PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kết cấu hạ tầng là mở cửa, là cầu nối với toàn bộ các hoạt động kinh tế- xã hội, thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hoá, phát triển và phân bố lực lưỡng trên toàn lãnh thổ, nhất là các vùng, các địa phương trên toàn quốc; là cầu nối mở rộng giao lưu quốc tế, nhất là các nước trong khu vực. Phát triển kết cấu hạ tầng đối với mọi quốc gia, đều là những nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế của mỗi nước.
Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, việc phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, đạt trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vừa là điều kiện vừa là nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững nền kinh tế đất nước, là động lực để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và rút ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống kết cấu hạ tầng tiên tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã đặt ưu tiên cao cho việc phát triển mạng lưới hạ tầng quốc gia như hệ thống quốc gia như hệ thống đường xá, sân bay, bến cảng và cấp điện cũng như kết cấu hạ tầng địa phương. Trong giai đoạn 2001-2005, Nhà nước đã giành 27,5% tổng đầu tư nguồn ngân sách tập trung cho lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính- viễn thông. Chính vì vậy, chúng ta đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận trong việc cải thiện khu vực kết cấu hạ tầng, kết quả là sự gia tăng đáng kể của việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng.
Mặc dù vậy, hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông, kết cấu hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn) hiện nay vẫn trong tình trạng yếu kém, năng lực hạn chế, dưới mức trung bình so với các nước tiên tiến trong khu vực. Trong thời gian tới nhiệmvụ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng - xã hội là rất lớn, đòi hỏi phải thu hút mạnh hơn các nguồn vốn cho lĩnh vực này.
Vì vậy, NCS chọn hướng nghiên cứu là vấn đề thu hút vốn đầu tư cho xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, chuyên đề này là bước nghiên cứu đầu tiên tập trung vào "Những vấn đề lí luận và thực tiễn huy động vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội".
2. Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề này hướng tới các mục đích sau:
- Làm rõ hơn khái niệm kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và các nhân tố tác động đến sự phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu vốn đầu tư và các biện pháp thu hút vốn đầu tư nói chung vàcho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nói riêng.
- Nghiên cứu các mô hình tạo nguồn vốn ở nông thôn và các biện pháp thu hút vốn trong nước, FDI và ODA cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về vốn và thu hút vốn cho đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn và đô thị. Chưa đi sâu vào từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể của kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội.
Về giới hạn thời gian nghiên cứu thực tiễn Việt Nam từ 2000-2005 và các kiến nghị cho thời kỳ 2006-2010.
4. Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát so sánh
5. Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết cấu tài liệu tham khảo có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Chương 2: Những vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển và các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Chương 3: Phương hướng đảm bảo vốn đầu tư và biện pháp thu hút một số nguồn vốn chủ yếu trong giai đoạn 2006-2010 ở Việt Nam.
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những vấn đề lí luận và thực tiễn huy động vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ 5-7% lên 12-15% góp phần giảm ùn tắc và tai nạn giao thông; đồng thời cũng góp phần thay đổi bộ mặt các đô thị. Các dự án xây dựng đường sắt nội đô cũng đang được lập, trình duyệt và tìm kiếm nguồn vốn đầu tư.
Năm 2005, tập trung phấn đấu đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cải tạo nút giao thông, đường vành đai 3 ở Hà Nội, Cầu hầm Thủ Thiêm (TPHCM), chuẩn bị và triển khai thực hiện các dự án đường sắt nội đô Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đã khởi công dự án cầu Vĩnh Tuy ở Thủ đô Hà Nội, chuẩn bị các dự án ưu tiến về đường vành đai 2, vành đai 3 của Thành phố Hồ Chí Minh, đường sắt Sài Gòn - Biên Hoà…
Trong thời gian qua, các dự án giao thông đô thị thực hiện chậm, giải ngân chậm đã ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào các đô thị, đặc biệt là ở Hà Nội. Giải phóng mặt bằng, tái định cư luôn là yếu điểm của các dự án đô thị, cần sớm được khắc phục.
Lĩnh vực công trình công cộng: Trong thời gian qua chủ yếu giải quyết vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng một số địa điểm cần di dời theo quy hoạch như: Khu 1 A Hoàng Văn Thụ (Hà Nội), K300 Thành phố Hồ Chí Minh và hỗ trợ phát triển hạ tầng các khu công nghệ cao, công trình văn hoá, trường đại học, các khu đô thị mới, thực hiện đầu tư trung tâm hội nghị quốc gia, chuẩn bị đầu tư nhà Quốc hội (mới). Trong năm 2005 phấn đấu hoàn thành trung tâm ASEM 5 và một số dự án quan trọng khác.
Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước thực hiện trong 5 năm 2001 - 2005 cho lĩnh vực này ước đạt 12.000 tỷ đồng.
e. Nhà ở đô thị
Ước tính trong 5 năm 2001 - 2005 đã xây dựng được 102 triệu m2 nhà ở đô thị và 117 triệu m2 nhà ở nông thôn với tổng số vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 263.000 tỷ đồng, trong đó: vốn Ngân sách Nhà nước 2300 tỷ đồng (chiếm 0,87%); vốn tín dụng Nhà nước 1900 tỷ đồng (chiếm 0,7%); vốn huy động từ dân cư 258.800 tỷ đồng (chiếm 98,43%), diện tích nhà ở đô thị đạt khoảng 249 triệu m2, bình quân đầu người 10,2m2. Đã đầu tư 1400 tỷ đồng từ ngân sách và 700 tỷ đồng từ vốn tín dụng để hỗ trợ cho xây dựng nhà ở diện chính sách, nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, các vùng khó khăn ở Tây Nguyên, đồng bào Khơme Nam Bộ… Nhiều khi đô thị mới đã phát triển. Nhiều chính sách về nhà ở, đất ở được ban hành. Việc giao quyền sử dụng đất, cấp sổ đỏ ở các đô thị có tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khu chung cư không bảo đảm an toàn cho người và tài sản chưa được cải tạo kịp thời; Trên 50% nhà ở có độ tuổi trên 50; Nhà tạm còn nhiều, ở đồng bằng sông Cửu Long là 74%, Tây Bắc là 55%, Tây Nguyên là 47%. Trong xây dựng các khu đô thị mới đã huy động được nhiều nguồn vốn, nhưng chưa có giải pháp hợp lý để tăng nguồn thu cho Ngân sách.
Năm 2005, tiếp tục xây dựng các khu đô thị mới tại các địa phương, trong đó có nhiều dự án đầu tư theo phương thức tạo vốn từ quỹ đất. Phấn đấu cơ bản hoàn thành chương trình nhà ở cho đồng bào vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục hỗ trợ nhà ở cho đồng bào vùng khó khăn.
f. Hệ thống trụ sở cơ quan Nhà nước:
Giai đoạn 5 năm 2001 - 2005, tập trung đầu tư cho các cơ quan thuộc các Bộ, địa phương mới chia tách, hệ thống tư pháp, cải thiện điều kiện làm việc cho các cơ quan có khó khăn về nơi làm việc như: Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, các Bộ và một số địa phương.
