Kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước thì nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội, luôn được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ về những kết quả đã đạt được về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đời sống của người dân được nâng cao, phúc lợi xã hội được chú trọng phát triển. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển, kéo theo hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật kinh tế có nhiều thay đổi và được hoàn thiện hơn. Với việc Quốc hội khoá XI ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đã ghi nhận sự thay đổi trong việc mở rộng quyền năng cho các chủ thể được làm những gì mà pháp luật không cấm, đảm bảo cho "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" mà Điều 57 Hiến pháp 1992 đã quy định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển biến không ngừng, giao lưu kinh tế mở rộng, các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng và phức tạp, thì quan hệ mua bán hàng hoá cũng không nằm ngoài xu thế đó. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng vẫn rất cần được quan tâm.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1929 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2005 được coi là một sự kiện pháp lý có ý nghĩa quan trọng. Điều này được giải thích bởi hoạt động kinh doanh thhương mại cần có một văn bản pháp lý, thế nhưng Luật thương mại 1997 ngay từ khi mới được thông qua đã không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn khách quan đó. Việc Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 hết hiệu lực kể từ ngày 1.1.2006 đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ, khi mà một quan hệ hợp đồng cùng một lúc có thể được điều chỉnh bởi các quy định trong ba văn bản pháp luật khác nhau.
Những thành công mà pháp luật về hợp đồng thương mại đạt được trong thời gian qua là rất lớn. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại các doanh nghiệp nói chung và tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường nói riêng.
1.2. Về phía công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường
Những kết quả tốt đẹp mà công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường đạt được bên cạnh những thuận lợi mà Nhà nước và pháp luật đem lại phải kể đến những yếu tố thuộc về chính Công ty đem lại. Đó là:
Công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường có một bộ máy phân cấp quản lý khoa học và hoạt động có hiệu quả là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty.
Công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường ra đời và bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, ý thức được tầm quan trọng của ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại, Công ty đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ chế và quy chế khen thưởng, khuyến khích sản xuất. Mặt khác, Công ty cũng đưa ra những biện pháp kỷ luật để áp dụng đối với những trường hợp vi phạm quy chế và điều lệ Công ty. Do đó, Công ty có một đội ngũ công nhân và lãnh đạo làm việc nghiêm túc, hết mình, đạt hiệu quả cao.
Công ty luôn quan tâm tới các cán bộ nhân viên của mình, bởi chính họ là người đã làm nên lợi nhuận cho Công ty, thể hiện qua mức lương bảo đảm mức sống cho mỗi người. Mức lương trung bình của công nhân trong Công ty không ngừng tăng qua các năm. Cụ thể năm 2004 lương bình quân là 800.000 (đồng); năm 2005 là 950.000 (đồng); năm 2006 là 1.350.000 (đồng). Đó là một động lực thúc đẩy nhân viên trong Công ty phấn đấu tin tưởng vào sự thành công của Công ty hiện tại cũng như trong tương lai.
Hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty thường được Công ty cho soạn thảo sẵn để giảm tối đa thời gian ký kết hợp đồng. Với công việc soạn thảo này, Công ty đã tiết kiệm được nhiều thời gian phải soạn thảo chi tiết, cụ thể trong mỗi lần giao kết hợp đồng. Nội dung mẫu hợp đồng mua bán hàng hoá gồm sáu điều : Điều 1 tên hàng, khối lượng và giá cả, Điều 2 ghi quy cách, chất lượng hàng hoá, Điều 3 ghi thời gian, phương thức và địa điểm giao nhận, Điều 4 ghi phương thức thanh toán, Điều 5 ghi trách nhiệm của mỗi bên, Điều 6 ghi cam kết thực hiện, trong đó có ghi cả trách nhiệm của hai bên phải thực hiện đúng hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải quyết tranh chấp, thời gian có hiệu lực của hợp đồng, việc thanh lý hợp đồng, số bản hợp đồng và giá trị pháp lý của các bản hợp đồng. Mặc dù mẫu hợp đồng mua bán hàng hoá còn chung chung, sơ sài, chưa cụ thể, chi tiết nhưng nó cũng đã tạo ra những thuận lợi nhất định trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng, tạo ra sự thống nhất trong Công ty trong quá trình ký kết hợp đồng, giống như một thói quen, từ đó việc ký kết hợp đồng diễn ra nhanh, tạo ra sự chủ động cho Công ty trong quá trình đàm phán, thoả thuận với đối tác, nhất là những đối tác lần đầu thiết lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá với Công ty.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty thường xuyên trao đổi thông tin với đối tác để cho bạn hàng biết được tiến độ thực hiện hợp đồng cũng như cho thấy sự nghiêm túc và sự cố gắng của Công ty trong việc thực hiện hợp đồng. Đó là một cách tạo nên uy tín của Công ty. Trong quá trình trao đổi thông tin như thế, Công ty luôn làm bạn hàng hài lòng và thoả mãn vì đã chọn Công ty để ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
Một ưu điểm lớn của Công ty là suốt trong quá trình hoạt động, không có tranh chấp lớn nào xảy ra dẫn đến kiện tụng làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Công ty. Bởi khi có tranh chấp Công ty và bạn hàng gặp nhau thông qua phương thức giải quyết thương lượng là mâu thuẫn được giải quyết. Vì vậy, số lượng hợp đồng mua bán hàng hoá của Công ty ký kết được ngày càng tăng lên, thu hút được ngày càng nhiều bạn hàng lớn, tạo quan hệ làm ăn lâu dài (minh chứng cho điều này đã được nói đến ở phần trước qua số liệu thống kê số lượng hợp đồng của Công ty ngày càng tăng lên trong những năm gần đây cùng với giá trị của mỗi hợp đồng cũng lớn hơn).
