Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn là đối tượng khách hàng quan trọng của NHTM. Đây là những khách hàng lớn và thường xuyên bởi vậy chúng luôn là đối tượng mà ngân hàng muốn hướng tới. Bất kỳ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp, song việc mở rộng tín dụng phải luôn gắn liền với việc đảm bảo chất lượng tín dụng vì mục đích tăng trưởng và phát triển bền vững của ngân hàng. Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là điều mà mỗi ngân hàng luôn quan tâm chú trọng trong nỗ lực vì mục đích trên.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích Tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Văn Lâm – Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp, củng cố lại, cổ phần hoá và sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong quan hệ với ngân hàng về tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, những doanh nghiệp Nhà nước không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo đều không được ngân hàng cho vay vốn.
So với năm 2004, năm 2005 chi nhánh có dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh đạt 81.488 triệu đồng (tăng 127.4%) đóng góp to lớn vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện nhà, giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương. Tuy nhiên, là đơn vị đóng trên địa bàn huyện có tiềm năng kinh tế phát triển , số lượng doanh nghiệp chiếm khoảng 1/3 của tỉnh (138 doanh nghiệp ) thì tổng dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt mức như trên là chưa xứng tầm , ngân hàng chưa thực sự khai thác được nhiều thị trường doanh nghiệp. Ngoài ra các doanh nghiệp hiện có quan hệ tín dụng với ngân hàng chủ yếu là các công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty cổ phần, ngân hàng chưa thiết lập được quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh. Nguyên nhân chính là do tính năng động, sáng tạo chủ động tìm kiếm khách hàng, dự án khả thi còn thiếu và ít được chú trọng.
Dư nợ hộ sản xuất của chi nhánh tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Năm 2004 đạt 88.194 triệu đồng chiếm tỷ trọng 66% trong tổng dư nợ; Năm 2005 đạt 102.862 triệu đồng chiếm tỷ trọng 52,12% trong tổng dư nợ. Tuy tỷ trọng của nó trong tổng dư nợ giảm song số tuyệt đối lại tăng lên rất nhiều (tăng 14.668 triệu đồng). Sở dĩ như vậy là vì địa phương đang đẩy mạnh việc phát triển kinh tế trang trại, phát triển các làng nghề như làng nghề thuốc Nam ở Nghĩa Trai-Tân Quang; làng nghề đúc đồng, chì ở Lạc Đạo; làng nghề tái chế nhựa ở Minh Khai-Như Quỳnh...
Tóm lại, qua phân tích số liệu ta thấy dư nợ theo thành phần kinh tế của chi nhánh đang có sự tăng trưởng và thay đổi hợp lý, khẳng định chất lượng hoạt động kinh doanh và uy tín của chi nhánh đối với các thành phần kinh tế ngày càng gia tăng.
Bảng 3. Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2005 so
với năm 2004
Số tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
1.Tổng dư nợ
133765
197323
63558
47.5
1.1.Nợ quá hạn
2141
9867
7726
360.8
1.2.Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ
1.6%
5%
(Nguồn báo cáo của NHNo&PTNT Văn Lâm năm 2004-2005)
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên ta thấy, năm 2004 chi nhánh có nợ quá hạn là 2.141 triệu đồng chiếm 1,6% tổng dư nợ. Năm 2005 nợ quá hạn là 9.867 triệu đồng, chiếm 5% tổng dư nợ. Trong năm này nợ quá hạn tăng nhanh cả về số tuyệt đối và số tương đối (tăng 7.726 triệu đồng tương ứng là 360,8%). Hầu hết nợ quá hạn đều nằm ở khu vực cho vay hộ sản xuất. Nguyên nhân của việc nợ quá hạn tăng đột biến là do chi nhánh thực hiện quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, theo khoản 3 điều 6 thì “Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ nào bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng”.
Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm
Cũng như hoạt động của bất kỳ NHTM nào khác, đối với chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm, công tác phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng của toàn bộ quá trình thẩm định cho vay nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là công tác thường xuyên, liên tục phải làm đối với doanh nghiệp xin vay vốn tại chi nhánh kết quả đưa ra từ công tác này sẽ trợ giúp đắc lực cho việc ra quyết định có hay không tài trợ vốn cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay kinh doanh trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau . Để hiểu rõ thực trạng phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp của chi nhánh, xin được phân tích qua hai đại diện điển hình cho các doanh nghiệp kinh doanh trong hai ngành nghề khác nhau là: Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My và Công ty Xây Dựng Chiến Thắng.
a) Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My
Tên khách hàng: Công ty TNHH Văn Phòng Phẩm Trà My
Trụ sở chính: Ngọc Đà – Tân Quang – Văn Lâm – Hưng Yên
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu : Buôn bán đồ dùng , thiết bị văn phòng phẩm , sản xuất các sản phẩm bằng nhựa , xúc tiến thương mại , đại lý mua bán , ký gửi hàng hoá .
Loại hình doanh nghiệp : Là công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên.
Một số ảnh hưởng quan trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh : Công ty được thành lập từ năm 2000, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh các mặt hàng văn phòng phẩm. Công ty đã có quan hệ bạn hàng lâu năm, hoạt động mua bán, thanh toán tín nhiệm. Thị trường đầu ra tương đối đảm bảo vì công ty qua nhiều năm hoạt động đã thiết lập được một hệ thống khách hàng trên cả ba miền. Hơn nữa công ty có điểm thuận lợi là các thành viên trong công ty đều có năng lực, trình độ, có nhiều năm kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh văn phòng phẩm.
Trong năm 2005, công ty tiếp tục nhập khẩu máy móc thiết bị để hiện đại hoá sản xuất. Cũng trong năm này giá cả nguyên vật liệu đầu vào có nhiều biến động.