Vốn đầu tư thực hiện ước đạt 5.000 tỷ đồng (trong đó vốn NSTT 4.160 tỷ đồng), hoàn thành khoảng 1.500 trụ sở với diện tích 1.200.000 m2, kết ưủa này đã cải thiện điều kiện làm việc cho các cơ quan Nhà nước, đáp ứng một phần chương trình cải cách hành chính.
Cho đến nay, hiện tượng lãng phí trong đầu tư xây dựng trụ sở vẫn còn. Công tác quy hoạch, định mức, định biên, thiết kế kiến trúc, thiết kế mẫu chậm được ban hành. Các tiêu chuẩn đặc thù không có quy định. Biên chế không được xác định và phê duyệt cụ thể dẫn đến thiếu căn cứ trong kế hoạch đầu tư.
Tồn tại lớn trong lĩnh vực này là vốn không đủ bố trí cho hệ thống tư pháp, trại giam theo quy định của Thủ tướng Chính phủ (hệ thống tư pháp 1700 tỷ đồng, hệ thống trại giam 1700 tỷ đồng). Nhiều Bộ, ngành, địa phương mới chia tách, hệ thống trụ sở cấp xã chưa có nguồn vốn để đầu tư. Vì vậy, để đạt được một số chỉ tiêu kế hoạch đề ra, cần phải:
- Để thực hiện tốt quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đề nghị cân đối nguồn vốn riêng như: Hệ thống tư pháp, hệ thống trại giam, trụ sở các địa phương mới chia tách, trụ sở cấp xã.
- Trong năm 2005 thực hiện và chuẩn bị thực hiện nhiều dự án trụ sở cơ quan cấp Bộ mới thành lập (cả chuyển tiếp, khởi công mới) như Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Tài nguyên Môi trường, Uỷ ban Dân số, Trẻ em và Gia đình, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Bưu chính - Viễn thông, Bộ Ngoại giao… đề nghị được bổ sung thêm vốn.
Trong 5 năm 2001- 2005, thực hiện đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị ước đạt: 90.000 tỷ đồng thuộc nguồn vốn Nhà nước.
Qua phân tích thực trạng ngành kết cấu hạ tầng đô thị, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Kết cấu hạ tầng đô thị trong 5 năm 2001 - 2005 có bước chuyển biến đáng kể, đạt được hầu hết các chỉ tiêu Đại hội IX (trừ công suất cấp nước). Các lĩnh vực có sự phát triển tương đối đồng đều, tạo ra bộ mặt đô thị mới khang trang, hiện đại hơn, sạch đẹp hơn và đáp ứng cơ bản những nhu cầu thiết yếu nhất. Công tác quản lý đô thị có nhiều tiến bộ, một số lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ bước đầu đã có chuyển biến theo hướng tự chủ tài chính; đã huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển, trong đó có nguồn lực quan trọng từ doanh nghiệp và dân cư, nhất là trong phát triển nhà ở. Bước đầu đã huy động được nguồn lực từ đất đô thị. Đã hạn chế được ách tắc, tai nạn giao thông và nâng cao năng lực giao thông công cộng đô thị.
Tuy nhiên, chất lượng công tác quy hoạch còn thấp, công tác quản lý đô thị, dự án, sản xuất kinh doanh còn nhiều tồn tại, dẫn đến hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu. Các giải pháp nhằm giảm tai nạn giao thông chưa đồng bộ, tai nạn giao thông còn nhiều, số người chết còn cao. Nguồn vốn Ngân sách cân đối không tương xứng với mục tiêu của một số lĩnh vực.
3.2.2. Định hướng hoàn thiện một bước các ngành kết cấu hạ tầng đô thị đến năm 2010
a. Định hướng phát triển đô thị đến 2010
Xuất phát từ mục tiêu phát triển đô thị là "Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị theo vị trí và chức năng của mình, phát huy được đầy đủ các thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc", có thể đưa ra định hướng phát triển đô thị như sau:
- Dự báo đến năm 2010 dân số đô thị là 30,4 triệu người, chiếm 33% dân số cả nước, do đó, nhu cầu sử dụng đất đô thị đến năm 2010 là 243.200ha, chiếm 0,74% diện tích đất tự nhiên, bình quân 80m2/người.
- Tổ chức không gian hệ thống đô thị trong cả nước, xây dựng và bố trí các đô thị trung tâm, tổ chức hệ thống đô thị theo các vùng lãnh thổ.
+ Các trung tâm quốc gia như: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng
+ Các trung tâm cấp vùng: Thành phố Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Nha Trang, Buôn Ma Thuột, Vinh, Nam Định, Hạ Long, Việt Trì, Thái Nguyên, Hoà Bình.
+ Trung tâm cấp tỉnh: ngoài các thành phố kể trên, còn gồm có các thành phố tỉnh lỵ, thị xã.
+ Trung tâm cấp huyện, tiểu vùng…
+ Các trung tâm lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng… phải được tổ chức thành các chúm đô thị, có vành đai xanh bảo vệ, hạn chế tập trung tối đa dân số, các cơ sở kinh tế tránh sự hình thành các siêu đô thị phá vỡ cân bằng sinh thái, đảm bảo các đô thị phát triển bền vững.
- Xây dựng mô hình, tiêu chuẩn, qui phạm, thể chế quản lý hợp lý hệ thống phân bố dân cư, các chùm đô thị nhằm phối hợp lợi ích đa ngành và địa phương.
- Triển khai các dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường nhằm phát huy tốt các dự án hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên theo từng vùng lãnh thổ.
- Thực hiện các chương trình, qui hoạch tổng thể chuyên ngành như: giao thông, cấp thoát nước, cấp điện, thông tin liên lạc… cho các đô thị Việt Nam.
b. Định hướng các nguồn lực phát triển đô thị thời kỳ đến 2010
Khu vực đô thị có tốc độ tăng trưởng vượt trước so với tốc độ tăng trung bình của cả nước song không đồng đều đối với các loại đô thị và trên các vùng lãnh thổ khác nhau. Mức đóng góp vào GDP cả nước của 4 thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng tăng từ 24 - 25% hiện nay lên 45% vào năm 2010. Các đô thị mới hình thành trên cơ sở phát triển các đô thị mới, các khu công nghiệp và dịch vụ như Khu đô thị mới Bắc Sông Hồng - Tây Hồ Tây (Hà Nội), An Phú - An Khánh (Thành phố Hồ Chí Minh), Vạn Tường - Dung Quất, Nhơn Trạc, Nguyễn Trọng Tín, Tuy Hoà, Mê Linh, Văn Giang… sẽ phát triển nhanh chóng và đóng góp đáng kể vào GDP của cả nước. Các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh sẽ tăng vào GDP của cả nước. Các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh sẽ tăng trưởng vượt trước mức tăng trung bình của tỉnh khoảng 1,2 - 1,3 lần.
Trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ: "Trên cơ sở nắm vững chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trước mắt tập trung triển khai các chính sách, cơ chế và biện pháp phát triển đô thị", trong đó "xây dựng chính sách và các giải pháp tạo vốn, trên cơ sở sử dụng hiệu quả nguồn vốn Nhà nước, các nguồn vốn trong nước và nước ngoài vào mục đích phát triển hạ tầng đô thị. Nghiên cứu cơ chế tạo các nguồn thu và hình thành quỹ phát triển cơ sở hạ tầng đô thị".
Vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng đô thị có thể huy động từ các nguồn: ngân sách Nhà nước, ODA, FDI và các nguồn vốn khác.
Trong các năm quan, nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng đô thị chủ yếu là vốn ngân sách Nhà nước. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng đô thị để đáp ứng các mục tiêu phát triển đô thị rất lớn, chỉ riêng nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước không thể đáp ứng được. Ước tính, trong 5 năm tới vốn ngân sách chỉ đáp ứng từ 20 - 25% yêu cầu đầu tư phát triển hạ tầng và nhà ở đô thị.
Triển khai đồng bộ, rộng rãi đến các ngành, các địa phương và các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng Luật xây dựng và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, hệ thống tiêu chuẩn xây dựng, định mức kinh tế
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp lập quy hoạch xây dựng, hồ sơ và thủ tục thẩm định, phê duyệt, phân cấp mạnh cho địa phương phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng, trên cơ sở tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của các cơ quan quản lý xây dựng cấp trên. Nghiên cứu cơ chế huy động nhiều nguồn vốn cho các công tác quy hoạch, vốn cho phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị, vốn cho đầu tư phát triển nhất là nhà ở xã hội.
Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu, sản phẩm, phát huy thế mạnh của từng doanh nghiệp, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Phát triển những sản phẩm có lợi cạnh tranh cao, hạn chế những sản phẩm kém cạnh tranh hoặc phải bảo hộ mở mức cao. Từng doanh nghiệp tập trung vào 4 khâu đột phá là: tăng cường đầu tư công nghệ tiên tiến, hiện đại để chuẩn bị cho các năm sau vững vàng, chủ động tận dụng cơ hội và đối đầu thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường phân cấp và quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận và cá nhân.
Tăng cường quản lý đầu tư xây dựng, rà soát các dự án đầu tư về khả năng huy động vốn và thị trường. Đối với một số dự án chưa phát huy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước, trong đó cốt lõi cổ phần hoá rộng rãi doanh nghiệp Nhà nước.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong toàn ngành từ Bộ đến các Sở, các doanh nghiệp, đơn vị; chống mọi biểu hiện phiền hà, xách nhiễu dân. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, nhất là chất lượng công trình xây dựng; thực hành tiết kiệm chống lãnh phí, thất thoát, tham nhũng trong xây dựng.
3.2.3. Các giải pháp huy động nguồn vốn để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị đến 2010
Ở đây nghiên cứu các giải pháp huy động nguồn vốn trong nước FDI, ODA.
a. Phát triển các loại thị trường
Phát triển các loại thị trường, dùng cơ chế thị trường để đẩy nhanh tốc độ phát triển, quay vòng nhiều lần các đồng vốn ngân sách, để đẩy nhanh tiến trình tạo vốn cho các lĩnh vực kết cấu hạ tầng và đô thị.
- Phát triển thị trường thông tin
Phát triển thị trường thông tin là điều kiện tiên quyết để có sự đẩy nhanh đột biên trong việc phát triển ngành bưu chính viễn thông. Trước tình trạng khó khăn rất lớn về việc tạo vốn, nâng cấp trở nên hiện đại của ngành bưu chính viễn thông hiện nay ở nước ta, những người có tâm huyết có rất nhiều trăn trở đi tìm lời giải đáp. Chắc chắn rằng cần phải có những ý kiến nhiều chiều, đa dạng để thấy được toàn cảnh vấn đề và các giải pháp nảy sinh.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề gì bị ách tắc thì trước tiên cần xem xét trên góc độ thị trường vì thị trường là nhân tố sống còn của bất kỳ ngành công nghiệp nào.
Vai trò chi phối của thị trường thông tin với ngành bưu chính viễn thông
Ngành bưu chính viễn thông là các loại công nghệ làm những việc liên quan tưói thông tin, trong đó có những việc thu thập, lưu trữ, xử lý, phổ biến và khai thác có hiệu quả tài nguyên thông tin. Thông tin không chỉ là tin tức, hay những gì được thể hiện bằng hình ảnh, tiếng nói và chữ viết, dù rằng đó là một mảng rất quan trọng, mà thông tin có đủ loại dữ liệu khác nhau, như những tín hiệu thu được từ vệ tinh, các số liệu thu được từ phòng thí nghiệm… Mỗi khi xã hội xuất hiện những loại thông tin mới thì đòi hỏi phải phát triển những ứng dụng ngành bưu chính viễn thông mới, từ phần cứng tới phần mềm, để giải quyết những vấn đề do các chủng loại thông tin mới đo đặt ra. Một nguồn thông tin quan trọng của xã hội là thông tin từ các cơ quan Nhà nước. Nhưng công dân và doanh nghiệp còn cần nhiều loại thông tin mà chính quyền không thể cung cấp được như sở thích của người tiêu dùng, các địa chỉ cung cấp dịch vụ đáng tin cậy từ việc dạy học, chữa bệnh, mua bán bất động sản, giặt là, trông trẻ… đến các dịch vụ khuyến khích hay tạo mới công ăn việc làm, các loại dịch vụ tri thức trí tuệ về nhu cầu thị trường và các biện pháp đáp ứng nhu cầu thị trường, đặc biệt là những thông tin mang tính phân tích, đánh giá, dự báo mà hiện nay rất ít nhà cung cấp.
Ngoài ra, quá trình hội nhập đòi hỏi phải có hàng loạt thông tin từ bên ngoài vào để giúp người có nhu cầu phát triển ra bên ngoài nắm được những thông tin cần thiết mà chắc chắn các cơ quan Nhà nước còn cung cấp rất hạn chế. Đó là chưa kể khối lượng khổng lồ các dữ liệu khoa học như khí tượng, thiên văn, địa chất, kinh tế, thị trường… từ bên ngoài mà việc xử lý có thể đem lại nhiều lợi ích trong các lĩnh vực đặc thù.
Thị trường thông tin đóng vai trò chi phối các thị trường tuỳ thuộc nó, trong đó có ngành bưu chính viễn thông. Thị trường có cách giải quyết những nhu cầu thông tin của xã hội theo cách riêng của nó. Khác với những ngành công nghiệp tạo ra các sản phẩm vật chất khác, thông tin đòi hỏi một ngành công nghiệp phụ trợ, làm trung gian, để làm cho nó có thể sử dụng được và khai thác có hiệu quả khả năng của nó là ngành bưu chính viễn thông. Ngành bưu chính viễn thông đã phát triển khi có nhu cầu làm những việc về thông tin, nhưng chỉ phát triển mang tính cách mạng đột biến khi thông tin trở thành một thị trường đại chúng. Người ta đã chứng kiến vô số loại máy tính và phần mềm tham gia vào thị trường. Điện thoại di động chính là một loại máy tính chuyên dụng đang trở nên quen thuộc với mọi người.