2. Những khó khăn, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, công việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá của công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường vẫn còn một số khó khăn cần khắc phục.
2.1. Những hạn chế do những quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại mang lại
Thứ nhất, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (25/8/1989) ra đời được coi là một bước tiến đáng kể trong quá trình xây dựng và ban hành chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế ở Việt Nam. Sau Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có Bộ luật Dân sự 1995 và Luật Thương mại 1997 cùng tham gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế. Nhưng trong ba văn bản này thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được áp dụng nhiều nhất khi các bên viện dẫn văn bản pháp luật để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, rất ít trường hợp các bên căn cứ vào Luật Thương mại. Còn trong thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp kinh tế thì rất ít khi toà án viện dẫn đến các quy định của Luật Thương mại 1997.
Khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 được Quốc hội thông qua và ngày 1/1/2006 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. Nhưng trên thực tế trong những tháng đầu của năm 2006 nhiều doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá vẫn căn cứ vào pháp lệnh Hợp đồng khinh tế 1989. Đây có thể nói là một thói quen trong lựa chọn luật áp dụng, mà cũng có thể nói các doanh nghiệp vẫn thích một luật (pháp lệnh), một nghị định, một thông tư để điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ pháp luật, mà ở đây là quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Doanh nghiệp chưa quen kiểu có một luật khung (Bộ luật Dân sự) và một luật điều chỉnh (Luật Thương mại).
Thứ hai, khi xây dựng, soạn thảo Bộ luật Dân sự 2005 và Luật thương mại 2005, các nhà làm luật có kỳ vọng là đảm bảo sự thống nhất giữa hai văn bản pháp luật đó. Thực tế cho thấy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 trong một mức độ nào đó đã đáp ứng được điều đó. Tuy nhiên, giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 tồn tại một số mâu thuẫn giữa hai văn bản pháp luật đó, điển hình là các quy định về phạt vi phạm, Khoản 2 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:" Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận" và không giới hạn mức phạt vi phạm tối đa. Trong khi Điều 301 Luật Thương mại 2005 lại quy định "Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm".
Sự khác biệt về mức phạt vi phạm dẫn đến sự khác biệt trong việc quy định mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Điểm 2 Khoản 3 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 quy định rằng "Trong trường hợp các bên thoả thuận phạt vi phạm mà không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm". Theo Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005 quy định "Trong trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm mà không có thoả thuận bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại". Tại sao lại có sự khác biệt giữa các quy định liên quan đến phạt vi phạm trong hai văn bản vừa mới được ban hành? Sự không thống nhất giữa các quy định về phạt vi phạm trong Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 trong tương lai gần chắc chắn sẽ gây ra cuộc tranh luận liên quan đến việc xác định văn bản nào sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cụ thể.
Thứ ba, theo quy định của Khoản 3 Điều 31 Luật Thương mại 2005, Luật Thương mại được áp dụng ngay cả khi bên tham gia hợp đồng không vì mục đích sinh lời yêu cầu áp dụng nó. Vậy thì một câu hỏi nữa có thể được đặt ra, nếu cũng trong hợp đồng đó bên tham gia không vì mục đích kiếm lời lựa chọn Trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó thì liệu pháp luật có chấp nhận sự lựa chọn đó hay không? Tất nhiên là không. Bởi vì trong hợp đồng ký kết giữa một bên là thương nhân với một bên khác không phải là thương nhân nếu có thoả thuận Trọng tài thì thoả thuận trọng tài đó bị coi là vô hiệu theo quy định của Khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 và tranh chấp phát sinh từ những hợp đồng nói trên không thuộc thẩm quyền của Trọng tài.
Trên đây là một số điểm chưa thật thống nhất giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại, trong đó có hợp đồng mua bán hàng hoá. Điều này sẽ ít nhiều gây ra khó khăn cho các bên khi tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá.
Dưới đây ta sẽ xem xét những khó khăn của chính bản thân Công ty trong điều kiện thực tế hiện nay.
