàn vốn. Nhìn chung đây là một quyết định đúng đắn nhằm loại bỏ những qui định chồng chéo, không cần thiết. Nhưng mỗi cách thực hiện đều có hai mặt của nó, ngoài việc vượt quá giới hạn điều kiên nhằm bảo đảm an toàn vốn vay, giải pháp này còn có thể dẫn đến tình trạng toàn bộ số vốn để thực hiện dự án đều là vốn vay Ngân hàng. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro, tổn thất nếu như dự án không có hiệu quả. Chính những điều này đã gây tâm lý sợ sệt cho Ngân hàng khi cho vay vốn. Thứ sáu: Tồn tại chủ yếu trong hoạt động tín dụng là không khẳng định tính chất hợp lý của thời hạn, hầu hết các dự án vay vốn đều gò ép về thời gian, hiệu quả kinh tế chỉ trên giấy tờ để được Ngân hàng cho vay vốn.Trên thực tế thì chưa chắc đã đại được kết quả như trong hợp đồng. Chính vì nguyên nhân này nợ quá hạn của Ngân hàng có xu hướng tăng. Có hiện tượng khách hàng vay vốn lưu động của Ngân hàng để mua sắm tài sản cố định, hết thời hạn cho vay vốn lưu động, doanh nghiệp không trả được nợ Ngân hàng lại giải quyết bằng cách cho doanh nghiệp vay vốn dài hạn. Do vậy chất lượng tín dụng có phần giảm thấp. Thứ bảy: Ta thấy tình hình cho vay trung và dài hạn còn mất cân đối giữa các thành phần kinh tế. Dư nợ tín dụng trung dài hạn hầu hết là thuộc về kinh tế quốc doanh. Theo ý kiến của một số cán bộ tín dụng tại Ngân hàng thì cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh chủ yếu là các tổng công ty lớn, có những dự ánlớn có tính khả thi cao, phần lớn các dự án đều phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sản xuất kinh doanh nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu, quản lý yếu kém, sản phẩm ít có tính cạnh tranh nên hoạt động kinh doanh dẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Trên thực tế cũng đã chứng minh điều này, bảng tổng kết hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ta thấy nợ quá hạn chiếm tỷ trọng khá cao khoảng 30%. Tuy nhiên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có nhiều năng động. cơ cấu gọn nhẹ, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường. Hơn nữa đây cũng là thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích phát triển nên chi nhánh cần có những nghiên cứu kỹ để tìm các giải pháp cho vấn đề này. Chương III giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng Sau khi phân tích tình hình hoạt động đặc biệt là tình hình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng chúng ta nhận thấy bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ tình hình cho vay trung và dài hạn còn một số tồn tại đáng phải xem xét. Lượng vốn mà chi nhánh cung cấp cho nền kinh tế chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp và chưa phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Với mục tiêu mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước, sau một thời gian nghiên cứu công tác cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh tôi xin nêu ra một số ý kiến về các giải pháp nâng cao hiệu quả trung và dài hạn tại ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng Như ở chương I đã nêu lên khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay trung và dài hạn, các giải pháp được nêu ra dưới đây cũng nhằm hoàn thiện các chỉ tiêu đã nêu theo hướng: - Phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế- xã hội. - Đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho doanh nghiệp. - Đảm bảo hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Sau đây là những biện pháp nhằm khuyến khích mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn ở ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng 1. Đơn giản hoá thủ tục cho vay. Tránh cho doanh nghiệp những khó khăn phức tạp trong việc giải