Công ty có bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh như sau :
Bảng 4. Bảng cân đối kế toán của Công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
TÀI SẢN
A. Tài sản ngắn hạn
4.848.746.205
4.628.939.637
9.200.033.932
1. Tiền
125.117.725
513.708.450
302.980.674
2. Các khoản phải thu
1.554.835.553
1.661.586.487
3.116.138.862
3. Hàng tồn kho
3.168.792.927
2.453.644.700
578.014.396
B. Tài sản dài hạn
8.816.299.290
10.896.815.836
17.931.772.032
1. Tài sản cố định hữu hình
4.286.299.290
10.896.815.836
17.897.681.133
- Nguyên giá
4.604.917.290
12.433.989.836
22.533.512.133
- Giá trị hao mòn luỹ kế
318.618.000
1.537.174.000
4.635.831.000
2. Chi phí XDCB dở dang
4.530.000.000
34.090.899
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
13.665.045.495
15.525.755.473
27.131.805.964
NGUỒN VỐN
A. Nợ phải trả
6.936.013.423
8.090.387.884
18.038.410.874
1. Nợ ngắn hạn
2.399.954.053
3.841.520.924
8.479.922.809
- Phải trả cho người bán
367.382.902
822.238.690
1.367.308.200
- Vay ngắn hạn
2.032.571.151
3.019.282.234
5.994.777.272
2. Nợ dài hạn
4.536.059.370
4.248.866.960
9.558.488.065
- Vay dài hạn
4.536.059.370
4.248.866.960
9.558.488.065
B. Vốn chủ sở hữu
6.729.032.072
7.435.367.589
9.093.395.090
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
13.665.045.495
15.525.755.473
27.131.805.964
Bảng 5. Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1.Doanh thu thuần
20.105.374.170
28.546.243.547
38.162.956.427
2.Giá vốn hàng bán
17.596.934.401
25.985.456.327
34.651.038.252
3.Lợi nhuận gộp
2.508.439.769
2.560.787.220
3.511.918.175
4.Doanh thu hoạt động tài chính
1.435.805
2.773.037
2.652.326
5.Chi phí hoạt động tài chính
788.235.660
601.792.681
1.322.027.554
6.Chi phí bán hàng
211.591.159
125.344.517
290.375.230
7.Chi phí quản lý doanh nghiệp
281.016.683
128.205.402
150.323.428
8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
1.229.032.072
1.708.217.657
1.751.844.289
9.Thu nhập khác
10.Chi phí khác
11.Lợi nhuận khác
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
1.229.032.072
1.708.217.657
1.751.844.289
13.Thuế thu nhập DN phải nộp
393.290.263
478.300.944
0
14.Lợi nhuận sau thuế
835.741.809
1.229.916.713
1.751.844.289
( Năm 2005 công ty đã hoàn tất thủ tục miễn thuế thu nhập doanh nghiệp )
Từ số liệu của bảng cân đối kế toán , báo cáo kết quả kinh doanh và những thông tin cần thiết khác , các chỉ tiêu tài chính của công ty Trà My được tính như sau :
Năm 2003
Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn:
Chỉ tiêu thanh toán nhanh:
Hệ số nợ:
Chỉ tiêu khả năng trả lãi:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn CSH:
Các chỉ tiêu tài chính năm 2004-2005 của công ty được tính tương tự như trên.
Tập hợp các chỉ tiêu đã tính ta có bảng sau:
Bảng 6. Các chỉ tiêu tài chính của công ty TNHH Trà My
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn
2,02
1,21
1,09
- Chỉ tiêu thanh toán nhanh
0,7
0,57
0,4
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ
0,51
0,52
0,66
- Chỉ tiêu khả năng trả lãi
2,56
3,84
2,33
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu
4,2%
4,3%
4,6%
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
9%
11%
6,5%
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
vốn chủ sở hữu
12,4%
16,5%
19,3%
Theo quan điểm của Ngân hàng thì mức lí tưởng của các chỉ tiêu tài chính là: hệ số thanh toán ngắn hạn phải lớn hơn 1; hệ số thanh toán nhanh bằng 1 ; hệ số nợ nên nhỏ hơn hoặc bằng 0,5; chỉ tiêu khả năng trả lãi nên lớn hơn hoặc bằng 2; các chỉ tiêu khả năng sinh lời phải dương và có xu hướng tăng dần qua các năm.
Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy công ty Trà My có chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn giảm dần qua các năm. Hiện thời chỉ tiêu này của công ty là 1,09 thấp hơn nhiều so với năm 2003, tuy nhiên vẫn đảm bảo lớn hơn 1 nên về mặt lí thuyết hệ số này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Hệ số thanh toán nhanh của công ty trong 3 năm 2003, 2004, 2005 lần lượt là 0,7; 0,57; 0,4 đều nhỏ hơn 1 và lại không hề có xu hướng được cải thiện. Đặc biệt năm 2005, hệ số này ở mức 0,4 thấp hơn rất nhiều so với mức lí tưởng là 1.Từ hai chỉ tiêu này cho thấy công ty có một lượng hàng tồn kho khá lớn. Tính thanh khoản của công ty phụ thuộc nhiều vào chất lượng và khả năng chuyển đổi thành tiền của hàng tồn kho.
Hệ số nợ trong 3 năm của công ty có xu hướng tăng dần. Năm 2003, 2004 lần lượt là 0,51; 0,52 đều nằm trong lân cận của 0,5, biểu hiện một cơ cấu vốn khá an toàn, nó cho thấy phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu. Năm 2005, hệ số này lên đến 0,66 do công ty đã mở rộng quy mô sản xuất lên rất nhiều, nguồn vốn của công ty tập trung cho tài sản cố định và hàng tồn kho. Điều này cũng đã được phản ánh ở sự suy giảm khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty. Tuy nhiên, việc đầu tư vào tài sản cố định của công ty được thực hiện ở thời điểm giữa năm nên trong năm chưa khai thác được nhiều nhưng nó hứa hẹn việc tăng năng lực sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, tạo thế cạnh tranh của công ty trên thị trường. Mặt khác, các máy móc thiết bị mới được đầu tư của công ty đều rất hiện đại, chất lượng tài sản của công ty khá tốt và đây là một công ty có tín nhiệm trong thanh toán nên hệ số nợ như vậy là có thể chấp nhận được.
Chỉ tiêu khả năng trả lãi của công ty trong 3 năm liên tục đều lớn hơn 2. Điều đó chứng tỏ công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán lãi tiền vay. Tuy nhiên năm 2005 chỉ tiêu này có sự giảm sút so với 2 năm trước nguyên nhân do công ty đã tăng vay nợ để đầu tư mở rộng sản xuất và đang ở giai đoạn đầu của việc khai thác công suất nên lợi nhuận đem lại chưa tương xứng.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu của công ty qua các năm 2003, 2004, 2005 lần lượt là 4,2%; 4,3%; 4,6% đều có xu hướng tăng lên, cho thấy một triển vọng kinh doanh khá tốt đẹp .
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản năm 2003 của công ty là 9%, năm 2004 là 11% nhưng năm 2005 hạ xuống còn 6,5%. Như đã nói ở trên, do những tài sản cố định mới đầu tư đi vào hoạt động chưa lâu nên điều này là hoàn toàn bình thường.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty đều tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2003 chỉ tiêu này đạt 12,4%, năm 2004 đạt 16,5%, năm 2005 đã đạt 19,3% đây là mức khá cao .
Như vậy khả năng sinh lời của công ty là khá tốt .
Tóm lại , qua phân tích ta thấy công ty có tình hình tài chính lành mạnh , tình hình hoạt động kinh doanh tương đối tốt , làm ăn có hiệu quả .
b) Công ty Xây dựng Chiến Thắng
Tên khách hàng : Công ty Xây dựng Chiến Thắng
Trụ sở chính : Trưng Trắc – Văn Lâm – Hưng Yên
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu: Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên
Những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh: Công ty xây dựng Chiến Thắng mới được thành lập vào đầu năm 2003, trong khoảng thời gian từ đó đến nay giá cả nguyên vật liệu xây dựng như sắt thép, xi măng...có nhiều biến động.