2.2. Những khó khăn của công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường
Thực hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường tuy có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Điều dễ nhận thấy trong nền kinh tế thị trường đó là sự cạnh tranh khốc liệt, thương trường được ví như chiến trường. Nếu doanh nghiệp không nhanh nhạy nắm bắt thị trường thì dễ dàng bị thất bại, bị phá sản. Công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường là một doanh nghiệp mới được thành lập và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nên việc thu hút khách hàng lớn gặp khá nhiều khó khăn. Để cho người tiêu dùng biết và quen với sản phẩm của Công ty và để ký được nhiều hợp đồng mua bán hàng hoá, thời gian đầu đôi khi Công ty bỏ qua những quy định của pháp luật. Đó là những quy định về chủ thể hợp đồng, thẩm quyền ký kết, luật áp dụng: Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, đại diện ký kết của Công ty luôn là Tổng giám đốc Công ty. Nhưng bên đối tác ai tham gia ký kết, thẩm quyền, trách nhiệm theo pháp luật lại không được Công ty nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể. Nếu đó là đại diện theo pháp luật thì không có việc gì xảy ra nhưng việc phải bàn là vấn đề đại diện theo uỷ quyền. Như hợp đồng mua bán hàng hoá mà Công ty ký kết với Công ty cổ phần Sông Đà 12, chi nhánh Hải Dương (địa chỉ: thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) ngày 31/3/2006 có ghi đại diện ký kết hợp đồng là Phó giám đốc Phạm Văn Tán, nhưng lại không ghi đại diện theo uỷ quyền, cũng không có giấy uỷ quyền, vì Phó giám đốc hoàn toàn không phải là đại diện theo pháp luật, nếu là đại diện thì chỉ là đại diện theo uỷ quyền. Khi đàm phán ký kết hợp đồng này, Công ty không hề đề cập hay quan tâm và có thể không xác định được đây là đại diện theo uỷ quyền. Công ty thường có quan điểm rằng không nên đặt vấn đề tìm hiểu về thẩm quyền của bên đối tác, vì làm như vậy là mất lịch sự, không tôn trọng nếu đòi hỏi đối tác của mình đưa ra những chứng cớ xác nhận thẩm quyền của họ. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các quan hệ kinh tế rất phức tạp, những hành vi kinh doanh nhiều khi không kiểm soát hết được, ai có thể giám chắc rằng Công ty không bị lừa dối. Bởi vậy, Công ty cần lưu ý đến vấn đề uỷ quyền ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra. Bởi theo quy định của pháp luật thì hợp đồng được ký kết trong phạm vi uỷ quyền thì người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm như chính mình đã ký. Nếu người được uỷ quyền ký vượt quá phạm vi uỷ quyền, thì phần vượt quá phạm vi uỷ quyền bị vô hiệu, do đó việc ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá mà không chú ý đến uỷ quyền thì có thể gây ra những hậu quả không đáng có, gây thiệt hại lớn đối với Công ty. Cũng may không có tranh chấp từ những hợp đồng như vậy xảy ra. Hay về vấn đề chọn luật áp dụng, đến ngày 1.1.2006 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thi hành, nhưng trong một số hợp đồng mua bán hàng hoá mà Công ty đã ký kết những tháng đầu năm 2006 vẫn thấy phần căn cứ ghi: Căn cứ Pháp lệnh HĐKT, Căn cứ Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết Pháp lệnh HĐKT. Những hợp đồng như vậy chủ yếu được bên khách hàng soạn thảo, Công ty biết như vậy là không đúng nhưng vẫn đồng ý theo ý của bạn hàng, với mong muốn khi thực hiện những hợp đồng như vậy sẽ không có tranh chấp xảy ra. Trên thực tế khi hết thời gian hợp đồng có hiệu lực không có tranh chấp xảy ra thật.
Công ty chưa chủ động tìm kiếm khách hàng, nhất là những khách hàng ở xa, mà phần lớn là do khách hàng tự tìm đến Công ty để ký kết hợp đồng. Điều đó là hết sức thụ động, khiến cho Công ty bỏ qua nhiều cơ hội mở rộng thị trường của mình.
Việc soạn thảo các mẫu hợp đồng mua bán hàng hoá đem lại cho Công ty nhiều tiện ích, nhưng bên cạnh đó là không ít nhược điểm. Đó là sự cứng nhắc, không linh hoạt trong quan hệ hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, không phải khách hàng nào cũng muốn tiết kiệm thời gian theo kiểu ký kết hợp đồng trên một hợp đồng đã được soạn thảo sẵn. Bởi vậy, tuỳ từng khách hàng việc sử dụng hợp đồng mẫu mới đem lại hiệu quả ký kết. Việc sử dụng hợp đồng có sẵn không nêu cao tinh thần trách nhiệm, do đó không phát huy được tính sáng tạo, mày mò tìm hiểu trong công việc, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, tính chuyên môn của công việc đàm phán.
Xem xét các hợp đồng mua bán hàng hoá được soạn thảo sẵn, thì thấy các điều khoản trong hợp đồng còn thiếu tính cụ thể rõ ràng, chưa mang tính ràng buộc chặt chẽ, nếu xảy ra tranh chấp thì thật đáng tiếc vì những điều khoản thiếu tính rõ ràng như vậy. Ví dụ như điều khoản thanh toán trong hợp đồng thường ghi là: "Bên A thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản cho bên B…" mà không quy định đồng tiền thanh toán. Biết rằng trong hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì đồng tiền thường được sử dụng là VND, nhưng cũng có trường hợp giá của hàng hoá được tính bằng USD, trong trường hợp như vậy thì nên ghi rõ đồng tiền thanh toán, bởi trong tình hình hiện nay khi mà giá cả mọi thứ thay đổi nhanh, sự quy đổi USD sang VND cũng thay đổi từng ngày, có thể hai bên đều hiểu đồng thanh toán là gì nhưng trong hợp đồng mọi điều khoản đều phải rõ ràng. Những quy định về thanh toán như vậy trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến kế hoạch tài chính của Công ty, đến kế hoạch thu chi của Công ty, từ đó ảnh hưởng đến tính chủ động về tài chính trong các quan hệ thanh toán, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và có thể xảy ra tranh chấp từ sự quy định thiếu cụ thể, rõ ràng ở điều khoản này.
Công ty có số lượng vốn không nhiều và Công ty chủ trương kinh doanh đa lĩnh vực, nên trong quá trình thực hiện hợp đồng của Công ty thì vấn đề nợ quá hạn cũng cần phải được xem xét. Bởi việc để khách hàng chiếm dụng vốn sẽ gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Công ty.
Khi nghiên cứu, tìm hiểu các hợp đồng mua bán hàng hoá đã được ký kết tại Công ty, có một vấn đề rất đáng quan tâm mà không thấy được quy định trong các hợp đồng của Công ty. Đó là việc chuyển giao rủi ro. Chuyển giao rủi ro là một vấn đề rất quan trọng. Nó ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng. Thời điểm chuyển rủi ro là thời điểm xác định trách nhiệm đối với hàng hoá thuộc về ai, từ đó mà xác định bên nào phải chịu trách nhiệm nếu nỡ có thiệt hại xảy ra. Chính vì không được quy định trong hợp đồng, nên khi có rủi ro xảy ra các bên sẽ đổ trách nhiệm cho nhau làm nảy sinh tranh chấp. Mặc dù trong luật cũng có quy định về thời điểm chuyển rủi ro, nhưng các bên thoả thuận và ghi vào hợp đồng thì sẽ cụ thể và dễ hơn trong việc thực hiện.
