Phân tích năng lực tài chính có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty có phân tích năng lực tài chính thì mới đánh giá đúng tình hình tài chính và khả năng huy động vốn của mình từ đó đưa ra các phương hướng giải pháp phù hợp.
Qua phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 cho thấy: năng lực tài chính của công ty là chưa cao nhưng rất khả quan và có xu hướng tăng lên.
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, chúng tôi có kiến nghị sau:
77 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều giữa các năm: năm 2005 nợ phải trả chếm 87.24% trong tổng nguồn vốn, năm 2006 tỷ lệ này tăng lên là 89.6% và năm 2007 tỷ lệ nợ phải trả lại giảm xuống là 80.67% trong tổng nguồn vốn.
+ Nợ ngắn hạn của công ty có sự giảm đi qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với nợ dài hạn, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nợ phải trả. Năm 2005 nợ ngắn hạn là 192.78 tỷ đồng chiếm 76.62% tổng nợ phải trả, năm 2006 nợ ngắn hạn là 243.807 tỷ đồng chiếm 75.46% tổng nợ phải trả và năm 2007 nợ ngắn hạn là 186.239 tỷ đồng chiếm 69.36% tổng nợ phải trả. Đây là việc tốt trong việc nâng cao năng lực tài chính của công ty.
+ Nợ dài hạn thì ngược lại với nợ ngắn hạn, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ phải trả và đàn có xu hướng tăng lên qua các năm, góp phần làm tăng khả năng kinh doanh của công ty và có ý nghĩa lớn đối với kế hoạch phát triển dài hạn của công ty.
Đối với vốn chủ sỡ hữu thì năm nào tỷ trọng nợ phải trả tăng lên thì tỷ trọng vốn chủ sỡ hữu giảm xuống và ngược lại: năm 2005 vốn chủ sỡ hữu là 36.810 tỷ đồng chiếm 12.76% tổng nguồn vốn, năm 2006 vốn chủ sỡ hữu là 37.5 tỷ đồng chiếm 10.4% và năm 2007 vốn chủ sỡ hữu là 64.345 tỷ đồng chiếm 19.33% tổng nguồn vốn. Như vậy, tỷ trọng của vốn chủ sỡ hữu ngày càng tăng chứng tỏ tình hình tài chính ngày càng tốt hơn và góp phần giúp cho quá trình mở rộng quy mô kinh doanh.
Qua phân tích ta thấy tỷ lệ nợ phải trả chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn vốn mặc dù sự tăng lên giữa số nợ phải trả và nguồn vốn đã khá hợp lý vì nợ phải trả có xu hướng giảm xuống và vốn chủ sở hữu tăng lên nhưng vẫn phải làm so cho tỷ lệ giữa nợ ngắn hạn và vốn chủ sỡ hữu so với tổng vốn hợp lý hơn nữa.
Khác với phân tích tình hình tài sản, khi xem xét đến cơ cấu nguồn vốn phải lưu ý đến tỷ suất tự tài trợ để khẳng định tình hình tài chính của công ty có khả năng độc lập cao hay phụ thuộc vào các đơn vị bên ngoài. Ta có thể tính tỷ suất tự tài trợ theo công thức:
Tỷ suất tự tài trợ = Vốn chủ sỡ hữu / Tổng nguồn vốn
Tỷ suất nợ = 100% - tỷ suất tự tài trợ
Bảng 8: Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng độc lập tài chính của công ty
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng nguồn vốn (đồng)
288,428,619,504
360,578,481,257
332,860,832,094
Vốn chủ sỡ hữu (đồng)
36,810,028,308
37,499,800,156
64,344,717,969
Tỷ suất tự tài trợ (%)
12.76
10.4
19.33
Tỷ suất nợ (%)
87.24
89.6
80.67
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Qua bảng ta thấy: tỷ suất tự tài trợ của công ty qua các năm là không cao lắm, tuy nhiên đã có sự tăng lên qua 3 năm: năm 2005 là 12.46% nghĩa là 100 đồng tổng nguồn vốn có 12.76 đồng vốn chủ sỡ hữu, năm 2007 tăng lên 19.33% hay 100 đồng tổng nguồn vốn năm 2007 có 19.33 đồng vốn chủ sỡ hữu. Ngược lại, hệ số nợ lại có xu hướng giảm đi chứng tỏ khả năng độc lập tài chính của công ty là khá cao.
Qua quá trình phân tích khái quát tình công ty ta có thể tóm lại như sau:
Nợ phải trả chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng nguồn vốn do vậy công ty cần có phương hướng và kế hoạch thanh toán các khoản nợ để tránh ảnh hưởng xấu đến năng lực tài chính của công ty.
Như vậy, nếu xét trên khía cạnh huy động vốn tại thời điểm hiện tại cho thấy khả năng huy động các nguồn vốn ngắn hạn của công ty là khá cao, để vay được các nguồn vốn ngắn hạn này chứng tỏ là năng lực tài chính khả quan. Nhưng để tồn tại và phát triển lâu dài, công ty không nên vay quá nhiều và cần nhanh chóng triển khai các dự án đầu tư chiều sâu để có thể vay dài hạn vì trong thời gian dài nó đóng vai trò như vốn chủ sỡ hữu. Bên cạnh đó công ty cần nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh để bổ sung thêm vốn chủ sỡ hữu, có như vậy mới làm cho cơ cấu nguồn vốn của công ty hợp lý hơn, đảm bảo được khả năng thanh toán khi các khoản nợ đến hạn, nâng cao được khả năng huy động vốn cũng như năng lực tài chính của công ty ổn định và lâu dài.
4.2. Phân tích khả năng huy động vốn trên thị trường của công ty:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể thiếu được việc huy động vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc huy động vốn đến đâu là tùy thuộc vào năng lực của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có khả năng thanh toán nhanh, sử dụng đồng vốn có hiệu quả thì khả năng huy động vốn là cao nhưng nếu doanh nghiệp không có năng lực thì khả năng huy động vốn sẽ giảm, thậm chí không huy động được vốn. Do vậy để đánh giá năng lực tài chính của công ty chúng ta tiến hành phân tích khả năng huy động vốn của công ty trên thị trường. Và trước tiên là tiến hành phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây, qua đó chúng ta sẽ thấy được công ty kinh doanh lãi hay lỗ, có ảnh hưởng như thế nào đến khả năng huy động vốn cũng như năng lực tài chính của công ty.
4.2.1. Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty:
4.2.1.1. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm qua:
Kết quả sản xuất kinh doanh là kết quả cuối cùng của một thời kỳ, nó liên quan trực tiếp đến năng lực tài chính của doanh nghiệp, có ý nghĩa rất lớn với hoạt động của doanh nghiệp. Nó không chỉ thể hiện việc đảm bảo trang trải các chi phí, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước mà nó còn là chỉ tiêu phản ánh chính xác hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng huy động được vốn trên thị trường khi cần hoặc phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Ngược lại, nếu doanh nghiệp hoạt động không có lãi thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn cũng như khó khăn về tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giúp chúng ta biết được công ty kinh doanh lỗ hay lãi, chính vì vậy mà các nhà đầu tư, đối tác, ngân hàng…thường căn cứ vào việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh danh để đưa ra quyết định. Do đó muốn biết năng lực tài chính của doanh nghiệp đó như thế nào chúng ta cần phải phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong một số năm gần đây thông qua số liệu trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty (bảng 9):
Qua bảng ta thấy:
Doanh thu thuần có sự tăng giảm không đều, cụ thể: doanh thu thuần năm 2006 so với năm 2005 giảm 13.606 tỷ đồng tương ứng với 5.19% nhưng năm 2007 lại tăng so với năm 2006 là 22.459 tỷ đồng tương ứng với 9.03%. Năm 2007 tăng so với năm 2006 là do một số công trình đã hoàn thành và số lượng hợp dồng mà công ty trúng thầu ngày càng nhiều do công ty đã và đang đạt được mục tiêu là nâng cao chất lượng và số lượng công trình nhằm mở rộng quy mô kinh doanh, làm cho uy tín và vị thế của công ty trên thương trường ngày càng cao.