Cũng như thị trường hàng hoá vật chất, thị trường thông tin đang phát triển rất mạnh theo xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Thị trường hàng hoá đã đem lại sự bình đẳng giữa người bán và người mua, dù người mua có thể là ở nước lạc hậu nhất thế giới thì anh ta cũng là thượng đế với người bán. Thị trường thông tin đem lại sự bình đẳng cho người mua thông tin dù người đó là ở nước lạc hậu nhất, và do đó đem lại cho anh ta cơ hội tiếp cận với những thông tin hiện đại. Khác với thị trường hàng hoá, bằng đầu óc, trí thông minh và lượng đầu tư không nhiều về trang bị kỹ thuật, người mua thông tin ở nước lạc hậu nhất có thể tham gia vào giải quyết các công việc được đặt ra, với chi phí vật chất không cao, tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường thông tin hiện đại, tạo cơ hội để đất nước anh ta nhanh chóng lấp bằng khoảng cách giữa nước giầu và nước mình.
Sự phát triển thị trường thông tin khiến cho những nước nghèo nàn lạc hậu có thể nhận được những dữ liệu về thực tiễn khoa học công nghệ và các hoạt động kinh tế của các nước phát triển, từ đó có cơ may hiểu được và tham gia vào giải quyết những vấn đề của những nước giàu hơn, mạnh hơn, ở tầm mức trình độ cao tham gia vào thị trường thông tin, từ đó mới thực hiện được chiến lược "đi trước đón đầu" để được tầm phát triển ứng dụng ngành bưu chính viễn thông.
Phát triển thị trường thông tin là tiền đề phát triển đột biến ngành bưu chính viễn thông
Thông tin được thu thập, lưu trữ, xử lý và phổ biến thông tin đã qua xử lý, nhất là thông tin mang tính chất liên ngành hay phản ánh toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm mục đích phát triển đất nước.
Phát triển thị trường thông tin phải trải qua nhiều giai đoạn mới có thể đạt đến trình độ phức tạp như thị trường thông tin thế giới hiện nay, như hoàn thiện các vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch điện tử, bản quyền,… nhưng bước đầu tiên phải là xoá bỏ tình trạng "ngăn sông, cấm chợ" thông tin hiện nay.
Phát triển thị trường bất động sản
Đây là yếu tố quan trọng để đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, hiện đại hoá. Bất động sản chiếm tới 430% tài sản quốc gia, và ở các nước phát triển đóng góp vào thuế là 40%.
Phát triển thị trường trái phiếu công trình giao thông
Đây là yếu tố quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển các công trình giao thông, mở mang các loại hình giao thông mới.
Giành nguồn vốn đầu tư cho công tác duy tu, bảo dưỡng hệ thống giao thông.
Đây là vấn đề quan trọng, cần được quan tâm đúng mức để duy trì chất lượng công trình đã được xây dựng, chống sự xuống cấp và đảm bảo an toàn giao thông và chất lượng dịch vụ vận tải.
Phát triển các quỹ đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng và đô thị.
Quỹ này tập trung vào việc huy động các nguồn tài chính từ nhiều nguồn khác nhau nhằm phát triển các công trình kết cấu hạ tầng và đô thị.
Thực hiện chủ trương sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng của Thủ tướng Chính phủ, tại một số địa phương UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã đấu giá đất để xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao giá trị sử dụng đất trước khi giao đất, cho thuê đất để đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng hoặc xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê. Thực hiện chính sách này, trong thời gian qua các dự án đầu tư phát triển đất và nhà đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội, chủ yếu bảo đảm việc xây dựng, cải tạo đô thị, là giảm áp lực xây dựng tại các khu phố cổ, phố cũ, tạo ra được các nguồn thu lớn từ tiền sử dụng đất, thuế chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thuế doanh thu, thuế lợi tức và các khoản thu lệ phí khác, đồng thời thu hút được các nguồn vốn đầu tư cải tạo và xây dựng đô thị, tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển đô thị.
Ngoài nguồn thu từ quỹ đất, một số địa phương, đặc biệt là các Thành phố lớn đã tổ chức thực hiện hiệu quả các kênh huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển như thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai, thông qua phát hành trái phiếu, huy động vốn triển khai một số công trình cơ sở hạ tầng quan trọng nhưng chưa cân đối đủ nguồn. Theo đánh giá chung việc phát hành trái phiếu đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh đã tạo được một kênh huy động mới trên địa bàn, giúp thành phố chủ động cân đối các nguồn vốn lớn, dài hạn cho phát triển hạ tầng… và đây cũng là mô hình cần được địa phương khác nghiên cứu nhân rộng.
Cùng với việc phát hành trái phiếu, Quỹ ĐTPT đô thị cũng được thành lập tại nhiều địa phương nhằm huy động các nguồn vốn trung dài hạn cho phát triển hạ tầng kinh tế trên địa bàn. Đây là một mô hình được đánh giá là thực hiện khá thành công, hoạt động linh hoạt với hiệu quả đầu tư cao. Nhìn chung, các địa phương đã thực hiện đa dạng các hình thức, công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, việc huy động vốn qua một số kênh cho đầu tư của các địa phương vẫn có những hạn chế nhất định. Thực tế cho thấy các ngân hàng thường quan tâm tới hiệu quả và lợi nhuận. Trong khi đó, các dự án hạ tầng không phải lúc nào cũng dựa trên hiệu quả tài chính. Một số dự án được đầu tư phục vụ xã hội và giải quyết các mục tiêu chiến lược của Nhà nước. Thực tế này khiến các ngân hàng ngần ngại bỏ vốn vào dự án hạ tầng. Thực tế đã cho thấy có nhiều dự án hạ tầng phải đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước 100%, hoặc doanh nghiệp đầu tư nhưng được hưởng một số ưu đãi nhất định. Như các dự án về giao thông đường bộ, chỉ một số công trình có thể tổ chức thu phí để hoàn vốn. Mặt khác, số lượng ngân hàng đầu tư phát triển, nơi có khả năng cung ứng vốn cho các dự án hạ tầng còn quá ít. Các Nhà nước thương mại xuất hiện ngày một nhiều, nhưng về quy mô vốn sở hữu thấp, kéo theo đó là khả năng cung ứng vốn hạn chế. Bản thân thị trường tài chính Việt Nam còn thiếu các định chế về tài chính phát triển, chuyên phục vụ cho các nhu cầu vốn trung, dài hạn. Mặt khác, do giá cả luôn biến động, mức sống của người dân chưa cao nên họ không có thói quen tích luỹ và gửi vốn dài hạn vào ngân hàng. Nguồn vốn huy động của các ngân hàng phần lớn cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thành phố còn hạn chế. Hệ thống các ngân hàng thương mại không phải là kênh huy động chính để thành phố thu hút vốn đầu tư.