trình, tạo điều kiện cho khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ với Ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng tạo điều kiện cho Ngân hàng điều tra có trọng điểm không mất thời gian tìm hiểu lâu. Nhưng đơn giản không có nghĩa là qua loa, hời hợt. Việc xét duyệt của Ngân hàng phải chính xác khi đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay. 2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định trước khi cho vay. Để hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng, trong quá trình xét duyệt cho vay đối với mọi thành phần kinh tế đảm bảo an toàn vốn và phát triển vốn của Ngân hàng nên tuân theo những trình tự sau: Trước khi thiết lập một quan hệ tín dụng, khâu đầu tiên là Ngân hàng phải tìm hiểu bạn hàng của mình, trong đó việc xem xét khả năng tài chính của các doanh nghiệp là hết sức quan trọng vì đây là yếu tố quyết định việc Ngân hàng có thu hồi được vốn hay không. Khi xem xét khả năng tài chinh của doanh nghiệp Ngân hàng không chỉ xem xét quy mô hoạt động của doanh nghiệp biểu hiện qua vốn lưu động, vốn cố định mà còn phải biết được năng lực sản xuất của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra từ đó xem xét khả năng trả nợ đối với Ngân hàng. Trong trường hợp doanh nghiệp vay vốn để quan hệ buôn bán với bên thứ ba thì Ngân hàng phải xem xét mức độ hợp lý cũng như tính đúng đắn của hợp đồng kinh doanh này. Điều này đòi hỏi Ngân hàng phải xem xét hoạt động của các doanh nghiệp qua các tài liệu kế toán, qua khảo sát thực tế. Ngoài ra Ngân hàng còn phải tiến hành thăm dò các doanh nghiệp qua các tổ chức kinh tế có quan hệ với doanh nghiệp như những đơn vị cung cấp vật tư, những đơn vị tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng khác có liên quan nhất là những thông tin thu thập được từ thị trường. Cụ thể Ngân hàng phải xem xét các vấn đề sau: hXem xét xem máy móc, thiết bị đơn vị dự kiến đầu tư có phải là nhu cầu cấp thiết phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không, thẩm định về phương diện kỹ thuật cũng như kinh tế của máy móc thiết bị một cách chính xác hThẩm định thị trường hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra, đặc biệt phân tích tính cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường. hNếu đầu tư máy móc thiết bị đó thì có phát huy được hiệu quả hay không Thẩm định là công tác quan trọng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Muốn hoạt động tín dụng đạt kết quả tốt thì công tác thẩm định phải thực hiện tốt. Công tác thẩm định đặc biệt quan trọng với nghiệp vụ đầu tư tín dụng trung và dài hạn. Để công tác thẩm định đạt được kết quả cao đòi hỏi những cán bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp về tự nhiên, khoa học xã hội và kinh tế để xem xét tình hình chính xác của các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, phương án đi vay và trả nợ. Do đó đặc biệt phải chú trọng đến việc nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng. Song không có nghĩa là ngoài việc xem xét những khía cạnh hữu hình của vấn đề còn phải kiểm tra khía cạnh vô hình của người xin vay nhằm đưa ra những đánh giá khách quan về khả năng thành công của dự án. Sau khi thực hiện công tác phân tích các chỉ tiêu định lượng, định tính cán bộ tín dụng phải dành thời gian để khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay nhằm xác định khả năng hoạt động của công ty nói chung và năng lực lãnh đạo của chủ sở hữu thông qua sự cảm nhận thu được từ quan sát tinh tế cũng như kinh nghiệm của bản thân. 3. Đa dạng hoá các phương thức thu hồi vốn trung và dài hạn. Theo nguyên tắc, nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn phải là những nguồn vốn huy động dài hạn, nguồn vốn viện