Giá vốn hàng bán cũng như doanh thu thuần, năm 2006 cũng giảm xuống so với năm 2005 là 17.497 tỷ đồng ương ứng với 7.28% và năm 2007 tăng lên so với năm 2006 là 24.168 tỷ đồng tương ứng với 10.84%. Điều này chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng giảm không đều, chủ yếu là chi phí về nguyên vật liệu cho công trình và các chi phí khác có liên quan. Việc này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với từng thời kỳ kinh doanh của công ty.
Lợi nhuận gộp thì lại tăng giảm đi ngược lại với sự tăng giảm của doanh thu thuần và giá vốn hàng bán, tức là lợi nhuận gộp năm 2006 tăng so với năm 2005 là 3.891 tỷ đồng tương ứng với 17.92% và năm 2007 lại giảm so với năm 2006 là 1.709 tỷ đồng tương ứng với 6.68%. Mặc dù doanh thu thuần và giá vốn năm 2006 so với năm 2005 đều giảm nhưng tốc độ giảm giá vốn lớn hơn tốc đọ giảm doanh thu nên lợi nhuận gộp tăng lên và năm 2007 so với năm 2006 lại đều tăng nhưng do tốc độ tăng giá vốn lớn hơn tốc độ tăng doanh thu thuần nên lợi nhuận gộp giảm đi.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý đều tăng lên qua 3 năm, cụ thể: năm 2006 chi phí này tăng 2.366 tỷ đồng tương ứng với 29.69% so với năm 2005 và năm 2007 chi phí này tăng 1.524 tỷ đồng tương ứng với 14.75% so với năm 2006. Qua đây cho thấy công tác quản lý, sử dụng chi phí chưa được tiết kiệm. Chi phí bán hàng tăng lên chủ yếu là do chi phí vận chuyển còn chi phí quản lý tăng lên chủ yếu do chi phí về đồ dùng văn phòng, vật liệu quản lý và chi phí các dịch vụ mua ngoài. Ngoài ra chi phí khấu hao tài sản cố định, trả lãi tiền vay cũng tăng nên công ty cần lưu ý xem xét để kinh doanh có hiệu quả hơn nữa.
Hoạt động trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh đòi hỏi công ty hoạt động phải có hiệu quả phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận đạt được, cụ thể là lợi nhuận trước và sau thuế. Qua bảng ta thấy lợi nhuận trước thuế và sau thuế của công ty tăng mạnh. Đây là biểu hiện khả quan có lợi cho công ty thể hiện sự vững vàng trong kinh doanh của công ty.
Tổng lợi nhuận trước thuế là tổng của lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác. Để thấy được tác động của mỗi hoạt động này đến kết quả chung ta tiến hành phân tích tổng lợi nhuận kế toán trước thuế trong mối quan hệ với các hoạt động đó. Năm 2006 lợi nhuận trước thuế tăng 2.345 tỷ đồng tương ứng với 45.8% so với năm 2005 và năm 2007 tăng mạnh hơn là 20.335 tỷ đồng tương ứng với 272.54%.Có được điều này là ảnh hưởng của:
+ Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: đây là nguồn lợi nhuận chính mang lại. Lợi nhuận này tăng mạnh qua 3 năm, năm 2006 tăng 19.4% so với năm 2005, năm 2007 tăng 282.66% so với năm 2006. Tốc độ tăng tăng nhanh hơn qua các năm, đây là điều rất tốt mà công ty cần ngày càng phát huy.
+ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: đây là những hoạt động liên quan đến việc kinh doanh vốn. Qua 3 năm hoạt động tài chính của công ty không ổn định, từ việc lợi nhuận của năm 2005 và 2006 đều âm thì năm 2007 lại có sự đột biến, không những không âm mà còn tăng rất nhiều. Điều này chứng tỏ công ty rất có nhiều tiềm năng tiềm ẩn.
+ Lợi nhuận khác: là những hoạt động phát sinh không theo kế hoạch trong năm hay còn gọi là hoạt động bất thường, chính vì vậy mà lợi nhuận khác tăng giảm tăng giảm không theo quy luật nào cả, năm 2006 tăng so với năm 2005 nhưng năm 2007 lại giảm so với năm 2006.
Qua phân tích ta thấy lợi nhuận của công ty qua các năm đều tăng và tăng ngày càng nhanh chứng tỏ sự cố gắng phấn đấu không ngừng vươn lên của công ty kinh doanh ngày càng có hiệu quả. Đây là điều kiện thuận lợi giúp công ty có thể huy động được vốn trên thị tường khi cần, thể hiện năng lực tài chính của công ty.
4.2.1.2. Phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh:
Để có kết luận một cách chính xác hơn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thì không chỉ so sánh đơn giản các chỉ tiêu qua bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn thấy hết được nguyên nhân làm tăng giảm lợi nhuận của công ty qua các năm…ta phải phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Dựa vào bảng 9 ta lập bảng 10 phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Bảng 10: Một số chỉ tiêu thể hiện hiệu quả kinh doanh của công ty
Chỉ tiêu
Năm
So sánh(%)
2005
2006
2007
2006/2005
2007/2006
1. Tỷ lệ LN trước thuế/DTT
1.95
3
10.25
153.85
341.67
2. Tỷ lệ LN gộp/DTT
8.28
10.3
8.82
124.40
85.63
3. Tỷ lệ GV/ DTT
91.72
89.7
91.18
97.80
101.65
4. Tỷ lệ CPBH và CPQL/DTT
3.04
4.16
4.37
136.84
105.05
5. Tỷ lệ LN sau thuế/DTT
1.24
2.25
10.25
181.45
455.56
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Qua bảng ta thấy:
Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế/ doanh thu tăng nhanh qua 3 năm chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty đang ngày càng có xu hướng tăng lên.
Tỷ lệ giá vốn/ doanh thu thuần: chỉ tiêu này càng thấp thì công ty càng có lợi, nó làm cho lợi nhuận của công ty ngày càng cao. Nhìn chung qua các năm, tỷ lệ này có sự biến động không đáng kể. Cụ thể: năm 2006 tỷ lệ này giảm xuống 2.2% so với năm 2005 và năm 2007 lại tăng lên 1.65% so với năm 2006. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt vì nó càng thấp chứng tỏ lợi nhuận của công ty ngày càng cao. Qua phân tích cho thấy, tuy tỷ lệ giá vốn / doanh thu thuần không có sự biến động đáng kể song lại chiếm tỷ lệ quá lớn, điều này làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của công ty, do vậy công ty cần phải có biện pháp khắc phục nhằm giảm bớt chi phí đầu vào để tỷ lệ này thấp hơn nữa và giảm dần đi.
Tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý so với doanh thu thuần chiếm tỷ lệ không lớn nhưng qua 3 năm đều tăng, năm 2006 so với năm 2005 tăng 36.84% và năm 2007 so với năm 2006 tăng 5.05%. Điều này chứng tỏ công ty làm chưa được tốt trong công tác quản lý và tiêu thụ sản phẩm, trong các kỳ tiếp theo công ty cần cố gắng hơn nữa để giảm bớt phần chi phí phát sinh. Thông thường, chỉ tiêu này càng nhỏ càng có lợi cho doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế so với doanh thu thuần là chỉ tiêu phản ánh số lợi nhuận còn lại của công ty sau khi đã nộp thuế cho Nhà nước chiếm trong tổng giá trị doanh thu thuần đạt được trong kỳ. Tỷ lệ này có xu hướng tăng nhanh lên qua các năm, cụ thể, năm 2006 tăng 81.45% so với năm 2005, năm 2007 tăng 355.56% so với năm 2006. Điều này là rất tốt chứng tỏ công ty ngày càng làm ăn có hiệu quả hơn và công ty cần phải giữ được xu hướng này trong tương lai để dễ dàng huy động vốn đầu tư từ các đối tác.
Qua phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty khá cao và có xu hướng tăng lên, qua đây phần nào đánh giá được năng lực tài chính của công ty là khá tốt. Nhưng không được bằng lòng với kết quả này mà luôn phải cố gắng hơn nữa, ví dụ như giảm các chi phí đầu vào…
4.2.2. Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của công ty:
Phân tích năng lực tài chính chúng ta không thể không phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì khả năng thanh toán của doanh nghiệp là thước đo khả năng có thể trả nợ trong niên hạn của doanh nghiệp, nó nói lên khả năng trang trải của doanh nghiệp về tài chính. Để nghiên cứu khả năng thanh toán của công ty, trước hết chúng ta phải tìm hiểu tình hình thanh toán của công ty nhằm mục đích biết được công ty có khả năng thanh toán đúng hạn hay không, công ty có nợ quá hạn hay không…Do vậy, việc phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán sẽ là căn cứ quan trọng không chỉ thể hiện khả năng trang trải của công ty mà còn ảnh hưởng đến khả năng huy dộng vốn của công ty. Nếu công ty có khả năng thanh toán tốt sẽ làm cho khả năng huy động vốn được nhiều hơn dẫn tới năng lực tài chính của công ty cao hơn và ngược lại.
4.2.2.1. Phân tích tình hình than toán của công ty:
Để hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi, ngoài nguồn vốn doanh nghiệp sẵn có, doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn của các đơn vị khác. Việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp thậm chí còn được coi là một sách lược kinh doanh hữu hiệu của các doanh nghiệp ít vốn. Do đó vấn đề thanh toán có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều. Bởi vậy, việc phân tích tình hình thanh toán để tìm ra nguyên nhân của việc trì trệ trong thanh toán nhằm hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn cũng như làm chủ về tài chính có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích hình hình thanh toán của công ty ta có thể xác định rõ bản chất cũng như thời gian cho phép của các khoản nợ, khoản thu. Từ đó có biện pháp điều hành một cách hợp lý và đảm bảo uy tín trong thanh toán, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn gây nên những khó khăn về tài chính làm mất uy tín của công ty dẫn tới ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và năng lực tài chính của công ty
Công ty cổ phần Sông Đà 2 là một công ty xây dựng, chính do đặc điểm của ngành nghề kinh doanh nên công tác thanh toán diễn ra rất thường xuyên và với số lượng lớn. Vì vậy, tình hình thanh toán rất quan trọng đối với công ty nhất là trong việc đánh giá tính lành mạnh về tài chính của mình. Dựa vào số liệu trong báo cáo tài chính ta tiến hành lập bảng 11:
Qua bảng ta thấy:
Về nợ phải thu: tăng giảm không đều giữa các năm, năm 2005 là 97.6 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 111.117 tỷ đồng và đến năm 2007 lại giảm mạnh xuống còn 70.274 tỷ đồng. Trong các khoản nợ phải thu thì các khoản phải thu ngắn hạn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nợ phải thu: năm 2005 nợ phải thu ngắn hạn chiếm 91.03% trong tổng nợ phải thu, năm 2006 chiếm 93.95% tổng nợ phải thu và năm 2007 thì toàn bộ nợ phải thu là nợ ngắn hạn. Trong đó:
+ Khoản phải thu khách hàng càng ngày càng có xu hướng giảm cả về giá trị lẫn cơ cấu. Năm 2006 cơ cấu nợ phải thu khách hàng giảm 3.39% so với năm 2005, năm 2007 cơ cấu nợ phải thu khách hàng giảm 0.86% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ công ty đi chiếm dụng vốn của các đơn vị khác ngày càng nhiều hơn, nhất là các khách hàng của công ty.
+ Các khoản trả trước cho người bán cũng giảm đi cả về cơ cấu và giá trị: năm 2005 khoản trả trước cho người bán là 4.561 tỷ đồng chiếm 5.13% trong các khoản phải thu ngắn hạn, năm 2006 là 3.061 tỷ đồng chiếm 2.93% tổng nợ ngắn hạn và năm 2007 là 801.665 triệu đồng chiếm 1.14% tổng nợ ngắn hạn. Điều này chứng tỏ sự cố gắng của công ty trong công tác thu mua, cung ứng vật tư vì lượng thu mua hàng dự trữ vẫn tăng lên.
+ Các khoản phải thu khác cũng chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng nợ ngắn hạn và tăng lên qua các năm, cụ thể là qua 3 năm 2005,2006 và 2007 chiếm tỷ trọng tương ứng so với tổng nợ ngắn hạn là: 39.72%, 43.9%, 47.15%. Phần này công ty đã có kế hoạch thu trong thời gian tới.
+ Trong khi không có các khoản phải thu nội bộ trong các khoản phải thu ngắn hạn thì đối với cá khoản phải thu dài hạn, phải thu nội bộ lại chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu: năm 2005 phải thu nội bộ chiếm 99.95%, năm 2006 là 99.54% trong tổng nợ phải thu dài hạn. Các khoản phải thu nội bộ lớn là do công ty đã cho các công ty con vay tiền để tăng khả năng sản xuất kinh doanh của các công ty con.
Về nợ phải trả: là giá trị vốn của công ty đi chiếm dụng, đi vay của đơn vị, cá nhân trong và ngoài công ty nên phải có trách nhiệm thanh toán và có kế hoạch vay, trả phù hợp để đảm bảo có đủ nguồn vốn cho kinh doanh. Nợ phải trả chiếm một phần lớn trong tổng nguồn vốn của công ty và có sự biến động không đều qua 3 năm: năm 2005 là 251.619 tỷ đồng, năm 2006 là 332.079 tỷ đồng và năm 2007 là 268.516 tỷ đồng. Trong nợ phải trả thì nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với nợ dài hạn. Biến động này là do rất nhiều yếu tố.