Bên cạnh những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trên, các địa phương vẫn còn nhiều bất cập trong việc quản trị, điều hành các dự án: Tiến trình quy hoạch, giải phóng mặt bằng chậm, đặc biệt thời gian thực hiện dự án thường chậm hơn so với kế hoạch, khả năng hoàn vốn chậm là những vấn đề khiến các ngân hàng e ngại rót vốn vào lĩnh vực này. Từ thực tế đó, khả năng huy động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiều nguồn vốn vẫn chưa khai thác triệt để cho đầu tư…
Một số vấn đề khác cần được xem xét, nghiên cứu giải quyết nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế đối với các kênh huy động vốn cho đầu tư ở các địa phương. Đó là, về cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách trung ương và NS địa phương cần kéo dài thời gian ổn định tỷ lệ phân chia trong phạm vi quy định của luật NSNN từ 3-5 năm. Đối với hoạt động của các Quỹ đầu tư địa phương, trên cơ sở tổng kết, đánh giá một cách toàn diện hoạt động trong thời gian qua để Chính phủ sớm ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của Quỹ ĐTPT địa phương. Đồng thời, ban hành một cách đồng bộ hệ thống văn bản, quy trình nghiệp vụ liên quan đến tạo thuận lợi cho các Quỹ địa phương trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tài chính để tăng khả năng luân chuyển vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các Quỹ ĐTPT dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tài chính…
b. Thu hút FDI góp phần hoàn thiện các ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị.
Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút được FDI vào các ngành kết cấu hạ tầng và đô thị. Định hướng thu hút FDI vào những ngành, lĩnh vực phục vụ ngành kết cấu hạ tầng và đô thị phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH là một điều kiện để thu hút FDI thành công. Điều này gắn liền với việc lập danh mục ưu đãi đầu tư vào những ngành kết cấu hạ tầng để FDI có thể thực hiện thành công.
Mỗi lĩnh vực của từng ngành cần xác định được mức FDI đến đâu và làm thế nào để có thể thu hút được FDI, dùng các biện pháp đồng bộ và tổng hợp như thế nào. Xác định được những ngành nào không hạn chế FDI, những ngành nào FDI chỉ đóng vai trò cầu nối để các doanh nghiệp trong nước có khả năng chiếm lĩnh và phát triển chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước, thay thế nhập khẩu.
Quy hoạch ngành, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển về chiều sâu, ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao cần được chú trọng xây dựng. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư nước ngoài trực tiếp có hai mặt của một vấn đề. Đó là việc công bố đầy đủ thông tin về các lĩnh vực khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc thu hút được FDI vào những ngành và lĩnh vực kết cấu hạ tầng và đô thị đòi hỏi phải giải quyết nhiều mối quan hệ.
- Ưu tiên các dự án đầu tư vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường.
- Các dự án đầu tư vào công nghệ cao và công nghệ mới, công nghệ tiên tiến và công nghệ ứng dụng có khả năng nâng cao năng lực của hoạt động sản xuất và tăng hiệu quả công nghệ - kinh tế của doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư sản xuất thiết bị mới và vật liệu mới mà năng lực sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhất là trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông.
- Các dự án đáp ứng yêu cầu của thị trường, hoặc có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường mới, hoặc tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
- Các dự án áp dụng công nghệ thiết bị mới tiết kiệm năng lượng và nguyên vật liệu, khai thác sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên và nguyên liệu tái sinh, chống ô nhiễm môi trường.
- Dành sự ưu tiên thích đáng cho các dự án sử dụng công nghệ mũi nhọn như kỹ thuật điện tử, vi điện tử, công nghệ cao và công nghệ vật liệu mới trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng và đô thị.
- Khuyến khích các dự án sản xuất các sản phẩm phục vụ cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng vàđô thị có thể xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu, các mặt hàng có giá trị tăng cao, nhất là hệ thống mạng viễn thông, thông tin tín hiệu và các phương tiện vận tải.
- Chú trọng đến các dự án kết cấu hạ tầng và đô thị liên quan tới các ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận cao như du lịch, các khu đô thị mới, khu đô thị kết hợp với sinh thái…
- Khuyến khích các dự án đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng các thiết bị và công nghệ, duy trì sự phát triển nhanh chóng, lành mạnh và bền vững của nền kinh tế đất nước, cần ban hành những chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng và đô thị có công nghệ cao.
Ngoài những điều khoản ưu đãi quy định trong những văn bản luật và văn bản hướng dẫn có liên quan của Nhà nước, các dự án đầu tư nước ngoài nằm trong diện được khuyến khích đầu tư có thể mở rộng phạm vi kinh doanh (sau khiđã được chấp thuận) nếu doanh nghiệp đó tham gia vào hoạt động xây dựng hoặc vận hành các thiết bị kết cấu hạ tầng có liên quan tới lĩnh vực giao thông, bưu chính - viễn thông… cần nguồn vốn đầu tư lớn và thời hạn thanh toán kéo dài.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng: giao thông, công trình giao thông nông thôn…
- Khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các KCN-KCX hiện có với quan niệm KCN là hạt nhân trong các chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai với kết cấu hạ tầng ngoài KCN chất lượng cao, gắn với sự hình thành các khu dân cư, khu thương mại và các loại hình dịch vụ khác.
Trong các nguồn lực bên ngoài, phải đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn trong xã hội hay bên ngoài khác mạnh mẽ hơn nữa nhằm vừa tranh thủ vốn, tranh thủ công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến trong việc phát triển các công trình KCHT& ĐT.
- Chú trọng đến các dự án kết cấu hạ tầng thuộc các ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận cao như du lịch, kinh doanh bất động sản…
c. Thu hút và sử dụng ODA
Đối với các quốc gia đang phát triển, bên cạnh đầu tư nước ngoài và xuất khẩu (hàng hoá, dịch vụ) thì viện trợ phát triển (chính thức) từ các nhà tài trợ (song phương và đa phương) cùng với viện trợ (không chính thức) từ các tổ chức phi chính phủ (NGO) là hai nguồn thu ngoại tệ quan trọng.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một hiện tượng nổi lên sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bắt đầu bằng kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm cung cấp viện trợ cho Tây Âu. Tiếp đó là Hội nghị Colombo vào năm 1955 đã hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển. Đến năm 1961, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) được thành lập với 20 thành viên là các nước phát triển, sau đó lập ra Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), từ đó các nhà tài trợ đã tập hợp lại thành cộng đồng nhằm phối hợp các hoạt động chung về Hỗ trợ phát triển.
