Chuyên đề Phân tích tình hình huy động vốn tại quỹ tiết kiệm trung tâm – ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn

LỜI MỞ ĐẦU: - Trong giai đoạn phát triển và đổi mới đất nước, nhu cầu vế vốn đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn và cấp thiết. Vốn đầu tư có thể được tạo lập từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nguồn tích luỹ trong nước vẫn là chủ yếu và ngày càng đóng vai trò quyết định. - Hiện nay ở nước ta các ngân hàng đang ngày càng củng cố và hoàn thiện hơn tạo lòng tin ở công chúng nên họ đã từng bước sử dụng ngày càng nhiều hơn các dịch vụ của ngân hàng tạo được một nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận công chúng vẫn chưa an tâm khi gởi tiền vào ngân hàng, số tiền nhàn rỗi này sử dụng chưa thật sự hiệu quả gây tổn thất cho nền kinh tế. Đây là một vấn đề tồn tại lớn về tổ chức lưu thông tiền tệ mà chúng ta cần phải cải thiện, tạo lập dần tập quán gởi tiền và thanh toán qua ngân hàng. - Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhu cầu sử dụng vốn ngày càng gia tăng. Nguồn vốn cho nền kinh tế chủ yếu là do ngân hàng đảm nhiệm. Vì vậy, các ngân hàng đã áp dụng nhiều phương pháp nhằm thu hút hiệu quả mọi nguồn vốn nhưng căn bản vẫn là dựa vào tiết kiệm, tích luỹ trong nước của mọi thành phần kinh tế. - Nhận thức được vấn đề này nên em đã chọn đề tài: ”Phân tích tình hình huy động vốn tại Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm – Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn”. - Với những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường cùng với thời gian công tác thực tập tại ngân hàng, bản thân đã cố gắng song chuyên đề không thể trách khỏi những hạn chế. Rất mong được sự quan tâm hướng dẫn của Quý Thầy, Cô, cùng các Anh, Chị trong ngân hàng nhằm giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này. - Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu tình hình huy động vốn của ngân hàng trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp. - Hạn chế của đề tài: vì thời gian thực tập tại ngân hàng tương đối ngắn và những kiến thức tích luỹ được còn hạn hẹp nên việc kết hợp giữa lý thuyết và thực tế còn hạn chế, do đó chuyên đề không thể trách khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm của Quý Thầy Cô.

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình huy động vốn tại quỹ tiết kiệm trung tâm – ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu cầu bổ sung hoặc làm mới Bước 3: Xử lý chứng từ, hạch toán Thực hiện: Giao Dịch Viên + Khách hàng rút tiền gởi tiết kiệm tạo bút toán hạch toán in phiếu giao dịch (Giấy lĩnh tiền) + Ký trên chứng từ, chuyển sang bước 4 Bước 4: Kiểm soát và duyệt Thực hiện: Trưởng Quỹ Tiết Kiệm + Kiểm soát chứng từ, hạch toán + Nếu chấp nhận giao dịch, duyệt, ký tên chứng từ, chuyển sang bước 5 Bước 5: Chi tiền Thực hiện: Thủ Quỹ + Thủ Quỹ căn cứ chứng từ đã có chữ ký duyệt của cấp có thẩm quyền giao đủ số tiến ghi trên chứng từ cho khách hàng + Trình tự chi tiền thực hiện theo đúng quy định + Trả khách hàng 1 liên giấy lĩnh tiền hoặc bản sao phiếu chi Bước 6: Tổng hợp lưu trữ hồ sơ Thực hiện: Giao Dịch Viên + Tổng hợp lưu hồ sơ, chứng từ theo quy định + Lập các báo cáo có liên quan 2.1.4.2. Tiền gởi không kỳ hạn: Đây chính là tiền gởi thanh toán của các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu thanh toán qua ngân hàng. Loại tiền gởi này lãi suất thấp vì ngân hàng không chủ động trong công tác cho vay. Mặt khác loại tiền gởi thanh toán này ngân hàng phải thường xuyên thu và chi trả theo yêu cầu của khách hàng nên tốn kém chi phí về kiểm đếm, bảo quản… Khách hàng có thể rút vốn ra bất kỳ lúc để phục vụ cho việc chi trả qua các hình thức phát hành séc, lập uỷ nhiệm chi, lệnh chi… a. Những quy định chung về tiền gởi không kỳ hạn: Việc mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng và thực hiện thanh toán qua tài khoản được ghi bằng VND.Trường hợp mở tài khoản bằng VND và thanh toán bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ Việt Nam ban hành. Để đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản phải có đủ tiền trên tài khoản. Mọi trường hợp vượt quá số dư trên tài khoản tiền gởi tại ngân hàng là phạm pháp và bị xử lý theo pháp luật. Ngân hàng có trách nhiệm: + Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản đảm bảo chính xác, an toàn, thuận tiện. Ngân hàng có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hoặc bằng chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gởi theo yêu cầu của chủ tài khoản. + Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật. Ngân hàng chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản khách hàng cho các cơ quan ngoài ngân hàng khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. b. Đối tượng mở tài khoản,Thủ tục mở tài khoản: Đối tượng mở tài khoản: Tài khoản tiền gởi VND: Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam, người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam. Tài khoản tiền gởi ngoại tệ: bao gồm người cư trú, người không cư trú có nguồn thu ngoại tệ hợp pháp từ các giao dịch vãng lai, giao dich vốn; hoặc được chính phủ, ngân hàng nhà nước cho phép thu ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Thủ tục mở tài khoản: Đối với khách hàng là các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang: + Giấy đăng ký mở tài khoản phải do chủ tài khoản ký tên đóng dấu. Trong đó ghi rõ: Tên đơn vị Họ và tên chủ tải khoản. Địa chỉ giao dịch của đơn vị. Số, ngày tháng năm cấp, nơi cấp chứng minh thư, hộ chiếu của chủ tài khoản Tên ngân hàng nơi mở tài khoản. Mẫu dấu của đơn vị. Mẫu chữ ký để giao dịch với ngân hàng nơi mở tài khoản: Chữ ký của chủ tài khoản và của những người được uỷ quyền ký thay chủ tài khoản (chữ ký thứ nhất). Chữ ký của kế toán trưởng và của những người được uỷ quyền ký thay kế toán trưởng (chữ ký thứ hai). Mã số thuế đơi vị: + Các văn bản chứng minh tư cách pháp nhân, quyền hạn của đơn vị Quyết định thành lập đơn vị, giấy đăng ký kinh doanh, quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc, Giám đốc, Thủ trưởng đơn vị, Kế toán trưởng…nếu là bản sao phải có chứng nhận của công chứng nhà nước. Đối với khách hàng là cá nhân: + Giấy đăng ký mở tài khoản VND hoặc ngoại tệ do chủ tài khoản (là người gởi tiền) ký tên trong đó ghi rõ: Họ tên chủ tài khoản, địa chỉ giao dịch, chữ ký của chủ tài khoản, số và ngày tháng năm cấp chứng minh thư của chủ tài khoản (CMND, Hộ chiếu…). Quy trình nghiệp vụ mở tài khoản KHÁCH HÀNG GIAO DỊCH VIÊN TRƯỞNG QUỸ TIẾT KIỆM Nhu cầu mở Tài khoản Không đạt Yêu cầu bổ Sung hoặc Làm mới Thông báo số tài khoản Tiếp nhận Nhu cầu Kiểm soát Mở Tài khoản (1) (2) Đạt (3) Trả thông báo cho khách hàng Tổng hợp lưu hồ sơ Duyệt Kiểm soát Không chấp nhận (4) Chấp nhận Bước 1: Tiếp nhận yêu cầu mở tài khoản: Thực hiện: Giao Dịch Viên + Giấy đăng ký mở tài khoản (3 liên) + Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu Bước 2: Kiểm soát hồ sơ mở tài khoản: Thực hiện: Giao Dịch Viên + Đối tượng mở tài khoản + Giấy đăng ký mở tài khoản. Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu + Nếu khách hàng không thuộc đối tượng hoặc giấy tờ tuỳ thân chưa hợp lệ thì chuyển trả cho khách hàng và hướng dẩn bổ sung làm mới. + Nếu chấp nhận yêu cầu thì chuyển sang bước 3. Bước 3: Mở tài khoản: Thực hiện: Giao dịch viên + Nhập dữ liệu thông tin + Lấy số hiệu tài khoản + Ký tên chứng từ Bước 4: Duyệt mở tài khoản: Thực hiện: Trưởng quỹ tiết kiệm + Kiểm soát toàn bộ hồ sơ + Nếu chấp nhận mở tài khoản cho khách hàng, ký, duyệt - chuyển thực hiện sang bước 5 + Nếu không chấp nhận chuyển trả lại hồ sơ cho giao dịch viên kèm lý do yêu cầu. Bước 5: Thông báo số tài khoản cho khách hàng, tổng hợp lưu hồ sơ: Thực hiện: Giao Dịch Viên: + Giao dịch viên trả cho khách hàng một liên giấy đề nghị mở tài khoản trong đó ghi rõ số hiệu tài khoản đã mở cho khách hàng. + Giao dịch viên lưu một liên mẫu dấu chữ ký của khách hàng kèm toàn bộ hồ sơ tài khoản; một liên lưu để đối chiếu chữ ký khi khách hàng đến giao dịch d. Sử dụng tài khoản: Đối với chủ tài khoản: - Chủ tài khoản phải luôn duy trì số dư tối thiểu trên tài khoản. Chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản tiền gởi trên cơ sở tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối hiện hành trừ trường hợp có quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền được pháp luật quy định. Trong phạm vi số dư tài khoản tiền gởi và tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài khoản có thể thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng hoặc rút tiền mặt ra đề sử dụng. Chủ tài khoản chịu trách nhiệm về những sai sót, lợi dụng trên các giấy tờ thanh toán qua ngân hàng của những người được chủ tài khoản uỷ quyền ký thay. Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, chủ tài khoản phải tuân thủ những quy định và hướng dẫn của ngân hàng về việc thành lập giấy tờ thanh toán, phương thức nộp, lĩnh tiền của ngân hàng.Trên các giấy tờ thanh toán, các chữ ký và dấu phải đúng mẫu đã đăng ký tại ngân hàng. Chủ tài khoản phải tổ chức hạch toán, theo dõi số dư tài khoản tại ngân hàng. Trong phạm vi ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được giấy báo nợ, giấy báo có về các khoản giao dịch, sổ chi tiết tài khoản do ngân hàng gởi tới, chủ tài khoản phải đối chiếu với sổ sách của mình, nếu có chênh lệch thì phải báo ngay cho ngân hàng biết để cùng nhau đối chiếu, điều chỉnh số liệu cho khớp đúng. Đối với ngân hàng: Việc trích tài khoản tiền gởi của khách hàng để thực hiện chi trả phải có yêu cầu của chủ tài khoản (chủ tài khoản có lệnh thanh toán hoặc thoả thuận với ngân hàng về uỷ quyền ghi nợ) trừ trường hợp chủ tài khoản vi phạm pháp luật chi trả hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền buộc chủ tài khoản phải thanh toán, ngân hàng được quyền trích tài khoản tiền gởi của khách hàng để thực hiện. Trong trường hợp ngân hàng làm đại lý thì việc thực hiện lệnh của chủ tài khoản phải có sự chấp thuận (hoặc phù hợp) với yêu cầu quản lý của tổ chức uỷ thác. Ngân hàng có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán qua ngân hàng của khách hàng, đảm bảo lập đúng thủ tục quy định, dấu và chữ ký đúng với mẫu đã đăng ký, chứng minh thư (hoặc giấy tờ tuỳ thân khác) khả năng thanh toán đảm bảo đủ chi trả. Ngân hàng có quyền từ chối thanh toán nếu các giấy tờ thanh toán không đủ các điều kiện trên. Khi phát sinh các nghiệp vụ giao dịch trên tài khoản của khách hàng, Ngân hàng phải gởi đầy đủ, kịp thời các giấy báo nợ, giấy báo có, sổ chi tiết cho chủ tài khoản biết. e. Quản lý lưu hồ sơ mở tài khoản: Hồ sơ tài khoản và quản lý tài khoản của khách hàng là giấy tờ quan trọng, vì vậy việc quản lý phải tuân thủ các quy định về đối chiếu trong kiểm tra, cung cấp thông tin, lưu trữ theo quy định hiện hành. Mọi thay đổi đối với hồ sơ mở tài khoản phải được cập nhật tức thời, việc mở thêm tài khoản cho khách hàng phải được ghi chép đầy đủ vào hồ sơ và thông báo cho bộ phận liên quan biết. Giấy đăng ký mở tài khoản sau khi ngân hàng chấp thuận mở tài khoản được sử dụng như sau: + Một liên đăng ký giấy mở tài khoản trả cho khách hàng trong đó đã ghi số hiệu tài khoản đã mở. + Một liên giao dịch viên lưu để kiểm tra khi thực hiện lệnh thanh toán. f. Đóng tài khoản: Ngân hàng đóng tài khoản của khách hàng khi: + Chủ tài khoản có văn bản yêu cầu tất toán tài khoản. + Tài khoản hết số dư và ngừng giao dịch trong sáu tháng liên tục. + Doanh nghiệp hết thời hạn hoạt động kinh doanh theo quy định. + Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Tại chi nhánh phải niêm yết thông báo các nội dung về đóng tài khoản khi làm thủ tục mở tài khoản cho khách hàng biết. Sau khi tất toán tài khoản khách hàng có nhu cầu giao dịch tiếp thì phải lập các thủ tục để mở tài khoản theo quy định. Khi tất toán tài khoản khàch hàng phải nộp lại các tờ séc trắng chưa sử dụng. 2.1.4.3. Tiền gởi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gởi của các doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập tạm thời chưa sử dụng trong một thời gian nhất định có thể gởi vào ngân hàng dưới hình thức ký thác có kỳ hạn. Theo nguyên tắc đối với loại tiền gởi này, người gởi chỉ được rút ra khi đáo hạn, tuy nhiên trên thực tế do áp lực của cạnh tranh mà các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với điều kiện là người gởi không được trả lãi suất. Khác với tiền gởi không kỳ hạn, tiền gởi định kỳ là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy, mục đích gởi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Đối với ngân hàng tiền gởi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà các ngân hàng chi trả cho loại tiền gởi này cao hơn lãi suất chi trả cho tiền gởi không kỳ hạn. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gởi tiền theo kỳ hạn dài ngân hàng thường áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Những quy định đối với tiền gởi có kỳ hạn tương tự như những quy định đối với tiền gởi tiết kiệm định kỳ. 2.1.4.4. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá – kỳ phiếu: Giấy tờ có giá là những chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các khoản cam kết khác giữa ngân hàng và người mua. Một giấy tờ có giá thường kèm theo các thuộc tính sau: + Mệnh giá – là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ. + Thời hạn giấy tờ có giá – là khoản thời gian từ ngày tổ chức tín dụng nhận nợ đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ. + Lãi suất được hưỡng – là lãi suất để tính lãi cho người mua giấy tờ có giá được hưởng. SCB phát hành kỳ phiếu có mục đích bằng VND và USD bổ sung nguồn vốn hoạt động + Đối tượng mua kỳ phiếu: các tổ chức cá nhân Việt Nam; các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. + Kỳ phiếu có mục đích của SCB được phát hành theo mẫu in riêng thống nhất trong toàn hệ thống, không in mệnh giá, kỳ phiếu được thanh toán tại các điểm giao dịch của SCB. + Thời hạn của kỳ phiếu: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 364 ngày + SCB phát hành kỳ phiếu bằng VND và USD có loại ký danh (có ghi tên người mua) hoặc vô danh (không ghi tên người mua) + Kỳ phiếu có mục đích của SCB phát hành có mệnh giá tối thiểu 500.000đ đối với kỳ phiếu bằng VND và 50USD đối với kỳ phiếu bằng USD, không hạn chế mức tối đa + Lãi suất kỳ phiếu VND được tính theo tỷ lệ %/tháng và số ngày tính lãi một năm được tính trên cơ sở 360 ngày, lãi suất kỳ phiếu bằng USD được tính theo tỷ lệ %/năm và số ngày tính lãi một năm 360 ngày. + Đối với kỳ phiếu trả lãi trước, tiền lãi được trả ngay khi mua kỳ phiếu.Kỳ phiếu trả lãi định kỳ, tiền lãi được trả theo định kỳ do SCB qui định.Kỳ phiếu trả lãi sau, lãi được trả một lần khi đến hạn. 2.1.4.5. Các nguồn vốn huy động khác: Vốn hình thành trong lĩnh vực thanh toán như tiền ký quỹ mở thư tín dụng, séc bảo chi… Nguồn vốn này được hình thành khi khách hàng muốn sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Khách hàng sẽ mở tài khoản và ký quỹ một số tiền để ngân hàng thanh toán khi khách hàng có yêu cầu. Phân tích tình hình huy động vốn: Tổng quan về môi trường kinh tế: Với chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế nhằm thực hiện tốt kế hoạch 5 năm (2001-2005) nên nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của toàn xã hội liên tục tăng cao. Bên cạnh hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn chủ lực, các tổ chức tài chính – tín dụng phi ngân hàng đang đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn trung dài hạn và chia sẽ đáng kể thị phần huy động vốn trong nước. Để giữ vững thị phần và đảm bảo đủ nguồn vốn phục vụ khách hàng, các ngân hàng thương mại kể cả những ngân hàng thương mại nhà nước, bước vào cuộc đua tranh lãi suất khá quyết liệt bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp tăng lãi suất thông qua các hình thức khuyến mãi như:tiết kiệm dự thưởng, lãi suất bậc thang, gởi tiết kiệm có quà tặng,…Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác phát triển mạng lưới và tăng vốn điều lệ để tạo cơ sở phát triển vững chắc cho năm 2006 và những năm tiếp theo. Trước tình hình thị trường tiền tệ Việt Nam liên tục nóng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, 3 lần tăng lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn. So với cuối năm 2004, mặt bằng lãi suất thị trường đều tăng khá mạnh: lãi suất huy động VND tăng 0.5-1.5%/năm, lãi suất cho vay tăng 0.5- 1.4%/năm, lãi suất huy động USD tăng 0.8-1.1%/năm, lãi suất cho vay tăng 0.5-1.1%. Tuy hiệp hội ngân hàng đã phát huy vai trò trung gian cho các thoả thuận chung về lãi suất của các ngân hàng thương mại nhưng vẫn có một số ngân hàng tăng vượt thoả thuận này. Bên cạnh đó, với việc Vietcombank – Ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại liên tục tăng lãi suất huy động USD kéo theo việc tăng lãi suất dây chuyền của các tổ chức tín dụng khác. Năm 2005, hệ thống ngân hàng cũng đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới, hiện đại như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,… nhằm tăng thêm tiện ích đến với khách hàng. Các ngân hàng, cả trong nước và nước ngoài, cùng đẩy mạnh hợp tác để mở rộng hoạt động kinh doanh như: Ngân hàng Đầu tư & Phát Triển Việt Nam – Ngân hàng TMCP Sài Gòn, SWtandard Chartered Bank – ACB, ANZ – Sacombank,…Và các ngân hàng nước ngoài bắt đầu thâm nhập sau hơn vào thị trường trong nước bằng việc cung cấp một số sản phẩm dịch vụ cao cấp phục vụ cho khách hàng tại Việt Nam. Tình hình huy động vốn tại SCB: Bảng 2.1: Tổng nguồn vốn huy động qua các năm Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng nguồn vốn 1134 2269 4071 (Nguồn: Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn) Tổng nguồn vốn năm 2004 đạt 2269 tỷ đồng tăng 100,7% so với năm 2003, năm 2005 đạt 4071 tỷ đồng tăng 79,42% so với năm 2004. Trong năm SCB đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp tích cực và hiệu quả như: đẩy mạnh công tác tiếp thị và thực hiện các chính sách khuyến mãi phong phú hấp dẫn, mang tính xã hội cao, nên làm cho nguồn vốn huy động của SCB tăng lên. Biểu đồ 2.1 Đến ngày 31/12/2005, tổng nguồn vốn của từng Ngân hàng TMCP Sài Gòn đạt 4.071 tỷ đồng, tăng 1.778 tỷ đồng ( tương đương 77,53%) so với đầu năm, đạt 131,68% kế hoạch cả năm đề ra. Bao gồm: + Vốn điều lệ: Đến cuối năm 2005 của SCB là 217,8 tỷ đồng, tăng 121,8 tỷ ( + 81,19 %) so với đầu năm. Trong năm, SCB đã hai lần thực hiện tăng vốn điều lệ: từ 150 tỷ lên 250 tỷ đồng (từ việc phát hành cổ phiếu) và từ 250 tỷ đồng lên 271,8 tỷ ( từ nguồn Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ). Việc phát hành cổ phiếu không chỉ tăng vốn điều lệ cho ngân hàng mà còn mang lại một khoản thặng dư dùng để dự trự bổ sung vốn điều lệ. Nhờ vậy, các tỷ lệ về an toàn vốn trong hoạt động của Ngân hàng dược cải thiện đáng kể. Năng lực tài chính tăng lên, hoạt động cùa SCB cũng khởi sắc. Tuy nhiên, do Đại hội cổ đông thường niên 2004 đến đầu tháng 7/2005 mới tổ chức được nên việc tăng vốn đợt 1 kéo dài đến cuối quý 3/2005 mới hoàn tất, do đó trong những tháng đầu năm 2005 hoạt động của SCB gặp không ít khó khăn về căn đối vốn, gây áp lực lớn về tăng trưởng và lợi nhuận trong những tháng cuối năm. + Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế - dân cư: 1.616 tỷ đồng, tăng hơn 219 tỷ đồng (15,8%) so với đầu năm, đạt 78,7 % kế hoạch cả năm. Trong đó: Theo loại hình kinh tế: Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: 328,9tỷ đồng, giảm hơn 158 tỷ (32,6%) so với đầu năm, đạt 51,8 % kế hoạch năm. Tiền gửi dân cư: 1.278 tỷ đồng, tăng 379 tỷ (26, 9%) so với đầu năm, đạt 90,8 % kế hoạch năm. Theo loại tiền: Tiền gửi VND: 1.380 tỷ đồng, tăng gần 229 tỷ (19, 88%) so với đầu năm. Tiền gửi bằng ngoại tệ và vàng quy đổi: 236 tỷ đồng, giảm 9 tỷ (3, 75%) so vớ đầu năm. Tiền gửi từ 12 tháng trở lên: 847 tỷ đồng. Tăng 314 tỷ (58,91%) so với đầu năm, đạt 97,81% kế hoạch năm. + Vốn liên ngân hàng: 2.012 tỷ đồng, tăng 1.350 tỷ (58,91%) so với đầu năm, vượt kế hoạch cả năm 187,5%.Trong đó, nhận vốn liên ngân hàng ròng 1.803 tỷ đồng. Bảng 2.2: Tình hình tăng trưởng nguồn vốn huy động năm 2005 Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 12/04 1/05 2/05 3/05 4/05 Tổng vốn huy động 2059 2108 2051 