+ Khoản phải trả người bán chiếm tỷ trọnglớn nhất trong tổng nợ ngắn hạn của công ty: năm 2005 khoản nợ này là 77.541 tỷ đồng chiếm 40.22%, năm 2006 tăng lên là 99.619 tỷ đồng chiếm 40.86%, năm 2007 là 72.946 chiếm 39.17%. Nói chung cơ cấu của khoản phải trả người bán không có thay đổi nhiều. Tỷ lệ khoản này lớn chứng tỏ công ty chiếm dụng vốn của đơn vị khác nhiều.
+ Các khoản vay ngắn hạn tăng lên cả về số lượng và cơ cấu, chiếm tỷ trọng cao thứ hai trong tổng nợ ngắn hạn. Năm 2005 vay ngắn hạn của công ty là 37.854 tỷ đồng chiếm19.64% tổng nợ ngắn hạn, năm 2006 là 54.370 tỷ đồng chiếm 22.3% và đến năm 2007 là 69.005 tỷ đồng chiếm 31.68% tổng nợ ngắn hạn. Có sự tăng lên này chủ yếu do vay ngắn hạn từ ngân hàng do công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình thiếu vốn lưu động, đi vay để bổ sung. Vì vậy giải pháp này chỉ là trước mắt của công ty, trong những năm tới công ty không nên chỉ vay ngắn hạn mà cần phải có những dự án vay dài hạn để nợ ngắn hạn giảm bớt đi, đây mới là mục tiêu lâu dài mà công ty nên làm. Có như vậy mới giảm bớt áp lực trả nợ, đảm bảo uy tín trong thanh toán.
+ Khoản người mua đặt tiền trước chiếm tỷ trọng lớn thứ tư trong tổng nợ ngắn hạn có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2006 tuy giá trị người mua đặt tiền trước tăng hơn năm 2005 nhưng so về cơ cấu lại giảm đi, năm 2007 khoản này so với năm 2006 lại giảm cả về giá trị và cơ cấu. Điều này là không tốt vì nó chứng tỏ uy tín của công ty ngày càng giảm đi trong mắt khách hàng, chưa tạo được lòng tin ở khách hàng nên công ty cần tích cực hơn nữa trong việc chỉ đạo, thi công để đảm bảo chất lượng từ đó khuyến khích người mua đặt tiền trước, tận dụng tối đa khoản này phục vụ cho nhu cầu vốn của mình.
+ Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước chiếm tỷ trọng cũng khá cao so với phải trả công nhân viên. Nếu xét về phía nhà nuớc thì điều này rất tốt nhưng nếu xét về phía công ty thì chưa thật hợp lý cho lắm.
+ Các khoản phải trả công nhân viên phải trả nội bộ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nợ ngắn hạn và tăng giảm không đều, tùy theo từng năm. Các khoản này là khoản vốn công ty chiếm dụng mà không phải trả chi phí, do đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty có thể trả lương theo tháng hoặc mấy tháng trả một lần hoặc theo từng đợt nên công ty đã chiếm dụng khoản vốn này trong thời gian chưa phải thanh toán.
+ Các khoản phải trả, phải nộp khác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ ngắn hạn, đây là các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công ty. Năm 2006 tăng hơn khá nhiều so với ăm 2005, ảnh hưởng không tốt tới năng lực tài chính của công ty nên năm 2007 công ty đã có sự điều chỉnh làm cho khoản này giảm xuống một cách hợp lý hơn.
Nhìn chung, vốn kinh doanh của công ty chủ yếu hình thành từ nợ phải trả, mà nợ ngắn hạn là chủ yếu. Đặc biệt công ty khôngc ó khoản nợ nào quá hạn chứng tỏ công t y có năng lực tài chính có vốn sẵn để trang trải các khoản nợ, đạt được điều này là do trong năm công ty đã thực hiện tốt chế độ thanh toán với các tổ chức, đơn vị cá nhân khác. Đây thực sự là cố gắng và là thành thích đáng ghi nhận của công ty tong việc thanh toán nợ. Song với cơ cấu vốn mà nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn như hiện nay của công ty sẽ làm cho chi phí sử dụng vốn tăng lên làm cho lợi nhuận giảm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, công tác thu hồi nợ của công ty vẫn còn nhiều khó khăn, yêu cầu thanh toán của công ty ngày càng tăng. Điều này ảnh hưởng tới năng lực tài chính của công ty do đó công ty cần phải có biện pháp hạn chế các khoản bị chiếm dụng bằng cách khuyến khích trả nợ. Công ty phải tìm ra giải pháp tối ưu trong qua trình sản xuất kinh doanh của mình để các khoản phải thu, phải trả ở mức hợp lý sao cho vừa có thể huy động vốn được cho kinh doanh đồng thời đảm bảo được khả năng chi trả các khoản nợ khi đến hạn.
Để xem xét kỹ hơn tình hình tài chính của công ty ta phân tích thêm chỉ tiêu nợ phải thu so với nợ phải trả: ta thấy năm 2005 tỷ lệ nợ phải thu so với nợ phải trả là 38.79%n năm 2006 là 34.39% và năm 2007 là 26.17%. tỷ lệ này giảm dần qua 3 năm. Điều này cho thấy công ty đang chiếm dụng vốn của các đơn vị khác nhiều hơn rất nhiều so với lượng vốn mà công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng chứng tỏ khả năng huy động vốn của công ty khá tốt tuy nhiên cũng làm cho các khoản phải thanh toán tăng lên. Do đó công ty không nên vay quá nhiều mà nên giảm bớt nguồn nợ vay và tăng nguồn vốn tự có, có như vậy thì khả năng thanh toán của công ty đối với các khoản nợ đến hạn sẽ tốt hơn, công ty có khả năng độc lập về mặt tài chính và sẽ khong phụ thuộc vào các khoản nợ.
4.2.2.2. Phân tích khả năng thanh toán của công ty:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì vậy khả năng thanh toán cũng là một trong những yếu tố quan trọng phản ánh năng lực tài chính của công ty. Công ty có khả năng thanh toán tốt thì sẽ có khả năng huy động được vốn từ các đối tác dẫn đến nâng cao năng lực tài chính của công ty.
Để đánh giá và phân tích khả năng thanh toán của công ty ta sử dụng các chỉ tiêu về hệ số khả năng thanh toán được thể hiện ở bảng 12:
Bảng 12: Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng thanh toán của công ty
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2005
2006
2007
1. Tổng giá trị tài sản
Trđ
288,428,619,504
360,578,481,257
332,860,832,094
2. Tài sản ngắn hạn
Trđ
196,496,018,273
250,864,770,298
201,496,706,192
3. Vốn bằng tiền
Trđ
6,063,435,047
13,862,652,942
19,748,821,070
5. Hàng tồn kho
Trđ
97,978,214,651
126,309,686,546
102,604,271,179
6. Tổng nợ phải trả
Trđ
251,818,591,196
323,078,681,101
268,516,114,125
7. Nợ ngắn hạn
Trđ
192,779,641,385
243,807,050,206
186,238,637,474
8. LN trớc thuế
Trđ
5,117,238,713
7,461,105,056
27,795,927,697
9. Lãi vay phải trả
Trđ
9,470,480,361
9,537,988,267
11,495,675,784
10. Hệ số TT tổng quát
đ
1.15
1.12
1.24
11. Hệ số TT tạm thời
đ
1.02
1.03
1.08
12. Hệ số TT nhanh
đ
0.51
0.51
0.53
13. Hệ số TT lãi vay
đ
1.54
1.78
3.42
14. Hệ số TT tức thời
đ
0.03
0.06
0.11
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Qua bảng ta thấy:
Hệ số thanh toán tổng quát hay còn gọi hệ số thanh toán toàn bộ, hệ số thanh toán ngắn hạn cho ta cái nhìn chung về khả năng thanh toán toàn bộ số công nợ công ty đi vay đi chiếm dụng. Nhìn chung, hệ số này qua 3 năm đều lớn hơn 1 và không có sự biến động lớn cho thấy khả năng thanh toán tổng quát của công ty vẫn đủ đảm bảo thanh toán các khoản nợ phát sinh. Hệ số thanh toán tổng quát của công ty năm 2005 là 1.15, năm 2006 là 1.12 và năm 2007 tỷ số này là 1.24. Hệ số thanh toán tổng quát cho ta biết 1 đồng vốn vay được bảo trợ thanh toán bởi bao nhiêu đồng tài sản của công ty, ví dụ: năm 2005 hệ số này là 1.12 tức là cứ 1 đồng vốn vay thì có 1.13 đồng thanh toán khoản vốn vay này hay nói cách khác tổng tài sản của công ty gấp 1.13 lần lượng vốn vay.