Công ty có bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh như sau:
Bảng 7. Bảng cân đối kế toán 3 năm gần nhất của công ty Xây dựng Chiến Thắng
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
TÀI SẢN
A. Tài sản ngắn hạn
4.211.018.000
5207..889.900
7.587.796.000
1. Tiền
242.244.000
38.142.000
2.633.000
2. Các khoản phải thu
2.804.388.000
3.265.568.000
2.082.083.000
3. Hàng tồn kho
1.164.386.000
1.904.179.000
5.503.080.000
B. Tài sản dài hạn
273.157.000
253.157.000
243.157.000
1. Tài sản cố định hữu hình
273.157.000
253.157.000
243.157.000
- Nguyên giá
554.047.000
554.047.000
554.047.000
- Giá trị hao mòn luỹ kế
280.890.000
300.890.000
310.890.000
2. Chi phí XDCB dở dang
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
4.484.175.000
5.461.046.000
7.830.953.000
NGUỒN VỐN
A. Nợ phải trả
3.182.908.000
4.149.742.000
1.531.659.000
1. Nợ ngắn hạn
3.182.908.000
4.149.742.000
1.531.659.000
- Phải trả cho người bán
1.582.442.000
259.873.000
401.659.000
- Vay ngắn hạn
1.600.466.000
3.889.869.000
1.130.000.000
2. Nợ dài hạn
- Vay dài hạn
B. Vốn chủ sở hữu
1.301.267.000
1.311.304.000
6299294000
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
4.484.175.000
5.461.046.000
7.830.953.000
B
ảng 8. Báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất của công ty Xây dựng Chiến Thắng
Đơn vị : VN đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1.Doanh thu thuần
4.133.685.000
6.321.475.000
4.223.187.000
2.Giá vốn hàng bán
3.925.974.500
5.977.298.000
3.843.101.000
3.Lợi nhuận gộp
207.710.500
344.177.000
398.452.000
4.Doanh thu hoạt động tài chính
0
5.Chi phí hoạt động tài chính
100.059.500
190.789.000
85.575.000
6.Chi phí bán hàng
82.651.000
114.760.000
195.925.000
7.Chi phí quản lý doanh nghiệp
25.000.000
24.000.000
25.500.000
8.Lợi nhuận thuần từ hoạt động
kinh doanh
0
14.628.000
91.452.000
9.Thu nhập khác
10.Chi phí khác
0
11.Lợi nhuận khác
0
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
0
14.628.000
91.452.000
13.Thuế thu nhập DN phải nộp
0
4.591.000
27.195.000
14.Lợi nhuận sau thuế
0
10.037.000
64.257.000
Qua các số liệu ở bảng 4 và bảng 5, các chỉ tiêu tài chính của công ty này được tính như sau:
Năm 2003
Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn:
Chỉ tiêu thanh toán nhanh:
Hệ số nợ:
Chỉ tiêu khả năng trả lãi:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn CSH :
Các chỉ tiêu tài chính năm 2004-2005 của công ty được tính tương tự như trên.
Tập hợp các chỉ tiêu đã tính ta có bảng sau:
Bảng 9. Các chỉ tiêu tài chính của công ty xây dựng Chiến Thắng
từ năm 2003 đến năm 2005
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn
1,32
1,26
4,95
- Chỉ tiêu thanh toán nhanh
0,96
0,8
1,36
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ
0,71
0,76
0,2
- Chỉ tiêu khả năng trả lãi
1
1,08
2,07
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu
0
0,16%
1,52%
- Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
0
0,18%
0,82%
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu
0
0,77%
1,02%
Từ số liệu ở bảng 6 cho thấy, công ty có hệ số thanh toán ngắn hạn qua 3 năm 2003 , 2004 , 2005 lần lượt là 1,32 ; 1,26 ; 4,95 đều lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty là tương đối tốt . Đáp ứng tiêu chuẩn của Ngân hàng. Năm 2004 , hệ số này có giảm chút ít so với năm 2003 song năm 2005 nó đã được cải thiện rất nhiều , trong năm này qui mô vốn của công ty tăng 1,7 lần so với năm 2003 , tăng 1,4 lần so với năm 2004 hoàn toàn do tăng vốn chủ sở hữu. Nợ ngắn hạn giảm nhiều, qui mô tài sản ngắn hạn tăng lên đã làm cho hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn tăng mạnh, nó cho thấy một đồng nợ ngắn hạn của công ty trong năm được trang trải bằng 4,95 đồng tài sản ngắn hạn mà không cần sử dụng các tài sản khác.
Hệ số thanh toán nhanh của công ty qua các năm 2003 , 2004 , 2005 lần lượt là 0,96; 0,8; 1,36 đều nằm trong lân cận của mức lý tưởng là 1. Điều đó thể hiện công ty có khả năng thanh toán nhanh tốt đặc biệt đối với một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng – lĩnh vực mà vốn chủ yếu nằm trong hàng tồn kho như chi phí sản xuất dở dang , nguyên vật liệu tồn kho … Từ hai chỉ tiêu trên cho thấy, công ty có khả năng thanh toán ngắn hạn tương đối tốt .
Hệ số nợ của công ty trong hai năm 2003, 2004 lần lượt là 0,71 và 0,76. Đây là mức khá cao, thể hiện một cơ cấu vốn mạo hiểm. Song sang năm 2005, hệ số này đã được cải thiện rất nhiều do các thành viên đã bổ sung vốn góp. Năm 2005, hệ số này là 0.2, trên quan điểm của ngân hàng, nó cho thấy một cơ cấu vốn rất an toàn.
Chỉ tiêu khả năng trả lãi của công ty trong hai năm 2003-2004 lần lượt là 1 và 1,08 rất thấp so với mức lí tưởng là 2. Song sang năm 2005 chỉ tiêu này đã đạt 2,07 do công ty giảm vay nợ và làm ăn có lãi nhiều hơn năm trước. Hiện tại công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán lãi tiền vay.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty đều có xu hướng tăng dần qua các năm song còn ở mức thấp. Do đây là doanh nghiệp mới thành lập và đặc thù kinh doanh là lĩnh vực xây dựng nên điều này là có thể chấp nhận được .
Tóm lại, qua phân tích ta thấy công ty có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh đang dần đi vào ổn định và làm ăn có lãi.