Công ty cũng gặp một số khó khăn, hạn chế về vấn đề nhân lực. Mặc dù Công ty đã lựa chọn, tuyển dụng được những cán bộ giỏi, có năng lực chuyên môn cao, tận tâm với công việc, nhưng trình độ của cán bộ công nhân viên trong Công ty còn chưa toàn diện về mặt nghiệp vụ pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kinh nghiệm thực tế. Vì Công ty mới thành lập và đi vào hoạt động được khoảng 5 năm, đội ngũ cán bộ vẫn còn trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, sự đầu tư của nước ngoài vào nước ta đang diễn ra sôi động như hiện nay thì những hạn chế về nghiệp vụ pháp luật, ngoại ngữ, tin học, kinh nghiệm thực tế là khó khăn lớn trong việc thu hút khách hàng và các đối tác làm ăn.
Đó là một số những tồn tại mà công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường cần phải khắc phục trong thời gian tới để công việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá của Công ty diễn ra thuận lợi hơn và đạt hiệu quả cao trong những năm tiếp theo.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
1. Kiến nghị về phía Nhà nước
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khoá XI tại Đại hội X của Đảng xác định: Một trong những nội dung của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa là: "hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền". Đây là vấn đề quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và cũng là thời cơ để khoa học pháp lý và các nhà lập pháp thực hiện sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân giao phó, sớm làm cho đất nước ta có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.
Trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, mở cửa nền kinh tế là là một yêu cầu tất yếu để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong quá trình mở cửa, bên cạnh những yếu tố tích cực còn tồn tại nhiều yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, những chính sách của Nhà nước phải luôn kịp thời, đúng hướng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đặt trong mối tương quan với thế giới, nhằm tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế trong những năm tới. Trong mọi nền kinh tế thì quan hệ mua bán hàng hoá luôn đóng vai trò rất quan trọng. Bởi đó là một khâu đảm bảo cho việc sản xuất được diễn ra suôn sẻ - hàng sản xuất ra được tiêu thụ. Quan hệ mua bán hàng hoá ngày nay có vai trò càng quan trọng. Vì quan hệ này không chỉ diễn ra hạn hẹp giữa những người có cùng quốc tịch, trong cùng địa phương mà nó được diễn ra hết sức linh hoạt, sôi động giữa những người khác quốc tịch, giữa các quốc gia khác nhau, và giá trị hợp đồng cũng ngày một tăng. Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá là một biểu hiện của quan hệ kinh tế. Ngày nay quan hệ kinh tế được đặt nên hàng đầu. Thậm chí trong các chuyến thăm của các chính khách giữa các nước khác nhau cũng để nhằm phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó tạo nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế trong nước và ngược lại. Bởi vậy, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá được ghi nhận qua hợp đồng mua bán hàng hoá là điều cần thiết. Để giải quyết những tồn tại và phát huy được vai trò của quan hệ mua bán hàng hoá Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm và đưa ra những chính sách cụ thể như sau:
Thứ nhất: Ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá có tính ổn định và đồng bộ.
Hệ thống pháp luật muốn có hiệu lực, hiệu quả cao đều phải đảm bảo tính ổn định tương đối của nó. Nếu các văn bản pháp luật có hiệu lực cao như Hiến pháp và các đạo luật thay đổi thường xuyên, người dân sẽ thiếu tin tưởng vào pháp luật, từ đó họ sẽ coi thường pháp luật và văn bản pháp luật sẽ trở thành phổ biến trong xã hội. Trên thế giới ngày nay, người ta thấy có một số văn bản pháp luật tồn tại trong một thời gian khá dài. Chẳng hạn Bộ luật Dân sự Napoleon đã tồn tại được trên 200 năm. Cho đến nay, hơn 1.000 điều trong Bộ luật này (khoảng 1/2 số điều) vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, để cho hệ thống pháp luật có tính ổn định cần phải có những điều kiện khách quan và chủ quan. Về điều kiện chủ quan thì cần phải có một quy trình lập pháp khoa học và đúng đắn với những nhà lập pháp có trình độ cao. Hiện nay, điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá có Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các văn bản khác có liên quan. Trong đó Bộ luật Dân sự 2005 mang tính chất là luật "khung", Luật Thương mại 2005 là luật chuyên ngành. Khi áp dụng luật thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước, chỉ những vấn đề không được quy định trong luật chuyên ngành thì khi áp dụng luật sẽ áp dụng luật "khung". Nhưng đó cũng không phải là lý do thuyết phục để có sự khác nhau giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 về vấn đề phạt vi phạm hay mối quan hệ giữa hai chế tài: phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại (đã được đề cập ở phần trước). Vậy để đảm bảo sự thống nhất giữa các quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Thưong mại cũng như các văn bản pháp luật có liên quan khi cùng điều chỉnh một vấn đề, trong quá trình soạn thảo cần thiết phải có một người (tổ chức) làm nhiệm vụ như người cầm lái, hướng những người được giao nhiệm vụ dự thảo văn bản pháp luật phải đi theo một hướng định sẵn, có căn cứ khoa học.
Thứ hai: Ban hành văn bản pháp luật bảo đảm tính minh bạch.