Hệ số thanh toán tạm thời: Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn phát sinh tăng năm bằng giá trị tài sản ngắn hạn. Qua 3 năm hệ số này đã có sự tăng lên và giá trị đều lớn hơn 1 cho thấy mức độ thanh toán tạm thời các khoản nợ ngắn hạn vẫn ổn định. Cụ thể năm 2005 hệ số này là 1.02 đồng thể hiện sẽ có 1.02 đồng tài sản ngắn hạn đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn, năm 2006 hệ số này là 1.05 và năm 2007 là 1.08 đồng. Nhìn chung, công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong kỳ nhưng hệ số này chưa cao, trong tương lai công ty nên có biện pháp để nâng cao hệ số này.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh: là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mà không phải dựa vào việc phải bán hàng hóa trong kho. Hệ số thanh toán nhanh của công ty có sự tăng lên qua các năm mặc dù sự tăng lên này không đáng kể : năm 2005 là 0.51, năm 2006 cũng là 0.51 đồng và năm 2007 tăng lên là 0.53 đồng. Các hệ số này thấp hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh của công ty chưa cao, nguyên nhân là do lượng hàng tồn kho cũng như các khoản vay ngắn hạn của công ty qua các năm vẫn tăng, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Công ty cần cố gắng giảm bớt các khoản nợ ngắn hạn và tăng lượng vốn bằng tiền sao cho hợp lý để có thể đáp ứng ngay cho việc thanh toán giá trị nợ phát sinh nếu không công ty rất có thể lâm vào khó khăn tài chính.
Hệ số thanh toán lãi vay: là khoản lợi nhuận mà công ty dùng để trả lãi vay. Vì lãi vaylà một khoản chi phí cố định của công ty, do vậy lãi vay được trả trong khả năng như thế nào là vấn đề được nhiều đối tượng quan tâm. Hệ số thanh toán lãi vay năm 2005 là 1.54 đồng, năm 2006 là 1.78 đồng và năm 2007 là 3.42 đồng. Hệ số này có sự tăng lên đáng kể mặc dù lãi vay phải trả tăng lên nhưng lợi nhuận truớc thuế cũng tăng nhanh nên hệ số ngày vẫn tăng qua các năm. Hệ số này đều lớn hơn 1 chứng tỏ công ty có khả năng thanh toán lãi vay từ lợi nhuận hay nói cách khác khả năng sinh lời của các khoản nợ có chiều hướng tốt.
Hệ số thanh toán tức thời là dùng tiền mặt tại quỹ để trang trải các khoản nợ đến hạn của công ty, hệ số thanh toán tức thời có sự tăng lên qua các năm: năm 2005 hệ số này là 0.03, năm 2006 là 0.06 đồng và năm 2007 là 0.11 đồng. Hệ số này có tăng lên nhưng hệ số này lại quá nhỏ, nhỏ hơn 0.5 nhiều nên ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ trong năm.
Tóm lại, hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời của công ty là chưa cao, còn các hệ số thanh toán khác đều lớn hơn 1. Như vậy, công ty không sợ mất khả năng thanh toán song công ty vẫn phải có các biện pháp nâng cao khả năng thanh toán hơn nữa đặc biệt là các khoản phải trả để chủ động hơn về tài chính của mình.
4.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty:
Vốn trong doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng các loại vốn trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí. Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh để thấy được năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và từ đó phát hiện ra khả năng tiềm tàng hay năng lực tài chính của công ty nhằm nâng cao hơn nữa kết quả sản xuất kinh doanh cũng như sử dụng tiết kiệm đồng vốn.
4.2.3.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong kỳ. Từ việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty ta sẽ có được những căn cứ chính xác phục vụ cho việc ra các quyết định về mặt tài chính, điều chỉnh quy mô, cơ cấu đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hóa lại hệ thống tài sản cố định hiện có qua đó sẽ nâng hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty lên cao hơn nữa. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty cao hay thấp chúng ta đi vào phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty thông qua bảng 14:
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh 1 đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại mấy đồng doanh thu thuần. Năm 2005 hiệu suất sử dụng của tài sản cố định là 4.03 đồng tức là một đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 4.03 đồng doanh thu thuần, đến năm 2006 hiệu suất sử dụng tài sản cố định lại giảm xuống còn 2.06 đồng hay cứ 1 đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 2.06 đồng doanh thu thuần và đến năm 2007 là 1.66 đồng tức là 1 đồng tài sản cố định sẽ tạo ra 1.66 đồng doanh thu thuần. Như vậy, hàng năm sức sản xuất của tài sản cố định của công ty ngày càng giảm xuống hay nói cách khác 1 đồng tài sản cố định ngày càng tạo ra ít đồng doanh thu hơn. Điều này chứng tỏ hiệu qủa sử dụng tài sản cố định của công ty ngày càng kém.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định: có sự giảm đi qua 3 năm, năm 2005 là 3.37 đồng tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 3.37 đồng doanh thu thuần, năm 2006 là 3.36 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 3.36 đồng doanh thu và năm 2007 hiệu suất sử dụng vốn cố định là 2.8 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 2.8 đồng doanh thu. Ta thấy sự giảm đi này chứng tỏ công ty sử dụng vốn cố định chưa được hiệu quả, trong thời gian tới cần phải lưu ý khắc phục.
Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: thể hiện 1 đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua bảng ta thấy tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của công ty có sự tăng lên qua các năm: năm 2005 là 0.04 đồng tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 0.04 đồng lợi nhuận, năm 2006 tăng lên là 0.08 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra 0.08 đồng lợi nhuận và năm 2007 tăng lên 0.29 tức là 1 đồng vốn cố định tạo ra được 0.29 đồng lợi nhuận. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của công t y chưa cao nhưng tỷ lệ này qua các năm đã có sự tăng lên nhanh chóng, nguyên nhân là do lợi nhuận sau thuế tăng lên, đây là một biểu hiện khả quan và trong những năm tới công ty nên có biện pháp để giảm chi phí một cách tối đa nhằm đưa lợi nhuận tăng cao hơn nữa.
