Chuyên đề Phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

Là phương pháp được sử đụng phổ biến trong phân tích nhằm xác định xu hướng và mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, chúng ta phải so sánh doanh thu với chi phí bỏ ra trong kỳ sản xuất kinh doanh, so sánh chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kỳ thực hiện so với kỳ kế hoạch cũng như chi phí của từng khoản mục trong giá thành, so sánh tổng giá thành kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch cả về số tuyệt đối, số tương đối và số bình quân để xem xét tình hình biến động chi phí kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch. Phép so sánh có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và có thể đánh giá nhanh chóng các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, nó không xác định được sự ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, vì vậy việc đề xuất các biện pháp khắc phục những tồn tại hay phát huy những ưu điểm bị hạn chế. Để khắc phục nhược điểm này, trong phân tích, người ta còn sử dụng phương pháp loại trừ.

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang bước vào giai đoạn phát triển mới. nó mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, song bên cạnh nó cũng đặt ra những đòi hỏi nhất định. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình những giải pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc quan tâm đến chi phí, tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm là vấn đề hàng đầu trong việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chỉ tiêu chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn cho phép đánh giá một cách chính xác toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất trong kỳ để tìm ra những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan tác động đến sự biến động chung của tổng chi phí sản xuất. Từ đó xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng giảm của chi phí sản xuất và giá thành, giúp doanh nghiệp đề ra những phương hướng biện pháp khắc phục, nhằm quản lý và sử dụng chi phí sản xuất có hiệu quả hơn bằng cách lập kế hoạch và ra các quyết ddịnh sản xuất cho tương lai. Xuất phát từ vấn đề đó, em quết định lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm”. Đề tài này được khảo sát thực tế tại công ty bánh kẹo Hải Hà. Chuyên đề gồm có ba phần. * Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. * Phần II: Phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại công ty bánh kẹo Hải Hà. * Phần III: Một số biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm của công ty bánh kẹo Hải Hà. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề, em đã được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, .......................... Cô đã giúp em kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, từ khâu viết đề cương cho đến khi hoàn thành. Cùng giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề còn có các cô chú anh chị trong phòng kế toán của công ty bánh kẹo Hải Hà. Nhờ vậy em đã có đầy đủ những số liệu cần thiết để viết bài. Em xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ tận tình đó. Phần I I./ Những vấn đề lý luận cơ bản về chi phí sản xuất và giá thành trong doanh nghiệp sản xuất. 1./ Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất và đối tượng tập hợp chi phí. 1.1./ Khái niệm chi phí sản xuất Trong các doanh nghiệp sản xuất thì hoạt động sản xuất được coi là hoạt động chính. Quá trình sản xuất chính là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Trong quá trình này, các doanh nghiệp phải bỏ ra một số khoản chi phí nhất định để tiến hành sản xuất. Các chi phí phát sinh trong quá trình này được gọi là chi phí sản xuất. Vậy, chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. 1.2./ Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm rất nhiều các yếu tố chi phí khác nhau, sự khác nhau này cả về nội dung kinh tế cũng như nguồn hình thành. Chính vì vậy, việc phần z loại chi phí sản xuất có tác dụng để kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm nhằm động viên mọi khả năng tiềm tàng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Phân loại một cách đúng đắn các chi phí sản xuất còn chó ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao châts lượng kiểm tra và phân tích kinh tế, đồng thời nó cũng là cơ sở để nhận thức có khoa học các hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Tuỳ theo yêu cầu quản lý và công tác hạch toán mà có các cách phân loại chi phí khác nhau 1.2.1./ Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí sản xuất Tức là sắp xếp những chi phí có cùng tính chất kinh tế vào mỗi loại , mỗi loại đó là một yếu tố chi phí . Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất có thể chia thành các yếu tố sau đây: - Nguyên liệu và vật liệu chính mua ngoài: là giá trị tất cả các nguyên liệu và vật liệu chính dùng vào sản xuất mà doanh nghiệp phải mua tù bên ngoài bao gồm giá mua nguyên liệu và chi phí vận chuyển về kho của doanh nghiệp, cộng với hao hụt định mức của nguyên vật liệu. Trong quá trình hoạch toán chi phí sản xuất kinh doanh cần phân biệt giữa chi tiêu và chi phí của doanh nghiệp: chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán . Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tu, tài sản , tiền vốn của doanh nghiệp, vất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá,...), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển , bốc dỡ, quảng cáo...). Tuy nhiên, giữa chi tiêu và chi phí có mối quan hệ mật thiết với nhau: chi tiêu là cơ sở của chi phí, không có chi tiêu thì sẽ không có chi phí. Tổng chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị của tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trìng sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong koanh nghiệp là do đặc điểm , tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán. - Vật liệu phụ mua ngoài: Bao gồm giá trị năng lượng động lực mua ngoài dùng phục vụ sản xuất của doanh nghiệp. - Tiền lương: bao gồm tiền lương chính và lương phụ của công nhân viên chức của doanh nghiệp. Bảo hiểm xã hội là số tiền trích trược theo một tỷ lệ quy định của quỹ lương để hình thành quỹ baỏ hiểm xã hội, trợ cấp ốm đau, thai sản, tử tuất, hưu trí... - Khấu hao tài sản cố định: là số tiền trích khấu hao theo tỉ lệ qui định những tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Các chi phí khác bằng tiền: bao gồm những chi phí bằng tiền mặt mà theo tính chất kinh tế thì không thể sắp xếp vào các yếu tố kể trên, như: tiền công tác phí, chi phí về bưu điện... Những yếu tố chi phí trên chỉ là những yếu tố cho phí chủ yếu. Việc vận dụng cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy rõ mức chi phí về lao vật hoá và tiênf lương trong toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh trong kỳ. Điều đó có tác dụng xác định trọng điểm quản lý chi phí sản xuất và kiểm tra lại sự cân đối giữa các kế hoạch khác nhau như: kế hoạch khấu hao tài sản cố định, ké hoạch giá thành, kế hoạch vốn lưu động của mỗi xí nghiệp. 1.2.2/ Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục giá thành Căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của doanh nghiệp sản xuất được chia thành các khoản mục sau: Nguyên vật liệu chính trực tiếp là giá trị của những nguyên vật liệu chính trực tiếp dùng vào sản xuất sản phẩm, phải trừ ra giá trị vật liệuhỏng và phế liệu thu hồi trong quá trình sản xuất. - Vật liệu phụ, công cụ lao động nhỏ dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm. - Tiền lương công nhân sản xuất: bao gồm tiền lương chính, lương phụ của công nhân sản xuất và các khoản phụ cấp mang tính chất lương. - Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính theo tỷ lệ quy định. - Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết khác để sản xuất sản phẩm, ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí sản xuất chung chủ yếu bao gồm: chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất sản phẩm, chi phí nguyên nhiên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân viên phân xưởng và các khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất. - Các khoản chi phí về thiệt hại trong sản xuất: bao gồm thiệt hại sản phẩm hỏng và thiệt hại ngừng sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục giá thành giúp cho doanh nghiệp tính được giá thành các loại sản phẩm, đồng thời căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để xác định ảnh hưởng của sự biến động của từng khoản mục đối với toàn bộ giá thành sản phẩm nhằm phân biệt và khai thác lực lượng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp để hạ thấp giá thành.Việc phân loại này không phải là cố định mà có thể thay đổi để phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có thể do yêu cầu quản lý vĩ mô, đảm bảo tính so sánh được, nhà nước có thể quy định sự phân loại theo khoản mục chi phí và áp dụng thống nhất trong những ngành nhất định. 1.2.3/ Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định (chi phí bất biến) và chi phí biến đổi (chi phí khả biến) Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản xuất có thể chia chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. - Chi phí cố định (chi phí bất biến): là những chi phí không bị biến động trực tiếp theo sự biến động của khối lượng sản phẩm. Thuộc loại chi phí này gồm có những chi phí sau: + Chi phí khấu hao tài sản cố định + Chi phí bảo dưỡng máy móc + Tiền thuê đất, thuê nhà (nếu có) + Chi phí về quản lý... - Chi phí biến đổi (chi phí bất biến): là những chi phí bị biến động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản phẩm. Thuộc loại chi phí này gồm có những chi phí sau: + Chi phí nguyên vật liệu chính + Chi phí vật liệu phụ + Chi phí nhiên liệu và năng lượng dùng vào sản xuất + Tiền lương của công nhân sản xuất... Việc phân loại chi phí theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn đối với công tác quản lý một doanh nghiệp. Trước hết, qua việc xem xét mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với chi phí bỏ ra giúp cho các nhà quản lý tìm ra các biện pháp quản lý thích ứng đối với từng loại chi phí để hạ thấp giá thành sản phẩm. Và điều quan trọng hơn nữa là thông qua việc phân tích nghiên cứu cho phép doanh nghiệp xác định được khối lượng sản phẩm sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, phân loại chi phí sản xuất là một việc làm không thể thiếu được trong các doanh nghiệp sản xuất. Thông qua việc phân loại chi phí này, giúp ta xem xét kết cấu chi phí sản xuất và xu hướng thay đổi kết cấu chi phí sản xuất là hợp lý hay không hợp lý. 1.3./ Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều loại với nội dung kinh tế , công dụng khác nhau, phát sinh ở những địa điểm khác nhau. Mục đích của việc bỏ chi phí là tạo ra những sản phẩm, dịch vụ... phục vụ nhu cầu của xã hội. Những sản phẩm này được chế tạo thực hiện ở các phân xưởng, bộ phận khác nhau theo qui trình công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, các chi phí phát sinh cần được tập hợp theo phạm vi giới hạn nhất định để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Như vậy, để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất cần phải căn cứ vào một số đặc điểm sau: - Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. - Qui trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm. - Địa điểm phát sinh chi phí, mục đích, công dụng của chi phí. - Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Dựa vào những căn cứ trên, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp có thể là: - Từng phân xưởng, từng bộ phận, tổ đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp. - Từng giai đoạn (bước công nghệ hoặc toàn bộ qui trình công nghệ). - Từng đơn đặt hàng, từng hạng mục công trình. - Từng nhóm sản phẩm. -Từng bộ phận chi tiết sản phẩm. 2./ Khái niệm, phân loại giá thành sản phẩm và cách tính giá thành sản phẩm: 2.1/ Khái niệm giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: Giá thành sản xuất sản phẩm (đối với sản phẩm công nghiệp được gọi là giá thành công xưởng, đối với sản phẩm xây lắp là giá thành thi công): bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm (chi phí nhiên liệu trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Giá thành tiêu thụ sản phẩm hàng hoá hay còn gọi là giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá: bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành việc sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm (tức là gồm cả chi phí lưu thông sản phẩm). Trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu giá thành sản phẩm giữ một vai trò quan trọng, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: - Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là một căn cứ để doanh nghiệp xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh và ra các quyết định trong sản xuất kinh doanh. Để quyết định lựa chọn một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp phải nắm được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải biết mức chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất và kinh doanh sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả sản xuất loại sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản phẩm cần sản xuất và tiêu thụ nhằm đạt lợi nhuận tối đa. Khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh thực tế một loại sản phẩm nhất định cũng cần phảm xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh thực tế một loại sản phẩm nhất định cũng cần phải xác định chính xác giá thành thực tế của nó. - Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực tế kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình thực hiện chi phí sản xuất kinh doanh, tác động và hiệu qủa thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật đến sản xuất, phát hiện và tìm ra nguyên nhân phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ. - Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách “giá cả” của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm. 2.2./ Phân loại giá thành sản phẩm. Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực tế phân loại giá thành thành ba loại như sau: - Giá thành kế hoạch: Việc tính toán xác định giá thành kế hoạch sản phẩm dược tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. - Giá thành định mức: cũng giống như giá thành kế hoạch, việc tính giá thành định mức cũng có thể được thực hiện trước khi sản xuất, chế tạo sản phẩm dựa vào các định mức chi phí dự toán hiện hành. Giá thành định mức được xem là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng các loại tài sản vật tư tiền vốn trong doanh nghiệp để đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả chi phí. - Giá thành thực tế: khác với hai loại giá thành trên giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ chỉ được xác định khi quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm đã hoàn thành và được dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh tập hợp được trong kỳ. Giá thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế, tổ chức kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất, là cơ sở để đánh giá giá trị sản phẩm, giá bán sản phẩm và để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó có ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp. Mặt khác, giá thành thực tế còn là căn cứ cho việc xây dựng giá thành kế hoạch ngày càng tiên tiến và xác thực. Ngoài ra theo phạm vi của chi phí tính nhập vào giá thành có thể chia: giá thành phân xưởng, giá thành công xưởng và giá thành toàn bộ. 2.3./ Cách tính giá thành sản phẩm (phương pháp tính giá thành sản phẩm): Phương pháp tính giá thành là phương pháp tính toán giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm, công việc hoàn thành theo các khoản mục giá thành. Đối với các doanh nghiệp, việc tính đúng và tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Với đặc điểm riêng của mình, mỗi doanh nghiệp sẽ chọn một phương pháp tính giá thành sao cho có hiệu quả nhất. 2.3.1./ Phương pháp tổng hợp chi phí : Phương pháp này áp dụng trong trường hợp đối tượng tính giá thành phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí và các hoạt động sản xuất không có sản phẩm dở dang. Tổng giá thành thực tế của sản phẩm, dịch vụ = tổng chi phí thực tế phát sinh trong kỳ. Tổng giá thành Tổng số lượng sản phẩm hoàn thành Giá thành đơn vị sản phẩm = 2.3.2./ Phương pháp tính giá thành giản đơn (phương pháp tính trực tiếp): áp dụng trong trường hợp đối tượng tính giá thành trùng hợp với đối tượng tập hợp chi phí và có sản phẩm dở dang: SGiá thành thực tế = Chí phí SP,DV dở dang đầu kỳ + Chí phí phát sinh trong kỳ - Chí phí SP.DV dở dang 2.3.3./ Phương pháp tính giá thành nhóm sản phẩm cùng loại: - Trong trường hợp cùng một qui trình phục vụ tạo ra nhiều cấp loại sản phẩm, đối tượng tập hợp chi phí là hoạt động kinh doanh, còn đối tượng tính giá thành là từng cấp phẩm, thứ hạng sản phẩm. Do vậy, trước tiên tính tổng giá thành của hoạt động, sau đó tính giá thành của từng cấp loại sản phẩm. - Cách tính theo hệ số giá thành: trước hết xác định hệ số giá thành cho từng cấp loại sản phẩm dựa vào định mức tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật của từng cấp loại sản phẩm, trong đó