trợ và vay dài hạn nước ngoài. Nhưng hiện nay do nền kinh tế vẫn chưa thực sự ổn định, tâm lý người dân vẫn chưa muốn gửi tiền với kỳ hạn dài. Chính vì vậy trong toàn hệ thống Ngân hàng nói chung và đối với Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng nói riêng tuy rằng nguồn vốn huy động khá dồi dào, song nguồn vốn trung và dài hạn lại quá ít ỏi dẫn đến Ngân hàng thường phải lấy nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc hạn chế đối với công tác cho vay trung và dài hạn của chi nhánh và nó cũng đặt Ngân hàng trước những rủi ro. Do đó để biến tín dụng trung và dài hạn thực sự trở thành một hoạt động quan trọng của Ngân hàng thì ngoài việc mở rộng cho vay trung và dài hạn Ngân hàng cần có các biện pháp đa dạng hoá các phương thức huy động nhằm thu hút được khối lượng vốn lớn trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng nên mở rộng các đợt huy động vốn trung và dài hạn thông qua việc phát hành các trái phiếu có kỳ hạn lớn hơn 1 năm với lãi suất hợp lý nhằm khuyến khích các tổ chức kinh tế, dân cư mua các loại trái phiếu này. Ngoài ra để tránh cho người gửi tiền có kỳ hạn dài khỏi bị thiệt khi có những biến động trên thị trường Ngân hàng nên có bảo đảm bằng vàng hay bằng ngoại tệ khi phát hành trái phiếu. 4. Các giải pháp nhằm mở rộng đầu tư đối với khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay Kinh tế quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo, định hướng và cần được chú trọng đầu tư một cách thích đáng. Tuy nhiên bên cạnh đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua mặc dù chưa thực sự phát triển nhưng vẫn đóng một vị trí quan trọng trong nền kinh tế- xã hội. Khi nền kinh tế thị trường đã phát triển nó thực sự đã thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Ngày nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có mặt trên hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế như: xây dựng, lương thực thực phẩm, chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, cơ khí... Theo số liệu thống kê, khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh năm 1998 tạo ra khoảng 62% GDP trong đó riêng ngành dịch vụ khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh chiếm khoảng 75% tổng giá trị dịch vụ. Thành phần Kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta trong thời gian qua thực sự đã phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay các thành phần kinh tế này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của nó. Đây là tình trạng trung đối với tất cả các Ngân hàng Thương Mại ở nước ta hiện nay. Đặc biệt ở chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình tỷ trọng này hiện nay chỉ đạt khoảng 3 - 4 % tổng cho vay trung và dài hạn( trong khi đó tỷ lệ cho vay trung và dài hạn đối với các thành phần kinh tế chỉ chiếm khoảng 18%- 19% tổng dư nợ ). Hướng tới công cuộc CNH - HĐH đất nước chúng ta cần phải phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong đó có thành phần Kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có rất nhiều tiềm năng phát triển. Trong thời gian tới nhu cầu vốn cho đầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc của thành phần kinh tế này rất lớn. Vì thế Ngân hàng cần phải tiếp tục mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế này. Điều đó không chỉ đảm bảo vững chắc cho sự tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn của chi nhánh. 