Có thể hiểu tính minh bạch của pháp luật là sự quy định rõ ràng và dễ hiểu của pháp luật. Tuy nhiên, tính minh bạch của pháp luật còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn là pháp luật phải được công bố công khai trên Công báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác để mọi người dễ dàng tìm hiểu và thực hiện. Điều này đã được thực hiện nghiêm túc và triệt để trong thời gian qua bằng việc lập các trang Web của Chính phủ, Bộ, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương, Đài truyền hình, Đài tiếng nói có trách nhiệm đưa tin, đăng, phát sóng toàn văn bản hoặc nội dung cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng nếu việc này được làm ngay từ khi các văn bản pháp luật đó còn ở giai đoạn chuẩn bị soạn thảo thì sẽ thu hút sự quan tâm, theo dõi của đông đảo các tầng lớp nhân dân, của những người trực tiếp chịu sự điều chỉnh và của những người có liên quan, chuyên gia pháp luật quan tâm tới vấn đề đó để đóng góp ý kiến. Có như vậy thì khi một văn bản pháp luật được ban hành mới phù hợp với thực tiễn, hạn chế tình trạng văn bản pháp luật đã có hiệu lực mà trên thực tế mọi người dường như không biết đến sự tồn tại của văn bản pháp luật đó.
Thứ ba: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, đảm bảo thống nhất với các quy định của Luật Thương mại 2005.
Trọng tài Việt Nam dưới góc nhìn của nền kinh tế thị trường đã được hình thành và bước đầu phát triển với tính chất phi chính phủ. Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp thương mại thường được áp dụng theo thủ tục trọng tài. Để đáp ứng nhu cầu của trọng tài và nền kinh tế thị trường hiện nay, ngày 25/2/2003 Quốc hội thông qua Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Nhưng khi thực hiện Pháp lệnh Trọng tài Thương mại đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải xem xét. Do tính chất quan trọng của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nên pháp luật tài phán trọng tài ở Việt Nam cần được hoàn thiện ở những nội dung cơ bản sau:
Một là: Sửa đổi một số nội dung cụ thể trong Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 cho phù hợp, tránh mâu thuẫn với quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự 2004. Ví dụ 1: Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 quy định: "Trong trường hợp toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, vụ tranh chấp không có thoả thuận Trọng tài hoặc thoả thuận vô hiệu thì Hội đồng Trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Nếu không có thoả thuận khác,các bên có quyền khởi kiện ra toà án theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này nhưng không tính thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện tại Trọng tài đến ngày toà án ra quyết định tại Điều này". Điều này là không hợp lý, bởi sau khi toà án xác định Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì đương sự khởi kiện tại toà án thì phải áp dụng thời hiệu theo Bộ luật Tố tụng Dân sự chứ không thể áp dụng thời hiệu được quy định tại Điều 21 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại bởi hai lý do: Pháp lệnh Trọng tài Thương mại không thể áp dụng cho tố tụng toà án và cách tính thời hiệu khởi kiện của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại hoàn toàn khác cách tính thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành. Do vậy, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại không thể chứa đựng trong đó quy định về thời hiệu khởi kiện tại toà án khi mà vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân như Điều 30 nêu trên.
Ví dụ 2: Các quy định tại Điều 53 và Điều 56 của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại sử dụng khái niệm Hội đồng xét xử và khái niệm phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm cho thủ tục xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài là mâu thuẫn với Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành và không thể thực hiện được. Bởi lẽ, Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự nói đến các yêu cầu về kinh doanh thương mại, tức là một việc dân sự chứ không phải là một tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định ở Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Vì vầy, theo quy định ở Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự đến Điều 318 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì việc xem xét yêu cầu huỷ quyết định của Trọng tài không thành lập Hội đồng xét xử, không mở phiên toà mà chỉ mở phiên họp (kể cả các thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm).
Chính vì vậy, khi xây dựng các quy định này trong Luật Trọng tài, tốt nhất là nên dẫn chiếu Bộ luật Tố tụng Dân sự để có quy định phù hợp và không gây khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng của toà án và trọng tài, gây thiệt hại cho các bên tranh chấp.
Hai là: Về thẩm quyền của Trọng tài: Trọng tài có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thuộc những hành vi thương mại được quy định tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại khi các bên có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Các quy định này đã mở rộng phạm vi thẩm quyền Trọng tài so với trước đây rất nhiều. Tuy nhiên, cách xây dựng nội dung theo hướng liệt kê nên nó lại hạn hẹp hơn khái niệm thương mại trong Luật Thương mại 2005. Luật Thương mại 2005 thừa nhận cả những chủ thể không có đăng ký kinh doanh nhưng tham gia hoạt động có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó cũng là tranh chấp thưong mại. Như vậy, rõ ràng đã có sự bất cập về khái niệm thương mại - cơ sở xác định thẩm quyền trọng tài giữa Pháp lệnh Trọng tài Thương mại với Luật Thương mại và đương nhiên về nguyên tắc Pháp lệnh Trọng tài Thương mại phải hoàn thiện để phù hợp với Luật Thương mại về vấn đề này nếu không muốn tạo ra những bất cập cho thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các Trung tâm Trọng tài khi xác định hiệu lực của thoả thuận Trọng tài.
Ba là: phải sớm ban hành Luật về Trọng tài trên cơ sở hoàn thiện Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003. Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 sau một thời gian được áp dụng trong thực tiễn đã thể hiện nhiều vướng mắc, chưa có sự thống nhất với Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Thương mại về các vấn đề liên quan đến Trọng tài. Do đó. việc xây dựng Luật Trọng tài ở thời điểm hiện nay là điều tất yếu phải làm để có một cơ chế pháp lý tương ứng giữc các hình thức tài phán trong nước, đồng thời quảng bá rộng rãi Trọng tài Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Luật Trọng tài Việt Nam cần thừa nhận các nguyên tắc cơ bản của Trọng tài đã được áp dụng rộng rãi ở các nước và phải đáp ứng được yêu cầu trong hoạt động kinh doanh như bí mật kinh doanh, linh hoạt, nhanh gọn. Trong quá trình xây dựng Luật Trọng tài đương nhiên chúng ta phải tham khảo Luật Mẫu của Trung tâm Trọng tài Quốc tế năm 1985 và Quy tắc tố tụng Trọng tài của Uỷ ban về Luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc năm 1767, cũng như Luật Trọng tài của các nước có hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội giống với Việt Nam.