lấy một loại sản phẩm làm chuẩn có hệ số bằng 1 để tính hệ số giá thành cho các loại sản phẩm khác nhau. Sau đó tính sản lượng sản phẩm qui đổi theo loại tiêu chuẩn (có hệ số bằng 1) Trong đó: QH là tổng sản lượng qui đổi theo tiêu chuẩn Qi: sản lượng thực tế của sản phẩm loại i Hi: hệ số giá thành của sản phẩm loại i Tổng giá thành được xác định: C + Dđk - Dck QH Zi = x QiHi Trong đó: Zi là tổng giá thành của sản phẩm loại i C là chi phí thực tế phát sinh trong kỳ Dđk chi phí sản phẩm dở đầu kỳ Dck chi phí sản phẩm cuối kỳ Zi Qi i = Giá thành đơn vị được xác định: - Cách tính theo tỷ lệ giá thành: áp dụng trong điều kiện đối tượng tập hợp chi phí là hoạt động kinh doanh có nhiều chủng loại sản phẩm. Còn đối tượng tính giá thành là từng cấp chủng loại sản phẩm. Theo phương pháp này, trước hết căn cứ chi phí thực tế (giá thành thực tế) và chi phí theo kế hoạch (hay giá thành kế hoạch) của hoạt động liên quan để xác định tỷ lệ giá thành. Chi phí thực tế (giá thành thực tế) Chi phí kế hoạch (giá thành kế hoạch) Tỷ lệ giá thành = Giá thành thực tế sẽ được xác định như sau: Giá thành thực tế = Giá thành kế hoạch x Số lượng sản phẩm thực tế thực hiện x Tỷ lệ giá thành 2.4./ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: * Về mặt khái niệm: thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là những hao phí lao động sống và hao phí lao đôngj vật hoá của doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ kinh doanh. Nhưng chúng lại có sự khác nhau rõ rệt được biểu hiện ở mức độ và phạm vi của hao phí đó. Nói đến giá thành sản phẩm là nói đến lượng chi phí sản xuất kinh doanh của một khối lượng sản phẩm đã hoàn thành. Nhưng không phải toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ, mà giá thành sản phẩm biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Còn khi nói đến chi phí sản xuất kinh doanh tức là nói đến chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý kinh doanh mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ, tức là nói đến số chi phí mà doanh nghiệp cần thiết phải bỏ ra để thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau và thống nhất với nhau trong một quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất là sự kết tinh của việc sử dụng các yếu tố thuộc quá trình sản xuất vào sản xuâts sản phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm là bộ phận quan trọng của giá trị sản phẩm hoàn thành bao gồm giá trị tư liệu sản xuất sản phẩm đó, nghĩa là giá thành sản phẩm thì lại phản ánh mặt kết quả từ việc sử dụng những hao phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra. Vì vậy, chúng giống nhau về mặt chất và khác nhau về phạm vi và nội dung của chúng, tức là có sự khác nhau về lượng. * Về đối tượng hạch toán: Do chi phí sản xuất và giá thành có mối quan hệ biện chứng nên để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cở sở sau đây: - Thứ 1: là đặc diểm qui trình công nghệ sản xuất Đối với sản xuất giản đơn thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại sản phẩm) hay có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Đối với sản xuất phức tạp: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hay mhóm chi tiết bộ phận sản phẩm. Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. -Thứ 2: Lợi hình sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn Đối với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ: đối tượng hoạch toán chi phí là các mặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, phụ thuục vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hoạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ. Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu ở trên. Thứ 3: Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh Với trình độ cao có thể chi tiết đối tuợng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở góc độ khác nhau, ngược lại với trình độ thấp thì đối tượngđó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Cho nên, việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đôí tượng hoạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề lớn có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán và tính giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, góp phần củng cố thêm nguồn tài liệu để phân tích chi phí snả xuất và giá thành một cách chính xác và hiệu quả cao. II./ ý nghĩa của việc phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. 1./ Những yêu cầu cơ bản trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: Do đặc điểm của chi phí sản xuất là phát sinh hàng ngày gắn liền với các công việc triển khai nghiệp vụ sản xuất ở từng vị trí sản xuất, từng sản phẩm và loại hoạt động sản xuất kinh doanh nên để tính giá thành sản phẩm, để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả, tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận và toàn doanh nghiệp thì các chi phí sản xuất phải được tập hợp ở nơi phát sinh chi phí, theo nơi chịu chi phí và phân loại theo yếu tố chi phí, theo khoản mục giá thành. Yêu cầu của quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là phải quản lý theo từng khoản mục chi phí, xác định đúng đối tượng và phương pháp tính giá thành một cách hợp lý phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: đây là những chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ và vật liệu khác trực tiếp sử dụng cho việc sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ và lao động của doanh nghiệp. Việc tính toán và quản lý chi phí này được thực hiện theo thông tư 76. TC/TCDN, đó là, các cho phí về nguyên vật liệu phải được xác định dựa trên mức tiêu hao vật tư có khoa học. Mức tiêu hao vật tư phải được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và được hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có