Đánh giá hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo Văn Lâm
2.3.1. Kết quả đạt được
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh đã được thực hiện trên cơ sở tuân thủ quy trình nghiệp vụ do NHNo&PTNT Việt Nam ban hành và sự nỗ lực, tận tâm nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào có nhu cầu vay vốn, chi nhánh đều đề nghị cung cấp các thông tin về tình hình tài chính. Sau đó, các cán bộ tín dụng sẽ tiến hành xem xét, tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp dựa vào số liệu của các báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết khác. Hoạt động này cũng được tiến hành định kỳ đối với các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng với chi nhánh. Nhờ vậy, cán bộ tín dụng có thể theo dõi được xu hướng tốt, xấu và những biến động trong tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, tìm hiểu nguyên nhân của những biến động, một phần có thể tư vấn cho doanh nghiệp, một phần có thể quyết định cho vay hay không cho vay nhằm sử dụng vốn hiệu quả và tránh rủi ro cho Ngân hàng.
Cho đến nay, gần bảy năm trong công tác cho vay doanh nghiệp của chi nhánh, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp đã hỗ trợ cho công tác này đạt được các kết quả sau:
-Thứ nhất, rủi ro thấp, độ an toàn cao: Kinh doanh trong môi trường có sự cạnh tranh gay gắt, việc tạo uy tín lớn đối với toàn hệ thống cũng như đối với khách hàng là điều tối quan trọng. Do đó, toàn chi nhánh nói chung và các cán bộ tín dụng nói riêng đã phát huy hết năng lực của mình để hoạt động cho vay đạt hiệu quả cao nhất, đặc biệt là cho vay đối với các doanh nghiệp bởi vì hiện nay các loại hình doanh nghiệp như Công ty TNHH, Công ty tư nhân xin vay để hoạt động kinh doanh rất nhiều mà bản thân các công ty này chứa đựng độ rủi ro rất cao, cho nên mỗi cán bộ tín dụng luôn tập trung phát huy hết khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp cũng như phân tích các điều kiện khác trong quy trình thẩm định cho vay. Do đó, đến nay nợ quá hạn đối với doanh nghiệp là chưa có, chỉ chủ yếu tập trung vào hộ sản xuất vay vốn. Chi nhánh đang hoạt động ở ngưỡng khá an toàn.
-Thứ hai, không ngừng thu hút thêm khách hàng: Nhờ chất lượng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, chi nhánh đã thực hiện tốt việc phân loại khách hàng có các chính sách ưa đãi phù hợp và tư vấn được nhiều điều hữu ích cho doanh nghiệp, củng cố niềm tin và uy tín của mình trên thị trường. Bởi vậy ngày càng nhiều doanh nghiệp thiết lập quan hệ tín dụng với chi nhánh. Năm 2004, số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với chi nhánh là 19 đơn vị, năm 2005 con số này đã đạt 34 đơn vị (Nguồn báo cáo năm 2004-2005 của NHNo Văn Lâm). Tuy chưa thật sự là nhiều nhưng nó cũng thể hiện uy tín ngày càng tăng của NHNo đối với các doanh nghiệp trong hoạt động tài trợ vốn.
Có được kết quả trên là nhờ :
Chi nhánh đã quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng một cách thường xuyên, liên tục sao cho kiến thức mới bắt kịp với sự thay đổi từng ngày trong cơ chế thị trường, sự thay đổi trong quy định của pháp luật về doanh nghiệp...
Quan tâm cải tạo nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động thẩm định định kỳ , tập hợp các nhu cầu về bổ sung và hiện đại hoá trang thiết bị của các phòng để có kế hoạch đáp ứng kịp thời . Cán bộ thẩm định của chi nhánh hiện được trang bị khá đầy đủ các thiết bị thông tin cần thiết ... Ngoài ra các tài liệu , báo chí chuyên ngành cũng được chi nhánh đặt đầy đủ phục vụ cho nhu cầu cập nhật thông tin của các cán bộ ngân hàng . Trong môi trường điều kiện vật chất thuận lợi đó càng cho phép nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định tài chính khách hàng nói riêng .
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
a) Những tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp , NHNo Văn Lâm vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục .
Thứ nhất, việc tính toán đánh giá các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp của chi nhánh là dựa vào so sánh xu hướng biến động qua 3 năm từ đó nhận xét tình hình tài chính doanh nghiệp , kết hợp với các yếu tố khác để ra quyết định cho vay hay không . Nhưng việc đưa ra kết luận chỉ dựa vào điều đó thì có thể dẫn đến việc đánh giá của ngân hàng chưa có độ chính xác cao bởi vì chỉ so sánh với mức bình quân chung của ngành mới có thể cho nhận xét đúng về mức độ phát triển , tình hình doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành .
Thứ hai, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp của chi nhánh hoàn toàn chỉ sử dụng số liệu từ bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh còn báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì không dùng đến . Đây là một khiếm khuyết bởi trong thực tế có một số trường hợp doanh nghiệp làm ăn có lãi nhưng vẫn không có khả năng trả nợ vì lưu chuyển tiền tệ bị thâm hụt trong một giai đoạn nhất định . Khả năng thanh toán nợ định kỳ chỉ xảy ra nếu doanh nghiệp trong thời hạn vay có các kỳ lưu chuyển tiền tệ thuần dương . Tuy nhiên , cần khẳng định một điều , cho dù có kỳ lưu chuyển tiền tệ âm ở một vài thời kỳ nhưng xét trong toàn bộ thời gian vay vốn doanh nghiệp phải có lưu chuyển tiền tệ thuần dương đủ trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng .
Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ giúp ngân hàng xác định số tiền trả nợ , kỳ hạn trả nợ một cách khoa học tránh tình trạng nợ quá hạn .
Thứ ba, thông tin đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp, thông tin thu thập càng nhiều thì càng tăng tính chính xác cho việc đánh giá, kết luận. Tuy nhiên, trên thực tế phân tích, chi nhánh NHNo Văn Lâm tìm kiếm thêm thông tin từ điều tra trực tiếp và từ trung tâm thông tin tín dụng CIC là rất ít trong khi lẽ ra đây phải là việc làm thường xuyên .