5. Đảm bảo hiệu quả an toàn trong cho vay trung và dài hạn Ngân hàng nên tiến hành phân loại doanh nghiệp. Để đánh giá được chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước, Ngân hàng phải tiến hành phân loại để có những bước đi thích hợp, có những biện pháp xử lý nợ phù hợp với từng doanh nghiệp. Tiến hành kiểm tra, kiểm soát, chấn chỉnh hồ sơ, thủ tục, diều kiện dối với từng món vay hình thành nên dư nợ hiện tại theo thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành. Qua kiểm tra rà soát tiến hành xử lý dứt điểm về mặt hồ sơ, thủ tục, bổ sung hoàn thiện các điều kiện vay vốn. Đối với món vay tín chấp cần xem xét kỹ bảo đảm đủ các điều kiện của khách hàng được vay tín chấp. Ngân hàng tiến hành phân loại doanh nghiệp Nhà nước theo ABC đựa vào các tiêu thức trong văn bản 180/CV- TG 3 của Ngân hàng nhà nước từ đó có xu hướng xử lý nợ đối với từng loại cụ thể: + Đối với doanh nghiệp loại A: Có thể xem xét duy trì mức dư nợ hiện tại khi xét thấy các món vay hình thành nên dư nợ này đảm bảo đầy đủ các điều kiện vay vốn. Việc xem xét quyết định mức dư nợ trung và dài hạnhpải phụ thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp. + Đối với doanh nghiệp loại B: Ngân hàng phải tiến hành chia làm 2 nhóm: * Nhóm 1: gồm những doanh nghiệp Nhà nước có khả năng tìm được phương án phát triển ổn định, lâu dài. Ngân hàng cần chủ động cùng các ngành liên quan để giúp đỡ doanh nghiệp có phương án tháo gỡ khó khăn hiện tại, phát triển sản xuất. Sau một thời gian nếu xét thấy tình hình sản xuất kinh doanh phát triển tốt Ngân hàng có thể xếp doanh nghiệp lên loại A. * Nhóm 2: Gồm những doanh nghiệp thuộc loai B có mức cho vay trung và dài hạn vượt quá mức cho phép, có tình hình sản xuất kinh doanh ở tình trạng cầm chừng. Ngân hàng nên thoả thuận kế hoạch thu nợ theo chu kỳ giảm vốn tín dụng của doanh nghiệp xuống một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo thu hồi được nợ cho vay. Công việc này càn được tiến hành nhanh chóng vì các khoản cho vay trung và dài hạn có kỳ hạn dài vì vậy càng để lâu rủi ro mất vốn càng lớn . Đối với các doanh nghiệp loại B phải thuộc diện xử lý giảm dần dư nợ Ngân hàng vẫn có thể tiến hành cho vay mới theo các điều kiện tín dụng hiện hành nhưng phải đảm bảo doanh số cho vay nhỏ hơn doanh số thu nợ để dảm bảo kế hoạch thu nợ được thực hiện tốt. +Đối với những doanh nghiệp Nhà nước thuộc loại C tức là loại kinh doanh thua lỗ, phát sinh nợ quá hạn lớn thì ngừng cho vay các khoản mới đồng thời tiến hành các biện pháp cương quyết để thu hồi nợ. + Đối với các doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập, mới quan hệ tín dụng Ngân hàng nên thống nhất cho vay ở mức hợp lý để vừa thăm dò vừa giữ khách hàng. 6. Cho vay đối với các dự án có hiệu quả kinh tế. Việc đầu tư một cách đầy đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đưa dự án của doanh nghiệp vào thực thi đúng tiến độ, đúng kế hoạch sớm phát huy hiệu quả đảm bảo trả đủ nợ và lãi vay Ngân hàng. 7. Đa dạng hóa các hình thức cho vay trung và dài hạn: Phổ biến hiện nay tại ngân hàng công thương Hai Bà Trưng là cho vay theo dự án để mở rộng các hình thức cho vay trung và dài hạn cho nền kinh tế , chi nhánh nên áp dụng một số hình thức khác như: Thuê mua, cho vay theo hạn mức v.v... . Hiện nay hình thức tín dụng thuê mua tỏ ra có rất có hiệu qủa ở các nước phát triển. Thực tế hình thức tín dụng này đã được ngân hàng công thương Hai Bà Trưng thực hiện từ những năm trước đây nhưng đạt hiệu qủa chưa cao, mức dư nợ tín dụng thấp và không phát triển trong thời gian gần đây. Trong định hướng kế hoạch năm 2000 Ngân hàng cần có những biện pháp để áp dụng tín dụng thuê mua phục vụ đầu tư trung và dài hạn của chi nhánh . Đặc điểm nổi bật của hình thức tín dụng này là máy móc thiết bị phù hợp theo yêu cầu của người thuê nên các doanh nghiệp phải phát huy được tính sáng tạo và đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra; khả năng tiêu thụ nhanh nên sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao . Các doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh mà không cần có vốn tự có tham gia như hình thức cho vay trung và dài hạn thông thường. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay môi trường kinh doanh nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng còn nhiều bất trắc rủi ro hoạt động của doanh nghiệp thường thiếu ổn định vì vậy việc cho vay trung và dài hạn bằng tiền chỉ đáp ứng cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả kinh tế, có tài sản thế chấp đây là những điểm hạn chế trong việc mở rộng cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh. Do đó việc áp dụng phương thức tín dụng thuê mua có thể giải quyết một phần khó khăn khi vay trung và dài hạn nói trên. Vì phương thức này chỉ cần điều kiện thứ nhất của doanh nghiệp là sản xuất kinh doanh có hiệu quả, điều kiện thế chấp đặt vào hàng thứ yếu vì bản chất của phương thức tín dụng thuê mua đã bao hàm cả thế chấp trong hợp đồng thuê mua rồi. 8. Thực hiện chiến lược khách hàng. Để thu hút được lượng khách hàng lớn và có uy tín, chi nhánh ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nên mở rộng quan hệ, dùng các biện pháp Marketing để khách hàng biết được chất lượng phục vụ của mình. chi nhánh nên có những chế độ ưu đãi đối với những khách hàng có quan hệ lâu dài với Ngân hàng. Đặc biệt nên gắn quyền lợi của các cán bộ tín dụng với kết quả cho vay mà họ tạo ra. Phải thường xuyên theo dõi kiểm tra và tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ tín dụng làm việc tốt. Thực hiện tốt được công tác này Ngân hàng sẽ biến những cán bộ tín dụng của mình thành các nhân viên Marketing thu hút khách hàng. Giải pháp này có tầm quan trọng đặc biệt trong xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Do có sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại trong nước và đặc biệt là đối với các Ngân hàng nước ngoài đòi hỏi ngân hàng công thương Hai Bà Trưng phải luôn chú trọng tới công tác này để không những giữ được những khách hàng cũ mà còn ngày càng thu hút được một lượng khách hàng mới ở trong và ngoài địa bàn quận Ba Đình. 9. Các giải pháp nhằm tăng cường các biện pháp thu nợ đảm bảo trả nợ gốc và lãi vay. Trong thời gian qua, sở dĩ tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng công thương Hai Bà Trưng còn thấp là do công tác thu nợ và lãi vay còn chưa đạt hiệu quả cao số dư nợ quá hạn, lãi treo còn lớn việc thu nợ còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các đơn vị vay vốn của Ngân hàng để đầu tư vào các công trình không có hiệu quả dẫn đến không có khả năng trả nợ và lãi vay nguyên nhân của tình trạng này do cả hai phía Ngân hàng va doanh nghiệp đi vay. Về phía các doanh nghiệp do không tìm hiểu kỹ thị trường nên sau khi đầu tư vào thì sản phẩm đầu ra không tiêu thụ được, chất lượng sản phẩm làm ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường hàng hóa chủ yếu dưới dạng tồn kho nên không có khả năng trả nợ vay. Bên cạnh đó do trình độ kinh tế, kỹ thuật còn yếu kém nên khi giao dịch mua bán, chuyển giao công nghệ với nước ngoài chúng ta mua phải những máy móc cũ kỹ lạc hậu hàng vài thế hệ dẫn đến máy móc sử dụng kém hiệu quả. Đối với Ngân hàng do công tác thẩm định còn chưa tốt dẫn đến các dự án đầu tư chưa có hiệu quả cao. Xuất phát từ những nguyên nhân trên để công tác thu nợ đạt hiệu quả cao nhằm nâng cao hiệu quả cho vay trung và dài hạn cần có những giải pháp cụ thể sau: +Khi quyết định trả nợ: Ngân hàng cần tính toán xem xét sao cho phù hợp với năng lực sản xuất, với mức độ sử dụng của công trình nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp đầu tư , đảm bảo thu nợ lãi vay thích hợp +Về thời hạn cho vay: Ngân hàng không nên ép thời hạn trả nợ đối với khách hàng vì nhưvậy sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau và theo từng thời vụ khác nhau. Vì vậy nếu ép thời hạn trả nợ đối với các doanh nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp rơi vào tình trạng bị nợ quá hạn mặc dù làm ăn không thua lỗ. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của cả doanh nghiệp lẫn Ngân hàng. +Về thời điểm trả nợ: Ngân hàng nên xem xét thời điểm trả nợ sao cho hợp lý, đưa ra quyết định về thời gian ân hạn đối với các doanh nghiệp trong thời gian đầu hoạt động dự án chưa thu được lợi nhuận cao do chưa tiếp súc với thị trường Ngân hàng nên dành cho doanh nghiệp một thời gian ưu đãi hợp lý trước kỳ hạn thu nợ. Phương thức thu nợ cũng cần quy định cho phù hợp với thực tế về tình hình kinh doanh và thu nhập. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết, nghiên cứu sâu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Về mức trả nợ : Hiện nay đối với các món cho vay trung và dài hạn, ngân hàng chủ yếu áp dụng hình thức thu nợ chia đều cho các kỳ. Tuy nhiên do tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong từng thời vụ là rất khác nhau dẫn đến doanh thu cũng khác nhau. Chính vì vậy Ngân hàng nên nghiên cứu đối với từng khách hàng trong từng thời kỳ phù hợp với thu nhập của đơn vị vay vốn từng thời điểm. Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nên có sự phối hợp thống nhất với các Ngân hàng khác như Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngọai thương ... trong việc nhờ thu hộ. Ngoài ra chi nhánh nên quy định cụ thể chặt chẽ về việc Ngân hàng phải lập và trích nộp khấu hao nhằm tạo điều kiện cho việc thu hồi vốn vay. 10. Các giải pháp nhằm xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi. Thu hồi các khoản nợ quá hạn là một nhiệm vụ nặng nề và khó khăn vì các đồng tiền vay đã bị đóng băng phần lớn vào các tài sản cố định, đất đai, nhà cửa. Tuy nhiên việc xử lý nợ qúa hạn không nên chỉ tập trung duy nhất vào giải pháp phát mại tài sản thế chấp nhất là trong tình trạng hiện nay khi thị trường bất động sản bị đóng băng. Do đó việc thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi ở Ngân hàng ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nên áp dụng các biện pháp sau: -Ngân hàng có thể chuyển nợ quá hạn thàng vốn góp cổ phần vào các doanh nghiệp chuyển sang hình thức cổ phần có triển vọng củng cố và phát triển. -Tạo điều kiện để các cổ đông là khách nợ được chuyển nhượng cổ phiếu cho người thứ ba dùng tiền bán cổ phiếu đó để trả nợ cho Ngân hàng. Luật công ty và luật các tổ chức tín dụng đều cho phép việc làm này và chỉ quy định phải xin phép khi chuyển nhượng các cổ phần sáng lập hoặc các cổ phần trên 15% vốn điều lệ. - Thu hồi các tài sản thế chấp để thu nợ: Trong tình trạng hiện nay việc phát mại tài sản thế chấp của khách hàng là một việc khó khăn, một phần vì quy trình phát mại kéo dài, tốn kém, phần khác vì do giá trị nhà đất hiện nay xuống thấp. Còn việc phát mại nhà xưởng, máy móc thiết bị càng không khả thi vì không tìm được người mua hơn nữa còn dẫn đến tình trạng đình trệ sản xuất làm mất công ăn việc làm của người lao động. Tài sản thế chấp mà Ngân hàng thu được có thể được dùng vào những mục đích khác như: Để Ngân hàng sử dụng hoặc cho thuê, hoặc khấu trừ vào các khoản nợ quá hạn - Quản lý tài chính các khách hàng có nợ quá hạn lớn: Các doanh nghiệp nào hoạt động có lời thì tạo điều kiện để họ hoạt động bình thường, nếu cần có thể hỗ trợ về mặt tín dụng, bảo lãnh nhưng tất cả phải đặt dưới sự giám sát toàn bộ các khoản thu chi, phần lợi nhuận thặng dư được thu về cho Ngân hàng để trừ nợ . -Phát mại tài sản để thu nợ là giải pháp cuối cùng. Việc phát mại thực hiện theo phương châm không gây