hội đồng quản trị) hoặc giám đốc thông qua dựa vào tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nghuyên vật liệu hoặc công cụ dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất đều phải có đầy đủ các hoá đơn chứng từ hợp lệ theo quy định của bộ tài chính. Giám đốc duyệ chi và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. - Đối với khoản mục cho phí nhân công trực tiếp: đây là những chi phí về lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm lao vụ dịch vụ trong các doanh nghiệp. Chi phí này thường bao gồm chi phí về tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền bảo hiểm xã hội. Cũng theo thông tư 76. TC/TCDN thì việc xác định chi phí tiền lương phải dựa trên các cơ sở: + Có định mức lao động tiền lương + Có đơn giá tiền lương. +Thực hiện lập quỹ lương theo nguyên tắc: * Đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp đó được phép trích và chi quỹ tiền lương tương xứng với hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Doanh nghiệp không được sử dụng quỹ tiền lương vào mục đích khác ngoài việc chi trả tiền lương, tiền công gắn với kết quả lao động. - Đối với khoản mục chi phí sản xuất chung: Đây là những khoản chi phí phát sinh ở phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm. Dịch vụ phải quản lý chặt chẽ các khoản chi phí này đặc biệt là khoản chi phí trích khấu hao tài sản cố định phục vụ cho sản xuất. Cách xác định chi phí kế hoạch tài sản cố định phải thực hiện theo quyết định số 1026 TC/QĐ/CSTC ban hành ngày 14/1/1996 của bộ trưởng bộ tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Khi xác định chi phí khấu hao tài sản cố định phải chú ý mấy vấn đề: + Thời gian trích khấu hao tài sản cố định +Phương pháp trích khấu hao tài sản cố định: Tài sản cố định trong doanh nghiệp được trích theo phương pháp đường thẳng: Mức khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ Thời gian sử dụng + Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không phải trích khấu hao. + Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải phát hiện kịp thời những chi phí mà không có nội dung chi cho sản xuất để có những biện pháp sử lý loại khỏi giá thành sản phẩm, góp phần hạ thấp giá thành, đây chính là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất chiếm tỷ trọng rất lớn trong chi phí cơ cấu chi phí toàn doanh nghiệp. Vì vậy, việc quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sp sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nó đảm bảo cho việc thực hiện tốt kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra, tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, việc quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất cũng phải đảm bảo những yêu cầu khách quan như: ổn định, cải thiện đời sống vất chất và tình thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. 2./ ý nghĩa của việc phân tích tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: Xuất phát từ yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phân tích tình hình chi phí sản xuất và giá thành nhằm mục đích nhận thức và đánh giá đúng đắn toàn diện và khách quan tình hình quản lý và sử dụng các khoản mục chi phí phát sinh trong kỳ, qua đó xem xét việc tôn trọng các định mức tiêu hoa nguyên vật liệu và các khoản chi phí trong khâu sản xuất gia công có phù hợp với yêu cầu quản lý chi phí của doanh nghiệp hay không, có mang lại hiệu quản kinh tế hay không? . Mặt khác, quan phân tích các khoản mục chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm để tìm ra những mặt tồn tại bất hợp lý trong việc quản lý chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm, từ đó xác định những nguyên nhân khách qua cũng như chủ quan để đề ra những phương hướng biện pháp khắc phục nhằm quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm sao cho có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc tính toán và phân tích chi phí sản xuất gia công và giá thành sản phẩm cho phép doanh nghiệp biết chắc chắn rằng phải sản xuất và phải bán với mức giá bao nhiêu thì mới đảm bảo bù đắp được chi phí và cũng có thể biết rằng với tình trạng chi phí hiện tại doanh nghiệp có thể bán ra ở mức sản lượng nào để đạt được mực lợi nhuận tối đa, hoà vốn hoặc nếu lỗ thì tại mức sản lượng nào là lỗ ít nhất. Ngoài việc phân tích chi phí, tính toán chi phí, cần phải tìm mọi biện pháp để điều hành chi phí theo chiến lược thị trường là một trong những công việc cực kỳ quan trọng cuả doanh nghiệp. III ./ nội dung và phương pháp phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: 1./ Những nội dung cơ bản trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: 1.1./ Phân tích tình thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất: Phân tích tình hình chi phí sản xuất gia công được thực hiện đối với từng nghiệp vụ sản xuất gia công thông qua việc so sánh giữa các khoản mục chi phí giá thành thực tế với số định mức kế hoạch đề tìm ra số chênh lệch, tỷ lệ tăng giảm tỷ trọng của nó. Đồng thời phân tích tình hình chi phí sản xuất gia công cần được xem xét trong mối liên hệ so sánh với khối lượng sản phẩm đã thu hồi và tình hình tăng giảm của nó. Từ đó xác định giá thành thực tế trên một đơn vị sản phẩm. Nếu số lượng sản phẩm thu hồi (sau khi đã loại bỏ những sản phẩm hỏng) mà tăng lên và giá thành trên một đơn vị sản phẩm bằng hoặc giảm hơn so với định mức kế hoạch trên cơ sở đảm bảo chất lượng thì việc quản lý và sử dụng chi phí là tốt và ngược lại. Ngoài ra người ta cũng có thể phân tích, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tổng giá thành sản phẩm sản xuất gia công theo công thức sau: S Giá thành sản phẩm gia công = Khối lượng sản phẩm đã xuất thu hồi * Giá thành một đơn vị sản phẩm Sau đây là nội dung phân tích cụ thể