Chuyên đề Phân tích hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam

PHẦN GIỚI THIỆU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay, các công ty muốn đưa hàng hóa hay dịch vụ ra thị trường thành công, đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng thì họ phải trải qua một quá trình dài. Quá trình đó không đơn giản chỉ là sản xuất rồi mang đi tiêu thụ. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường để tìm hiểu nhu cầu chưa được thỏa mãn. Khi nhu cầu đã được xác định, các chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối sẽ được các doanh nghiệp thực hiện để sản phẩm được tiêu thụ dễ dàng và nhanh chống. Nhưng các chiến lược trên có tốt đi chăng nữa nếu như khách hàng của chúng ta chưa có bất kì một thông tin nào về sản phẩm, về công ty thì cũng thật khó để công ty có thể cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường năng động và đầy cạnh tranh như hiện nay. Chính vì vậy các chiến lược chiêu thị nhằm cung cấp thông tin cho thị trường là không thể thiếu. Và một trong những công cụ hiệu quả để truyền tải thông tin, thu hút, thuyết phục khách hàng, thúc đẩy hoạt động bán hàng là hoạt động quảng cáo, một vũ khí sắc bén nhằm thu hẹp khả năng mở rộng thị trường của đối thủ cạnh tranh và đánh bại các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mà mình hoạt động. Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là quảng cáo như thế nào? Quảng cáo ở đâu? Quảng cáo cho đối tượng nào là hiệu quả? . Hơn nữa các công ty hoạt động trong ngành quảng cáo ở nước ta còn tồn tại nhiều bất cập. Đa phần các công ty chỉ gia công phần phụ các chương trình quảng cáo, còn việc thiết kế các chiến lược quảng cáo, thông điệp quảng cáo do các công ty nước ngoài thực hiện. Hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đứng trước tình trạng tự phát, yếu kém về nhân lực, trình độ, lệ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì vậy mà đề tài “Phân tích hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam” được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng về hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp hiện nay, và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như tạo lợi ích cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1 Mục tiêu chung Phân tích hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quảng cáo cho các doanh nghiệp. 2.2 Mục tiêu cụ thể - Phân tích thực trạng về hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp ở Việt Nam. - Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp ở Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động quảng cáo. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Phương pháp thu thập số liệu Phương pháp thu thập số liệu: thu thập thông tin và số liệu thứ cấp từ Internet, trang Web của Hiệp Hội Quảng Cáo, sách báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 3.2 Phương pháp phân tích số liệu Phương pháp xử lý dữ liệu: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các thông tin và số liệu thứ cấp để đưa ra cách đánh giá, đưa ra giải pháp để giải quyết khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động quảng cáo cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1 Thời gian - Số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu từ năm 2008 đến năm 2010. 4.2 Không gian - Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam. 4.3 Đối tượng nghiên cứu Hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp ở Việt Nam. **** PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng qua các năm gần đây, hoạt động kinh tế cũng trở nên sôi động và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng trở nên gay gắt. Để có cạnh tranh và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp đã đầu tư rất nhiều cho hoạt động quảng cáo. Hằng năm, tổng ngân sách trung bình chi cho quảng cáo là hàng trăm triệu USD cho nhiều hoạt động quảng cáo khác nhau, từ quảng cáo truyền hình, báo in cho đến internet Trong đó, quảng cáo trên truyền hình luôn được đầu tư mạnh mẽ hơn 70% ngân sách mỗi năm. Nội dung và hình thức quảng cáo ngày càng đa dạng và đặc sắc, thu hút người xem nhiều hơn. Nhưng bên cạnh đó nó vẫn tồn tại một số bất cật như sự quá tải đã làm các quảng cáo bị nhiễu thông tin. Thị trường quảng cáo trong nước cũng có tốc độ tăng trưởng mạnh, doanh thu ngành luôn tăng qua các năm, đây cũng là một dấu hiệu khả quang cho ngành quảng cáo Việt Nam. Nhưng trong ngành quảng cáo, các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% thị phần, đa số là thực hiện các công đoạn gia công quảng cáo, trình độ chuyên môn còn thấp Qua thực trạng này các tổ chức, ban ngành đoàn thể cần có những biện pháp để đưa hoạt động quảng cáo của Việt Nam đi lên, tiến theo sự phát triển của quảng cáo thế giới. 2.Kiến nghị 2.1 Đối với doanh nghiệp Thị trường quảng cáo là một thị trường hấn dẫn và đầy tìm năng phát triển, hiện nay hầu hết các công ty từ công ty tư nhân cho đến những công ty cổ phần hay những tập đoàn lớn họ đều chú trọng đến hoạt động quảng cáo cho công ty. Tùy vào khả năng của mỗi công ty mà mức chi cho ngân sách quảng cáo là khác nhau. Hơn nữa ngành quảng cáo của Việt Nam đang tăng trưởng mạnh với doanh thu gần 1 tỷ USD, nhưng các doanh nghiệp trong nước chỉ nắm có 20% thị phần, phần còn lại chủ yếu do công ty nước ngoài nắm giữ. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam thiếu nguồn nhân lực có trình độ và vốn. Chính vì vậy các doanh nghiệp trong ngành quảng cáo nên có kế hoạch đầu tư hơn nữa cho nâng cao trình độ quảng cáo của doanh nghiệp, quan tâm đến việc đầu tư công nghệ phục vụ cho ngành quảng cáo, mở rộng hoạt động thêm nữa vào lĩnh vực nghiên cứu và thiết kế quảng cáo, tạo thế đứng cho doanh nghiệp của mình trong ngành, có như thế ngành quảng cáo nước nhà mới có cơ hội phát triển. 2.2 Đối với hiệp hội quảng cáo Việt Nam Quảng cáo là ngành đòi hỏi đầu tư chí tuệ nhiều, thu hút nhiều nguồn lao động. Chính vì vậy nó cần Hiệp hội ra mắt sẽ là người bảo vệ quyền lợi cho các hội viên, đại diện cho các nhà kinh doanh quảng cáo, là cầu nối với Chính phủ và các cơ quan quản lý để làm sao cho ngành quảng cáo được mở rộng và phát triển. Hiệp Hội Quảng Cáo Việt Nam nên hội nhập với khu vực Châu Á và Thế giới, thông qua các tổ chức này, sự chuyển giao kinh nghiệm, cách thức quản lý, nguồn nhân lực, công nghệ sẽ làm cho ngành quảng cáo Việt Nam nhanh chóng phát triển về chất. khi đó ta có thể học hỏi quảng cáo hay của khu vực châu Á, chuyên gia tham dự và chia sẻ những kinh nghiệm thành công. Sự kiện như vậy rất cần có ở Việt Nam, và chỉ có Hiệp Hội Quảng Cáo mới có thể tổ chức được vì họ có đủ chức năng tranh thủ sự ủng hộ của nhà nước và doanh nghiệp trong ngành. Hiệp hội cần huy động các nguồn lực xã hội xây dựng chương trình học bổng ở nước ngoài cho các tài năng trẻ, họ sẽ là nguồn lực hạt nhân cho quá trình phát triển ngành quảng cáo tại Việt Nam góp phần xây dựng được một đội ngũ nhân lực ngành quảng cáo có đẵng cấp quốc tế, vươn lên trở thành một quốc gia có trình độ cao trong thiết kế mỹ thuật công nghiệp, sáng tạo, và quảng cáo . Ngoài ra, đứng vai trò là tổ chức đầu ngành, hiệp hội nên thúc đẩy sự đầu tư của các doanh nghiệp cho ngành quảng cáo, một ngành kinh tế tri thức và đóng góp rất lớn trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu không chỉ của các sản phẩm, mà còn cả thương hiệu quốc gia. Hàng năm ngành này còn thu nhận và giải quyết rất nhiều việc làm cho xã hội, vì vậy một giải pháp phát triển toàn diện cho