Tóm lại, qua việc phân tích các chỉ tiêu về hiệu quả vốn cố định của công ty đã cho chúng ta thấy công ty đã sử dụng vốn cố định chưa thật sự hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình.
4.2.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Vốn lưu động của công ty là toàn bộ giá trị tài sản lưu động mà công t y đang quản lý, sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động của doanh nghiệp vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Sau mỗi chu kỳ vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vì vậy, bên cạnh việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định ta cần tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động qua các chỉ tiêu. Việc phân tích sẽ cung cấp những thông tin quan trọng cho các nhà đầu tư, đối tác kinh doanh trong việc ra những chiến lược lâu dài. Ngoài ra còn cho ta biết được công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hay không từ đó đánh giá dược năng lực tài chính của công ty cao hay thấp.
Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty ta tiến hành phân tích một số chỉ tiêu thể hiện qua bảng 15:
Số vòng quay của vốn lưu động: trong năm 2005, vốn lưu động của công ty thực hiện 1.41 vòng quay, năm 2006 là 1.11 vòng quay giảm 0.3 vòng tương ứng với giảm 21.28%. Như vậy vốn lưu động của công ty trong năm 2006 sử dụng kém hiệu quả hơn so với năm 2005. Sang năm 2007, vốn lưu động của công ty thực hiện 1.2 vòng quay, tăng so với năm 2006 là 0.09 vòng tương ứng với tăng 8.11% nhưng vẫn kém hơn so với năm 2005. Từ đó chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm nay cao hơn so với năm ngoái và có chiều hướng tăng lên nhưng vẫn chậm.
Ngược với xu hướng biến động của vòng quay vốn lưu động là biến động về thời gian của một vòng luân chuyển vì số vòng quay của vốn lưu động tăng làm thời gian một vòng luân chuyển giảm và ngược lại. Qua bảng ta thấy thời gian của một vòng luân chuyển vốn lưu động của công ty là khá cao: năm 2005 là 256 ngày, năm 2006 là 324 ngày, năm 2007 là 300 ngày. Số vòng quay vốn lưu động của công ty thấp và số ngày để một vòng luân chuyển vốn lưu động của công ty cao là do đặc điểm kinh doanh của công ty chuyên xây dựng các công trình dân dụng, thủy điện nên phải mất thời gian rất dài để hoàn thành một công trình, do đó quá trình thu hồi vốn sẽ lâu hơn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên, vì vốn lưu động qua 3 năm tăng chủ yếu do tăng các khoản phải thu, hàng tồn kho mà giá trị các khoản này thường có mức luân chuyển chậm. Do đó số vòng quay của vốn lưu động cũng bị hạn chế vì vậy công ty cần có biện pháp hợp lý đối với khoản phải thu và hàng tồn kho để số vòng quay của vốn lưu động ngày càng tăng theo đó thời gian luân chuyển ngày càng giảm. Song để xác định chính xác các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ luân chuyển của vốn lưu động ta dùng phương pháp số chênh lệch.
Từ công thức:
Vòng quay của vốn lưu động= Doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Thời gian của 1 vòng luân chuyển= Thời gian của kỳ phân tích/Số vòng quay VLĐ trong kỳ
Ta có:
Thời gian của 1 vòng luân chuyển= Thời gian của kỳ phân tích* VLĐ bình quân/DT thuần
+ Năm 2006:
Anh hưởng của vốn lưu động bình quân tăng đến số ngày tăng của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là:
360*223,680/262,209 – 360*186537/262209= 51( ngày)
ảnh hưởng của doanh thu thuần tăng đến số ngày tăng của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là:
360*223,680/248,602 – 360*223,680/262,209 =16.8(ngày)
Tổng cộng: 51 ngày + 16.8 ngày = 67.8 ngày
Như vậy, trong năm 2006 do vốn lưu động tăng lên làm tăng thời gian 1 vòng luân chuyển lên 51 ngày và doanh thu thuần giảm làm tăng thời gian 1 vòng luân chuyển lên 16.8 ngày
+ Năm 2007:
Anh hưởng của vốn lưu động tăng đến số ngày tăng giảm của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là:
360*226,181/248,602- 360*223,680/248,602= 3(ngày)
ảnh hưởng của doanh thu thuần giảm đến số ngày tăng giảm của 1 vòng luân chuyển vốn lưu động là:
360*223680/271061- 360*223680/248602=-27(ngày)
Tổng cộng: 3 ngày – 27 ngày = 24 ngày
Như vậy, trong năm 2007 do lượng vốn lưu động tăng lên đã làm tăng thời gian một vòng luân chuyển vốn tăng thêm 3 ngày, doanh thu thuần tăng làm giảm thời gian 1 vòng luân chuyển vốn là 27 ngày.
Sức sinh lời của vốn lưu động: năm 2005 là 0.029 tức là một đồng vốn lưu động sinh ra 0.029 đồng lợi nhuận, năm 2006 là 0.03 tức là một đồng vốn lưu động sinh ra 0.03 đồng lợi nhuận và năm 2007 sức sinh lời vốn lưu động là 0.12 hay một đồng vốn lưu động sinh ra 0.12 đồng lợi nhuận. Như vậy, sức sinh lời của công ty là chưa cao nhưng đã có sự tăng lên đáng kể, nhất là vào năm 2007.
Cùng với việc phân tích tình hình tài chính qua bảng cân đối kế toán của công ty cũng đã cho ta thấy giá trị và tỷ trọng vốn lưu động chiếm phần lớn trong tổng tài sản của công ty, điều này cho thấy công ty chưa thực sự sử dụng hiệu quả lượng vốn lưu động của công ty mình. Số vòng quay của vốn lưu động thấp đồng nghĩa với số ngày luân chuyển cao vì vậy công ty phải có biện pháp quản lý và sử dụng vốn lưu động của mình hiệu quả hơn nữa để tránh tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn nhằm phát huy tối đa hiệu quả của vốn vào quá trình hoạt động sản xuất của công ty.
Để đánh giá đầy đủ về năng lực tài chính của công ty dưới góc độ sử dụng vốn, chúng ta cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được bản thân doanh nghiệp và các chủ đầu tư rất quan tâm để ra quyết định cho vay hay cho thuê tài sản…vì nó gắn liền với lợi ích của họ trong hiện tại và tương lai.
4.2.3.3. Phân tích khả năng sinh lời vốn của công ty:
Việc phân tích khả năng sinh lợi vốn sẽ cho ta biết khả năng huy động vốn của doanh nghiệp có cao hay không từ đó đánh giá năng lực tài chính của công ty dưới góc độ sử dụng vốn. Dựa vào báo cáo tài chính ta có bảng 16:
Qua bảng ta thấy các chỉ tiêu đều tăng lên qua 3 năm, đặc biệt là tăng mạnh trong năm 2007. Cụ thể:
Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu thuần: cứ 100 đồng doanh thu thuần thì năm 2005 thu được 2.31 đồng lợi nhuận, năm 2006 thu được 2.91 đồng lợi nhuận và năm 2007 thu được 10.22 đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn: cứ 100 đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì năm 2005 thu được 2.18 đồng lợi nhuận, năm 2006 thu được 2.23 đồng lợi nhuận, năm 2007 thu được 7.99 đồng lợi nhuận. Việc tỷ suất tổng vốn tăng lên cho thấy sự cố gắng và phấn đấu của toàn công ty về quản lý chi phí sản xuất, quản lý nhân sự.