Trên đây là một số kiến nghị xung quanh Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 để việc giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Trọng tài có thể đạt hiệu quả cao.
Thứ tư: Cần phải ban hành thêm nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá.
Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO - là một tất yếu khách quan, thể hiện sự thành công, khẳng định thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với sự kiện trọng đại này sẽ là cơ hội để chúng ta thể hiện năng lực nội tại của nền kinh tế nước nhà, đồng thời trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia thành viên khác, tăng cường sự cạnh tranh để phát triển nhanh và bền vững đất nước, tạo diện mạo mới, từng bước thay đổi, làm tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Đây cũng sẽ là cơ hội lớn và thách thức lớn đặt ra với đội ngũ doanh nhân lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam bởi không những họ hội nhập mà còn là cạnh tranh với các doanh nhân, doanh nghiệp trên toàn thế giới. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cần phải tạo được gia tốc cao hơn các đối thủ khác trên thương trường. Quan trọng nhất là Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, hoạt động theo đúng quy định của WTO. Vì vậy, yêu cầu cải cách hành chính, sửa đổi chính sách thuế, tài chính, đầu tư, hoạch định lại các chiến lược vĩ mô, hậu thuận cho doanh nghiệp bằng việc cung cấp thông tin, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư là việc làm cấp thiết của Nhà nước cho doanh nghiệp trong thời gian này. Đối với lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá Chính phủ nên ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thương mại 2005 và Bộ Thương mại ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định của Chính phủ để lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá được thực hiện đúng luật, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá.
Thứ năm: Về vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá. Luật khi được ban hành thì tự nó không thể đi vào cuộc sống được mà phải qua khâu thực hiện. Đây là khâu yếu nhất trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống của nước ta hiện nay. Muốn thực thi pháp luật thì trước hết phải nâng cao "quan trí" về pháp luật. Đối với lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá Chính phủ, Bộ phải có kế hoạch quan tâm tới tuyên truyền, phổ biến nâng cao trình độ cho cán bộ công chức. Từ đó cán bộ công chức sẽ mở lớp tập huấn, phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp hoạt động liên quan đến quan hệ mua bán hàng hoá. Làm được như vậy thì luật khi ban hành sẽ đi vào cuộc sống. Biết luật, thực hiện đúng luật là điều rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đã là thành viên của WTO. Bất kể lúc nào chúng ta cũng có cơ hội làm ăn với đối tác nước ngoài. Nắm vững luật là chìa khoá để các doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh nói chung và trong ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng.
2. Kiến nghị về phía Công ty
Kết quả của việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường chịu ảnh hưởng của cả phía pháp luật Nhà nước và điều kiện thực tế của Công ty. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá thì ngoài việc Nhà nước thực hiện hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá mà Công ty cũng phải xem xét, chỉnh sửa, bổ sung để hạn chế những tồn tại, sai sót trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá của Công ty.
Thứ nhất: Đối với công tác chuẩn bị ký kết hợp đồng:
Đối với mỗi Công ty thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc ký kết hợp đồng là rất quan trọng. Nó đảm bảo cho Công ty tiêu thụ sản phẩm và cũng là để thu lại tài sản của Công ty dưới hình thái tiền tệ. Từ đó, Công ty có thể thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với: Nhà nước (nộp thuế): đối với công nhân viên (trả lương, thưởng): đối với bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào…và để tái mở rộng quy mô sản xuất của Công ty. Bởi vậy, khi ký kết bất kỳ một hợp đồng mua bán hàng hoá nào Công ty cần chuẩn bị kỹ lưỡng, tránh tình trạng hợp đồng đã được ký kết lại phải sửa đổi sẽ mất nhiều thời gian và gây tốn kém, thiệt hại cho cả hai bên.
Muốn vậy, Công ty phải chuẩn bị sẵn nội dung cần đàm phán, có thể soạn thảo sẵn hợp đồng và thoả thuận với đối tác theo những vấn đề mà Công ty chú ý soạn thảo trước. Cùng với điều đó thì Công ty chú ý đánh giá đối tác một cách nghiêm túc trước khi ký kết hợp đồng về khả năng thanh toán, về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, không để trường hợp chỉ chú trọng ký thật nhiều hợp đồng mà không xem xét, đánh giá kỹ lưỡng khả năng của khách hàng, nên khi hợp đồng được ký kết, thực hiện xong Công ty không được thanh toán, hay khi hợp đồng bị vi phạm lại không được bồi thường do khách hàng đang lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể xảy ra trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mà sự ra đời của các Công ty "ma" không còn là quá hiếm. Chỉ với cái tên, địa chỉ không có thực của mình mà khiến nhiều công ty làm ăn chân chính, thậm chí những công ty lớn cũng phải gặp không ít khó khăn khi bị họ lừa giao kết những hợp đồng tưởng như là béo bở, nhưng thực ra là biếu không họ những khoản tiền khổng lồ, mà đáng lẽ sẽ không xảy ra nếu việc tìm hiểu khách hàng được thực hiện nghiêm túc, kỹ lưỡng. Một điều dễ nhận thấy đó là nếu công tác chuẩn bị ký kết hợp đồng được thực hiện tốt tức là Công ty đã ở thế chủ động trong việc ký kết hợp đồng. Và như vậy khi thực hiện hợp đồng đã ký kết Công ty sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.