ngành này là cần thiết. Một mặc là giúp chính phủ có thể quản lý ngành này hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế giới, mặc khác giúp cho ngành này có được sự đầu tư và phát triển phù hợp với nhu cầu quảng bá và xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp, trong bối cảnh cạnh tranh và quảng cáo như là một công cụ tất yếu. 2.2 Đối với nhà nước Với những lợi thế và khó khăn đang tồn tại hiện nay, ngành quảng cáo cần có những giải pháp cụ thể để ngành có thể phát triển bền vững, và những chính sách từ các cơ quan nhà nước là sự hổ trợ đắt lực cho việc thực hiện những giải pháp này. Các công ty quảng cáo đang bị chèn ép từ nhiều công ty nước ngoài ngay tại thị trường nhà, họ hơn về về doanh sô về trình độ và kĩ thuật. Vì vậy các cơ quan ban ngành cần có chính sách đầu tư và qui hoạch rõ ràng để có thể gia tăng năng lực cạnh tranh cho ngành quảng cáo trong nước, các nhà hoạch định chính sách cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất, tính chuyên nghiệp cũng như đóng góp của quảng cáo đối với kinh tế để đưa ra những quyết định sát thực hơn. Có những chính hổ trợ, bảo hộ ngành quảng cáo, chính sách thu hút nguồn nhân lực để đáp ứng cho tình trạng thiếu hụt nhân lực trong ngành. Miễn giảm thuế để các doanh nghiêp có cơ hội đầu tư vào ngành nhiều hơn. Thúc đẩy hơn nữa vai trò của hiệp hội quảng cáo cấp quốc gia (Hiệp Hội Quảng Cáo VIệt Nam) và các hiệp hội quảng cáo địa phương nơi có nền kinh tế diễn ra sôi động. Nhà nước cần có những chính sách luật quảng cáo để chi phối toàn ngành, và luật quảng cáo liên quan luật báo chí, luật xuất bản, thương mại, doanh nghiệp, luật sở hữu trí tuệ, công ước quốc tế để khắc phục tình trạng ăn cấp bản quyền quảng cáo. Luận văn chia làm 3 chương, dài 43 trang

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu vực thành thị và chỉ tiếp cận được khoảng 20% lượng khách hàng mục tiêu. Cách quảng cáo này được xem là giải pháp toàn vẹn cho quảng cáo trên Internet và quảng cáo outdoor. - Quảng cáo qua dịch vụ SMS Banking: Mặc dù dư luận phản đối rất nhiều về cách quảng cáo này nhưng hình thức quảng cáo này vẫn được sử dụng do có thể đa dạng hình thức quảng cáo.  2.1.2 Thực trạng về hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam trong một số năm trở lại đây. 2.1.2.1 Thực trạng về ngân sách cho quảng cáo Quảng cáo là công cụ không thể thiếu trong việc truyền thông tin đến khách hàng chính vì vậy, hàng năm các công ty ở Việt Nam cũng như các công ty khác trên thế giới chi một số tiền rất lớn lên đến hàng chục, hàng trăm triệu đô la cho hoạt động quảng cáo. Đây là thời gian khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới đang diễn ra và các công ty đang tiến hành khắc phục hậu quả, nhưng việc chi nhiều cho quảng cáo vẫn được các công ty quan tâm và ngân sách quảng cáo vẫn tăng qua các năm. BẢNG 1: TỔNG NGÂN SÁCH QUẢNG CÁO CỦA CÁC CÔNG TY Ở VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN 2010 Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Ngân sách (triệu USD) 514,800 555,120 610,632 Mức tăng so với năm trước(%) X 8% 10% Nguồn: tổng hợp từ internet Tổng ngân sách quảng cáo của các công ty tăng từ 514,8 triệu USD năm 2008 lên 555,12 triệu USD năm 2009 tăng khoảng 8% so với năm 2008. Sang năm 2010 ngân sách này tiếp tục tăng 10% so với 2009 khoảng 610,632 triệu USD. Tuy có khủng hoảng kinh tế nhưng các doanh nghiệp vẫn chi nhiều cho quảng cáo. Nguyên nhân là do sản phẩm trên thị trường ngày càng đa dạng và phong phú, càng làm cho việc lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp trở nên khó hơn. Thêm nữa, sức ép ngày một lớn đến từ cánh cửa WTO, tuy vẫn có những điều kiện thuận lợi nhưng kèm theo đó sự cạnh tranh ngày càng cao. Chính vì vậy các doanh nghiệp ngày càng đầu tư mạnh vào quảng cáo để có thể tạo dựng được hình ảnh thương hiệu trong tâm trí khách hàng, lôi kéo khách hàng nhiều hơn. Qua đó có thể nâng cao tính cạnh tranh cho công ty. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cao, nhận thức dành ngân sách cho quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang ngày một cao. Ngoài ra, tỷ lệ tiêu dùng ngành hàng thành thị ở Việt Nam đang đứng đầu Châu Á, với tỷ lệ tăng trưởng là khoảng 20% so với 11% của Trung Quốc, 4% của Thái Lan, 3% của Đài Loan… Cụ thể ở Việt Nam năm 2008, tổng ngân sách quảng cáo của các công ty khoảng 514,8 triệu USD. Ngân sách dành cho quảng cáo tăng cao trên các kênh ti vi, đài phát thanh, báo và tạp chí in. Trong số các phương tiện truyền thông thì truyền hình vẫn dẫn đầu, chiếm 76,9% chi phí quảng cáo, kế đến là báo in: 22,8% và phần còn lại 0,3% thuộc về phát thanh. Bước sang năm 2009, ngân sách quảng cáo của các công ty tiếp tục tăng và đạt khoảng 555,12 triệu USD, tăng 8% so với năm 2008. Quảng cáo truyền hình chiếm đến 70% tổng ngân sách quảng cáo của cả nước và khuynh hướng này vẫn tiếp tục tăng trong năm 2010. Về cuối năm 2010 Ngân sách dành cho quảng cáo của các doanh nghiệp tăng theo từng tháng. Trong bối cảnh kinh tế thị trường thời hội nhập WTO đầy thách thức, thì hầu bao tiếp tục được mở chi cho quảng cáo để các doanh nghiệp nhanh chóng chiếm được thị phần trước khi quá muộn. Ngân sách này tiếp tục tăng 10% so với năm 2009 và đạt khoảng 610,632 triệu USD vào năm 2010, ngân sách cho quảng cáo của các công ty sẽ tiếp tục tăng, tăng mạnh từ 9 - 13% vào năm 2011 so với năm 2010 bởi sức ép ngày một lớn đến từ cánh cửa WTO. *Về ngân sách quảng cáo theo ngành hàng: hầu hết các ngành nghề, ví dụ như sản phẩm vệ sinh - chăm sóc vẻ đẹp, bán lẻ, điện gia dụng... mức chi phí quảng cáo đều tăng qua các năm, đặc biệt tăng cao ở một số ngành tiêu dùng hàng ngày như: viễn thông, dược phẩm, thực phẩm, thức uống.. *Về các doanh nghiệp chi nhiều cho quảng cáo: có 10 doanh nghiệp chi nhiều nhất cho quảng cáo ở Việt Nam là Unilever Việt Nam, P&G Việt Nam, Vinamilk, VMS-MobiFone, Dutch Lady Việt Nam, công ty Bia Tân Hiệp Phát, Nestle Việt Nam, VinaPhone, Công ty Bia Việt Nam và Abbott Laboratories Inc. 2.1.2.1 Thực trạng quảng cáo qua một số phương tiện quảng cáo a) Quảng cáo trên truyền hình: Quảng cáo truyền hình luôn là phương tiện quảng cáo được các doanh nghiệp lựa chọn hàng đầu bởi nó có thể tiếp cận với hầu hết với mọi đối tượng, truyền tải âm thanh và hình ảnh động giúp thông điệp quảng cáo được truyền tải nhiều và rõ ràng hơn. BẢNG 2: NGÂN SÁCH QUẢNG CÁO QUA TRUYỀN HÌNH CỦA CÁC CÔNG TY Ở VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN 2010 Năm Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Ngân sách 392,248 388,584 457,974 Tỷ trọng(%) 76 70 75 % tăng so với năm trước X - 0,93% 17,86% Nguồn: tổng hợp từ internet. Năm 2008, quảng cáo trên truyền hình chiếm khoảng 76% ngân sách quảng cáo của các công ty. Trong năm 2009 truyền hình vẫn là sự lựa chọn lớn nhất, và chiếm khoảng 70% vào năm 2009 giảm nhẹ khoảng 0,9% so với năm trước, và năm 2010 là 75% tăng 17,86% so với 2009. Nguyên nhân là do truyền hình có thể truyền tải một cách sinh động hình ảnh của sản phẩm đến khách hàng. Thời đại thông tin bùng nổ, truyền hình vẫn là phương tiện được ưa chuộng nhất, đông người xem nhất, thu được lợi nhuận nhanh và nhiều nhất. Chính vì thế, quảng cáo trên truyền hình được xem là phương tiện đạt hiệu quả nhanh nhất với nhà sản xuất. Các đoạn phim quảng cáo trên truyền hình đã có hình ảnh, lời nói- slogan minh họa cho các sản phẩm được trau chuốt, chọn lọc hơn. Nhiều sản phẩm chiếm được tình cảm của người xem, một phần lớn nhờ vào phim quảng cáo ấn tượng, slogan