Tỷ suất sinh lời tổng tài sản: Cho ta thấy 100 đồng tài sản năm 2005 thì tạo ra 1.13 đồng lợi nhuận, năm 2006 thì 100 đồng tài sản tạo ra 1.55 đồng lợi nhuận và năm 2007 là 8.35 đồng lợi nhuận được tạo ra bởi 100 đồng tài sản. Hệ số này ngày càng cao và tăng lên cho ta thấy năng lực của công ty, thấy được khả năng sinh lợi từ chính tài sản hoạt động của công ty.
Tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần: năm 2005 là 8.85% tức là 100 đồng vốn chủ sỡ hữu thì tạo ra 8.85 đồng lợi nhuận, năm 2006 là 100 đồng vốn chủ sỡ hữu tạo ra 14.93 đồng lợi nhuận và năm 2007 thì 100 đồng vốn chủ sỡ hữu tạo ra tới 43.2 đồng lợi nhuận. Điều này cho thấy khả năng sinh lời vốn chủ sỡ hữu qua các năm tăng lên rất nhều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của công ty rất tốt, công ty đã cố gắng nhiều trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để xác định chính xác xem khả năng sinh lợi của vốn tăng lên là do yếu tố nào ta tiến hành phân tích chỉ tiêu sau:
+ Năm 2006:
Anh hưởng của lợi nhuận sau thuế đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là:
5.598/36.810-3.256/36.810=0.1521-0.0885=0.0636
ảnh hưởng của vốn chủ sỡ hữu đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là:
5.559/37.499-5.598/36810=0.1493-0.1521=-0.0028
Vậy năm 2006 do lợi nhuận sau thuế tăng làm cho tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần tăng 0.0636 lần và vốn chủ sỡ hữu tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần giảm 0.0028 lần.
+ Năm 2007:
ảnh hưởng của lợi nhuận sau thuế đến tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần là:
27.796/37.499-5.598/37.499=0.7412-0.1493=0.5919
ảnh hưởng của vốn chủ sỡ hữu đến tỷ suất sinh lợi vốn chủ sỡ hữu là:
27.796/64.345-27.796/37.499=0.4320-0.7412=-0.3092
Vậy năm 2007 do lợi nhuận sau thuế tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần tăng 0.5919 lần và vốn chủ sỡ hữu tăng làm tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần giảm 0.3092 lần.
Nhìn chung, khả năng sinh lời vốn của công ty có xu hướng ngày càng tăng lên, điều này chứng tỏ khả năng và năng lực tài chính của công ty đang có chiều hướng thay đổi thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư.
4.2.3.4. Phân tích chỉ tiêu độc lập tài chính của côngt y:
Mục tiêu của phân tích khả năng độc lập tài chính nhằm đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cua doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu, đồng thời xem xét khả năng huy động vốn của công ty như thế nào từ đó có thể khẳng định doanh nghiệp có năng lực tài chính hay không. Thông thường, những doanh nghiệp có khả năng độc lập tài chính là những doanh nghiệp có năng lực tài chính và ngược lại. Để xác định khả năng độc lập tài chính của công ty ta lập bảng 16:
Bảng 16: Khả năng độc lạp tài chính của công ty:
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2005
2006
2007
1. Tổng nợ phải trả
đồng
251,618,591,196
323,078,681,101
268,516,114,125
2. Nợ dài hạn
đồng
58,838,949,811
79,271,630,895
82,277,476,651
3. Vốn chủ sỡ hữu
đồng
36,810,028,308
37,499,800,156
64,344,717,969
4. Tổng nợ/ VCSH
6.84
8.62
4.17
5. VCSH/Nợ dài hạn
0.63
0.47
0.78
Theo lý thuyết những doanh nghiệp có khả năng độc lập tài chính khi: Tổng nợ/ VCSH=1. Như vậy công ty đều không đạt cả 2 chỉ tiêu này chứng tỏ khả năng độc lập tài chính chưa cao, vốn hoạt động chủ yếu là đi chiếm dụng của các đơn vị khác. Do đó, để phát triển lâu dài công ty cần phải có biện pháp giảm các khoản nợ nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và khả năng độc lập tài chính của mình.
4.3. Đánh giá chung về năng lực tài chính của công ty:
Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đều có mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển kinh doanh ngày càng lớn, không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cổ phần Sông Đà 2 cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Muốn tồn tại và phát triển thì mục tiêu số một có tính chất bao trùm nhất đó là lợi nhuận. Nhưng để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi công ty phải có vốn, khả năng huy động vốn hay nói cách khác là năng lực tài chính tốt vì nó xuyên suốt quá trình sản xuát kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Qua quá trình phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, chúng tôi có một số đánh giá về năng lực tài chính của công ty như sau:
Mặt mạnh:
+ Sau khi cổ phần hóa năng lực quản lý của công ty ngày càng được nâng cao đã giúp công ty kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn.
+ Tuy các công trình thi công phân tán ở nhiều địa bàn khác nhau song công ty đã có sự bố trí nhân sự hợp lý để luôn đảm bảo tiến độ thi công và các chứng từ sổ sách từ các đội thi công luôn được báo cáo về công ty kịp thời và nhanh chóng. Việc này thực hiện dược là nhờ đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và có trách nhiệm cao của phòng tài chính kế toán của công ty nói riêng và của toàn công ty nói chung.
+ Với kinh nghiệm lâu năm chuyên thi công các công trình thủy điện nên công ty luôn chiếm được niềm tin của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Đây là một thế mạnh lớn của công ty vì thế mấy năm gần đây công ty đã được giao trọng trách thi công nhiều công trình thủy điện lớn trong cả nước như: Công trình thủy điện Sơn La, công trình thủy điện Tuyên Quang, công tình thủy điện Bản Vẽ…
+ Tuy tổng nguồn vốn biến động không đều qua các năm nhưng vốn chủ sỡ hữu tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng lại tăng đều qua 3 năm chứng tỏ năng lực tài chính của công ty đã tốt hơn.
+ Về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty đã tăng lên đáng kể biểu hiện thông qua doanh thu thuần và lợi nhuận trong kỳ tăng lên. Công ty đã tạo được cho mình mô hình kinh doanh đa dạng, quy mô hoạt động ngày càng mở rộng và có uy tín đối với bạn hàng. Đây là một thuận lợi giúp công ty có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn từ đó dẫn tới năng lực tài chính khả quan hơn.
+ Về khả năng thanh toán của công ty qua các năm khá tốt cho thấy năng lực tài chính khá tốt.
+ Về khả năng sinh lời của công ty cho thấy mức sinh lợi trên một đồng vốn của công ty khá cao à có xu hướng tăng lên, năng lực tài chính có chiều hướng thay đổi tốt.
Mặt hạn chế:
+ Về khả năng độc lập tài chính của công ty vẫn có nhưng chưa cao, điều này là do nguồn vốn chủ sỡ hữu của công ty vẫn còn thấp. Hơn nữa, để tiếp tục phát triển sản xuất, việc đi vay chưa thể dừng lại dẫn đến tổng nợ tăng nhanh hơn vốn chủ sở hữu, cần phải thực hiện các dự án đầu tư theo chiều sâu làm cho công ty có khả năng vay dài hạn.