2089 2118 Tiền gởi TCKT 488 427 386 341 297 Tiền gởi tiết kiệm 909 996 1043 1097 1111 Tiền gới liên ngân hàng 662 684 621 652 708 5/05 6/05 7/05 8/05 9/05 10/05 11/05 12/05 2132 2283 2455 2450 2532 2689 3150 3629 306 424 342 289 271 288 294 329 1726 1119 1117 1141 1108 1190 1239 1288 7oo 740 796 1020 1153 1211 1617 1012 (Nguồn: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.2: Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: + Trong năm 2005, nguồn vốn huy động bằng tiền gởi tiết kiệm tăng là do ngân hàng đưa ra những chương trình tiết kiệm dự thưỏng thu hút được rất nhiều khách hàng gởi tiền vào SCB. Tiền gởi của các tổ chức kinh tế giảm do ngân hàng chưa có chính sách hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này.Tiền gởi liên ngân hàng tăng cao là do các nguồn vốn huy động trên chưa đáp ứng được mục tiêu kinh doanh của ngân hàng nên ngân hàng chủ động tăng nguồn vốn này. Cơ cấu nguồn vốn huy động: Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn năm 2004 Chỉ tiêu Tỷ lệ Vốn điều lệ 7% Vốn liên ngân hàng 29% Vốn huy động TCKT và dân cư 60% Vốn khác 4% (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.3: Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn năm 2005 Chỉ tiêu Tỷ lệ Vốn điều lệ 7% Vốn liên ngân hàng 49% Vốn huy động 40% Vốn huy động khác 4% (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.4: Bảng 2.5: Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền năm 2004 Chỉ tiêu Tỷ lệ Tiền gởi VND 81,68% Tiền gởi ngoại tệ 18,32% (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.5: Bảng 2.6: Tình hình huy động vốn theo loại tiền năm 2005 Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu Số tiền Tiền gởi VND 1380 Tiền gởi ngoại tệ và vàng quy đổi 236 (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.6: Bảng 2.7: Tình hình huy động vốn theo loại hình kinh tế năm 2005 Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu Số tiền Tiền gởi của tổ chức kinh tế 328,9 Tiền gởi của dân cư 1287 (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.7: Bảng 2.8: Tình hình huy nguồn vốn theo kỳ hạn năm 2005 Chỉ tiêu Tỷ lệ Kỳ hạn dưới 12 tháng 76% Kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng 19% Kỳ hạn tên 24 tháng 5% (Nguồn: Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.8: Nhận xét: Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn ta thấy: + Về cơ cấu nguồn vốn năm 2004 chủ yếu là vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư, nhưng năm 2005 chủ yếu là vốn liên ngân hàng. Vốn huy động từ tổ chức kinh tế năm 2004 chiếm 60% tổng nguồn vốn đến năm 2005 chỉ còn 40% tổng nguồn vốn, ngược lại vốn liên ngân hàng từ 29% tồng nguồn vốn tăng lên 49% tổng nguồn vốn. + Trong hai năm 2004, 2005 huy động VND vẫn chiếm tỷ trọng cao. - Tổng nguồn vốn đạt 4071 tỷ đồng, tăng 79,42% so năm 2004. Trong đó, vốn điều lệ 271,78 tỷ đồng, chiếm 6,67% tổng nguồn vốn, tăng 121,78 tỷ. Nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư chiếm 40% tổng nguồn vốn; trong đó tiền gởi tiết kiệm của dân cư liên tục tăng khá ổn định, đạt 1287 tỷ đồng. Nguồn vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng ổn định và tăng trưởng khá, tuy chiếm tỷ trọng tương đối cao (trên 40%) nhưng SCB luôn đảm bảo thanh toán kịp thời, đúng hạn, tạo dựng chữ tín trên thị trường Nhìn chung, công tác huy động vốn của hệ thống ngân hàng trên địa bàn TPHCM nói chung và của SCB nói riêng trong năn 2005 gặp rất nhiều khó khăn. Để thu hút đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu của khách hàng, các ngân hàng bạn, kể cả các ngân hàng thương mại nhà nuớc, đã liên tục cạnh tranh bằng việc tăng lãi suất, khuyến mãi… làm giảm sức hấp dẫn của các sản phẩm tiết kiệm của SCB, mà thế mạnh chủ yếu vẫn là lãi suất, Do quy mô tài chính và khả năng cạnh tranh còn thấp, SCB khó có thể điếu chỉnh lãi suất huy động linh hoạt theo biến động thị trường. Trong tình hình đó, tốc độ tăng tiền gửi tiết kiệm tại SCB gần 27% so với đầu năm cùng với một cúp vàng “ Sản phẩm uy tín chất lượng” do khách hàng bình chọn qua mạng Thuonghieuviet.com đối với sản phẩm Tiết kiệm dành cho khách hàng trên 50 tuổi và Tiết kiệm tích luỹ linh hoạt là những thành quả rất đáng khích lệ , phản ánh sự tín nhiệm của khách hàng ngày càng cao và thương hiệu Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB đang ngày càng trở nên quen thuộc trên thị trường. Ngược lại với tình hình khả quan của công tác huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đến cuối năm 2005 giảm 32,55% so với đầu năm. Tình trạng này, ngoài những lý do khách quan (chi trả tiền gửi cho một số doanh nghiệp thuộc khối Bưu điện), còn có nguyên nhân từ những vấn đề về cơ chế nội bộ của SCB như mặt bằng lãi suất cho vay còn cao, các loại hình dịch vụ phát triển chậm…, dẫn đến việc một số khách hàng doanh nghiệp có lượng tiền gửi lớn chuyển sang gửi ở ngân hàng khác. Đến nay nhờ hoạt động của SCB luôn duy trì ổn định và công tác tiếp thị bước đầu phát triển hiệu quả, bắt đầu từ tháng 10/2005, nguồn tiền gửi này có tăng nhẹ trở lại nhưng vẫn còn thấp hơn so với đầu năm. Để đẩy mạnh quy mô hoạt động, đảm bảo hoàn thành tốt mục tiêu kinh doanh đã đề ra, trong điều kiện nguồn vốn huy động còn gặp nhiều khó khăn, SCB buộc phải tăng cường huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đến cuối năm 2005, vốn vay liên ngân hàng ròng là 1.803 tỷ đồng, trong đó phần lớn là khoản vay theo hạn mức không đối ứng và được duy trì thường xuyên nên không ảnh hưởng đến tình hình thanh khoản của ngân hàng. Việc tăng mạnh nguồn vốn liên ngân hàng cũng phản ánh mối quan hệ tốt và sự tin cậy lẫn nhau giữa SCB và các ngân hàng bạn, đặc biệt là uy tín của SCB trong hệ thống ngân hàng tại địa bàn TPHCM nói riêng và Việt nam nói chung cải thiện đáng kể. Như vậy, ngoài việc duy trì mức tăng trưởng của tiền gởi tiết kệm, công tác huy động vốn cần phải đặc biệt chú trọng tiếp thị, thu hút tiền gởi của các doanh nghiệp, cải thiện cơ cấu nguồn vốn, giảm sự phụ thuộc vào vốn liên ngân hàng, nâng cao vị thế của SCB trên thị trường. Công tác huy động vốn phải được xem là hoạt động nền móng, tạo điều kiện cho mỗi đơn vị nói riêng và toàn SCB vận hành thông suốt. Bảng 2.9: Kết quả kinh doanh toàn hàng năm 2005 Đơn vị tính: Triệu đồng Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 2821 1647 2150 2567 3804 6587 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 766 4663 4352 3832 7577 5929 (Nguồn Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn) Biểu đồ 2.9: Như vậy, trong năm 2005 hoạt động của SCB luôn có lãi qua các tháng. Đến cuối năm, lợi nhuận đã vượt kế hoạch đặt ra, đây là một thắng lợi lớn của toàn ngân hàng. So với năm 2004, hoạt động của SCB năm 2005 đã mang lại hiệu quả tài chính đáng kể.Tổng thu nhập năm 2005 là 304,2 tỷ đồng, tăng 49,8% so với năm 2004 và tổng chi phí 257,5 tỷ đồng, tăng 39,93%; trong đó chi phí dự phòng rủi ro là 18,1 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế đạt 46,7 tỷ đồng ( năm 2004 là 19,2 tỷ đồng Biểu đồ 2.10: Biểu đồ 2.11: Như vậy từ sau khi cải tổ toàn bộ cơ cấu tổ chức, hoạt động và tên gọi của ngân hàng. SCB đã có một bước tiến vượt bậc về quy mô cũng như về chất lượng. Từ một ngân hàng luôn thua lỗ đã bắt đầu thu được lợi nhuận tăng dần qua các năm. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN @&? 3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng thương mại: 3.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lượng tiền gởi của ngân hàng. Sự phát triển của nền kinh tế sẽ chỉ ra nhu cầu về vốn cho kinh doanh cũng như qui mô tạo quỹ cho vay của nền kinh tế. Bên cạnh đó trình độ phát triển của hệ thông ngân hàng cũng như thói quen giao dịch với ngân hàng của dân chúng được thể hiện rất rõ tại các nước có nền kinh tế phát triển. Trong điều kiện kinh tế chung sẽ phản ánh mức thu nhập, mức sống; điều này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách huy động vốn của các ngân hàng. Như tại Việt nam: + Đại bộ phận nông dân có mức thu nhập thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, tiền tích luỹ thấp. + Trình độ dân trí thấp, chưa quen với dịch vụ ngân hàng. Người dân có thói quen sử dùng tiền mặt hơn là giao dịch qua ngân hàng + Mạng lưới các ngân hàng thương mại chưa đủ vươn tới các vùng sâu, vùng xa. 3.1.2. Thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ: Khi thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ chưa hình thành và phát triển, các đơn vị kinh tế đề lệ thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động, có nghĩa là phải đi vay với lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào ngân hàng. Khi có thị trường chứng khoán, hầu hết các đơn vị kinh tế có nguồn tài chính lành mạnh đều tham gia vào thị trường này. Họ có thể trao đổi vốn trực tiếp với nhau khi cần thiết mà không phải qua trung gian vì vậy ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến việc huy động tiền gởi của ngân hàng thương mại. 3.1.3. Về phía ngân hàng: Sự tăng giảm nguồn tiền gởi huy động còn phụ thuộc rất lớn vào chiến lược và công cụ hoạt động của các ngân hàng: 3.1.3.1. Ảnh hưởng của lãi suất: Lãi suất là đòn bẩy mang tính vĩ mô, nó không phải chỉ của riêng ngân hàng và các tổ chức tín dụng mà là của tất cả những ai có tiền và cần tiền. Lãi suất là đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén đối với mọi doanh nghiệp và cá nhân, có ảnh hưởng đến chính hoạt động của doanh nghiệp và cá nhân ấy. Lãi suất là yếu tố kỹ thuật hàng đầu của dịch vụ ngân hàng. Thông thường, lãi suất cao thì nguồn huy động nhiều, ngược lại lãi suất thấp sẽ làm nguồn huy động giảm đi. Vì vậy khi ngân hàng đưa ra một mức lãi suất cụ thể trong một thời kỳ nhất định phải chú ý đến các đặc điểm sau: + Mức lãi suất cụ thể đưa ra phải giúp cho ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Bỡi vì, nếu căn cứ vào ý muốn tiết kiệm hoặc tiêu dùng thì lãi suất là phần thưởng cho những ai tiết chế tiêu dùng hiện tại để mong có tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.Muốn vậy thì đòi hỏi phải có lãi suất thực chứ không phải đi tìm lãi suất danh nghĩa. + Mức lãi suất đưa ra phải được thị trường chấp nhận, có nghĩa là người đi vay có khả năng thu được lợi nhuận sau khi đã hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. + Mức lãi suất đưa ra phải đảm bảo bù đắp được chi phí huy động và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. - Ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước đưa ra khung lãi suất hợp lý cho từng thời kỳ và các ngân hàng thương mại được quyền điều tiết lãi suất của mình dao động trong những khung lãi suất cho phép này. 3.1.3.2. Chiến lược khách hàng: “Khách hàng là thượng đế” - điều đó quả là đúng. Thử hỏi hoạt động kinh doanh, giao dịch thương mại, dịch vụ sẽ ra sao khi không có khách hàng. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình trụ sở kiên cố, bề thế và tuỳ theo đó là khách hàng lần đầu hay khách hàng lâu năm họ đều có phong cách đón tiếp riêng cho phù hợp, tạo cho khách hàng một ấn tượng tốt đẹp về ngân hàng như là một chỗ dựa vững chắc, một nơi tin cậy, an toàn và thật tiện ích. 3.1.3.3. Chiến lược phục vụ: Mục đích gởi tiền vào ngân hàng của các tổ chức kinh tế và cá nhân không chỉ là hưởng lãi mà còn để hưởng các tiện ích do ngân hàng mang lại. Vì vậy việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng là rất quan trọng. Khách hàng sẽ cảm thấy được phục vụ tốt nếu như được gởi tiền một nơi nhưng lại được lĩnh tiền ở nhiều nơi hoặc lĩnh tiền ở các máy rút tiền tự động. Bên cạnh đó, chất lượng phục vụ còn thể hiện ở chỗ: ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ có kiên quan đến tiền gởi một cách chính xác, an toàn và nhanh chóng. Để làm được điều như vậy đòi hỏi ngân hàng phải luôn chú trọng đến việc hoàn thiện các công cụ thanh toán, luôn quan tâm tạo ra những phương tiện thanh toán tiện lợi và hữu hiệu nhất. Ngoài ra quan hệ tiền gởi là một giao dịch, vì vậy chất lượng phục vụ còn thể hiện ở chỗ chi phí cho giao dịch này la thấp cho cả hai bên. Mặt khác thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng cũng được coi là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành chất lượng phục vụ của ngân hàng. Để mở rộng hoạt động của mình ngân hàng cấu tạo uy tín về chất lượng phục vụ. Đó là việc đảm bảo thanh toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn cho khách hàng và thái độ phục vụ đối với họ. Bởi vì, quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là mối quan hệ vay mượn, dịch vụ của ngân hàng phải luôn luôn tỏ ra thật đúng hẹn, thật tiện ích thì mới tạo được lòng tin và mối quan hệ thường xuyên với khách hàng. 3.1.3.4. Đa dạng hoá các dịch vụ cung ứng: Trong cạnh tranh, nếu ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng sẽ có điều kiện thu hút nhiều khách hàng hơn và tất yếu sẽ thu hút nhiều tiền gởi. Hiện nay thực tế đã chứng minh rằng các ngân hàng thực hiện tốt việc tài trợ xuất nhập khẩu, đều có quy mô tiền gởi lớn. Trong tương lai các ngân hàng nào ứng dụng các dịch vụ mới sẽ là điều kiện tốt để gia tăng việc thu hút tiền gởi. 3.1.3.5. Mạng lưới tổ chức ngân hàng: Quan hệ giao dịch của doanh nghiệp với ngân hàng thường do các nhân viên chuyên trách thực hiện, riêng đối với cá nhân thì tự họ phải giải quyết mọi chuyện. Công việc hàng ngày của cá nhân thường hết sức bận rôn, vì vậy trong quan hệ giao dịch họ thường chọn các ngân hàng ở các vị thế thuận lợi, như ở gần nhà, gần nơi làm việc. Chính nhu cầu về tiền lợi trong giao dịch đòi hỏi ngân hàng cần phải phân bổ chi nhánh, phòng giao dịch ở những vị thế thích hợp; đây cũng là yếu tố quan trọng để thu hút tiền gởi của công chúng. 