Có thể nói ODA là những nguồn ưu đãi của các đối tác cung cấp ODA (còn gọi là các nhà tài trợ) giúp cho các nước nhận viện trợ với mục đích khuyến khích sự phát triển và phúc lợi của các nước đó. Việc cung cấp ODA cho các nước nhận viện trợ được hiểu là sự trợ giúp bằng tiền, vật tư, thiết bị, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức (cung cấp chuyên gia, đào tạo cán bộ…) dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc viện trợ hoàn lại được thực hiện theo những thoả thuận ký kết bằng văn bản.
Trong thời gian thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vừa qua cùng với những kinh nghiệm học hỏi trên thế giới có thể rút ra những nhận thức chung sau đây về ODA:
Thứ nhất, ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Đây là bản chất của nguồn vốn này, do vậy thành hai bại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò làm chủ của nước tiếp nhận.
Thứ hai, ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, song không thể thay thế được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong phạm vi một lĩnh vực cụ thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một chất xúc tác, một nguồn lực bổ sung cho quá trình phát triển.
Thứ ba, ODA là nguồn hỗ trợ từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế và liên chính phủ, do vậy Chính phủ nước tiếp nhận phải có trách nhiệm điều phối và sử dụng ODA với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn ODA không được sử dụng có hiệu quả.
Thứ tư, ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả ODA không hoàn lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài trợ.
Thứ năm, năng lực quản lý và sử dụng ODA của nước tiếp nhận quyết định hiệu quả của nguồn lực này đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy ODA là gì?
Hiện nay, chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh về nguốn vốn ODA, tuy nhiên có một số định nghĩa về nguồn vốn ODA mà sự khác biệt giữa các định nghĩa này là không nhiều. Chúng ta có thể tham khảo một số định nghĩa được xem là cụ thể và sát thực nhất:
* Các nhà kinh tế học trên thế giới định nghĩa: vốn ODA là những khoản vốn đáp ứng được 3 tiêu chí sau:
- Nhà cung cấp vốn (tài trợ) không có mục đích thương mại;
- Khoản vốn này nhằm chuyển giao nguồn lực từ nước phát triển sang nước kém phát triển với mục tiêu phát triển (để tránh bao gồm viện trợ quân sự);
- Có những điều kiện ưu đãi tài chính như về lãi suất, thời hạn, thời gian ân hạn;
* Uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC) định nghĩa: "ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi".
* Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) định nghĩa: "ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố hỗ trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%".
* Theo Ngân hàng Thế giới (WB) định nghĩa: "ODA là một bộ phận của Tài chính phát triển chính thức (ODF) và bao gồm khoản vay ưu đãi trong đó có ít nhất 25% yếu tố cho không".
* Theo Nghị định 17/2001/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. "Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhàtài trợ, bao gồm: chính phủ nước ngoài; các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia".
Như vậy, có thể nói nguồn vốn ODA là nguồn vốn từ bên ngoài hỗ trợ cho các nước đang phát triển, kém phát triển hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Hiện nay, phần lớn các nước đang phát triển đều trong tình trạng thiếu ngoại tệ nhập khẩu để phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình trong khi những yếu tố sản xuất khác (phần lớn là lao động) dư thừa. Những yếu tố sản xuất sẵn có này cho phép các quốc gia đang phát triển thực hiện các chương trình, dự án đầu tư mới nếu họ có sự hỗ trợ tài chính của nước ngoài để nhập khẩu các phương tiện và kỹ thuật sản xuất. Trong hoàn cảnh này, viện trợ nước ngoài là một trong những phương thức có khả năng giúp các quốc gia này vượt qua sự khó khăn về ngoại tệ và nâng cao mức tăng trưởng kinh tế của mình. Về mặt lý thuyết, mức tăng trưởng cao sẽ nâng cao tiết kiệm trong nước và điều này đồng nghĩa với việc nâng cao đầu tư trong nước. Một khi đầu tư trong nước đạt đến mức nhất định, nhu cầu về viện trợ nước ngoài sẽ giảm vì nguồn nội lực để để giữ cho quá trình phát triển của quốc gia ổn định.
Một lý do khác để các nước đang phát triển tiếp nhận ODA từ các nước phát triển chính là động cơ trách nhiệm nhân đạo giữa các quốc gia. Nhiều nhà kinh tế và chính trị ở cả quốc gia phát triển và đang phát triển đều cho rằng các quốc iga phát triển phải có trách nhiệm hỗ trợ quá trình phát triển của các nước đang phát triển hoặc kém phát triển do sự khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường ở các nước này trong quá khứ (đặc biệt là ở thời kỳ thực dân chủ nghĩa).
Một lý do khác nữa, ODA là nhân tố quan trọng tạo nên các cơ hội cho sự phát triển của các nước nghèo. Ngoài việc cung cấp vốn đầu tư, ODA còn góp phần vào việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật, đào tạo đội ngũ lao động, kinh nghiệm quản lý…
Hiện nay trên thế giới các đối tác cung cấp ODA chia làm hai nhóm chính như sau:
- Các đối tác song phương: gồm Chính phủ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) là chủ yếu. Ngoài ra còn có một số Chính phủ các nước đang phát triển cũng thuộc loại này.
- Các đối tác đa phương: gồm các tổ chức quan trọng của Liên Hợp Quốc (như UNDP, IFAD, UNICEP, UNFPA, UNIDO, WHO, FAO v.v..); các tổ chức tài chính quốc tế như (IMF, WB, ADB, OPEC,…); các tổ chức thuộc liên minh Châu Âu (EU); và các tổ chức phi Chính phủ (Non- Government Organization - NGO).
Các nhà tài trợ cung cấp ODA cho các nước nghèo hơn chủ yếu là vì mục tiêu chính trị, chiến lược hoặc kinh tế. Một số hỗ trợ phát triển có xuất từ lý do nhân đạo (ví dụ như các chương trình cứu trợ khẩn cấp) nhưng không có trường hợp nào mà các nhà tài trợ trong thời gian dài lại không kỳ vọng vào những lợi ích trong tương lai (chính trị, kinh tế, quân sự…) từ nước tiếp nhận. Xét về mặt tổng thể, có hai nhóm lý do chính liên hệ mật thiết với nhau để các nhà tài trợ cung cấp ODA.
Nhóm lý do thứ nhất giải thích cho việc cung cấp ODA của các nhà tài trợ đó chính là động cơ chính trị. Ví dụ điển hình nhất là kế hoạch Marshall của Mỹ khôi phục lại Tây Âu sau Đại chiến thế giới lần thứ hai nhằm chống lại ảnh hưởng của Liên Xô (cũ). Một ví dụ khác là sau sự kiện Campuchia năm 1979 và chịu sức ép chính sách cấm vận của Mỹ, nhiều nhà tài trợ và một số tổ chức quốc tế ngừng cung cấp ODA cho Việt Nam.