từng khoản mục chi phí sản xuất: 1.1.1./Phân tích tình hình chi phí nguyên vật liệu: Chi phí nguyên vật liệu có nhiều loại khác nhau như: chi phí nguyên vật liệu chính, chi phí nguyên vật liệu phụ, vật liệu khác, trong đó, nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trong cao nhất, là loại trực tiếp chế tạo ra sản phẩm. Ngày nay, khi tiến bộ khoa học đã phát triển nhanh chóng, năng suất lao động được tăng lên không ngừng dẫn đến sự thay đổi cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm. Đó là tỷ trọng hao phí lao động sống giảm thấp, còn tỷ trọng lao động vật hoá ngày càng tăng lên. Bởi vậy việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khoản mục chi phí nguyên vật liệu, tìm mọi biện pháp giảm bớt chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm hàng hoá có một ý nghĩa rất lớn, làm tăng mức lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Nội dung phân tích chi phí nguyên vật liệu bao gồm 2 nội dung: Phân tích chung chi phí nguyên vật liệu và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu. * Phân tích chung chi phí nguyên vật liệu: Ta sử dụng phương pháp so sánh để phân tích: so sánh tổng chi phí nguyên vật liệu kỳ thực hiện so với kế hoạch, tính % thực hiện so với kế hoạch, số này càng nhỏ càng tốt. DSCFnvl = SCFnvl1 - SCFnvl0 (số tuyệt đối) %TH = Tuy nhiên để đánh giá chính xác sự biến động của chi phí cần liên hệ với kết quả sản xuất: DSCFnvl = SCFnvl1 - SCFnvl0 x Trong đó: Q1 là khối lượng sản phẩm sản xuất kỳ thực hiện. Q0 là khối lượng sản phẩm sản xuất kỳ kế hoạch. %TH có liên hệ với kết quả sản xuất = SCFnvl1 x 100 SCFnvl0 x SCFnvl = mij pi qj = CFnvli x qj * Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tổng chi phí nguyên vật liệu: Với i : loại nguyên vật liệu J: loại sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu của doanh nghiệp là chi phí khả biến, do đó khi khối lượng sản phẩm kinh doanh thay đổi thì chi phí nguyên vật liệu cũng thay đổi theo. Chi phí nguyên vật liệu chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố: + Khối lượng sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra. + Tiêu hao nguyên vật liệu cho 1 đơn vị sản phẩm. + Giá cả nguyên vật liệu. Ta sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để phân tích mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chi phí nguyên vật liệu: Ta có; DSCFnvl = D CFnvl1 - D CFnvl0 Û - ảnh hưởng nhân tố khối lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất ra: Với D qj = qj1 - qj0 - ảnh hưởng của nhân tố tiêu hao nguyên vật liệu cho 1 đơn vị sản phẩm. Với D mij = mij1 - mịj0 Việc tăng giảm tổng chi phí nguyên vật liệu do nhân tố tiêu hao nguyên vật liệu ảnh hưởng nói lên mức tiết kiệm (hay bội chi) về chi phí nguyên vật liệu. - ảnh hưởng của nhân tố giá cả nguyên vật liệu: Với D qi = pi0 - pi0 Có những loại sản phẩm chỉ cần một loại nguyên vật liệu để tạo ra sản phẩm thì tổng chi phí nguyên vật liệu của các loại sản phẩm sẽ được tính bằng công thức: * Khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu người ta còn phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu cho 1 đơn vị sản phẩm: Chi phí nguyên vật liệu chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố: - Nhân tố tiêu hao nguyên vật liệu: - Nhân tố giá đơn vị nguyên vật liệu: 1.1.2./ Phân tích tình hình chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí nhân công trực tiếp là các khoản tiền lương và các khoản trích khác theo tỉ lệ tiền lương cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất được tính vào giá thành sản phẩm là một khoản mục của chi phí sản xuất kinh doanh. Không tính vào khoản mục chi phí này là số tiền công và các khoản trích bảo hiểm và kinh phí công đoàn của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quản lý và nhân viên bảo hiểm. Có 2 hình thức trả lương là trả lương theo thời gian và trả lương khoán. Hiện nay, tại các doanh nghiệp sản xuất thường áp dụng hình thức trả lương khoán theo sản phẩm, hình thức trả lương này đảm bảo công bằng hơn cho người lao động cũng như đối với doanh nghiệp. Cũng tương tự như phân tích chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chi phí nhân công trực tiếp cũng bao gồm có phân tích chung và phân tích các nhân tố ảnh hưởng. Phân tích chung tổng chi phí nhân công trực tiếp: Ta cũng sử dụng phương pháp so sánh để xác định chi phí tiền lương. Để đánh giá chi phí tiền lương chính xác người ta thường liên hệ với kết quả sản xuất. Cách xác định tương tự như đối với nguyên vật liệu. Khi phân tích về tiền lương của doanh nghiệp nói chung hoặc phân tích về chi phí nhân công trực tiếp trong sản xuất chúng ta cần lưu ý những điểm sau: + Trong sản xuất kinh doanh, mục tiêu của doanh nghiệp là làm sao mang lại hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động mở rộng được sản xuất kinh doanh, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Do đó, tiền lương cho người lao động cũng phải phục vụ mục tiêu này của doanh nghiệp. + Tăng tổng quỹ lương, tăng tiền lương bình quân cho người lao động phải đảm bảo nguyên tắc: tốc độ tăng của tiền lương phải nhỏ hơn tốc độ tăng của năng suất lao động, của kết quả kinh doanh. + Trong phân tích chi phí tiền lương chủ yếu là phân tích tỷ suất tiền lương và trên cơ sở biến đôngj của tỷ suất tiền lương để đánh giá tình hình chung của chi phí tiền lương. +Tỷ suất chi phí tiền lương (F’) được tính theo công thức: F M x 100 F’= Với F: chi phí tiền lương M: doanh thu bán hàng Từ công thức tổng quát trên, ta suy ra công thức tính tỷ suất chi phí nhân công trực tiếp trong sản xuất: Q: khối lượng sản phẩm sản xuất ra Fnctt: chi phí nhân công sản xuất trực tiếp + Khi tỷ suất tiền lương giảm mà tiền lương bình quân tăng hoặc không thay đổi là hiện tượng tốt. + Khi