3.2. Các biện pháp đang áp dụng nhằm thu hút nguồn vốn huy động tại ngân hàng: 3.2.1. Lãi suất: Lãi suất là công cụ rất quan trọng trong công tác huy động vốn, nhất là huy động bằng tiền gởi tiết kiệm, khách hàng sẽ lựa chọn ngân hàng nào có lãi suất cao. Cho nên việc xây dựng một mức lãi suất hợp lý là điều cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, trong hoạt động của mình SCB luôn chú trọng việc điều chỉnh lãi suất kịp thời và tuân thủ khung lãi suất của ngân hàng nhà nước. Ngoài ra trong năm SCB còn áp dụng nhiều chương trình khuyến mãi lãi suất cho khách hàng, như: cộng thêm lãi suất cho người trên 50 tuổi, cộng lãi suất cho phụ nữ nhân ngày 8/3, hay cộng thêm lãi suất cho những người làm ngành y nhân ngày thầy thuốc… 3.2.2. Các hình thức huy động vốn: Ngân hàng hiện đang áp dụng các hình thức huy động vốn như: tiền gởi không kỳ hạn, tiền gởi có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm tích luỹ…Với những hình thức đa dạng như trên đã góp phần ổn định, tăng trưởng số dư vốn huy động bởi vì người gởi tiền có thể lựa chọn những hình thức thích hợp với thời gian nhàn rỗi đồng vốn của mình. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện hình thức gởi tiền ở chi nhánh này có thể rút tiền ở chi nhánh khác cùng hệ thống, đây là hình thức giúp khách hàng thuận lợi hơn trong việc gởi tiền và rút tiền. Trong năm, ngân hàng đã đưa bốn chương trình tiết kiệm dự thưởng với lãi suất và quà tặng phong phú, hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm của khách hàng, bao gồm: Mừng xuân – Đón lộc cùng SCB, nhân đôi niềm vui cùng SCB, vui hè may mắn cùng SCB và phát tài phát cùng SCB; bên cạnh đó, SCB thực hiện đa dang hoá kỳ hạn nhằm tạo điều kiện tốt nhất có thể cho khách hàng, thu hút thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nhờ vậy, thị phần tiền gởi từ dân cư được giữ vững và liên tục mở rộng, góp phần quan trọng trong việc tạo vốn kinh doanh cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay quá nhiều ngân hàng áp dụng hình thức tiết kiệm dự thưởng nên thị trường huy động vốn có sự phân tán và chia sẽ đáng kể. 3.2.3. Uy tín của ngân hàng: Hoạt động của ngân hàng là nhận tiền gởi của công chúng rồi dùng tiền đó làm tín dụng, đồng thời cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán và các dịch vụ khác để tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy biện pháp hàng đầu để ngân hàng đạt hiệu quả trong chiến lược hoạt động là củng cố uy tín của mình. SCB đang từng bước củng cố uy tín của mình trên thị trường. SCB luôn bảo đảm an toàn vốn cho khách hàng, thực hiện đúng quy định ký quỹ, dử trữ bắt buộc, quỹ đảm bảo thanh toán nhằm chi trả kịp thời, đầy đủ cho khách hàng gởi tiền. Thực hiện việc bảo hiểm tiền gởi nhằm tạo sự an tâm, tin tưởng nơi khách hàng khi họ gởi tiền vào ngân hàng vì họ biết rằng: Tiền gởi của mình được đảm bảo an toàn khi có sự cố xảy ra. Ngân hàng luôn ưu tiên chi trả theo yêu cầu của khách hàng, mặt khác luôn tìm các giải thích cho khách hàng hiểu thêm về sự an toàn tuyệt đối tài sản của họ đã giao phó cho ngân hàng. Uy tín của SCB ngày càng được nâng cao thể hiện khả năng thu hút vốn từ 1đ vốn chủ sở hữu bình quân tăng 1,59đ. 3.2.4. Nâng cao thái độ kỷ năng làm việc: Ban Giám Đốc SCB rất quan tâm và luôn tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên trong việc học tập, bồi dưỡng chuyên môn, vi tính ngoại ngữ. Ngoài ra SCB đã tuyển dụng mới 49 nhân sự có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao bổ sung các vị trí lãnh đạo phòng ban. Tổng nhân sự SCB đến cuối năm 2005 là 373 người, tăng 15,2% so năm 2004. Ban Giám Đốc luôn quan tâm, nhắc nhở và chấn chỉnh kịp thời tinh thần phục vụ khách hàng của toàn thể nhân viên trong cơ quan. Do đó đã thực hiện tốt phương châm “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thái độ phục vụ của nhân viên ngày càng ân cần và lịch sự hơn đã tạo cho khách hàng một sự thoải mái, tin tưởng khi giao dịch với ngân hàng. Đó cũng là nguyên nhân làm cho ngày càng có nhiều khách hàng trở nên quen thuộc và khách hàng mới đến giao dịch với ngân hàng. Bảo hiểm tiền gởi: Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là rủi ro đặc biệt, dễ gây ra phản ứng dây chuyền.Việc một ngân hàng đổ vỡ có thể tạo ra sự nghi ngờ của người gởi tiền về sự ổn định và khả năng thanh toán của toàn hệ thống ngân hàng nói chung và có thể tạo ra sự náo loạn trong xã hội.Ví vậy, các ngân hàng muốn tạo sự an tâm cho người gởi đã thực hiện mua bảo hiểm tiền gởi cho số tiền khách hàng gởi vào. Bảo hiểm tiền gởi có vai trò: + Góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng + Tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng của quốc gia phát triển + Thúc đẩy huy động tiết kiệm phục vụ đầu tư phát triển bền vững Nghị định 89/1999/NĐ – CP ngày 1/9/1999 của chính phủ về bảo hiểm tiền gởi. Bảo hiểm tiền gởi Việt Nam nhận bảo hiểm đối với các khoản tiền gởi bằng VND của các cá nhân tại SCB, quỹ tiết kiệm trung tâm + Các loại tiền gởi được bảo hiểm gồm: Tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn Tiền gởi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gởi trên tài khoản cá nhân Tiền mua các chứng chỉ tiền tiền gởi và các trái phiếu ghi danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gởi Việc đóng bảo hiểm tiền gởi đã tạo tâm lý an tâm nơi khách hàng, góp phần ổn định và tăng trưởng số dư tiền gởi tại ngân hàng vì người gởi tiền biết rằng tiền gởi của họ sẽ được đảm bảo chi trả an toàn ngay cả khi ngân hàng gặp sự cố. 3.2.6. Cho vay, cầm cố giấy tờ có giá: Các giấy tờ có giá SCB nhận cầm cố, chiết khấu, tái chiết khấu bao gồm: + Các loại giấy tờ có giá được phát hành theo quy định của chính phủ và bộ tài chính: Trái phiếu kho bạc nhà nước Công trái xây dựng tổ quốc Trái phiếu công trình Trưng Ương Trái phiếu đầu tư Trái phiếu được chính phủ bảo lãnh Trái phiếu ngoại tệ Tín phiếu kho bạc nhà nước Tín phiếu ngân hàng nhà nước Trái phiếu chính quyền địa phương. + Trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gởi, sổ tiết kiệm do các tổ chức tín dụng nhà nước phát hành bằng VND hoặc USD loại ký danh. + Giấy tờ có giá, sổ tiết kiệm, chứng chỉ vàng do ngân hàng SCB phát hành bằng VND và ngoại tệ Điều kiện các giấy tờ có giá , sổ tiết kiệm chứng chỉ vàng được cầm cố, chiết khấu, tái chiết khấu: + Các giấy tờ có giá thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức cá nhân + Sổ tiết kiệm, chứng chỉ vàng sở hữu hợp pháp cá nhân + Được tổ chức phát hành xác nhận hợp pháp, hợp lệ + Giấy tờ có giá, sổ tiết kiệm, chứng chỉ vàng