Nhóm lý do thứ hai là về kinh tế. Minh chứng cho điều này là việc Nhật Bản tập trung hỗ trợ cho các nước láng giềng châu Á có nhiều tiềm năng cho thương mại và đầu tư tư nhân của mình. Những biện minh về sự cần thiết của ODA cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển khong thể che đậy những lợi ích mà việc viện trợ đem lại cho các nước tài trợ. Xu hướng chuyển dần tài trợ từ viện trợ không hoàn lại sang cung cấp vốn vay với điều kiện ràng buộc của ODA đã làm nặng gánh nợ nần của các nước đang phát triển. Những điều kiện ràng buộc đã nâng giá nhập khẩu hàng hoá sử dụng ODA vì các nước tiếp nhận bị hạn chế sự tự do lựa chọn hàng hoá giá thấp, phù hợp với khả năng của mình. Việc hạn chế lựa chọn mua bán còn dẫn đến tình trạng sau khi công trình ODA hoàn thành, đi vào vận hành, hàng loạt những thiết bị, phụ tùng thay thế đều phải nhập khẩu từ những nước cung cấp hàng hoá trước đây. Điều này giải thích cho nhận định của một số nước tài trợ: viện trợ đi trước, thương mại theo sau.
ODA có các đặc điểm sau:
* ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển
Trước đây, đặc biệt là trước những năm của thập kỷ 70, ODA được coi là nguồn vố viện trợ ngân sách của các nước phát triển cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Vì vậy, trong giai đoạn này ODA mang tính tài trợ là chủ yếu. Tuy nhiên, ngày nay trong xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã hình thành một quan niệm mới về ODA. Quan niệm mới cho rằng ODA là hình thức hợp tác phát triển của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Như vậy, với quan niệm này, ODA sẽ bao gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản vay với điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
* ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi
Với mục tiêu hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ hình thức tài trợ nào khác. Tính chất ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện qua những ưu điểm sau:
- Lãi suất thấp: Các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp, ví dụ như lãi suất các khoản vay ODA của Nhật Bản thay đổi từng năm và phụ thuộc vào từng chương trình, dự án cụ thể 0,75 - 2,3%/năm; của Ngân hàng Thế giới (WB) là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ 0,75%/năm; của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là 1-1,5%/năm…
- Thời gian ân hạn: đối với các khoản vay ODA, thời gian từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên tương đối dài như đối với Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới là10 năm, Ngân hàng Phát triển châu Á là 8 năm…
- Thời gian vay dài: Nhật Bản (30 năm); Ngân hàng Thế giới (40 năm); Ngân hàng Phát triển châu Á (32 năm)…
Thông thường ODA bao gồm một phần là viện trợ không hoàn lại hay còn gọi là "thành tố hỗ trợ" đạt ít nhất 25% của khoản vay. "Thành tố hỗ trợ" được tính toán trên công thức dựa vào các yếu tố như lãi suất viện trợ, thời gian vay và thời gian ân hạn.
* ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc
Nhìn chung, mỗi nước cung cấp ODA đều có chính sách riêng và những qui định ràng buộc khác nhau đối với các nước tiếp nhận. Họ muốn vừa đạt được ảnh hưởng về chính trị, vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá và dịch vụ của nước họ. Do vậy ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp. Đi kèm theo với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về chính trị, kinh tế hoặc khu vực địa lý. ODA có thể được cung cấp với điều kiện ràng buộc (phải chi tiêu mua sắm ở nước tài trợ) hoặc không bị ràng buộc (được phép chi tiêu, chi tiêu ở bất kỳ nơi nào) hoặc có thể ràng buộc một phần (một phần chi tiêu ở nước tài trợ, phần còn lại chi tiêu ở bất kỳ nơi nào). Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ của nước họ như là một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh toán.
* ODA là một khoản nợ nước ngoài
Như chúng ta đã biết, công thức S - I = CA biểu diễn mối quan hệ giữa mức tiết kiệm quốc gia S, đầu tư trong nước I và cán cân tài khoản vãng lai CA. Nếu tiết kiệm nhỏ hơn đầu tư trong nước, sự chênh lệch là thâm hụt tài khoản vãng lai. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển mức tiết kiệm quốc gia thường thấp, nhưng các nước này tương đối nghèo vốn nên cơ hội đầu tư có lãi lại có thể rất nhiều, những cơ hội đó lý giải mức đầu tư cao. Mặc dù mức tiết kiệm trong nước thấp, một số quốc gia vẫn có thể có các nguồn để đầu tư bằng cách quản lý sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai cũng đồng nghĩa với quốc gia này vay nợ nước ngoài. Mà những khoản vay để tài trợ cho những chương trình đầu tư không sinh lợi (đầu tư công cộng hay các chương trình, dự án phát triển…) hoặc để nhập hàng tiêu dùng sẽ dẫn đến những món nợ không trả được.
Trong những năm tới phải làm gì để thu hút ODA.
Đảng ta chủ trương Việt Nam tiếp tục "Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các chương trình, dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nợ nần không trả được. Phải sử dụng ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực" (Văn kiện Đại hội VIII).
Theo chủ trương của Đảng phải thực hiện các biện pháp sau đây:
· Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá nguồn vốn ODA
Trước hết cần tăng cường năng lực lập kế hoạch của Chính phủ. Đó là tính tự chủ của Chính phủ (cả chính quyền Trưng uơng và chính quyền địa phương) trong quá trình chuẩn bị chương trình, dự án là hết sức cần thiết. Để tránh sửa đổi, bổ sung quá nhiều các cấu phần trong quá trình thực hiện. Điều quan trọng chính là Chính phủ phải gánh trách nhiệm và đưa ra sáng kiến ngay từ giai đoạn chuẩn bị chương trình, dự án ban đầu.
Sau đó, cần hoàn thiện công tác kế hoạch hoá nguồn vốn ODA nhằm tạo điều kiện để liên tục hoá các bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng: kế hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện và kế hoạch thực hiện chương trình, dự án. Muốn vậy, đối với mỗi chương trình, dự án sau khi có sự cam kết của nhà tài trợ cần phải kế hoạch hoá toàn bộ chu trình của chương trình, dự án. Các bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng, kể cả phần kế hoạch dự phòng được phê duyệt dựa trên chu trình của chương trình, dự án sẽ tránh được tình trạng "vừa thiết kế vừa thi công".
· Xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn ODA
Xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn ODA theo từng ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương là một nhân tố cần được xem xét một cách cụ thể trong công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Các ngành, các địa phương và các đơn vị sử dụng nguồn vốn ODA cần phải tính toán chính xác hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này để tránh việc sử dụng tràn lan, lãng phí. Ngoài ra, phải xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn này và quan trọng nhất phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
· Chuẩn bị vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA
Tất cả các chương trình, dứan ODA khi chuẩn bị phê duyệt ở các cấp phải chỉ rõ nguồn vốn trong nước và phải được bố trí trong các kế hoạch ở các cấp tương ứng. Kế hoạch vốn đối ứng phải thoả mãn những yêu cầu sau:
- Phải được lập cùng với kế hoạch giải ngân nguồn vốn ODA của các chương trình, dự án ODA.