+ Công tác thu hồi vốn, công tác hoàn chỉnh hồ sơ sau thi công chậm làm cho tiến độ thu hồi vốn và công nợ không hiệu quả và gây tồn đọng do đó công ty bị chiếm dụng vốn nhiều. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định của công ty chưa tốt, vòng quay của vốn chậm khiến cho lợi nhuận của công ty thu về chưa cao và gây lãng phí vốn.
+ Các dự án xây hạ tầng phân lô, căn hộ của công ty đã hoàn thành nhưng do công tác kinh doanh chưa hiệu quả nên chưa bán được khiến lượng hàng tồn kho của công ty tăng cao dẫn đến ứ đọng vốn trong kinh doanh.
+ Việc triển khai công tác hạch toán kinh doanh hiện nay của công ty là một nhiệm vụ quan trọng và có tác dụng lớn trong quản lý chi phí sản xuất nhưng việc thực hiện còn chậm nên việc khoán thi công theo dự toán chi phí ở một số hạng mục công trình chưa được triển khai.
+ Việc xây dựng các định mức, đơn giá nội bộ để làm cơ sở xây dựng giá thành chưa đồng bộ do giám đốc công ty, giám đốc xí nghiệp và các phòng ban chức năng chưa thực hiện triệt để.
+ Công tác nghiệm thu thanh toán ở một số xí nghiệp chưa được quan tâm,thể hiện là chưa chủ động hoàn thiện hồ sơ nghiệm thu, khắc phục sữa chữa các tồn tại để nghiệm thu thanh toán.
+ Bên cạnh đó, công tác tiếp thị đấu thầu nhằm tìm kiếm công trình chưa bảo đảm được kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra. Một số công trình có sản lượng lớn chủ đầu tư thay đổi thiết kế và dự toán nhưng phê duyệt chậm nên tiến đọ thi công công trình chậm, gặp nhiều khó khăn.Do đó ảnh hưởng đến quá trình quyết toán công trình làm ảnh hưởng đến doanh thu chung của công ty từ đó ảnh hưởng đến năng lực tài chính.
4.4. Một số đề xuất về biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty:
Qua việc đánh giá năng lực tài chính của công ty ở trên, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
Thứ nhất: Công ty cần tăng cường khả năng huy động từ các nguồn vốn một cách hợp lý. Có thể huy động từ các nguồn như:
+ Huy động vốn nội bộ vì qua bảng … chúng tôi thấy nguồn vốn từ nội bộ còn rất hạn chế, công ty cần tận dụng tối đa nguồn này. Khi huy động đựoc nguồn vốn này cũng sẽ kích thích được sự sáng tạo, năng động và có trách nhiệm hơn của mỗi cán bộ công nhân viên của công ty.
+ Huy động vốn từ công ty liên doanh, liên kết.
Thứ hai: Tổ chức tốt công tác quản lý và sử đụng nguồn vốn:
+ Cần phải có những biện pháp hữu hiệu để tiết kiệm vốn trong sản xuất.
+ Thanh toán kịp thời, đúng hạn, có như vậy mới tạo được uy tín đối với bạn hàng.
+ Giảm tối thiểu mọi chi phí để hạ giá thành sản phẩm như quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí sữa chữa lớn, chi phí bất thường…hạn chế những thất thoát xảy ra trong quá trình kinh doanh.
+ Công tác hạch toán cần phải được chú trọng và đầu tư thỏa đáng vì nó là điều kiện cần thiết đối với vấn đề tăng doanh thu, lợi nhuận của công ty.
Thứ ba: Công tác tổ chức cán bộ, lựa chọn đúng người, đúng việc để có thể hoàn thành tốt các công việc được giao. Việc sử dụng vốn năng động, có hiệu quả cũng phải kể đến sự năng động sáng tạo của người quản lý.
Thứ tư: Nhanh chóng triển khai thực hiện các dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất và nâng cao giá trị tài sản cố dịnh trên tổng tài sản để cơ cấu tài sản hợp lý hơn, hạn chế được việc thuê thiết bị bên ngoài.
Thứ năm: Công ty cần tích cực hơn nữa trong công tác thu hồi nợ phải thu. Để là được điều đó công ty cần có kế hoạch thu hồi nợ một cách cụ thể, chi tiết cho từng khoản nợ và cho những năm tiếp theo để tránh tình trạng ứ đọng vốn gây ảnh hưởng xấu đến năng lực tài chính. Hàng năm công ty nên trích lập các khoản dự phòng, đặc biệt là dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi và dự phòng hàng tồn kho. Tuy các khoản phải thu của công ty đã giảm đi trong năm qua chứng tỏ công ty đã tích cực trong việc thu hồi nợ nhưng công ty vẫn nên lập các khoản dự phòng này vì nó làm tăng tính thận trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho công ty tránh được những rủi ro đáng tiếc.
Thứ sáu: Vốn chủ sỡ hữu của công ty chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn và nợ phải trả chiếm tỷ lệ cao nên công ty cần cố gắng nâng cao nguồn vốn chủ sỡ hữu để cơ cấu này hợp lý từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và giúp công ty chủ động hơn về mặt tài chính. Công ty cần tăng cường hơn nữa trong việc sử dụng các loại vốn.
Thứ bảy: Tăng doanh thu là cơ sở để tăng lợi nhuận. Để có được lợi nhuận cao nhất trước hết công ty cần phải có những kế hoạch thiết thực cho việc tăng doanh thu.
Thứ tám: Bên cạnh việc thi công các công trình thủy điện, công ty cần tăng cường đẩy mạnh thêm các lĩnh vực xây dựng khác, làm đa dạng hóa kinh doanh của mình để thu được lợi nhuận nhiều hơn cũng như tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho cán bộ trong công ty.
Thứ chín: Thường xuyên phân tích năng lực tài chính của công ty để từ đó có những biện pháp kịp thời đối với những phát sinh trong quá trình hoạt động của công ty.
Phần v: kết luận và kiến nghị
Phân tích năng lực tài chính có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty có phân tích năng lực tài chính thì mới đánh giá đúng tình hình tài chính và khả năng huy động vốn của mình từ đó đưa ra các phương hướng giải pháp phù hợp.
Qua phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2 cho thấy: năng lực tài chính của công ty là chưa cao nhưng rất khả quan và có xu hướng tăng lên.
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích năng lực tài chính của công ty cổ phần Sông Đà 2, chúng tôi có kiến nghị sau:
Thứ nhất: về sự phân bố tài sản cần có sự cân đối hơn, công ty cần nâng cao hơn nữa việc nghiên cứu thị trường, cần có các chiến lược để tiêu thụ sản phẩm nhanh và nhiều, hạn chế lượng sản phẩm tồn kho.
Thứ hai: Công ty cần thích cực hơn nữa trong công tác thu hồi nợ phải thu, đặc biệt là các khoản phải thu từ khách hàng để giúp công ty chủ động trong quan hệ thanh toán với chủ nợ.
Thứ ba: Công ty cần huy động vốn vay, đặc biệt là vay dài hạn vì trong thời gian dài nó đóng vai trò như nguồn vốn chủ sỡ hữu của công ty, các khoản vay dài hạn này sẽ giúp công ty chủ động hơn trong việc thanh toán các khoản nợ.
Thứ tư: Công ty cần tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn chủ sỡ hữu nói riêng để năng lực tài chính của công ty được nâng cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32976.doc