Thứ tư, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp của chi nhánh mới chỉ tập trung vào các chỉ tiêu đã nêu ở chương 1. Về cơ bản, những chỉ tiêu này đã phản ánh được tình hình tài chính doanh nghiệp mà ngân hàng quan tâm song để tăng tính chính xác của những đánh giá, kết luận thì chi nhánh nên phân tích thêm một số chỉ tiêu như vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền trung bình
Thứ năm, chi nhánh có thành lập tổ cho vay doanh nghiệp riêng. Điều này phần nào đã thể hiện tính chất chuyên môn hoá. Tuy nhiên, tính chất chuyên môn hoá ở đây chưa cao vì tại chi nhánh bất kì cán bộ tín dụng nào trong tổ cho vay doanh nghiệp cũng có thể làm việc với một loại hình doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh mà không hề có sự cân nhắc, lựa chọn. Trong khi thực tế lại đòi hỏi điều đó bởi có thể khẳng định rằng kiến thức con người là có giới hạn, không một cán bộ tín dụng nào có khả năng hiểu biết sâu sắc tất cả các ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp. Mỗi ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp đều có những thuận lợi, khó khăn và những đặc thù riêng. Vì vậy nếu thực hiện phân công theo ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp sẽ giúp cho các cán bộ tín dụng có điều kiện tìm hiểu sâu sắc hơn về từng doanh nghiệp, ngân hàng sẽ nâng cao được chất lượng phân tích cũng như khả năng tư vấn cho doanh nghiệp. Từ đó sẽ dễ dàng hơn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ sáu, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng sử dụng số liệu từ bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Vì vậy mức độ trung thực, chính xác của các báo cáo này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phân tích. Do đó, điều quan trọng là phải kiểm tra tính chính xác của chúng trước khi bắt đầu đi vào phân tích bởi các báo cáo tài chính, kể cả những báo cáo đã được kiểm toán, nhiều khi không chỉ được mô tả theo hướng tích cực có dụng ý như khai tăng giá trị tài sản và khuyếch trương lợi nhuận mà còn có thể vô tình bị sai lệch.Việc đánh giá lại các khoản mục này là hết sức cần thiết nhưng tại chi nhánh công việc này mới chỉ được tiến hành chủ yếu ở phạm vi phát hiện sai sót còn việc mở rộng kiểm tra nhằm phát hiện gian lận được thực hiện rất ít.
b) Nguyên nhân
Chi nhánh có những tồn tại trên là do:
- Thứ nhất, các cơ quan quản lý kinh tế chưa có những nghiên cứu tìm hiểu một cách chính thức, có hệ thống đối với toàn bộ lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành làm căn cứ không chỉ cho hoạt động của Ngân hàng mà cho rất nhiều hoạt động khác như: Quản lý tài chính, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành, hoạt động đầu tư...
- Thứ hai, trong quy định cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam chỉ khuyến khích các cán bộ tín dụng thu thập báo cáo lưu chuyển tiền tệ chứ không bắt buộc . Do đó hầu hết các doanh nghiệp khi xin vay đều không nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
-Thứ ba, do thói quen làm việc từ xưa của các cán bộ tín dụng là rất ít khai thác nguồn thông tin bên ngoài và chất lượng thông tin do CIC cung cấp còn nhiều bất cập, chưa mang tính cập nhật.
-Thứ tư, do giới hạn về mặt thời gian và khối lượng công việc phải hoàn thành nên các cán bộ tín dụng đã không phân tích thêm các chỉ tiêu như: Vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền trung bình.
-Thứ năm, Chi nhánh mới thành lập tổ cho vay doanh nghiệp riêng nên ban lãnh đạo chưa nắm hết được tất cả năng lực của mỗi cán bộ tín dụng để có sự phân công cho phù hợp.
-Thứ sáu, Chi nhánh chưa có văn bản nào hướng dẫn việc kiểm tra phát hiện gian lận trong các báo cáo tài chính và các cán bộ tín dụng của chi nhánh hầu hết còn trẻ nên kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và sự va chạm với thương trường còn ít.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ CÔNG TÁC TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT VĂN LÂM – HƯNG YÊN.
3.1. Định hướng hoạt động cho vay của chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm-Hưng Yên trong thời gian tới
Chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm với gần bảy năm tái lập, trong hoạt động kinh doanh đã thu được những kết quả đáng kể. Mặc dù chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các chi nhánh NHTM khác như ACB, SACOMBANK...song với những quyết tâm, nỗ lực lớn đơn vị vẫn luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ tín dụng và lợi nhuận cao. Phát huy những thành tích đã đạt được qua các năm, đồng thời căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh doanh của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam và chi nhánh NHNo&PTNT Hưng Yên, với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là: Xây dựng hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam trở thành một NHTM hiện đại, lớn mạnh-Phát triển bền vững-Vững tin bước vào hội nhập với Ngân hàng khu vực và thế giới; chi nhánh NHNo&PTNT Hưng Yên được công nhận đạt danh hiệu đơn vị Trong sạch-Vững mạnh, đồng thời cũng căn cứ vào định hướng, chính sách phát triển kinh tế của địa phương, trong năm 2006 chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm đã đề ra những nhiệm vụ và mục tiêu kinh doanh, trong đó đối với hoạt động tín dụng phương hướng và mục tiêu nhiệm vụ đề ra là:
Tổng dư nợ : 227 tỷ đồng ( bao gồm ngoại tệ quy đổi ).
Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ.
Tiền lương phấn đấu đạt mức quy định tối đa theo chế độ cho phép.
Để đạt được mục tiêu đề ra năm 2006 đối với hoạt động tín dụng, chi nhánh đã đề ra các giải pháp sau:
Mở rộng thị trường đầu tư tín dụng đối với mọi thành phần kinh tế-xã hội mà chế độ cho phép; giữ vững thị trường nông nghiệp–nông thôn, phát triển mạnh thị trường doanh nghiệp, liên doanh; đầu tư trang trại, làng nghề...
Đầu tư có chiều sâu, đúng đối tượng, đúng chế độ, có hiệu quả kinh tế. Tuyệt đối đảm bảo an toàn vốn trong đầu tư tín dụng cũng như trong công tác thu nợ, lãi theo chế độ đã quy định.
Thực hiện tốt việc thẩm định, điều tra tìm hiểu kỹ khách hàng trước khi cho vay, tăng cường công tác kiểm tra sử dụng vốn vay, liên tục giám sát danh mục đầu tư tín dụng nhằm có các hành động kịp thời khi có bất kỳ vấn đề nào nảy sinh đối với khoản vay chẳng hạn gia hạn nợ, giãn nợ phù hợp từng trường hợp cụ thể để vừa hỗ trợ tối đa cho khách hàng phục vụ khắc phục khó khăn khách quan trước sự tăng giảm thất thường của giá cả nông sản, xăng dầu, sắt thép...vừa đảm bảo chất lượng tín dụng và qua đó tạo niềm tin yêu, tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục.
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Tích cực cải tiến tình trạng nhân viên, đổi mới phong cách giao tiếp, coi trọng việc giáo dục cán bộ phải tận tâm, tận lực và trung thành với sự nghiệp phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam vì sự phồn thịnh, thành đạt của khách hàng.
Bố trí, sắp xếp lao động phù hợp với trình độ và khả năng. Luôn tạo điều kiện để cán bộ nhân viên phát huy năng lực, sáng kiến của mình trong công tác nhằm nâng cao năng suất và chất lượng lao động.
Coi trọng công tác kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ với phương châm là “thường xuyên, kịp thời, toàn diện và triệt để”, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai sót, gian lận trong thực thi quy trình nghiệp vụ, không để xảy ra tiêu cực trong hoạt động ngân hàng, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm tạo sự phát triển bền vững trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng.
Làm tốt công tác tiếp thị và xây dựng chiến lược khách hàng như: Bám sát khách hàng trên địa bàn, sử dụng công cụ lãi suất phù hợp cho từng đối tượng khách hàng, áp dụng ưu đãi lãi suất, phí dịch vụ đối với các khách hàng truyền thống có tín nhiệm.