độc đáo. Chẳng hạn đoạn quảng cáo chai bia Sài Gòn lùn với câu: Có thể bạn không cao, nhưng người khác vẫn phải ngước nhìn. Các em nhỏ rất thích mẩu quảng cáo về sữa tươi của Vinamilk, vì hình ảnh các chú bò ngộ nghĩnh, bài hát vui nhộn. Nhìn chung, các phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay đều đạt được chuẩn về chất lượng hình ảnh đẹp, sắc nét. Nhiều sản phẩm còn dựng thành một câu chuyện được quay những góc máy khá đẹp. Tuy nhiên, không phải tất cả đều được như vậy. Vẫn có những đoạn phim quảng cáo tự nhiên chủ nghĩa và gây phản cảm. Đoạn phim quảng cáo gây cho người xem khó chịu, ít tạo được xúc cảm là quảng cáo nước uống Atisô gắn liền với hình ảnh một ca sĩ. Gây ấn tượng là nguyên tắc chung của các phim quảng cáo, nhưng ở mẩu quảng cáo này, ấn tượng mà nó mang lại có tác dụng ngược, khiến người xem khó chịu. Vấn đề bất cập với quảng cáo trên truyền hình hiện nay, chính là thời lượng phát sóng. Theo quy định, quảng cáo chiếm 5% thời lượng phát sóng. Đối với những đài truyền hình lớn, phát sóng 24/24 giờ thì 5% dành cho quảng cáo là thời lượng không nhỏ. Về cơ bản, quảng cáo trên truyền hình đã theo xu hướng hợp lý hơn, không quảng cáo quá tính năng tác dụng của sản phẩm, hàng hóa. Quảng cáo trên truyền hình thời gian qua đã làm rất tốt việc quảng bá, hưởng ứng cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. Nhưng cơ quan quản lý vẫn chưa được chặt chẽ trong việc quản lý tần suất và thời lượng phát sóng quảng cáo. Phần lớn vẫn để cho các đài tự giác, tự thực hiện các quy định. Các quảng cáo thường xuất hiện trên truyền hình như: Vinamilk, Heineken, Omo, Ajinomoto, Coca-Cola, Knorr, Close Up, Beeline, Clear, Confort…. b)Quảng cáo trên báo in: Ngoài tivi, báo in cũng lấy đi của doanh nghiệp trung bình khoảng 16%/năm tổng chi phí dành cho quảng cáo. Nguyên nhân là do nó tiếp xúc với nhiều đối tượng và phạm vi thời gian tác động cũng cao, chi phí tương đối. Các tạp chí tuy hình thức đẹp, hấp dẫn, bắt mắt hơn nhưng do tầng suất xuất bản thấp, các doanh nghiệp ít chọn phương tiện này. Chỉ có 8% ngân sách quảng cáo được rót vào tạp chí. Tuy nhiên, những ngành hàng cao cấp và xa xĩ như thời trang, mỹ phẩm, xe hơi, du lịch… vẫn được các doanh nghiệp chú trọng quảng cáo trên tạp chí khá nhiều. Theo qua điều tra cho thấy 70% ngân sách quảng cáo báo dành cho 5 báo và tạp chí có số lượng đọc giả lớn nhất nước là: Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Bóng Đá, Công An TP Hồ Chí Minh và Tiếp Thị Gia Đình. c) Quảng cáo trên radio: Radio là phương tiện đóng vai trò bổ trợ và tăng cường tính hiệu quả của quảng cáo trên truyền hình. Đặc biệt trong những năm vừa qua phong trào “Người Việt dùng Hàng Việt” đã lan rộng khắp nơi len lỗi vào các vùng nông thôn, thì hình thức quảng cáo trên Radio đã trở nên quan trọng. Vì dân số nông thôn ở nước ta hiện nay vẫn chiến đến 70,4%, một thị trường tiêu dùng. Tuy vậy, radio cũng có những nhược điểm rất điển hình, đó là không có hình ảnh, và do đó khá thụ động trong việc nghiêm cứu bản chất người tiêu dùng; thêm nữa hoạt động truyền hình hiện nay đang phát triển, ngày nay chỉ có người dân ở tỉnh xa, những người không có khả năng mua tivi thì mới chịu nghe radio. Đó chính là một số nguyên nhân khiến các doanh nghiệp chỉ dành có 0,6% ngân sách cho phương tiện này. d) quảng cáo trực tuyến: Trong thời buổi hiện đại với tầng suất dùng Internet tăng cao như ở Việt Nam, quảng cáo online vẫn không được doanh nghiệp chú trọng. Họ chỉ dành 0,4% ngân sách quảng cáo cho loại hình này, một sự đầu tư quá thấp. Nguyên nhân là do quảng cáo trực tuyến Việt Nam vẫn ở giai đoạn bắt đầu, thị trường Việt Nam chưa có những công cụ khả dĩ có thể đo lường hiệu quả của những chiến dịch quảng cáo trực tuyến. Do đó, các doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến loại hình quảng cáo này. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu là các mặt hàng tiêu dùng phần lớn do các bà nội trợ quyết định mua. Họ thì không bao giờ lướt net, vậy quảng cáo trên Internet cũng không mang lại được gì. e) Quảng cáo qua các phương tiện khác: * Quảng cáo Outdoor: gồm bảng, biển, pano, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng, vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động.. trên đường quốc lộ ra vào nội thành, với mục tiêu tản rộng khắp các cửa ngõ hay trên xe Bus nhiều người dân đi lại... Công ty thường sử dụng hình thức quảng cáo này thường có các sản phẩm gắn bó với người tiêu dùng hàng ngày, như dầu ăn, nước suối hay dầu gội đầu … Quảng cáo này được nhiều doanh nghiệp đưa vào quảng bá là do sự linh hoạt tuyệt đối, khả năng được nhận biết bởi số đông rất cao và tính hợp lý về mặt chi phí khi so sánh với những phương tiện truyền thông như tivi và báo chí. Quảng cáo trên xe buýt đang tỏ ra là một trong những kênh quảng cáo ngoài trời hiệu quả nhất. vì các tuyến xe buýt được quy hoạch ở các tuyến giao thông quan trọng nhất của thành phố, sao cho việc phục vụ sự đi lại của mọi người tối ưu nhất, xe Bus có mặt khắp mọi nơi mọi người đi làm, vui chơi, mua sắm… Thời gian hiện diện ngoài đường của mỗi xe là hơn 15 giờ mỗi ngày; và tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cứ trung bình 5 phút thì có một chuyến xuất phát, ở các bến; các hình ảnh được thiết kế ở hai bên hông xe, ngay tầm mắt người đi đường, bất kể là họ đang đi trong ô tô, xe máy, hay đi bộ.. Những thương hiệu lớn đã đặt quảng cáo trên xe buýt tại Việt Nam là Coca-Cola, LaVie, Kinh Đô, Motorola, Neptune, ACB Bank, Red Bull, Orien * Quảng cáo qua vé: Vé một kênh quảng cáo mới xuất hiện đầu năm 2009. Hàng triệu tờ vé số, vé xe được phát hành mỗi ngày tương đương với lượng đối tượng tiếp cận không hề nhỏ chính là tiềm năng phát triển cho hình thức quảng cáo trên vé. Hình thức quảng cáo này được nguyên nhân là do các doanh nghiệp muốn tận dụng mọi không gian, phương thức quảng bá thương hiệu, sản phẩm của mình thì không gian nhỏ bé trên mỗi tờ vé, cách tiếp cận khách hàng nhanh mà chi phí lại rẻ. Diện tích khoảng 0,009 m2 trên các tờ vé thích hợp để chèn logo hoặc slogan, địa chỉ website của thương hiệu, nhãn hàng hơn là giới thiệu sản phẩm. Đối tượng có nhiều nhu cầu sử dụng kênh này là doanh nghiệp chuyên cung cấp hàng tiêu dùng, nhu yếu phẩm (bột giặt, dầu gội, nước giải khát) hay dịch vụ (mạng viễn thông, du lịch, ngân hàng). Đối tượng của quảng cáo trên vé là người lao động phổ thông, có thu nhập thấp cho nên lượng người cần tiếp cận là rất rộng. Bên cạnh đó, kênh này lại được tiến hành hằng ngày, lặp đi lặp lại nên ấn tượng để lại trong người tiêu dùng là khá mạnh. Trong tương lai, nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều nhu cầu cùng nhiều không gian hẹp để kiểm soát về tài chính, chi phí cho quảng cáo trở nên đắt đỏ, những kênh nhỏ sẽ phù hợp với các nhà sản xuất vừa và nhỏ với ngân sách chi cho quảng cáo không nhiều, công ty nào muốn thị trường bao phủ nhưng chi phí dành cho quảng cáo không nhiều, thì kênh quảng cáo trên vé sẽ tiện lợi hơn. Hàng hóa giá rẻ sẽ là đối tượng tốt nhất cho kênh quảng cáo này. Và loại vé có khả năng mang lại hiệu quả tốt nhất theo ông chính là vé máy bay, do thời gian giữ vé khá lâu, khách hàng lại là những người có thu nhập khá nên sức tiêu dùng cao. Đến nay, quảng cáo trên vé chưa đủ sức hút đối với doanh nghiệp có nhu cầu. Quảng cáo trên các loại vé có thể trở thành một loại hình quảng cáo mới nhưng chưa chắc có thể trở thành loại hình thịnh hành hay xu hướng trong tương lai. Vì không đưa ra được con số thống