tỷ suất tiền lương tăng do tăng tiền lương bảo quản của người lao độngvì tiền lương trước đây chưa đảm bảo được đời sống thiết yếu nhưng không anhr hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thì nên chấp nhận. + Khi tỷ suất tiền lương tăng mà tiền lương bình quân của người lao động bị giảm tức là hiệu quả sử dụng lao động thấp ảnh hưởng đến hiệu ủa sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến đời sống của người lao động. Doanh nghiệp cần cải tiến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là việc sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Khi phân tích chi phí nhân công, ngoài việc xác định tỷ suất chi phí, chúng ta còn xác định chênh lệch của chi phí tiền lương có liên hệ với kết quả sản xuất kinh doanh, như thế sẽ chính xác hơn. - Nếu dấu chênh lệch âm, nói lên tiết kiệm tương đối. - Nếu dấu chênh lệch dương, nói lên mức chênh lệch quỹ lương không hợp lý. Khi phân tích chi phí tiền lương cần xem xét thu nhập thực tế bình quân của người lao động. Nó có đảm bảo đời sống thiết yếu của người lao động không. *Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp: Công thức: Fnctt : Là tổng chi phí nhân công trực tiếp T: Là số lượng công nhân : Là tiền lương bình quân Bằng phương phsản phẩm loại trừ, ta có thể xác định sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích như sau: Đối tượng phân tích: - Do ảnh hưởng của nhân tố số lượng nhân công sản xuất: - Do ảnh hưởng của nhân tố tiền lương bình quân của công nhân sản xuất: Tiền lương bình quân của công nhân sản xuất lại chịu sự tác động của hai nhân tố: + Kết cấu công nhân của từng bộ phận sản xuất hoặc từng loại công nhân trong doanh nghiệp kỳ thực tế và kỳ kế hoạch. Gọi : di1 là kết cấu công nhân kỳ thực hiện: dio là kết cấư công nhân kỳ kế hoạch ti1, ti0 là số lượng công nhân sản xuất bộ phận i hay loại công nhân sản xuất i trong doanh nghiệp kỳ thực tế so vơí kỳ kế hoạch. Xi1, Xi0 Là tiền lương bảo quản của công nhân từng bộ phận hoặc từng loại công nhân kỳ thực tế và kỳ kế hoạch. Có thể xác định sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố đến tiền lương bình quân của công nhân sản xuất; - Do ảnh hưởng của nhân tố kết cấu công nhân: - Do ảnh hưởng của nhân tố tiền lương bình quân của từng bộ phận từng loại công nhân trong doanh nghiệp: Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, đánh giá những nguyên nhân và kiến nghị những biện pháp, nhằm giảm chi phí tiền lương trong giá thành tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao mức lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.1.3./ Phân tích tình hình chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều yếu tố chi phí phát sinh trong quá sản xuất, như chi phí nhiên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công phân xưởng, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí mua ngoài, chi phí bằng tiền khác. * Phân tích chung các khoản mục chi phí này là nhằm đánh giá sự biến động về tổng số của các khoản mục. Phân tích chung về tổng số chi phí của khoản mục qua các kỳ và đánh giá sự biến động đó. Xác định mức tiết kiệm (bội chi) chi phí thông qua việc điều chỉnh chi phí khả biến theo khối lượng sản xuất kinh doanh thực tế. Phương pháp phân tích giống như phân tích chung chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp. Phương phsản phẩm phân tích giống như phân tích chung chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp. Phân tích chung theo kết cấu các tiểu khoản mục chi phí trong từng khoản mục. Chúng ta xác định ba chỉ tiêu: Tổng chi phí, tỷ suất chi phí và tỷ trọng chi phí của từng tiểu khoản mục, xác định sự biến động của các chỉ tiêu trên qua các kỳ và đánh giá sự biến động đó. * Phân tích cụ thể một số tiểu khoản mục chi phí: thực chất đây là những yếu tó chi phí của doanh nghiệp. - Yếu tố chi phí tiền lương: bao gồm chi phí nhân viên phân xưởng, nhân viên bán hàng, nhân viên quản lý. phương pháp phân tích tương tự như phân tích chi phí nhân công trực tiếp sản xuất. - Chi phí khấu hao t ài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao của tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính đang sử dụng ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Không tính vào khoản chi phí này phần khấu hao tài sản cố định sử dụng trong quảnl lý doanh nghiệp. Chi phí khấu hao được xác định bằng công thức Mức khấu hao bình quân = Nguyên giá x Tỷ lệ năm của tài sản cố định của tài sản cố định khấu hao năm Như vậy, mức khấu hao năm phụ thuộc vào hai nhân tố: nguyên giá của tài sản cố định và tỷ lệ khấu hao (sử dụng phương phsản phẩm thay thế liên hoàn để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố). + Nguyên giá của tài sản cố định của doanh nghiệp thường xuyên biến động do các nguyên nhân như: đánh giá lại, đổi mới trang thiết bị, mua săm, nhận liên doanh điều động, nhượng bán, thánh lý. Thời điểm xác định nguyên giá thay đổi khi tính toán mức khấu hao là kỳ báo cáo liền sau kỳ có sự thay đổi về tài sản cố định. + Tỷ lệ khấu hao: Chỉ tiêu nàyh thường ổn định, nếu có sự thay đổi thì coi đây là nhân tố khách quan, không phụ thuộc vào chất lượng công tác quản lý máy mọc thiết bị sản xuất của doanh nghiệp. - Các yếu tố chi phí về dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác: sử dụng phương phsản phẩm so sánh để đánh giá sự chênh lệch của các yếu tố này qua các kỳ, tìm nguyên nhân từ trong chi tiêu cụ thể để có biện pháp duy trì việc tiết kiệm và hạn chế sự lãng phí trong chi tiêu. 1.2./ Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch định mức giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm hàng hoá là một chỉ tiêu quan trọng đối với công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích tình hình thực hiện giá thành là xem xét sự biến động của giá thành đơn vị, những nguyên nhân ảnh hưởng đến giá thành đơn vị, qua đó xem xét sự biến động của tổng giá thành, thực chất đó chính là tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. 