Phát huy tinh thần đoàn kết, xây dựng đơn vị thành một khối vững chắc thống nhất trong ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vượt qua mọi khó khăn thử thách để thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra.
Luôn tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương các cấp, các ngành làm cho công tác ngân hàng từng bước mang tính xã hội hoá ngày càng cao.
Đẩy mạnh công tác thi đua khen thưởng, giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể nhằm tạo động lực thúc đẩy, động viên, khích lệ cán bộ nhân viên trong đơn vị đem hết sức lực, trí tuệ của mình phục vụ công tác, quyết tâm phấn đấu hoàn thành suất sắc mọi nhiệm vụ được giao, lập thành tích lớn hơn nữa trên mọi lĩnh vực góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp–nông thôn của huyện nhà.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm-Hưng Yên
Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là hai mặt thống nhất biện chứng của hoạt động tín dụng tại NHTM. Nếu ngân hàng chỉ chú trọng đến chất lượng tín dụng mà coi nhẹ việc mở rộng tín dụng thì sẽ nhanh chóng bị các ngân hàng khác cạnh tranh, chiếm ưu thế, thị phần bị giảm sút dần dần mất đi vị thế của mình trên thương trường. Quan trọng hơn, không tăng trưởng dư nợ tín dụng đồng nghĩa với việc ngân hàng không có đủ lợi nhuận để trang trải chi phí kinh doanh và trả lãi tiền gửi cho khách hàng. Nhưng nếu ngân hàng chỉ coi trọng tăng trưởng tín dụng mà coi nhẹ việc nâng cao chất lượng tín dụng, cho vay tràn lan, không kiểm tra giám sát, vấp phải các vấn đề về lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro mất vốn và nguy cơ phá sản là điều tất nhiên. Vì vậy an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là một nội dung cực kỳ quan trọng, cần phải được đặc biệt quan tâm ở bất cứ một ngân hàng nào và bản thân nó quyết định tới khả năng thu nhập lâu bền, thậm chí tới sự tồn tại của mỗi ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng là con đường đúng đắn nhất để ngân hàng bảo đảm an toàn vốn. Có rất nhiều yếu tố góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và một trong những yếu tố đó là thực hiện tốt việc phân tích tài chính khách hàng.
Đối với chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm–Hưng Yên trong phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng đã phát sinh những tồn tại như đã trình bày ở trên.Vì vậy những giải pháp để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh là:
3.2.1. Quản lý khách hàng doanh nghiệp theo nhóm ngành kinh doanh hoặc theo loại hình doanh nghiệp
Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng ngày càng phong phú đa dạng về loại hình cũng như lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Mỗi loại hình doanh nghiệp, mỗi lĩnh vực ngành nghề kinh doanh lại có những sự khác nhau về quy mô vốn, hình thức sở hữu, trách nhiệm pháp lí, mức độ phù hợp của các chỉ tiêu tài chính...Vì vậy việc phân tích đối với mỗi nhóm cũng có sự khác nhau. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng, do đặc thù của ngành là sản phẩm chậm luân chuyển, giá trị lớn và thời gian sử dụng dài nên hệ số thanh toán nhanh có thể chấp nhận ở mức thấp hơn so với ngành thương mại dịch vụ-một ngành mà hàng hoá luân chuyển nhanh. Hay những doanh nghiệp đã hoạt động trong thời gian dài, quy mô kinh doanh lớn, các báo cáo tài chính thường phức tạp hơn còn những doanh nghiệp mới thành lập, qui mô kinh doanh nhỏ, các báo cáo tài chính có thể còn nhiều thiếu sót, sơ sài...Những sự khác biệt đó đòi hỏi cần thiết phải phân công cán bộ tín dụng chuyên môn hoá phụ trách theo nhóm ngành kinh doanh hoặc theo nhóm loại hình doanh nghiệp.
- Theo nhóm ngành kinh doanh có thể phân thành:
+ Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm và ngư nghiệp.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp hoạt động đa ngành đa nghề thì phân loại theo ngành nghề/lĩnh vực nào đem lại tỉ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
- Theo nhóm loại hình doanh nghiệp có thể chia thành:
+ Doanh nghiệp nhà nước
+ Công ty tư nhân
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Công ty cổ phần
+ Công ty hợp danh
+ Công ty liên doanh
+ Công ty 100% vốn nước ngoài
Việc phân công chuyên môn hoá như vậy sẽ giúp các cán bộ tín dụng có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu, nắm vững về các doanh nghiệp mình phụ trách. Do đó có khả năng phân tích, dự báo tốt hơn, nâng cao hiệu quả công việc phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp.
3.2.2. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành đối với từng ngành nghề , lĩnh vực kinh doanh
Kỹ thuật phân tích tài chính doanh nghiệp của chi nhánh mới chỉ dừng lại ở việc so sánh sự biến động của các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp theo thời gian và đối chiếu với mức hợp lí của các chỉ tiêu áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp như:
Hệ số thanh toán ngắn hạn >1
Hệ số thanh toán nhanh = 1
Hệ số nợ = 0.5
... ... ...
nên các kết luận đưa ra không thật sự chính xác đối với tất cả các doanh nghiệp và chưa phản ánh được mức độ phát triển của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành.Do đó, để nâng cao chất lượng phân tích đánh giá tài chính doanh nghiệp, chi nhánh cần sớm xây dựng một hệ thống chỉ tiêu tài chính trung bình ngành làm cơ sở cho các cán bộ tín dụng trong quá trình làm việc. Để làm được điều này, trước tiên cần đến cả tập thể chi nhánh, đặc biệt là các cán bộ tín dụng. Sau đó, chi nhánh cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan, các ngân hàng bạn, tham khảo lại các chỉ tiêu, kết quả đã có để đề ra các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính tại chi nhánh dễ dàng và chính xác hơn. Tuy nhiên, nền kinh tế đất nước luôn vận động và thay đổi, ngân hàng cần luôn xem xét định kỳ để đánh giá các chỉ tiêu trung bình ngành cho hợp lý, không gây ra tình trạng cứng nhắc cho việc vận dụng.
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra tính chính xác của các báo cáo tài chính
Tại chi nhánh công tác kiểm tra các báo cáo tài chính doanh nghiệp mới chỉ chủ yếu tập trung ở phạm vi phát hiện sai sót, để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp thì chi nhánh cần mở rộng việc kiểm tra phát hiện các gian lận. Thông thường việc gian lận xảy ra ở các khoản mục giá trị tài sản và lợi nhuận. Để ngăn ngừa, phát hiện những sự gian lận này ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp như: Đến tận cơ sở điều tra sơ bộ về doanh nghiệp. Tìm kiếm thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp qua các báo, tạp chí chuyên ngành và các phương tiện thông tin đại chúng khác.Yêu cầu nộp báo cáo tài chính đã kiểm toán đối với các doanh nghiệp lớn, yêu cầu các doanh nghiệp nộp kèm báo cáo quyết toán thuế và hoá đơn đỏ đối với các tài sản mua ngoài, nộp bảng quyết toán các công trình xây dựng...Căn cứ vào những thông tin thu thập được cán bộ tín dụng sẽ tiến hành xác định mức trung thực hợp lí của các khoản mục trên.