kê cụ thể về hiệu quả sử dụng Ngoài ra còn có một số hình thức quảng cáo mới như in quảng cáo trên các phiếu thu tiền sinh hoạt phí hàng tháng kẹp tờ rơi quảng cáo vào báo hàng ngày hoặc các hoạt động chăm sóc khách hàng tại nhà của các doanh nghiệp… Thực trạng quảng cáo của các doanh nghiệp: Hầu như các công ty tham gia thị trường dù lớn hay nhỏ đều tham gia hoạt động quảng cáo. Với sự đa dạng của các cách thức quảng cáo và sự đầu tư của các công ty đã tạo nên sự sôi động trong hoạt động quảng cáo như hiện nay. Tại Việt Nam có sự khác biệt lớn về mức đầu tư chi phí giữa các công ty trong nước và các công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Các công ty trong nước chỉ quảng cáo với mức chi phí tương đối còn các công ty nước ngoài thì đầu tư rất mạnh cho việc quảng cáo sản phẩm của họ, thậm chí họ còn có những chiến dịch quảng cáo rầm rộ trong một thời gian dài chẳng hạn như Unilever Việt Nam, P&G Việt Nam, Dutch Ldy Việt Nam, Nestle Việt Nam, Abbott Laboratories Inc… Nguyên nhân là do quảng cáo phải tốn một khoảng chi phí rất lớn, nếu quảng cáo không hiệu quả công ty sẽ có nguy cơ bị lỗ. Thêm nữa, các công ty nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và trình độ quản lý, kinh doanh cao nên thành công trong hoạt động quảng cáo của họ được đảm bảo hơn. Trong nước có một số công ty có hoạt động quảng cáo nổi bật như Vinamilk, công ty Bia Tân Hiệp Phát,VinaPhone,… a) Công ty Tân Hiệp Phát : Thời gian qua, quảng cáo mà Tân Hiệp Phát đầu tư mạnh mẽ nhất là trà thảo mộc Dr Thanh, quảng cáo dồn dập trong thời kì kinh tế suy thoái nhưng lại đem về thành công vang dội. Họ đã thu hút rất nhiều sự chú ý, tò mò của người tiêu dùng bằng quảng cáo và lượng hàng của họ được tiêu thụ rất mạnh. Trong lúc kinh tế suy giảm, nhiều doanh nghiệp chọn cách tiết giảm chi phí, trong đó có chi phí quảng cáo để hạ giá thành, nhưng Tập đoàn Tân Hiệp Phát đã làm ngược lại, đầu tư khá lớn cho việc sản xuất và quảng bá sản phẩm mới là trà thảo mộc Dr.Thanh. Năm 2008, Tân Hiệp Phát nằm trong số 5 công ty quảng cáo mạnh nhất tại Việt Nam và trong 15 nhãn hiệu có chi phí quảng cáo mạnh nhất năm 2009 thì trà thảo mộc Dr.Thanh của Tân Hiệp Phát đứng vị trí quán quân. Quảng cáo với tần suất liên tục trong nhiều tháng, liên tục và liên tục trên truyền hình. Chỉ tính riêng chi phí quảng cáo trên truyền hình của Dr.Thanh, Tân Hiệp Phát cũng phải trả một khoản tiền khá lớn, nhờ đó hình ảnh của Dr.Thanh được khắc họa một cách rõ nét với niềm tự hào về sản phẩm. Đó là các đoạn phim quảng cáo dành cho sản phẩm trà thảo mộc Dr.Thanh với nhân vật chính là Dr. Thanh - Tổng giám đốc của tập đoàn phát sóng liên tiếp trên truyền hình, các sê-ri bài viết trên nhiều tờ báo uy tín… đã nâng cao tiếng vang và khẳng định uy tín của thương hiệu mới này. Sự xuất hiện với mật độ dày trên các phương tiện truyền thông của sản phẩm trà thảo mộc Dr.Thanh làm dấy lên sự tò mò, sự quan tâm, thú vị của dư luận. Ngay cả trẻ con cũng thuộc lòng slogan và bài hát của quảng cáo Dr Thanh “ Nóng trong người, uống trà thảo mộc Dr.Thanh”. Kết quả sau 3 tháng tung ra thị trường của Dr Thanh là trà đã được đông đảo người tiêu dùng đón nhận, sản phẩm có sự tham gia của 300 nhà phân phối, hơn 2.000 nhân viên và 1.000 xe tải tham gia chuyên chở. Từ sản lượng 300.000 chai/ngày đến nay tập đoàn đã nâng sản lượng lên 600.000 chai/ngày nhưng cũng chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu sử dụng. b) Công ty Vinamilk: ngân sách của Vinamilk dành cho quảng cáo tăng mạnh nhất, với 79,3% năm 2009 và tương ứng với số tiền gần 6,5 triệu đô la. Vào tháng 5/2008, Vinamilk đã công bố chiến dịch trị giá 2 triệu Đô la Mỹ bao gồm việc sử dụng logo và hình ảnh của các cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Arsenal (Anh) để quảng bá cho thương hiệu cà phê Moment. Quảng cáoVinamilk gắn liền với trẻ em vì hình ảnh chú bò đáng yêu. Quảng cáo mới nhất của Vinamilk là hình ảnh một em bé uống sữa và cô bò kế bên cứ cười suốt khi em làm hộp sữa kêu rột rột bằng cách hút sữa. Vinamilk đã không chỉ là chất lượng tốt, an toàn, không có melamin, mà Vinamilk đã là bạn của trẻ nhỏ, mang đến tiếng cười cho trẻ, mang đến nụ cười cho trẻ. Những bài hát trong quảng cáo của Vinamilk thực sự chinh phục cả phụ huynh và trẻ nhỏ. Nếu phụ huynh không quyết định mua Vinamilk cho con mình, thì chắc hẳn rằng đứa trẻ cũng sẽ đòi mẹ mua cho mình ít nhất là một hộp Vinamilk trong một đống sữa của hãng khác được phụ huynh chọn lựa. Đó chính là thành công của Vinamilk trong hoạt động quảng cáo. c)Công Unilever Việt Nam:. Unilever - Việt Nam cũng là một trong số những đại gia lớn trên thị trường hàng tiêu dùng, hằng năm đã cung cấp một lượng lớn các mặt hàng thiết yếu cho sinh hoạt hằng ngày của người tiêu dùng Việt. Các sản phẩm của Unilever Việt Nam như OMO, Comfort , Vaseline , Hazeline , Ponds , P/S ,Close Up, Rexona ,Vim, Sunsilk Co-Creations , clear, Dove, Sunlight , Surf. Hiện nay, Unilever được mệnh danh là một trong những công ty chi mạnh tay nhất cho xây dựng thương hiệu tại Việt Nam. Chính nhờ chiến dịch quảng cáo trực tiếp đúng lúc, phù hợp, kịp thời, Unilever Việt Nam đã đi được những bước tiến dài trên thị trường chỉ trong thời gian ngắn. Chúng ta hãy cùng phân tích các một số chiến dịch quảng cáo sản phẩm rất thành công của công ty. Dầu gội đầu Sunsilk: một sản phẩm hoàn toàn “nữ tính” đã có những thành công vượt bậc trong kinh doanh. Thành công của Sunsilk là nhờ sự thực thi một chiến dịch truyền thông sáng tạo, đổi mới và đặc sắc trên nhiều kênh truyền thông. Quảng cáo truyền hình của Sunsilk luôn khéo léo sử dụng âm thanh và các ca khúc trẻ trung sôi động, từ bài hát riêng “You are my Sunsilk” tới việc dùng soundtrack của một số nhạc phim nổi tiếng. Đầu năm 2008, Sunsilk tung chiến dịch quảng cáo rầm rộ, đầu tư hoành tráng mang tên “Sống là không chờ đợi” với nhân vật chủ chốt là ca sĩ Hồ Ngọc Hà, và năm 2010 là chiến dịch “Sunsilk đồng hành với 7 chuyên gia hành đầu về tóc trên thế giới” . Ngoài ra, quảng cáo trên báo chí của Sunsilk cũng rất hay, đặc biệt là mẫu quảng cáo có sự liên hệ sự óng mượt của tóc với sự mịn màng như nhung lụa. Không như các sản phẩm khác lựa chọn hình ảnh đại diện cho mình là những nhân vật nổi tiếng, Comfort tự tay xây dựng cho mình nhân vật đại diện, đầu tiên là hình ảnh Thiên thần hương Comfort xinh xắn đáng yêu. Sau sự thành công với hình ảnh “Thiên thần hương” – đại sứ chiếm được nhiều cảm tình của người tiêu dùng, tiếp theo là hình ảnh Gia đình hương Andy và Lily. Và lần này không chỉ đơn giản như lần trước với các chiến dịch cùng khẩu hiệu “Lan tỏa hương thơm cùng thiên thần hương”, Comfort đã xây dựng cho Andy và Lily cả một câu chuyện dài băng phương thức story-telling với cốt truyện. * Bột giặt Omo và Surf: Quảng cáo của Surf là hình ảnh của chú rối bọt oxi trắng tinh, rất dễ thương có thể làm trắng, sạch và thơm lâu, đồng thời lại tốt cho sức khỏe. Chú rối này đi khắp các con đường, khắp các hẻm đến với những người dân lao động, các trường học, cùng lũ trẻ con chạy quanh và tất cả đều bắt đầu từ việc một cô gái đang giặt quần áo bằng tay trong chậu nước làm xuất hiện chú rối bọt oxi ấy. Thông điệp của nhà sản xuất mang đến cho khách hàng của mình là: Surf có giá rẻ và gần gũi với những người dân lao động, những học sinh, sinh viên xa nhà, có thể đáp ứng rất tốt nhu cầu của họ đối với bột giặt đó là: sạch, thơm, trắng sáng, tốt cho sức khỏe, không hại da tay. Surf chọn hình ảnh chú rối rất hay vì nó phù hợp với sinh