1.2.1./ Phân tích tình hình biến đông giá thành đơn vị Sử dụng phương phsản phẩm sánh để phân tích, xác định mức chênh lệch và tỷ lệ chênh lệch Gọi Z là giá thành sản phẩm Đối với những sản phẩm doanh nghiệp sản xuất tương đối ổn định qua nhiều kỳ khác nhau, chúng ta có thể so sánh giá thành thực tế qua các kỳ để biết khả năng hạ giá thành của doanh nghiệp. Đồng thời xác định những thời kỳ khả năng giá thành tăng, giá thành hạ mà tìm nguyên nhân và biện phsản phẩm hạ giá thành các loại sản phẩm đó. - Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động giá thành đơn vị: Công thức : Trong đó: m1: Định mức tiêu hao loại nguyên vật liệu i cho sản xuất một đơn vị sản phẩm. P1: đơn giá đối với nguyên liệu loại i t1: Lượng thời gian lao động hao phí cho sản xuất một đơn vị sản phẩm. xi: đơn giá tiền lương của đơn vị thời gian lao động ci: máy móc, nhân viên quản lý phân xưởng phục vụ cho sản xuất một đơn vị sản phẩm. Mức chênh lệch giá thành kỳ thực tế so với kỳ kế hoạch do ảnh hưởng của các nguyên nhân sau: + ảnh hưởng của nhân tố khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: + ảnh hưởng của nhân tố nhân công trực tiếp: + ảnh hưởng của nhân tố chi phí bất biến cho sản xuất một đơn vị sản phẩm: Tổng hợp sự ảnh hưởng của các nhân tố trên đến tổng giá thành: Từ đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và kiến nghị các biện phsản phẩm nhằm giảm chi phí trong giá thành đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp. 1.2.2./ Phân tích sự biến động của tổng giá thành sản phẩm: Thực chất là phân tích tổng chi phí sản xuất Gọi Tcpsx là tổng chi phí sản xuất (tổng giá thành) ta có: qj: khối lượng sản phẩm j Zj: giá thành đơn vị sản phẩm j Sử dụng phương pháp so sánh để phân tích: + Xác định mức chênh lệch của tổng giá thành kỳ kế hoạch so với kỳ thực tế tính theo sản lượng thực tế. + Xác định % thực hiện kế hoạch giá thành. Trong phân tích, có thể so sánh tổng giá thành điều chỉnh theo sản lượng thực tế qua các kỳ khác nhau, từ đó xác định kế hoạch hạ giá thành cũng như tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của đơn vị. Thường sử dụng hai chỉ tiêu: Về kế hoạch hạ giá thành: +Mức hạ thấp kế hoạch (MHTKH): MHTKH = TCFSXsản lượng kế hoạch theo ZKH - TCFSXsản lượng kế hoạch theo ZNT + Tỷ lệ hạ thấp kế hoạch (TLHTKH): - Về thực hiện kế hoạch hạ giá thành: +Mức hạ thấp thực tế (MHTTT): MHTTT = TCFSXsản lượng kế hoạch theo ZTT - TCFSXsản lượng kế hoạch theo ZNT +Tỷ lệ hạ thấp kế hoạch (TLHTTT) Trong đó, ZNT, ZKH, ZTT là giá thành đơn vị sản phẩm năm trước, kế hoạch và thực tế. Ta so sánh mức hạ, tỷ lệ hạ thực tế so với mức hạ, tỷ lệ hạ kế hoạch có thể đánh giá được tình hình thực hiện giá thành sản phẩm của đơn vị. 2./Những phương pháp cơ bản dùng trong phân tích tình hình CPSX và giá thành sản phẩm: 2.1./ Phương pháp so sánh: Là phương pháp được sử đụng phổ biến trong phân tích nhằm xác định xu hướng và mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, chúng ta phải so sánh doanh thu với chi phí bỏ ra trong kỳ sản xuất kinh doanh, so sánh chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kỳ thực hiện so với kỳ kế hoạch cũng như chi phí của từng khoản mục trong giá thành, so sánh tổng giá thành kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch cả về số tuyệt đối, số tương đối và số bình quân để xem xét tình hình biến động chi phí kỳ thực hiện với kỳ kế hoạch. Phép so sánh có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và có thể đánh giá nhanh chóng các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, nó không xác định được sự ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, vì vậy việc đề xuất các biện pháp khắc phục những tồn tại hay phát huy những ưu điểm bị hạn chế. Để khắc phục nhược điểm này, trong phân tích, người ta còn sử dụng phương pháp loại trừ. 2.2./ Phương pháp loại trừ: Là phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân thị trường tố đến đối tượng phân tích bằng cách khi xác định sự ảnh hưởng của nhân tố này thì loại trừ sự ảnh hưoửng của nhân tố khác. Có hai hình thức: a). Phương pháp thay thế liên hoàn: Là phương pháp thay thế lần lượt số liệu gốc bằng số liệu muốn so sánh của các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ tiêu kinh tế được phân tích theo một logic xác định. Thông thường, trình tự thay thế được quy định: nhân tố số lượng thay thế trươc, nhân tố chất lượng thay thế sau. b). Phương pháp số chênh lệch: Là hình thức biến tướng của hình thức thay thế liên hoàn. Xét về mặt toán học thì phương pháp số chênh lệch là hình thức rút gọn của phương pháp thay thế liên hoàn bằng cách đặt thừa số chung. 2.3./ Phương pháp cân đối: Là phương pháp được dùng trong phân tích dựa trên cơ sở cân đối giữa nguồn và việc phân phối các nguồn đó. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phương pháp cân đối được dùng để cân đối giữa tổng chi phí và các yếu tố chi phí, cân đối giữa tổng giá thành và các khoản mục trong giá thành. 2.4./ Phương pháp chi tiết: Chi tiết theo bộ phận, chi tiết theo thời gian, địa điểm. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành, chỉ tiêu chi phí và giá thành thường được chi tiết theo các khoản mục chi phí và giá thành. 2.5./ Phương pháp dùng biểu mẫu: Biểu trong phân tích kinh tế nói chung và trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành nói riêng được thiêts lập theo các dòng, các cột, trong đó ghi chép đầy đủ các khoản mục, các chỉ tiêu, các số liệu phân tích.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0245.doc
Tài liệu liên quan