Thứ hai: Đối với hình thức và nội dung của hợp đồng:
* Về hình thức của hợp đồng: Công ty nên đa dạng hoá hình thức của hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 đã đưa ra các hình thức hợp đồng phù hợp với sự nhanh, nhạy, linh hoạt của việc ký kết hợp đồng, cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Công ty từ trước đến nay vẫn thường sử dụng hình thức hợp đồng là văn bản và ký trực tiếp. Điều này là một sự đảm bảo chắc chắn trong việc ký kết hợp đồng. Nhưng hiện nay, khi mà ai nhanh hơn là người ấy thắng thì không thể cứ sử dụng mãi một hình thức cổ điển là ký kết trực tiếp và bằng văn bản mà cần phải sử dụng các hình thức khác phù hợp với tinh hình thực tế, vừa nhanh lại hiệu quả và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Đó là bằng hình thức lời nói, các thông điệp dữ liệu, điện báo, telex, fax…
* Về nội dung của hợp đồng: Khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty thường ghi là hợp đồng kinh tế. Thực ra không cần phải ghi là hợp đồng kinh tế, chỉ cần ghi hợp đồng là đủ. Bởi theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 thì không còn sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế (hợp đồng thương mại) nữa. Việc gọi hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế chỉ là do thói quen từ trước mà thôi.
Khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty có thể không ghi căn cứ pháp lý điều chỉnh hợp đồng trong hợp đồng. Bởi vì, việc ký kết và thực hiện hợp đồng trên lãnh thổ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chịu sự điều chỉnh của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam chứ không phải riêng một văn bản pháp luật nào đó. Khi có tranh chấp xảy ra từ hợp đồng thì việc xác định quy định nào nằm trong văn bản pháp luật nào sẽ được áp dụng là công việc của các cá nhân, cơ quan và tổ chức có thẩm quyền, mà cụ thể là của thẩm phán, toà án và của Trọng tài. Các bên căn cứ vào Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại hay một văn bản nào đó khi ký kết hợp đồng là đã làm thay phần việc của thẩm phán và Trọng tài viên. Điều này cũng gần giống với việc một người bình thường chỉ cho các chuyên gia cần phải làm gì trong lĩnh vực của họ. Bởi vì rõ ràng, thẩm phán và Trọng tài viên hiểu rõ pháp luật hơn các bên trong hợp đồng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp không cần hiểu là hợp đồng mình ký kết là dựa trên căn cứ pháp lý nào. Mà là không cần ghi căn cứ pháp lý đó vào hợp đồng. Điều này vừa tránh được tình trạng ghi không đủ các văn bản pháp luật điều chỉnh, vừa tránh tình trạng ghi văn bản pháp luật đã hết hiệu lực thi hành. Vì căn cứ pháp lý là việc của thẩm phán, toà án, Trọng tài nếu có tranh chấp xảy ra.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty cần bổ sung các thoả thuận giữa các bên để hợp đồng được giao kết với các nội dung rõ ràng, cụ thể. Ví dụ về thời điểm chuyển giao rủi ro để có thể xác định được một cách chính xác trách nhiệm thuộc về ai nếu có tổn thất xảy ra đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển và bốc dỡ, hay về đồng tiền thanh toán, phương thức giao nhận hàng…
Điều khoản giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cũng cần được bổ sung vào trong mỗi hợp đồng. Các hợp đồng mua bán hàng hoá ở công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường điều khoản giải quyết tranh chấp thường lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án, rất ít khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Nhưng do phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài có nhiều ưu điểm mà phương thức toà án không có khi giải quyết các vụ tranh chấp trong kinh doanh thương mại như đã đề cập ở phần trước. Nên Công ty nên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá bằng Trọng tài khi thoả thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. Có lễ điều khoản giải quyết tranh chấp không được Công ty quan tâm lắm, vì trong quan niệm của Công ty tốt nhất là không có tranh chấp, mà nếu có thì giải quyết bằng thương lượng, hoà giải và cho qua. Nhưng thời đại ngày nay thì khác rồi, có mâu thuẫn khi thực hiện hợp đồng, có tranh chấp là điều bình thường, vì đối tác làm ăn ngày nay rất rộng. Thậm chí ngày nay không ít công ty trở nên nổi tiếng qua giải quyết tranh chấp. Mặt khác, hệ thống pháp luật điều chỉnh về vấn đề giải quyết tranh chấp đã khá hoàn thiện. Đặc biệt giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài hiện nay đang là lựa chọn hàng đầu trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Công ty cũng nên theo xu thế đó của thời đại.
Tóm lại, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá càng chặt chẽ thì rủi ro của hợp đồng càng ít và Công ty càng có cơ hội tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra. Nhưng nội dung của hợp đồng không phải là những nội dung cứng nhắc, thiếu linh hoạt mà đòi hỏi nó luôn thay đổi phù hợp với yêu cầu khách quan, phù hợp với nhu cầu của các bên trong quan hệ hợp đồng. Công ty có thể xây dựng các điều khoản "mở" có tính linh động có thể thích ứng với tình hình thực tế khi tiến hành đàm phán ký kết mà vẫn đúng pháp luật. Do đó, công việc xây dựng nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá nên giao cho các cán bộ đàm phán, ký kết hợp đồng có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn vững vàng, bảo đảm tính linh hoạt và nhạy cảm trong các điều khoản thoả thuận của hợp đồng.