viên, học sinh, bắt mắt, dễ thương, gần gũi và dễ chịu. Hình ảnh những người dân bình thường sau khi được làm sáng trắng lại bộ quần áo của mình đã rất vui vẻ, cười nói với nhau, hứng khởi hơn trong công việc: Surf làm tươi mới hơn ngày học tập và làm việc của người sử dụng. Nói về nhãn hàng Omo, thông điệp quảng cáo không chỉ dừng lại ở nhu cầu căn bản mà người tiêu dùng đặt ra cho sản phẩm bột giặt mà họ muốn mua, sự cao cấp của Omo không chỉ thể hiện ở chất lượng, bao bì, mà được thể hiện ở “sự hiểu biết về người tiêu dùng”. Đó là: giáo dục. Các bậc phụ huynh đều muốn con cái họ thông minh, giỏi giang, và dĩ nhiên họ sẽ không tiếc khi phải chi ra thêm một khoản để an tâm về sự phát triển của con mình. Omo đã hiểu điều đó : “Trẻ học điều hay, ngại gì vết bẩn”, Omo đã đánh vào đúng tâm lý của các bà mẹ, của các bậc phụ huynh cũng như sự mong mỏi của họ ở con cái mình. Bấy nhiêu cũng là đủ để người tiêu dùng phải quan tâm đến Omo. d)Công ty Procter & Gamble (P&G). Tại Việt Nam, P&G được biết đến với những nhãn hiệu nổi tiếng như Pantene, Rejoice, Olay, Gillette, Pampers, Oral B, Tide, Downy… so với Omo của Unilever thì Tide chưa chiếm ưu thế trên thị trường bằng. Quảng cáo của Tide không định vị hướng về người tiêu dùng mà đa số các thông điệp quảng cáo đều tập trung vào công dụng sản phẩm. Đặt trưng của quảng cáo Tide là điệp khúc "ngạc nhiên chưa" thể hiện qua hình ảnh một nữ sinh, một học sinh bị bột giặt Tide lước qua tạo thành một vệt sáng nổi bật trên chiếc áo trắng. Các quảng cáo của Tide thường tập trung vào việc người tiêu dùng thấy bất ngờ về độ trắng của Tide, còn các quảng cáo của Omo tuy không đạt được hiệu quả về độ sáng tạo nhưng lại tập trung được vào đối tượng mua hàng chính. Nhãn hàng Downy đã thành công qua nhiều sản phẩm với một số tính năng chính như thơm lâu, chống khuẩn, cuốn hút, đam mê… các quảng cáo của Downy thường thể hiện qua mô tiếp tình cảm ấm áp của mẹ và con, giữa vợ và chồng và người thân khác trong gia đình.. điều này thu hút nhiều người tiêu dùng bởi tính nhân văn của các quảng cáo. 2.2 Ngành quảng cáo ở Việt Nam và định hướng phát triển 2.2.1 Ngành quảng cáo ở Việt Nam 2.2.1.1. Sơ lược về ngành quảng cáo. Sự vận hành của một nền kinh tế dựa trên quy trình sản xuất-phân phối-tiêu dùng đã hình thành nên ngành quảng cáo như là một công cụ nhằm thúc đẩy phân phối và tiêu dùng hàng hóa. Quảng cáo đã xuất hiện từ rất lâu, từ lúc có nền báo chí phát triển vào khoản thế kỷ 17 bằng hình thức quảng cáo là những bài viết ngắn giới thiệu các sản phẩm, giá và những thông tin khác, thể hiện chủ yếu là hình vẽ, những người làm việc trong lĩnh vực này lúc đó chủ yếu là nhà báo, nhà văn và họa sĩ. Nhưng thực sự ngành quảng cáo phát triển mạnh và được thừa nhận chính thống, lan rộng và ảnh hưởng mạnh từ sau chiến tranh thế giới thứ hai khoản năm 1930, và nó trở thành một công cụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đối với nền kinh tế nó góp phần thúc đẩy sản xuất tiêu dùng. Ngành quảng cáo có cấu trúc rất phức tạp, bởi ngành quảng cáo là ngành dịch vụ lệ thuộc vào ý tưởng sáng tạo, nên các “sản phẩm” của nó biến đổi lớn theo ngành nghề kinh doanh có nhu cầu quảng bá, theo thị trường, môi trường pháp lý, văn hóa và cấu trúc cạnh tranh các ngành công nghiệp sử dụng dịch vụ quảng cáo. Về cơ bản là có 3 nhóm công ty chính tạo nên cấu trúc ngành: + Công ty sử dụng dịch vụ quảng cáo (còn gọi là Nhà quảng cáo-Advertiser): Công ty sử dụng dịch vụ quảng cáo còn được gọi là khách hàng là người có nhu cầu và bỏ tiền ra để thực hiện việc quảng cáo cho lợi ích của chính họ. Nhà quảng cáo có thể là: các Công ty sản xuất và kinh doanh, các Đại lý phân phối sản phẩm, các tổ chức cung cấp dịch vụ Y tế, Giáo dục, Luật, các Tổ chức xã hội, các Đoàn thể, các Cơ quan chính quyền các Địa phương và các Nhân vật nổi tiếng…. + Công ty cung cấp các dịch vụ quảng cáo (advertising supplier): đây là nhóm Công ty cung cấp các dịch vụ rất cụ thể trong những mảng công việc quảng cáo và tiếp thị, nhóm này bao gồm: Công ty thiết kế sáng tạo, tạo mẫu và in ấn, Công ty cung cấp dịch vụ quảng cáo ngoài trời, Công ty làm phim quảng cáo và các dịch vụ hậu kỳ, Phòng chụp ảnh quảng cáo, Công ty sản xuất các vật phẩm quảng cáo, Công ty tiếp thị trực tiếp, Công ty cung cấp các dịch vụ nghiên cứu thị trường, các Chủ phương tiện truyền thông (truyền hình, radio, báo và tạp chí, website), Công ty tổ chức hội chợ triễn lãm. + Công ty tư vấn quảng cáo: nhóm này ngoài chức năng dịch vụ còn giúp các nhà quảng cáo xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu và thị trường. Nhóm này bao gồm: Công ty quảng cáo trọn gói (Full Service Advertising Agency), Công ty dịch vụ truyền thông (Media Agency), Công ty dịch vụ Quan Hệ Cộng Đồng (Public Relation Agency), Công ty dịch vụ tư vấn tiếp thị (Marketing Consultant Services).   2.2.1.2. Thực trạng ngành quảng cáoViệt Nam Hiện nay, cả nước hiện có trên 5.000 doanh nghiệp hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong ngành quảng cáo như tư vấn chiến lược, dịch vụ quảng cáo, quảng cáo ngoài trời, sản xuất phim quảng cáo, thiết kế đồ họa, in ấn, thiết kế thi công quảng cáo và tổ chức sự kiện… Tổng doanh thu của ngành quảng cáo hiện nay ước tính khoảng 1 tỷ USD/năm nhưng các công ty quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam chiếm phần lớn số doanh thu này nhờ thế mạnh ở lĩnh vực quảng cáo sáng tạo và khả năng thực hiện trọn gói các chiến lược tiếp thị. Về sự phát triển của ngành, ngành quảng cáo phát triển có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của nền kinh tế. Tính đến năm 2006, doanh thu toàn ngành quảng cáo Việt Nam đạt 300 triệu USD, trong khi đó vào năm 2001 chỉ đạt 107, 6 triệu USD. BẢNG 3: DOANH THU NGÀNH QUẢNG CÁO QUA CÁO TRONG GIAI ĐOẠN 2008 – 2010 2008 2009 2010 Doanh thu(USD) 555 736 1000 % tăng so với năm trước X 32,61 35,87 Nguồn : tổng hợp từ internet Doanh thu ngành quảng cáo vẫn tăng từ 2008 đến năm 2010. Năm 2008 doanh thu là 555 triệu USD. Năm 2009 doanh thu ngành tăng lên 736 triệu USD, tăng khoảng 32,61% so với năm 2008. Doanh thu này vẫn tăng vào năm tiếp theo, cụ thể năm 2010 doanh thu đạt khoảng 1 tỷ USD, tăng 35,87% so với năm 2009. Nguyên nhân tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cao, nhận thức dành ngân sách cho quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang ngày một cao. Năm 2009 đánh dấu thành công vượt bậc của ngành quảng cáo Việt Nam. Các doanh nghiệp trẻ trong ngành đã có nhiều bước đột phá, góp phần đưa ngành quảng cáo nước nhà đi lên, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Năm 2010 Việt Nam có hơn 7.000 công ty quảng cáo, truyền thông, PR, Tổ chức sự kiện và gần 100.000 lao động, trong đó hơn 70% là những bạn trẻ tuổi dưới 30. Ngành quảng cáo Việt Nam đang bị chi phối rất lớn bởi công ty quảng cáo nước ngoài. Có khoản 78% công ty quảng cáo của Việt Nam nhưng chỉ chiếm được 20% doanh thu toàn ngành, còn lại 80% doanh thu là do các công ty quảng cáo nước ngoài, các văn phòng đại diện thu được, đây là nghịch lý mà ngành quảng cáo Việt nam đang gặp phải. Nguyên do là lịch sử phát triển ngành quảng cáo Việt Nam còn mới, chỉ hơn 10 năm phát triển, nên chúng ta chưa có trình độ công nghệ, chuyên môn và con người để hình thành nên những tập đoàn quảng cáo. Xu hướng “khách hàng toàn cầu”, nghĩa là những tập đoàn quảng cáo đã ký hợp đồng dịch vụ với khách hàng của mình trên toàn cầu, và ở đâu có khách hàng thì các công ty quảng cáo này mở rộng đến đó để thực