3.2.4. Xem trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực , nâng cao trình độ nghiệp vụ , đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng.
Nâng cao phẩm chất và năng lực cán bộ là vấn đề bức xúc không chỉ của riêng chi nhánh mà còn là vấn đề bức xúc của toàn bộ nền kinh tế nước ta hiện nay. Chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập với khu vực và thế giới, nhân tố con người càng trở nên vô cùng quan trọng. Nền kinh tế tri thức không chấp nhận sự cần cù bù thông minh, nó đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu học tập, trau dồi không ngừng của mỗi cá nhân để phản ứng nhanh, hiệu quả trước các thời cơ đến và đi “như gió cuốn”.
Hơn bất kỳ một lĩnh vực kinh tế nào khác, hoạt động ngân hàng càng đòi hỏi điều đó. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ-Lĩnh vực chứa đựng nhiều cạm bẫy và cám dỗ, đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải tinh thông nghiệp vụ và giữ vững đạo đức nghề nghiệp, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, tạo niềm tin yêu cho khách hàng và tránh những điều đáng tiếc xảy ra.
Sớm xác định được con người là yếu tố then chốt quyết định mọi thành công trong hoạt động, là khâu trọng yếu để thực hiện chiến lược phát triển ngân hàng hiện đại, công tác đào tạo phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh đã luôn được chi nhánh quan tâm chú ý. Trong hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng của chi nhánh đã được cử theo học các lớp ngoại ngữ, vi tính, quản trị tài chính doanh nghiệp...để bổ sung, hỗ trợ, nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện hơn nữa cho các cán bộ tín dụng trong việc nâng cao khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp, chi nhánh nên khuyến khích việc học thêm ngoài giờ các kiến thức kế toán doanh nghiệp, kế toán thuế, các kiến thức kỹ thuật...bằng nhiều hình thức khác nhau như có trợ cấp cao hơn cho các cán bộ đi học...điều này vừa kích thích tinh thần học tập của các cán bộ, nâng cao chất lượng công tác vừa kích thích lòng yêu ngành, yêu nghề, gắn bó với cơ quan của của các cán bộ tín dụng.
3.2.5. Tăng thêm các chỉ tiêu trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Mặc dù đối với ngân hàng, các chỉ tiêu nêu ở chương 1 đã phản ánh được tình hình tài chính doanh nghiệp mà ngân hàng quan tâm song trong một số trường hợp cụ thể để bao quát, toàn diện hơn nữa ngân hàng nên phân tích diễn biến nguồn và sử dụng nguồn, phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích thêm một số chỉ tiêu như: Vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền trung bình.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng trong một báo cáo thẩm định có rất nhiều phần thẩm định khác nhau như: Thẩm định tư cách pháp nhân, thẩm định phương án vay vốn…Nếu khâu phân tích tài chính đi quá sâu hoặc quá dài dòng thì có thể gây thừa, lặp, chồng chéo lên nhau. Cán bộ tín dụng cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể. Với những doanh nghiệp có quy mô lớn, phức tạp, các báo cáo tài chính cũng phức tạp cho nên cần thiết phải sử dụng nhiều chỉ tiêu và nội dung phân tích để làm rõ ràng, sáng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, với những doanh nghiệp có các báo cáo tài chính đơn giản thì chỉ cần sử dụng các chỉ tiêu tài chính chủ yếu mà ngân hàng quan tâm, không gây chồng chéo, trùng lắp mà không nêu bật được vấn đề cần quan tâm.
3.2.6. Phân tích tình hình quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng
Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng nên xem xét tình hình quan hệ với ngân hàng của khách hàng trên những khía cạnh sau. Lưu ý rằng việc tìm hiểu thông tin không chỉ dừng lại ở tình hình hiện tại, mà còn cả tình hình trong quá khứ, bao gồm:
a) Xem xét quan hệ tín dụng
- Đối với chi nhánh cho vay và đối với các chi nhánh khác trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam
+ Dư nợ ngắn, trung và dài hạn (nêu rõ nợ quá hạn)
+ Mục đích vay vốn của các khoản vay.
+ Doanh số cho vay thu nợ.
+ Số dư bảo lãnh/thư tín dụng.
+ Mức độ tín nhiệm.
+ Khách hàng phải thoả mãn yêu cầu “không có nợ khó đòi hoặc nợ quá hạn trên 6 tháng tại NHNo&PTNT Việt Nam” mới được vay mới bổ sung tại NHNo&PTNT Việt Nam.
- Đối với các tổ chức tín dụng khác
+ Dư nợ ngắn, trung và dài hạn đến thời điểm gần nhất (nêu rõ nợ quá hạn).
+ Mục đích vay vốn của các khoản vay.
+ Số dư bảo lãnh/thư tín dụng.
+ Mức độ tín nhiệm.
b) Xem xét quan hệ tiền gửi
- Tại NHNo&PTNT Việt Nam
+ Số dư tiền gửi bình quân.
+ Doanh số tiền gửi, tỷ trọng so với doanh thu.
- Tại các tổ chức tín dụng khác
+ Số dư tiền gửi bình quân.
+ Doanh số tiền gửi, tỷ trọng so với doanh thu .
3.2.7. Lập quỹ hỗ trợ cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay chưa có một ngân hàng nào lập quỹ hỗ trợ cho công tác này.Việc phân tích của cán bộ tín dụng mới chỉ chủ yếu dựa vào những giấy tờ, báo cáo tài chính mà khách hàng nộp, dựa vào thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng CIC và những linh cảm, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng đúc kết lại.Việc điều tra trực tiếp tại cơ sở sản xuất kinh doanh, điều tra thông qua các bạn hàng của doanh nghiệp, qua các cơ quan chức năng như thuế, pháp luật...hay phỏng vấn chủ doanh nghiệp, phỏng vấn nhân viên của doanh nghiệp...diễn ra còn lẻ tẻ, mang tính hình thức, ngân hàng chưa thực sự khai thác được tiềm năng của nguồn thông tin này. Trong khi đó, thông tin từ điều tra thực tế lại có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cán bộ tín dụng loại trừ được những báo cáo tài chính “ ma “ và hiểu sâu hơn về doanh nghiệp. Do vậy, ngân hàng nên lập quỹ hỗ trợ công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để khuyến khích các cán bộ tín dụng thu thập thông tin thực tế nhiều hơn bởi để có thông tin thực tế đòi hỏi tốn kém nhiều về thời gian, công sức cũng như chi phí trang trải cho việc đi lại, giao tiếp…
3.3. Kiến nghị với cơ quan hữu quan
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
a) Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC
Trung tâm thông tin tín dụng CIC được thiết lập nhằm hình thành cơ sở dữ liệu tập trung về khách hàng phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng thông qua việc tạo ra một cơ chế thu thập, tổng hợp, xử lý, lưu trữ và chia sẻ thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thông tin tín dụng đầy đủ, chính xác và có hệ thống về khách hàng sẽ góp phần đánh giá đúng tài chính khách hàng, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro lựa chọn đối nghịch do thiếu thông tin hay thông tin bất cân xứng về khách hàng và đối tượng đầu tư. Với vai trò quan trọng của thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC bằng việc thực hiện những giải pháp như:
- Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động.