chưa đến hạn + Được phép giao dịch theo quy định của pháp luật + Được thanh toán theo quy định của tổ chức cá nhân Cho vay, cầm cố sổ tiền gời tiết kiệm được cư thề như sau: + Thời gian cho vay: không lớn hơn thời gian còn lại của sổ tiền gởi tiết kiệm + Hạn mức cho vay: Đối với trường hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm: 90% giá trị sổ tiết kiệm Đối với trương hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm đặc biệt: 95% giá trị sổ tiết kiệm Đối với trường hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm đặc biệt USD để vay VND: 95% giá trị sổ tiết kiệm USD quy đổi ra VND. + Đối với trường hợp chiết khấu sổ tiết kiệm đặc biệt: giá trị chiết khấu bằng giá trị sổ tiết kiệm vào ngày đáo hạn (sổ tiền gởi ban đầu cộng với lãi được hưởng củ sổ đến ngày đáo hạn) Lãi suất cho vay: + Đối với trường hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm: lãi suất cho vay là lãi suất tiền gởi tiết kiệm cộng phí 0.25% tháng đối với VND và 0.2% tháng đối với USD + Đối với trương hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm đặc biệt: lãi suất cho vay bằng lãi suất tiết kiệm đặc biệt cộng 0.15%/tháng. + Đối với trường hợp cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm đặc biệt USD để vay VND: lãi suất cho vay băng lãi suất tiết kiện đăc biệt VND cùng kỳ hạn với sổ tiết kiệm USD cộng 0.15%/tháng + Đối với trường hợp chiết khấu sổ tiết kiệm đặc biệt: Lãi suất chiết khấu bằng lãi suất cho vay ngắn hạn áp dụng tại thời điểm chiết khấu Hoa hồng chiết khấu: 20.000đ/sổ 3.3. Một số giải pháp: 3.3.1. Tăng cường cơ sở vật chất đội ngũ nhân sự: 3.3.1.1. Về cơ sở vật chất: - Việc xác lập nguồn tin cho công chúng là tiền đề cho mực hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là vấn đề huy động tiền gởi.Một toà nhà đồ sộ, trang trí thẩm mỹ, sắp xếp công việc khoa học sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp cho người ký thác; họ sẽ nghĩ rằng đây là ông chủ giàu có, làm ăn hiện đại và có thể yên tâm để trao thân gởi phận Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày nay, quan hệ cung cầu không chỉ gói gọn trong phạm vi huy động vốn, sử dụng vốn mà còn phải xem xét đến việc cung cấp dịch vụ cho các nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng.Công nghệ thông tin là chìa khoá đặc biệt để mở ra cơ hội kinh doanh thực sự. Hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng đều được xử lý trên máy tính, việc thanh toán đòi hỏi ngày càng nhanh, hiện đại.Vì vậy, ngân hàng luôn luôn tăng cường cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu đa dạng ấy của khách hàng có như vậy mới thu hút được khách hàng ngày càng nhiều. 3.3.1.2. Đội ngũ nhân sự: Ngoài việc nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, công nhân viên còn phải xây dựng đội ngũ cán bộ năng động có hiệu quả. Thực hiện “văn hoá giao dịch” nhằm đổi mới phong cách phục vụ để tranh thủ thiện cảm của khách hàng.Chủ động trong cạnh tranh.Cần coi đây là biện pháp chính để khách hàng luôn gắn bó với ngân hàng. Con người là yếu tố quan trọng trong việc quyết định sự thành công của hoạt động ngân hàng. Vì vậy, lãnh đạo cần đặc biệt chú trọng đến việc khuyến khích, khen thưởng cho các nhân viên có đóng góp thiết thực cho sự phát triển của ngân hàng. Đồng thời động viên mọi người hết lòng đóng góp công sức và trí tuệ của mình vì thành quả chung. Ban lãnh đạo phải thực sự là người có tài năng, mẫu mực, biết lắng nghe và tạo điều kiện để nhân viên bày tỏ ý kiến của mình. Đăc biệt nhân viên trong khâu huy động vốn và ngân quỹ cần có đạo đức, trung thực, ân cần để tạo lòng tin nơi khách hàng. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Đa dạng hoá cá hình thức huy động vốn đưa ra những loại hình mới hấp dẫn, phù hợp với tâm lý tập quán người gởi tiền tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của mọi tầng lớp dân cư. Khi các hình thức huy động tiền gởi được đa dang hoá, sản phẩm phong phú thì nó sẽ hấp dẫn người gởi tiền. Bởi vì người gởi tiền sẽ chủ động lựa chọn hình thức cho phù hợp với thời gian nhàn rỗi vốn của mình. Thực hiện việc gởi tiền bằng máy ATM để khách hàng thuận tiện hơn trong việc gởi tiền vào tài khoản của mình 3.3.3. Mở rộng mạng lưới giao dịch: Đến cuối năm 2005, hệ thống mạng lưới của SCB bao gồm: + Hội sở chính + 02 chi nhánh: Nhà Rồng và Hà Nội + 08 phòng giao dịch; Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Chợ Lớn, Gia Định, Củ Chi, Tân Tạo, Tân Bình, An Đông Plaza. + 01 Điểm giao dịch: An Giang Nhìn chung Mạng lưới giao dịch của SCB chủ yếu tập trung ở Thành Phố Hồ Chí Minh còn ở phía Bắc và Miền Trung rất ít, đặt biệt là Miền Trung hầu như không có phòng giao dịch hay chi nhánh nào.Vì vậy SCB cần mở rộng mạng lưới hơn nữa nhằm thu hút nguồn vốn từ những khu vực ấy. Mở rộng mạng lưới giao dịch giúp khách hàng thuận tiện hơn trong việc giao dịch với ngân hàng, tình hình huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng theo. Ngoài việc mở rộng mạng lưới giao dịch cần thành lập thêm các điểm giao dịch ngoài giờ hành chính. + Hiện nay ngân hàng làm việc 8 giờ/ ngày, 11 buổi / tuần. Điều này làm cho số đông khách hàng là công chức, thậm chí là người lao động hay kinh doanh cũng khó khăn trong việc thu xếp thời gian đến giao dịch với ngân hàng. Vì vậy, cần có thêm các bàn huy động vốn ngoài giờ tại các điểm thích hợp để tạo điều kiện cho khách hàng đến gởi và rút tiền 3.3.4. Nâng cao và phát triển công nghệ thanh toán qua ngân hàng: Mở rộng phạm vi và tăng nhanh khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Sử dụng các công cụ thanh toán, nhất là các công cụ cải tiến bằng kỹ thuật hiện đại để năng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Đảm bảo khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng thông qua việc tăng tốc độ thanh toán bù trừ, chuyển tiền xa, thông qua điều hoà khả năng thanh toán giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ Cải tiến công cụ thanh toán, kỹ thuật và trình độ công nghệ để đảm bảo thanh toán nhanh, an toàn và tiện lợi cho cả nền kinh tế nói chung và dân cư nói riêng. Tham khảo để sử dụng và mở rộng công cụ thanh toán theo ý thích khách hàng. Cần hoàn chỉnh và xử lý nhanh chóng, an toàn trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc rút tiền, gởi tiền mặt tại ngân hàng từ đó cho khách hàng thấy ưu điểm và tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Ứng dụng Marketing ngân hàng: Có chiến lược riêng về khách hàng: Về cơ bản, sản phẩm ngân hàng ít có khả năng thay đổi thường xuyên vì chúng phải hướng vào những qui định chặt chẽ và khó làm khác biệt giữa các ngân hàng. Hơn nữa, sản phẩm mới chỉ là khái niệm tương đối vì có thể mới đối với thị trường này nhưng không phải mới đối với thị trường khác. Như vậy, điều có thể khẳng định được ở đây là: sự chung thuỷ của khách hàng phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ mà họ cảm nhận vì đối với người tiêu dùng khi mua một dịch vụ thì điều đó rủi ro hơn khi mua một sản phẩm. Cho nên xu hướng chung của họ khi đánh giá ngân hàng xuất phát từ: + Hình ảnh tổng quát của ngân hàng + Chất lượng những lời khuyên của nhân viên ngân hàng đối với họ. + Lòng tin mà họ cảm thấy. Vì vậy, trong chiến lược khách hàng, thiết nghĩ ngân hàng phải đặt lên hàng đầu các yếu tố sau: + Quan điểm trong hoạt động là: “Hãy tìm hiểu nhu cầu khách hàng và thoả mãn nhu cầu đó”.Bởi vì trong mội trường trao đổi mà cạnh tranh là nguyên tắc thì khách hàng trở thành một vốn quý mỏng manh. + Dù trong bất kỳ tình huống nào cũng phải có thái độ niềm nở, ân cần, tôn trọng đối với khách hàng. + Cung cấp cho khách hàng những thông tin đơn giản, chính xác, định kỳ. + Thường xuyên tạo sự khác biệt, có nghĩa là làm tốt hơn ngân hàng cạnh tranh.