ồn ào, mất ổn định. ngaòi ra còn một giải pháp nữa là khiếu tố các khách hàng chây ỳ đây là biện pháp cần thiết nhưng nên áp dụng có chọn lọc và chỉ áp dụng đối với những khách hàng hoàn toàn không có thiện chí trả nợ hoặc cố tình lừa đảo, tẩu tán tài sản hoặc mưu toan tuyên bố phá sản để trốn nợ. 11. Các giải pháp về cơ chế chính sách của nhà nước Trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển sang cơ chế thị trường nhiều vấn đề cơ bản của cơ chế thị trường chưa được nghiên cứu kỹ. Chính vì vậy do nhiều tác đọng khách quan và chủ quan mà hệ thống pháp luật ở nước ta còn chưa đồng bộ, tính ổn định chưa cao. Còn có nhiều văn bản của các ngành các cấp chồng chéo nhau đã gây rất nhiều khó khăn cho các chủ thể kinh doanh đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại. Trong điều kiện đó giải pháp tốt nhất để hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế là vừa tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật về kinh tế vừa nghiên cứu để ban hành bộ luật mới nhằm thống nhất các quy định pháp luật trong các văn bản pháp luật kinh tế. Trong thời gian qua nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật quan trọng như: Luật doanh nghiệp, luật thuế và đặc biệt quan trọnglà luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng hai bộ luật này đã tạo hành lang pháp lý khá thuận tợi cho hoạt động của các Ngân hàng. Tuy nhiên sau hơn 1 năm đưa vào đến nay chúng ta vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện hai bộ luật này dẫn đến việc áp dụng chúng chưa được đồng bộ. Chính vì vậy, để luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng thực sự đi vào hoạt động của các ngân hàng thương mại thì cần thiết các cấp các ngành phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thực thi hai bộ luật này. Hiện nay trong vấn đề xử lý tài sản thế chấp trong các Ngân hàng do còn thiếu các văn bản quy định của nhà nước cho nên việc giải quyết còn gặp rất nhiều khó khăn. Để từng bước tháo gỡ những khó khăn này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung của các ngân hàng thương mại cần thiết phải có một số giải pháp như sau : +Nhà nước cần nhanh chóng tạo lập một thị trường bất động sản thông qua việc sửa đổi luật đất đai nhằm tháo gỡ những cản trở về mặt pháp lý, làm cho đất đai thực sự được giải phóng, trở thành hàng hóa đặc biệt có khả năng chuyển hóa dễ dàng, linh hoạt như mọi hàng hóa khác trên thị trường. +Thành lập một ủy ban đặc biệt của chính phủ hoạt động với cơ chế đặc biệt có đủ thẩm quyền sử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh không phải thông qua các cơ quan chức năng giải quyết. +Đề nghị quốc hội ủy ban thường vụ quốc hội ra các văn bản cho giảm miễn thuế thu nhập trước bạ, lệ phí đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng địa phương ... Đối với tài sản đuợc xử lý để tạo điều kiện cho phát mại tài sản giải phóng vốn ứ đọng . +Đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính pháp lý không cần thiết để taọ điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng được dẽ dàng nhanh chóng. +Thành lập một công ty có chức nănh kinh doanh bất động sản và mua bán dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh với nước ngoài. +Nhà nước cần có phương án quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua việc sắp xếp, phân loại doanh nghiệp, mạnh dạn giải thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, cấp thêm vốn cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, từng bước tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp mà nhà nước không cần lắm giữ 100% vốn. Đối với thành phần kinh tế tư nhân, nhà nước cần phải có những chính sách đầu tư thích đáng, có chính sách thuế phù hợp để tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này phát triển đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác nhà nước phải có chính sách lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp như các chính sách về thanh lý tài sản cố định , sử dụng và quản lý các qũy dự phòng tổ chức cơ quan kiểm tra, quản lý thế chấp tài sản và kiểm tra tình hình tài chính của các doanh nghiệp khi vay vốn và sử dụng vốn. Tiếp tục giảm lãi suất Ngân hàng cho phù hợp với điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp ở nước ta. Nhà nước cũng cần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, thực hiện các chính sách khuyến khích toàn diện. Cần có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các nhà đầu tư, tạo một môi trường bình đẳng giữa các nhà đâù tư thuộc các thành phần trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Thực hiện cơ chế một cửa trong quan hệ giữa các nhà đầu tư với cơ quan Nhà nước. Nhà nước nên khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập nhiều loại quỹ đầu tư để trợ giúp vốn cho các dự án, mở rộng diện cho vay vốn trung và dài hạn từ qũy hỗ trợ đầu tư quốc gia, bổ sung cho qũy này chức năng bảo lãnh tín dụng và trợ cấp thêm một phần lãi suất cho các khoản vay từ các ngân hàng thương mại quốc doanh. 12. Tiếp tục chấn chỉnh các hoạt động của Ngân hàng: Nhiệm vụ trọng tâm để vươn lên đủ lực cung cấp vốn trung và dài hạn phục vụ quá trình CNH-HĐH đất nước. Các Ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần vốn của doanh nghiệp nên chỉ lựa chọn cho vay ngắn hạn để đảm bảo an toàn vốn, hạn chế cho vay trung và dài hạn trong khi nhu cầu về vốn của nền kinh tế lúc này là vốn trung và dài hạn. Do đó chính phủ phải có những giải pháp để nâng vốn tự có cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tăng cường năng lực hoạt động của các ngân hàng thương mại này. Bên cạnh đó Chính Phủ cần có những hỗ trợ trong việc giải quyết những khoản nợ đọng, nợ đang bị đóng trong các doanh nghiệp Nhà Nước góp phần giải phóng vốn để đầu tư cho nền kinh tế. Xây dựng một cơ chế tài chính phù hợp với tính chất hoạt động của các Ngân hàng, bảo đảm cho Ngân hàng có thể bù đắp được những rủi ro trong kinh doanh, đồng thời có những điều kiện để đổi mới, vươn lên đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của nền kinh tế. Thực hiện tốt vai trò của mình trong chiến lược CNH - HĐH của đảng và Nhà Nước đề ra. kết luận Sau khi nghiên cứu tình hình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, tôi nhận thấy việc nâng cao tỷ trọng tín dụng trung_dài hạn cho nhu cầu phát triển kinh tế là hết sức cần thiết. Nền kinh tế nước ta đang đang chuyển sang cơ chế thị trường do đó nhu cầu vốn vừa đảm bảo được an toàn ttrong kinh doanh đặt Chi nhánh trước bao thử thách. Để chiến thắng những khó khăn đó đòi hởi Ngân hàng cần phải lỗ lực vươn lên không ngừng. Ngân hàng phải xem xét lại công tác này, phải không ngừng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ trong đó có công tác thẩm định dự án. Chi nhánh cần tìm hiểu thị trường và tìm hiểu bạn hàng, quan hệ hợp tác với khách hàng và chiếm lĩnh thị trường là điều kiện tiên quyết để dẫn đến thành công. Cũng như tất cả những ai quan tâm tới hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động Ngân hàng nước ta nói, tôi mong rằng với những lỗ lực cố gắng của mình, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng sẽ thực hiện tốt những mục tiêu đề ra trong thời gian tới. Hy vọng rằng Chi nhánh sẽ trở thành người bạn đường của các nhà doanh nghiệp, cung cấp một các có hiệu quả vốn đầu tư cho nhu cầu đổi mới đất nước theo hướng CNH - HĐH. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34115.doc
Tài liệu liên quan