- Tuyển chọn và nâng cao trình độ cán bộ của CIC.
- Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin tín dụng
- Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về tác nghiệp như nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, quy trình thu thập, các tiêu thức phân tích đánh giá…
- Ban hành các quy định bắt buộc các NHTM và các tổ chức tín dụng khai thác, tham gia CIC, coi đó như quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Mở rộng phạm vi thu thập thông tin, áp dụng công nghệ hiện đại trong thu thập, xử lý và cung cấp thông tin.
- Đa dạng hoá thông tin đầu ra .
Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành
Các chỉ tiêu trung bình ngành là một căn cứ quan trọng làm tiêu chuẩn cho kết quả cuối cùng của công tác phân tích đánh giá tình hình tài chính, nó giúp cho cán bộ tín dụng không làm theo cảm tính , kinh nghiệm mà làm một cách khoa học, có căn cứ cụ thể. Do đó, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành kinh doanh cho toàn bộ ngành Ngân hàng Việt Nam áp dụng, không gây ra sai lệch giữa các ngân hàng trong hệ thống hoặc giữa các chi nhánh trong cùng ngân hàng, giải pháp có thể là:
Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan hữu quan phối hợp để nghiên cứu, tính toán đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành.
Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để có các chỉ tiêu trung bình ngành sử dụng cho toàn quốc thì bản thân Ngân hàng Nhà nước có thể tự nghiên cứu, cùng với sự đóng góp của các ngân hàng trung gian để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.
3.3.2. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam
a) Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác đào tạo
Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình hội nhập với khu vực và quốc tế hiện nay, không chỉ riêng cán bộ ngân hàng mà tất cả mọi người, những ai muốn theo kịp sự phát triển của xã hội và làm việc có hiệu quả đều phải không ngừng trau dồi và trang bị kiến thức mới. Nhận thức được vấn đề này, ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam đã xem xét và thực hiện nhiều chương trình như cử cán bộ đi học hay mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ và trang bị mới về kiến thức. Tuy nhiên, các chỉ tiêu nằm trong chương trình vẫn còn nhỏ so với nhu cầu và công tác đào tạo nhiều khi mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. NHNo&PTNT cần có những biện pháp để mở rộng và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác đào tạo như áp dụng các hình thức khuyến khích cán bộ đi học thêm ngoài các chỉ tiêu đưa xuống. Ưu điểm của phương pháp này là cán bộ tự nguyện đi học bằng kinh phí của mình, theo nhu cầu riêng của bản thân nên hiệu quả học tập có thể cao hơn, thời gian học là ngoài giờ làm việc, không ảnh hưởng đến công tác tại cơ quan. Các hình thức khuyến khích có thể là: Tăng thêm phụ cấp, giúp đỡ một phần học phí…
b) Nâng cao chất lượng tuyển dụng
Hàng năm NHNo&PTNT Việt Nam đều tổ chức các đợt thi nhằm tuyển dụng các cán bộ ngân hàng trẻ, giàu kiến thức để phục vụ cho chiến lược phát triển NHNo&PTNT Việt Nam đa năng và hiện đại. Đây là việc làm rất sáng suốt song công tác tổ chức thi tuyển ở nhiều chi nhánh còn tồn tại những vấn đề bất cập, còn xảy ra những hiện tượng tiêu cực. Để thực sự tuyển đúng người đúng việc, đúng năng lực, trình độ Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp như: Tổ chức thi cùng đề, cùng ngày trong toàn hệ thống, thực hiện công tác coi thi chéo và chấm chéo...
3.3.3. Kiến nghị với Bộ Tài Chính
Hiện nay chế độ kế toán tài chính nước ta còn nhiều bất cập, do vậy việc Bộ Tài Chính thường xuyên ban hành các văn bản điều chỉnh là điều tất nhiên. Song xin kiến nghị với Bộ Tài Chính rằng việc bổ sung, điều chỉnh cần được công bố rộng rãi và phải có hiệu lực bắt buộc thi hành tránh tình trạng nơi thực hiện nơi không gây ra hiện tượng không thống nhất trong việc sử dụng tên gọi cũng như cách tính toán. Chẳng hạn, trong bảng cân đối kế toán, mục Tài sản trước kia được chia thành 2 mục nhỏ là: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; Tài sản cố định và đầu tư dài hạn, hiện nay nó được chia thành Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn. Khi lập báo cáo tài chính, nhiều doanh nghiệp lập theo cách mới nhưng cũng nhiều doanh nghiệp vẫn lập theo cách cũ. Điều này cũng gây cho ngân hàng sự không thống nhất khi tính toán các chỉ tiêu tài chính và ảnh hưởng tới chất lượng công tác phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn là đối tượng khách hàng quan trọng của NHTM. Đây là những khách hàng lớn và thường xuyên bởi vậy chúng luôn là đối tượng mà ngân hàng muốn hướng tới. Bất kỳ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp, song việc mở rộng tín dụng phải luôn gắn liền với việc đảm bảo chất lượng tín dụng vì mục đích tăng trưởng và phát triển bền vững của ngân hàng. Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là điều mà mỗi ngân hàng luôn quan tâm chú trọng trong nỗ lực vì mục đích trên.
Thông qua quá trình tìm hiểu lý luận và thực tiễn hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại chi nhánh NHNo&PTNT Văn Lâm-Hưng Yên em đã đưa ra một số giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm nâng cao chất lượng công tác này tại chi nhánh. Mong rằng những giải pháp đó sẽ có tính ứng dụng thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình tín dụng Ngân hàng, Học viện ngân hàng, 2004
Nguyễn Đăng Nam, PGS.TS. Nguyễn Đình Kiệm, “Quản trị tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Tài Chính, 2004.
Sổ tay tín dụng AGRIBANK, 2004.
TS. Lê Thị Xuân, “Phân tích hoạt động kinh doanh”, Nhà xuất bản Thống Kê, 2005.
TS. Tô Kim Ngọc, “Lý thuyết tiền tệ-Ngân hàng”, Nhà xuất bản Thống Kê, 2004.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32308.doc