- Phải được phân bổ cụ thể cho từng loại nguồn vốn: nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng theo kế hoạch Nhà nước, vốn huy động của các doanh nghiệp Nhà nước, vốn huy động từ các tầng lớp dân cư vùng thụ hưởng các chương trình, dự án…
- Phải đảm bảo tiến độ cam kết với phía nước ngoài, đồng thời phải phù hợp với tình hình và khả năng thực tế triển khai.
- Phải thực hiện quản lý theo cơ chế tài chính hiện hành. Các chủ dự án có trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đối ứng đúng mục đích và có hiệu quả.
· Các chương trình dự án phải tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương
Các chương trình, dự án ODA phải nghiên cứu, phát huy được những lợi thế sẵn có của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, tạo điều kiện để người dân của địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án.
Các chương trình, dự án phải xuất phát từ thực tế của địa phương, tránh xây dựng tràn lan, quy mô quá lớn, không phù hợp hoặc không sử dụng hết công suất, gây lãng phí, trong khi đó nhiều công trình cần thiết lại chưa được xây dựng. Do đó các bước tiến hành phải cụ thể, chính xác từ cấp xã.
· Xây dựng hệ thống theo dõi và đánh giá dự án
Từ những thực tế trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy cần thiết phải xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA ở Việt Nam nhằm nâng cao hơn hiệu quả công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Hệ thống này không những sẽ khắc phục được những yếu kém trong quá trình thực hiện các chương trình, dứan ODA mà còn quản lý nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả, đạt được những mục tiêu ưu tiên của đất nước. Ngoài ra, hệ thống này sẽ đánh giá trên các phương diện thực hiện và quản lý chương trình.
· Cần mở rộng thêm đối tượng của nguồn vốn ODA
Trong thời gian qua, nguồn vốn ODA chủ yếu chỉ dành cho khu vực quốc doanh, thuộc sở hữu nhà nước. Còn đối với khu vực tư nhân chỉ tiếp cận nguồn vốn này với tư cách là nhà thầu, chủ yếu là xây dựng và mua sắm trang thiết bị.
Và thực tế đã cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước khi cùng được cấp lượng vốn tương đương.
· Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của các cán bộ
Trong khuôn khổ các chương trình, dự án ODA một đội ngũ đáng kể cán bộ đã được đào tạo và huấn luyện về công tác quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi nhận thức, thái độ và kỹ năng ở tất cả các cấp.
Một vấn đề hết sức quan trọng và cốt yếu nữa, đó chính là phải tạo ra cho các cán bộ tham gia quản lý cũng như các cán bộ trực tiếp tham gia dự án một khả năng độc lập sáng tạo. Để có được nhận thức đúng đắn và thống nhất về các vấn đề này, các kiến thức về kinh tế thị trường và phương pháp phân tích chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế kinh tế mới là không thể thiếu. Ngoài ra, những kiến thức cơ bản về ngoại giao, luật pháp quốc tế cũng như trình độ ngoại ngữ cũng hết sức quan trọng.
· Các biện pháp chống tham nhũng
Cuộc khủng hoảng khu vực đã chứng tỏ rằng tham nhũng là cực kỳ nguy hại đối với những nỗ lực phát triển dài hạn. Đằng sau những thay đổi về thể chế trong cơ chế quản lý nhà nước cần phải loại bỏ những động cơ thúc đẩy tham nhũng, chẳng hạn, tính minh bạch, tinh thần trách nhiệm, khả năng phán đoán và các quy trình tham gia.
Tính minh bạch có thể được tăng cường bằng việc đơn giản hoá quy đình ra quyết định thông qua việc phân định rõ hơn trách nhiệm của các Bộ ngành và các cơ quan liên quan. Bộ Tài chính đã chỉ ra rằng việc tăng cường tính minh bạch trong các hệ thống của nhà tài trợ, đặc biệt các vấn đề như tuyển chọn dịch vụ tư vấn và thực hiện hợp đồng cũng rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Đối chiếu với mục đích nghiên cứu chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ sau:
- Đã hệ thống hoá một số vấn đề lí luận cơ bản về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như: khái niệm, phân loại kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; những nhân tố liên quan đến phát triển của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
- Đã trình bày có hệ thống những vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển và các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như các khái niệm về đầu tư, vốn đầu tư; sự cần thiết phải tăng cường thu hút vốn đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư. Một số kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các nước trên thế giới.
- Luận án đi sâu nghiên cứu các biện pháp thu hút vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của 2 khu vực nông thôn và đô thị. Ở nông thôn đưa ra các mô hình tạo nguồn vốn, ở đô thị đưa ra 3 loại giải pháp thu hút vốn trong nước, FDI và ODA.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005): Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010), Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Các văn bản hướng dẫn về đầu tư.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000): Các Nghị định của Chính phủ quy định về đầu tư xây dựng cơ bản, nguồn vốn ODA, FDI và đấu thầu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo về đầu tư công 2001-2005.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Việt Nam hướng tới năm 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
GS.TS. Dương Phú Hiệp, TS. Vũ Văn Hà (2001), Toàn cầu hoá kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng (2004),"Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, Chương trình ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020", Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Toàn cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21, Nxb Thống kê, (2002).
Nguyễn Minh Tú- Các chính sách huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế Nhật Bản. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW.
Viện Chiến lược phát triển, cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn 2020. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2001.
Viện Chiến lược phát triển (2001). Việt Nam hướng tới 2010. NXB Chính trị Hà Nội.
Thierry de Montbrial, Pierre Jacquet (chủ biên). Thế giới toàn cảnh ramses. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001).
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế các số từ 1-1999 tới 3-2005.
Tạp chí Triết học, tạp chí Tài chính, tạp chí Ngân hàng, tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới. Các số từ 1-1999 tới 3-2005.
Tạp chí Thế giới mới, tạp chí Kiến thức ngày nay. Những bài viết về kinh tế và khoa học, công nghệ liên quan tới kết cấu hạ tầng và đô thị trong các số từ 1-1999 tới 3-2005.
Các báo Thời báo Kinh tế Việt Nam, Khoa học và công nghệ, Thểthao và văn hoá. Những bài viết về kinh tế và khoa học, công nghệ liên quan tới kết cấu hạ tầng và đô thị trong các số từ 1-1999 tới 3-2005.
Danny T. Quah (1998), Người đưa tin Unessco, số 12-1998.
TS. Vũ Thị Vinh (2001). Quy hoạch mạng lưới giao thông đô thị. NXB Xây dựng, Hà Nội.
Piere Mojlin (1993). Quy hoạch đô thị. NXB Thế Giới.
Quy hoạch xây dựng đô thị - Tiêu chuẩn thiết kế. TCVN 4449-87
Thế giới các công trình ngầm ở New York, Thế giới mới.
Thị trường qua các thời đại, Người đưa tin Unessco (2005)
Tự do hoá các dịch vụ công cộng, nên hay không? Kiến thức ngày nay (2004).
Đỗ Hoài Nam - Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam (2001).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 - Đề tài cấp Bộ - 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS15.docx