hiện dịch vụ quảng cáo, vì vậy các công ty quảng cáo địa phương sẽ không có cơ hội dành lấy những khách hàng lớn. Thứ ba là do hầu hết công ty quảng cáo trong nước chỉ thực hiện “gia công” lại các ý tưởng và các chương trình quảng cáo từ các công ty quảng cáo nước ngoài, nên lợi nhuận và giá trị kinh tế không cao. Về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành quảng cáo Việt Nam đang khó khăn đó là nguồn nhân lực có chất lượng. Người nước ngoài đang là những chuyên gia có ảnh hưởng và thành công trong lĩnh vực quảng cáo tại Việt Nam, họ đến từ những nước có nền quảng cáo tiên tiến. Trong ngành quảng cáo, do là ngành dịch vụ thiên về chất xám (kinh tế tri thức) nên việc quản trị và đầu tư vào con người (những cá nhân tài năng) là điều quan trọng. Một nhân tố khác quan trọng cũng bị tác động mạnh mẽ là ngành truyền thông Việt Nam, ngành này là nền tản phương tiện cho các hoạt động quảng cáo, và hầu hết nguồn thu của các cơ quan truyền thông là từ dịch vụ quảng cáo. Hiện tại Việt Nam có hơn 600 cơ quan báo và tạp chí 67 kênh truyền hình (không kể các kênh truyền hình cáp và kỹ thuật số của nước ngoài), và hầu hết các tỉnh thành cả nước điều có đài phát thanh. Mặc dù số lượng các kênh truyền thông nhiều, nhưng quảng cáo Việt Nam vẫn tập trung vào các kênh truyền thông lâu đời và có sức ảnh hưởng công chúng mạnh. Hầu hết các kênh này là do quản lý trực tiếp nhà nước, và vì chúng ta chưa thể mở cho tư nhân làm chủ cơ quan truyền thông, nên các tờ báo và kênh truyền hình chủ lực ngoài nhiệm vụ chính trị, khai thác quảng cáo cũng là nhu cầu cấp thiết nhưng chính sách quản lý nhà nước và chất lượng chương trình kém làm cho việc khai thác kinh doanh về quảng cáo còn thấp. Một yêu cầu đặt ra hiện nay là ngành truyền thông phải hợp tác chặc chẻ với ngành quảng cáo, vì cả hai ngành này điều cần công chúng (audiences), cơ quan truyền thông cần công chúng thông qua chất lượng chương trình hấp dẫn, và chính lôi kéo công chúng làm phương tiện chính tạo nên nguồn thu cho sự tồn tại của các cơ quan truyền thông bên cạnh nhiệm vụ chính trị và xã hội. Mặt khác, công chúng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn về chất lượng, sự sáng tạo ở các chương trình, và tìm kiếm những đột phá từ các chương trình đã và sẽ trở thành tiêu chính cạnh tranh của các kênh truyền thông giống như các nước khu vực và trên thới giới. Đối với công ty quảng cáo, việc đa dạng hóa chương trình nhằm lôi kéo công chúng sẽ là căn cứ quan trọng cho các quyết định quảng cáo, và việc chi tiền của các nhà quảng cáo (advertisier).   2.2.2 Định hướng phát triển Ngành quảng cáo còn nhiều cơ hội phát triển, theo đánh giá chung của ngành quảng cáo, cứ chi tiêu cho quảng cáo của các nước phát, triển là khỏan 3% trên GDP và những nước đang phát triển là từ 1% đến 2% của GDP. Ở Việt Nam, doanh thu ngành quảng cáo Việt Nam chỉ gần bằng 0,6% của GDP (300 triệu USD năm 2006 so với gần 60 tỷ của GDP), như vậy với tốc độ phát triển không ngừng của kinh tế, ngành quảng cáo Việt Nam sẽ còn đóng góp rất nhiều cho thu nhập quốc dân và xã hội. Tuy nhiên, để ngành này còn hướng xa và phát triển thật sự, chúng ta nên có những chiến lược toàn diện. Doanh thu của ngành quảng cáo tại Việt Nam sẽ vượt 3 tỷ USD vào năm 2020 nếu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng như hiện nay. Doanh thu quảng cáo sẽ tiếp tục tăng cao vì các doanh nghiệp cũng phải duy trì và tăng ngân sách quảng cáo để quảng bá sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng nhằm tăng doanh thu trong thời buổi cạnh tranh như hiện nay. Các doanh nghiệp cũng đang tăng chi phí quảng cáo qua các kênh mới như quảng cáo ngoài trời và tại các siêu thị, cửa hàng bách hóa, trung tâm thương mại… thay vì chỉ qua các kênh truyền thống như truyền hình, báo giấy và truyền thanh. Theo xu hướng, các công ty quảng cáo sẽ hợp tác với các cơ quan truyền thông để sản xuất chương trình là một xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam. Công ty Lasta hợp tác HTV sản xuất Trò chơi truyền hình (gameshow), làm phim truyện, hay Đất Việt hợp tác HTV trò chơi Chung Sức…về Thực tế Việt Nam các kênh HTV và VTV có tốc độ đổi mới chương trình tương đối tốt, hiện nay chỉ trên hai kênh này có hơn 40 chương trình gameshow và sự phân khúc mạnh mẽ công chúng thông qua hình thành các kênh truyền hình chuyên biệt cho thể thao, phim, ca nhạc…và 2 kênh này chiếm gần 80% doanh thu toàn ngành quảng cáo trên truyền hình tại Việt Nam. CHƯƠNG 3 NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI 3.1 Thuận lợi và khó khăn 3.1.1 Thuận lợi 3.1.1.1 Đối với chủ quảng cáo Thuận lợi đầu tiên phải kể đến đó là sự phát triển của các phương tiện truyền thông, Chẳng hạn như, quảng cáo hiện nay vẫn được phát nhiều qua các kênh truyền thống, nhưng với sự phát triển rộng khắp của truyền hình cáp như hiện nay là một điều kiện rất thuận lợi để quảng cáo có thể lan rộng và tiếp xúc với nhiều người hơn. Bởi lẽ truyền hình cáp có thể mang lại cho người xem nhiều kênh hơn, chương trình cũng đa dạng và phong phú hơn trước rất nhiều. Thuận lợi thứ 2 đó là sự phát triển mạnh mẽ của mạng internet là một phương tiện quảng cáo với nhiều ưu thế về giá và tính linh động của nó khi người xem tiếp xúc. Ta có thể đưa quảng cáo video, quảng cáo là các hình ảnh động hay đơn giản chỉ là những parner… thêm nữa qua nhiều số liệu cho thấy số lượng người sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam tính đến hết tháng 6/2010 đã đạt con số 24,6 triệu, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2009; số lượng thuê bao Internet băng rộng tăng 24% so với cùng kỳ năm 2009, tương đương 3.338.012 thuê bao. Đa số sử dụng là giới trẻ và có nhu cầu sử dụng cao và thường xuyên. Thứ ba đó là sự phát triển của công nghệ quảng cáo. Quảng cáo banner truyền thống đã bắt đầu trở nên nhàm chán và kém hiệu quả. Hình thức này đang dần bị thay thế bởi những hình thức mới hiệu quả hơn. Hai động lực chính cho sự tăng trưởng của quảng cáo online sẽ là công cụ tìm kiếm (search) và rich media”. Rich Media tạm gọi là Truyền thông đa phương tiện, là một hình thức quảng cáo tương tác, cho phép dựa trên công nghệ nhúng falsh và Java để kết hợp hình ảnh, âm thanh và truyền tải nội dung qua Internet băng thông rộng. Sự kết hợp đa phương tiện đem đến cho Rich media nhiều dạng sản phẩm quảng cáo phong phú như clip quảng cáo, trò chơi, flash... Rich media với sự hội tụ sức mạnh đa phương tiện chính là giải pháp cho bài toán công nghệ quảng cáo online. Một số nhà cung cấp dịch vụ đã nhìn ra được tiềm năng của Rich Media và có kế hoạch khai thác. Sự đa dạng các loại hình quảng cáo mang đến nhiều sự lựa chọn hơn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tìm ra hình thức quảng cáo phù hợp với ngân sách của doanh nghiệp. Ngoài những kênh truyền thống như tivi, radio, báo in, internet, điện thoại, quảng cáo ngoài trời. Ngoài ra quảng cáo còn xuất hiện trên các tờ vé, trên các phương tiện giao thông.. và nhiều loại hình khác mà ta có thẻ tận dụng để quảng cáo 3.1.1.2 Đối với công ty quảng cáo Thị trường quảng cáo Việt nam luôn có tốc độ tăng trưởng cao qua từng năm, ở mức 30 - 35%/ năm, sự tăng trưởng của ngành quảng cáo ngành công nghiệp không khói, và là hoạt động bổ trợ có hiệu quả cho nhiều hoạt động kinh tế khác nên được chú trọng và đầu tư nhiều. Việt Nam hiện đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu tại châu Á, kéo theo đó là nhiền lĩnh vực, ngành hàng sẽ phát triển mạnh hơn, nhanh hơn. Nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam chắc chắn sẽ kéo theo sự phát triển của ngành quảng cáo. Là một ngành kinh tế tri thức và đóng góp rất lớn trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu không chỉ của các sản phẩm, mà còn cả thương hiệu quốc gia. Do đó nhu cầu quảng cáo của các doanh nghiệp cũng gia tăng theo tạo ra thị trường rộng mở ngành quảng cáo trong tương lai. Việt Nam gia nhập WTO, mở ra cơ hội hợp tác với nhiều quốc gia, tạo điều kiện giao lưu học hỏi kinh nghiệm làm quảng cáo tiên tiến của thế giới. 3.1.2 Khó khăn 3.1.2.1 Đối với chủ quảng cáo Chi quá nhiều cho quảng cáo, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Hiện nay, ít có doanh nghiệp nào lại không dành một phần lớn ngân sách cho quảng cáo. Để xây dựng một thương hiệu mạnh trong ý thức của người tiêu dùng, cơ bản nhất là phải biết quảng cáo - đó dường như là công thức kinh doanh trên thương trường ngày nay. Song về hiệu quả đích thực của nó lại hầu như rất ít được nhắc tới. Bất lợi tiếp theo là để có thương hiệu thì không thể nào không có quảng cáo Lật giở các trang báo, bật tivi, mở đài, bất cứ lúc nào bạn đều có thể được thấy, nghe, xem một quảng cáo cho một sản phẩm nào đó. Quảng cáo ngày một nhiều, đa dạng về chủng loại và hình thức, làm thông tin dễ bị nhiễu. Quảng cáo cung cấp cho người tiêu dùng các thông tin cần thiết, nhiều loại sản phẩm để chọn lựa. Song quảng cáo tràn lan và xô bồ, quảng cáo dồn dập theo kiểu khiến người tiêu dùng phải ăn với với quảng cáo, ngủ với quảng cáo cũng lại làm khách hàng bị bội thực quảng cáo, làm nhiễu loạn thị trường. Môi trường kinh doanh ngày càng trở nên gây cấn và phức tạp, sản phẩm càng trở nên đa dạng và tiện dụng hơn, chính vì vậy việc quảng cáo cho sản phẩm để sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường càng trở nên khó khăn và đòi hỏi nhiều yêu cầu hơn. Cuối cùng cần phải xem xét là chất lượng là quảng cáo hiện nay. Bởi lẽ các quảng cáo thường phóng đại hóa chất lượng sản phẩm. Đôi khi các nhà sản xuất không ý thức được rằng quảng cáo có hiệu quả nhất là chẳng hề quảng cáo gì cả. 3.1.2.2 Đối với công ty quảng cáo Khoảng 80-90% các thiết bị dùng trong ngành quảng cáo của Việt Nam hiện nay phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhiều nhất là từ Trung Quốc. Máy móc, trang thiết bị và công nghệ quảng cáo chủ yếu dựa vào nhập khẩu, từ các phương tiện đơn giản đến các loại máy móc kỹ thuật cao. Ngoài các thiết bị phải nhập khẩu, ngành quảng cáo Việt Nam còn bị hạn chế về trình độ và vốn. Những ý tưởng sáng tạo và dịch vụ ngành quảng cáo Việt Nam cũng còn thua kém khá xa các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy mà khoảng 80% doanh thu của ngành quảng cáo đã về tay các tập đoàn đa quốc gia bởi họ có những ý tưởng quảng cáo vượt bậc hơn so với các công ty Việt Nam. Những tập đoàn lớn của nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường kéo theo một công ty quảng cáo có quan hệ lâu năm với mình. Điển hình như trường hợp giữa Coca Cola và Mc Cain, Unilever và J.W.Thompson, Honda và Dentsu, Heineken và Bates Khoảng cách về trình độ chuyên môn đã khó vượt qua lại còn thêm sự hợp tác, liên kết giữa những tập đoàn sản xuất lớn với các công ty quảng cáo toàn cầu càng khiến cho các công ty Việt Nam chỉ còn biết đứng xa mà nhìn. Trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước đang là một hạn chế không nhỏ. Ở Việt Nam chưa có trường lớp nào đào tạo chính quy về chuyên ngành này. Bản thân các công ty khi nhận người đều phải đào tạo lại từ đầu nên phát triển nhân sự rất chậm. Cũng vì hạn chế về chuyên môn, nhiều đơn vị chỉ dám nhận làm từng phần, và chỉ mang tính chất gia công nhiều hơn. Rất nhiều công ty tự gọi là quảng cáo nhưng thực chất họ chỉ đang gia công quảng cáo. Giai đoạn quan trọng trước đó là nghiên cứu và xây dựng, sáng tác ra lôgô của các thương hiệu thì không mấy người tham gia. Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đang trở thành một vấn đề bức xúc của các công ty làm quảng cáo. Mức thuế áp dụng với các doanh nghiệp trong lĩnh vực này hiện rất cao (28%), nó được duy trì từ những năm 90 của thế kỷ trước, khi quảng cáo còn là ngành kinh doanh siêu lợi nhuận. Trong khi đó, tiền thuê đất, thuê chỗ quảng cáo chỉ vài triệu đồng mỗi năm. Hiện nay, một biển tấm lớn cũng chỉ ký được một hai chục nghìn USD mà tiền thuê đất đã chiếm gần hết. Vậy mà chính sách thuế vẫn không hề thay đổi. Thuế cao, cạnh tranh gay gắt, lợi nhuận ít đi dẫn đến tái đầu tư kém hơn. Muốn khuyến khích quảng cáo phát triển thành một ngành công nghiệp quan trọng thì đào tạo phải tốt, chính sách đúng. Ở tầm vĩ mô, ngành quảng cáo luôn bị những khống chế về mặt chính sách, dù đã có pháp lệnh và những nghị định hướng dẫn riêng nhưng các doanh nghiệp trong ngành luôn bị làm khó dễ bởi những quy định riêng của mối địa phương. Nếu như TP HCM có quy định cấm quảng cáo ngoài trời thì ở Đà Nẵng lại phân biệt mức phí trên không với mức phí dưới nước. Còn ở Hà Nội, các thủ tục làm giấy phép quảng cáo đôi khi khó quá. Vì vậy, mới có chuyện các nhà quảng cáo phải tồn tại bằng cách dựng biển không phép. Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, áp lực cạnh tranh vốn đã rất lớn hiện nay sẽ còn tăng cao bởi lẽ sẽ có thêm nhiều công ty quảng cáo nước ngoài khác tham gia thị trường. Vị thế của các công ty quảng cáo trong nước sẽ càng thấp. Do ngành quảng cáo mới phát triển tại Việt Nam nên đạo đức nghề nghiệp cũng chưa thực sự được đề cao. Chuyện ăn cắp ý tưởng xảy ra như thường xuyên. 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp ở Việt Nam trong những năm tới. 3.2.1 Đối với chủ quảng cáo Trong hoạt động quảng cáo, để tránh sự quá tải quảng cáo như hiện nay, các doanh nghiệp nên có một chiến lược quảng cáo mang tính chất tập trung và chọn lọc đối tượng, để giảm sự khó chịu của người tiêu dùng về hoạt động quảng cáo tràng lan như hiện nay. Tuy quảng cáo là hoạt động không thể thiếu trong việc quảng bá sản phẩm, nhưng chất lượng sản phẩm lại đóng vài trò tạo dựng hình ảnh trong tâm chí khách hàng nhiều hơn. Chính vì vậy thay vì quảng cáo ồn ạo, ta nên chú trọng đến việc nghiên cứu sản phẩm nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu khách hàng nhiều hơn. Những tín hiệu tốt đẹp về một sản phẩm tốt đẹp bắt nguồn từ sự chú trọng những nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Có trách nhiệm với sản phẩm của mình tới cùng, đó chính là sự quảng cáo tốt nhất cho thương hiệu. Quảng cáo đúng cách, quảng cáo nghệ thuật, quảng cáo mạnh là chiến lược không thể thiếu để đầu tư xây dựng một thương hiệu mạnh. Song quảng cáo thì không nên tách rời chất lượng, vứt bỏ các giá trị đạo đức - khi đó quảng cáo sẽ là độc tố không chỉ giết chết thương hiệu, mà còn di hại tới bao người. Một nền kinh tế lành mạnh là một nền kinh tế, hiệu quả, năng động... điều đó ít nhiều được thể hiện chính từ chất lượng quảng cáo... Cần có kế hoạch chi tiêu ngân sách phù hợp sao cho mỗi đồng cần phải được chi tiêu cẩn trọng hơn, và thông qua quy trình lên kế hoạch truyền thông tối ưu hóa hơn so với trước. Các công ty truyền thông cần phải tiếp tục hoạt động nỗ lực và hiệu quả hơn. Tối ưu hóa các kế hoạch truyền thông  là vô cùng quan trọng để đạt mục tiêu này. 3.2.2 Đối với công ty quảng cáo Tăng cường hợp tác với đối tác nước ngoài, để có thể học hỏi kinh nghiệm, trình độ quảng cáo của họ. Với trình độ và nguồn ngân sách hạn chế của các công ty quảng cáo Việt, thì việc hợp tác với nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Đồng thời