Điều này thể hiện ở chất lượng dịch vụ chứ không phải bản chất kỹ thuật của dịch vụ đó. Trong chiến lược khách hàng thì quan hệ với khách hàng giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Khách hàng là nguồn tài nguyên vô giá của ngân hàng, là động lực phát triển và sử dụng nguồn vốn đã huy động. Chính vì vây, ngân hàng cần phải tổ chức nghiên cứu tìm hiểu một cách khoa học khách hàng hiện có của mình, thu thập tất cả thông tin về khách hàng để từ đó sử dụng dữ liệu này vào mối quan hệ khách hàng với ngân hàng trong tương lai: + Đối với khách hàng cũ cần lưu ý: Những nghiệp vụ mới của ngân hàng ảnh hưởng như thế nào đối với khách hàng? Số khách hàng cũ có giảm không, nếu giảm thì tìm hiểu lý do + Đối với khách hàng mới: để thu hút khách hàng mới, một phương tiện thường dùng là phải đem dịch vụ tới khách hàng. Khuyến khích vật chất và tinh thần cho người gởi tiền: Khi khách hàng đã có những giao dịch thường xuyên với ngân hàng thì việc kết chặt mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là rất quan trọng.Đây là giai đoạn mấu chốt của chiến lược khách hàng, nó quyết định sự thành công của ngân hàng, lợi nhuận đạt đỉnh cao và ổn định. Lúc này cần quan tâm đến những vấn đề sau: + Giảm thiểu những phiền hà cho khách hàng càng nhiều càng tốt. + Dành những ưu ái cho khách hàng thường xuyên. + Khen thưởng theo giá trị thời gian giao dịch + Thăm viếng và tặng quà cho khách hàng vào dịp lễ lớn để tạo quan hệ thân thiện giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời tạo thói quen giao tiếp với ngân hàng trong công chúng. + Duy trì và nâng cấp chất lượng dịch vụ thường xuyên. Cuộc đối thoại đầu tiên giữa khách hàng và nhân viên phục vụ có vai trò quyết định. Nhân viên phục vụ phải dung hoà lợi ích của khách hàng và lợi ích ngân hàng, sự sẵn sàng đón tiếp cần phải được biểu lộ ngay cả khi chúng ta đang bận. Đối với khách hàng giao dịch lần đầu cần tặng những món quà lưu niệm nhỏ để tác động vào tâm lý khách hàng. Tăng cường công tác quảng cáo tiếp thị cho hoạt động của ngân hàng: Đối với ngân hàng việc duy trì và nâng cao hình ảnh của mình có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Bỡi lẽ khách hàng thường đánh giá dịch vụ ngân hàng thông qua hình ảnh tổng thể của ngân hàng được xã hội công nhận.Các hình thức giao tế công cộng cần được sử dụng: + Quan hệ với cơ quan truyền thông (báo chí, đài truyền hình…).Cho dù mối quan hệ với báo chí là con dao hai lưỡi: vừa có lợi mà cũng vừa có hại.Tuy nhiên sự liên lạc với báo chí để tranh thủ sự thiện cảm với ngân hàng là không phải không có lợi. Thỉnh thoảng nên tổ chức các buổi tiếp tân với báo chí để trình bày những hoạt động của ngân hàng, vai trò của ngân hàng trong đời sống kinh tế và nhất là cải chính những tin đồn xuyên tạc, ác ý, nếu có xảy ra cho ngân hàng.Và việc báo chí đưa tin trên báo cũng là một hình thức quảng cáo và giảm bớt chi phí quảng cáo. + Tổ chức các buổi hội thảo, những lớp đào tạo liên quan đến các vấn đề thời sự, nâng cao kiến thức, kỹ năng ngân hàng. + Tham gia bài viết trên các báo chuyên ngành. + Các cấp lãnh đạo ngân hàng nên thường xuyên tham gia sinh hoạt cộng đồng tại địa phương mình, như là: tham gia các hội từ thiện, các tổ chức văn hoá xã hội, kinh tế… + Ngân hàng có thể tham gia cấp học bổng hoặc có thể trao giải thưởng cho các học sinh, sinh viên xuất sắc ở các trường đại học. Tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về các hoạt động tiện ích của ngân hàng. Mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng: Hoạt động tín dụng sẽ tạo ra một bộ phận tài sản có sinh lời lớn nhất trong các ngân hàng thương mại, tức là tạo ra nguồn thu nhập để trang trải chi phí hoạt động đồng thời tạo ra được lợi nhuận để vừa làm nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước, vừa tích luỹ không ngừng để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. Ngân hàng không chỉ cho vay theo lối truyền thống mà cần mở rộng hơn các nghiệp vụ tín dụng cũng như những thủ tục và điều kiện vay tạo thuận lợi cho khách hàng vay vốn trên cơ sở hai bên cùng có lợi, khách hàng có thể trả được vốn vay mà vẫn có lợi, ngân hàng cũng vậy vừa thu được vốn vừ có lợi nhuận từ hoạt động cho vay Hoạt động tín dụng là hoạt động có tính rủi ro cao nhất là trong nền kinh tế có sự thay đổi thường xuyên chính sách, cơ chế. Bộ phận tài sản lớn nhất của ngân hàng là dư nợ cho vay lại nằm trong tay khách hàng chứ không nằm trong tay ngân hàng. Vì vậy độ rủi ro tín dụng là rất cao và phát sinh ngay sau khi cho vay cho đến khi khách hàng trả nợ, điều đó đòi hỏi nhà ngân hàng phải thận trong khi cấp tín dụng cho khách hàng và phải thực hiện các biện pháp đảm bảo mới có thể hy vọng giảm thiểu rủi ro tín dụng. Ngân hàng nên kết hợp với hình thức phòng ngừa rủi ro tín dụng để bảo tồn nguồn vốn của ngân hàng, phải phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp một các chặt chẽ để đầu tư vốn có hiệu quả, kết hợp với các trung tâm phòng ngừa rủi ro, liên hệ mật thiết với các cấp chính quyền để được hỗ trợ tích cực trong mọi hoạt động. Cần phải xem xét kỹ trước khi cho khách hàng vay để đảm bảo thu hồi được nợ, và trả tiền cho khách hàng khi khách hàng cần Trong việc bố trí sắp xếp cán bộ cần phải thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng phải là người có năng lực trình độ, có phẩm chất đạo đức liêm khiết, có trách nhiệm trong công việc. Sử dụng vốn đạt chất lượng cũng là điều kiện để thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân cư, giúp hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng và là tiền đề để tăng trưởng lợi nhuận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyen đe tot nghiep.doc
  • docKết luận.doc
  • doclời cảm ơn trường.doc
  • doctrang bia.doc