việc hợp tác cũng phải chú ý đến vị thế của doanh nghiệp Việt trên thị trường để tránh tình trạng thua thiệt ngay trên sân nhà như hiện nay. Xây dựng ngay giải pháp đào tạo thông qua một chuyên ngành chính thống ở một trường đại học, hay có thể thành lập trường chuyên ngành riêng như ở Mỹ, Anh, Hong Kong, Nhật, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan hay Singapore. Thật vậy, ngành quảng cáo đòi hỏi đào tạo rất đặc thù, và dựa vào kinh nghiệm các nước chúng ta có thể xây dựng một chương trình đào tạo, và điều quan trọng là ngành quảng cáo có tính “địa phương” rất cao, và kinh nghiệm các nước cho thấy rồi người địa phương mới trở thành chuyên gia quảng cáo thật sự của địa phương đó. Vì vậy, đào tạo người Việt trở thành chuyên gia quảng cáo là điều không sớm thì muộn cũng trở thành tất yếu. Triển lãm chuyên ngành quảng cáo là cơ hội cho các doanh nghiệp trong ngành gặp gỡ giao lưu, tham khảo sản phẩm dịch vụ và công nghệ mới, đồng thời cũng là nơi mà các doanh nghiệp khách hàng trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ có thể tìm kiếm các công ty cung cấp dịch vụ quảng cáo hoặc cơ hội phục vụ cho chiến lược marketing của mình. Thực hiện chiến lược hội nhập dọc với các doanh nghiệp đầu vào và đầu ra để nâng cao tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn hạn chế. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng qua các năm gần đây, hoạt động kinh tế cũng trở nên sôi động và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng trở nên gay gắt. Để có cạnh tranh và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp đã đầu tư rất nhiều cho hoạt động quảng cáo. Hằng năm, tổng ngân sách trung bình chi cho quảng cáo là hàng trăm triệu USD cho nhiều hoạt động quảng cáo khác nhau, từ quảng cáo truyền hình, báo in cho đến internet.. Trong đó, quảng cáo trên truyền hình luôn được đầu tư mạnh mẽ hơn 70% ngân sách mỗi năm. Nội dung và hình thức quảng cáo ngày càng đa dạng và đặc sắc, thu hút người xem nhiều hơn. Nhưng bên cạnh đó nó vẫn tồn tại một số bất cật như sự quá tải đã làm các quảng cáo bị nhiễu thông tin. Thị trường quảng cáo trong nước cũng có tốc độ tăng trưởng mạnh, doanh thu ngành luôn tăng qua các năm, đây cũng là một dấu hiệu khả quang cho ngành quảng cáo Việt Nam. Nhưng trong ngành quảng cáo, các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% thị phần, đa số là thực hiện các công đoạn gia công quảng cáo, trình độ chuyên môn còn thấp…Qua thực trạng này các tổ chức, ban ngành đoàn thể cần có những biện pháp để đưa hoạt động quảng cáo của Việt Nam đi lên, tiến theo sự phát triển của quảng cáo thế giới. 2.Kiến nghị 2.1 Đối với doanh nghiệp Thị trường quảng cáo là một thị trường hấn dẫn và đầy tìm năng phát triển, hiện nay hầu hết các công ty từ công ty tư nhân cho đến những công ty cổ phần hay những tập đoàn lớn họ đều chú trọng đến hoạt động quảng cáo cho công ty. Tùy vào khả năng của mỗi công ty mà mức chi cho ngân sách quảng cáo là khác nhau. Hơn nữa ngành quảng cáo của Việt Nam đang tăng trưởng mạnh với doanh thu gần 1 tỷ USD, nhưng các doanh nghiệp trong nước chỉ nắm có 20% thị phần, phần còn lại chủ yếu do công ty nước ngoài nắm giữ. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam thiếu nguồn nhân lực có trình độ và vốn. Chính vì vậy các doanh nghiệp trong ngành quảng cáo nên có kế hoạch đầu tư hơn nữa cho nâng cao trình độ quảng cáo của doanh nghiệp, quan tâm đến việc đầu tư công nghệ phục vụ cho ngành quảng cáo, mở rộng hoạt động thêm nữa vào lĩnh vực nghiên cứu và thiết kế quảng cáo, tạo thế đứng cho doanh nghiệp của mình trong ngành, có như thế ngành quảng cáo nước nhà mới có cơ hội phát triển. 2.2 Đối với hiệp hội quảng cáo Việt Nam Quảng cáo là ngành đòi hỏi đầu tư chí tuệ nhiều, thu hút nhiều nguồn lao động. Chính vì vậy nó cần Hiệp hội ra mắt sẽ là người bảo vệ quyền lợi cho các hội viên, đại diện cho các nhà kinh doanh quảng cáo, là cầu nối với Chính phủ và các cơ quan quản lý để làm sao cho ngành quảng cáo được mở rộng và phát triển. Hiệp Hội Quảng Cáo Việt Nam nên hội nhập với khu vực Châu Á và Thế giới, thông qua các tổ chức này, sự chuyển giao kinh nghiệm, cách thức quản lý, nguồn nhân lực, công nghệ …sẽ làm cho ngành quảng cáo Việt Nam nhanh chóng phát triển về chất. khi đó ta có thể học hỏi quảng cáo hay của khu vực châu Á, chuyên gia tham dự và chia sẻ những kinh nghiệm thành công. Sự kiện như vậy rất cần có ở Việt Nam, và chỉ có Hiệp Hội Quảng Cáo mới có thể tổ chức được vì họ có đủ chức năng tranh thủ sự ủng hộ của nhà nước và doanh nghiệp trong ngành. Hiệp hội cần huy động các nguồn lực xã hội xây dựng chương trình học bổng ở nước ngoài cho các tài năng trẻ, họ sẽ là nguồn lực hạt nhân cho quá trình phát triển ngành quảng cáo tại Việt Nam góp phần xây dựng được một đội ngũ nhân lực ngành quảng cáo có đẵng cấp quốc tế, vươn lên trở thành một quốc gia có trình độ cao trong thiết kế mỹ thuật công nghiệp, sáng tạo, và quảng cáo . Ngoài ra, đứng vai trò là tổ chức đầu ngành, hiệp hội nên thúc đẩy sự đầu tư của các doanh nghiệp cho ngành quảng cáo, một ngành kinh tế tri thức và đóng góp rất lớn trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu không chỉ của các sản phẩm, mà còn cả thương hiệu quốc gia. Hàng năm ngành này còn thu nhận và giải quyết rất nhiều việc làm cho xã hội, vì vậy một giải pháp phát triển toàn diện cho ngành này là cần thiết. Một mặc là giúp chính phủ có thể quản lý ngành này hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế giới, mặc khác giúp cho ngành này có được sự đầu tư và phát triển phù hợp với nhu cầu quảng bá và xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp, trong bối cảnh cạnh tranh và quảng cáo như là một công cụ tất yếu.  Đối với nhà nước Với những lợi thế và khó khăn đang tồn tại hiện nay, ngành quảng cáo cần có những giải pháp cụ thể để ngành có thể phát triển bền vững, và những chính sách từ các cơ quan nhà nước là sự hổ trợ đắt lực cho việc thực hiện những giải pháp này. Các công ty quảng cáo đang bị chèn ép từ nhiều công ty nước ngoài ngay tại thị trường nhà, họ hơn về về doanh sô về trình độ và kĩ thuật. Vì vậy các cơ quan ban ngành cần có chính sách đầu tư và qui hoạch rõ ràng để có thể gia tăng năng lực cạnh tranh cho ngành quảng cáo trong nước, các nhà hoạch định chính sách cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất, tính chuyên nghiệp cũng như đóng góp của quảng cáo đối với kinh tế để đưa ra những quyết định sát thực hơn. Có những chính hổ trợ, bảo hộ ngành quảng cáo, chính sách thu hút nguồn nhân lực để đáp ứng cho tình trạng thiếu hụt nhân lực trong ngành. Miễn giảm thuế để các doanh nghiêp có cơ hội đầu tư vào ngành nhiều hơn. Thúc đẩy hơn nữa vai trò của hiệp hội quảng cáo cấp quốc gia (Hiệp Hội Quảng Cáo VIệt Nam) và các hiệp hội quảng cáo địa phương nơi có nền kinh tế diễn ra sôi động. Nhà nước cần có những chính sách luật quảng cáo để chi phối toàn ngành, và luật quảng cáo liên quan luật báo chí, luật xuất bản, thương mại, doanh nghiệp, luật sở hữu trí tuệ, công ước quốc tế..để khắc phục tình trạng ăn cấp bản quyền quảng cáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Trọng và Hoàng Thị Phương Thảo (2007). Quản trị chiêu thị, Nxb Thống kê Phi Vân (2007). Quảng cáo ở Việt Nam, Nxb. Trẻ Trần Xuân Thành(2003). “Quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam: Thực trạng và triển vọng” Bài khoá luận tốt nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphan_tich_hoat_dong_quang_cao_cua_cac_doanh_nghiep_viet_nam_8684.doc