Thứ ba: Về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng:
Khi ký kết một hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty chưa thật chú trọng tới việc áp dụng các biện pháp thực hiện hợp đồng. Chỉ trong một số ít hợp đồng có giá trị lớn, Công ty mới sử dụng biện pháp thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, khi thoả thuận điều khoản thanh toán Công ty chỉ áp dụng biện pháp đặt cọc sau khi hợp đồng được ký kết để ràng buộc trách nhiệm của bên mua và bên bán. Tuy nhiên, biện pháp này không đủ đảm bảo rằng Công ty sẽ thu được đủ số tiền hàng hoá theo đúng thời gian quy định trong hợp đồng. Trên thực tế, việc khách hàng chiếm dụng vốn của Công ty qua hình thức chậm thanh toán tiền hàng là có diễn ra. Việc chiếm dụng này có thể diễn ra tới 2 năm. Bởi vậy, Công ty nên mạnh dạn sử dụng các quy định của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện hợp đồng, bên cạnh đó Công ty nên có những biện pháp khuyến khích khách hàng thực hiện điều khoản thanh toán đúng hạn, đầy đủ như: chiết khấu thương mại…có như vậy vốn của Công ty mới không bị chiếm dụng, và không làm ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Thứ tư: Công ty nên mở Website để quảng bá hình ảnh Công ty rộng rãi. Khi thông tin về Công ty được truyền đi thì về lâu về dài Công ty sẽ thu hút được nhiều khách hàng ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá với Công ty.
Thứ năm: Về vấn đề nhân sự:
Con người luôn là tài sản quý giá nhất của mỗi doanh nghiệp. Ngày nay, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cạnh tranh về nguồn lực con người. Doanh nghiệp nào có đội ngũ công nhân viên giỏi thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ ở thế mạnh trong cạnh tranh. Mà kinh doanh là hoạt động của con người, do đó hiệu quả kinh doanh tuỳ thuộc vào năng lực người kinh doanh. Nếu chỉ đưa ra những phương án kinh doanh, biện pháp thực hiện mục tiêu mà không chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ thì chắc chắn hoạt động kinh doanh sẽ không đem lại hiệu quả. Công ty cần phải tổ chức được đội ngũ cán bộ kinh doanh năng động và sáng tạo, thích ứng với phương thức kinh doanh mới. Đội ngũ công nhân viên của Công ty có ưu điểm là những người trẻ, yêu công việc, dễ tiếp thu kiến thức. Đó là điều kiện tốt cho kế hoạch đào tạo cán bộ của Công ty.
Để có nguồn nhân lực giỏi, Công ty có thể thực hiện các biện pháp sau:
+ Thu hút nhân tài: Thông qua các biện pháp quảng cáo, tuyên truyền, giới thiệu về Công ty, về hiệu quả kinh doanh, về triển vọng của Công ty, về chế độ tiền thưởng, tiền lương, về tinh thần hợp tác và tôn trọng nhân tài…
+ Phát hiện nhân tài trong nội bộ Công ty: Đây là tiềm năng quan trọng, bởi khi phát hiện và biết trọng dụng những người có năng lực, bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng thì Công ty sẽ khai thác được tối đa năng lực của họ, chính họ là nhân tố thắng lợi cho Công ty.
Mặt khác, để có đội ngũ cán bộ giỏi, Công ty phải có biện pháp khuyến khích phát huy tinh thần sáng tạo của họ thông qua chế độ lương thưởng, phúc lợi cho người lao động…
Với đội ngũ cán bộ như hiện nay, Công ty cần bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức pháp luật qua các biện pháp:
+ Tổ chức đào tạo tại chỗ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên;
+ Cử cán bộ chuyên môn đi học nâng cao nghiệp vụ tại các trung tâm đào tạo như trường đại học, các vụ, viện…
+ Tham gia xây dựng các hợp đồng mua bán hàng hoá mẫu cùng với các luật gia, chuyên gia pháp luật được Công ty mời tới để học hỏi kiến thức, kinh nghiệm về luật pháp. Trong khi xây dựng các hợp đồng mẫu cùng các chuyên gia về pháp luật có kèm theo các câu hỏi về việc áp dụng luật trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mẫu với những điều khoản như thế nào sẽ đem lại sự thuận lợi cho cả Công ty và bạn hàng khi thực hiện, tránh xảy ra hiểu lầm dẫn đến tranh chấp.
Ngoài ra, Công ty nên xem xét, điều chỉnh chiến lược kinh doanh một cách phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Điều này đặt ra cho Công ty nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược về sản phẩm, marketing, nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đổi mới công nghệ tương ứng.
Công ty cần minh bạch hoạt động kinh doanh, tài chính, sử dụng hệ thống sổ sách, kế toán theo chuẩn mực và quy định của Nhà nước giúp cho việc quản lý tốt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả kinh doanh. Đây cũng được coi là cơ sở quan trọng để Công ty có thể vay vốn từ ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất phát triển kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hoá cung cấp cho thị trường.
Trên đây là một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. Với những cố gắng trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, sự đoàn kết nhất trí trong tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên, phát huy tinh thần sáng tạo, năng động của ban giám đốc, cùng với tinh thần hăng hái, cần cù lao động của tập thể người lao động, kết hợp với một số kiến nghị trên, Công ty sẽ không ngừng nâng cao hiệu quả trong ký kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng. Từ đó Công ty tăng doanh thu, lợi nhuận hiện tại, mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao vị thế của Công ty trong tương lai.
KẾT LUẬN
Kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước thì nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội, luôn được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ về những kết quả đã đạt được về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đời sống của người dân được nâng cao, phúc lợi xã hội được chú trọng phát triển. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển, kéo theo hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật kinh tế có nhiều thay đổi và được hoàn thiện hơn. Với việc Quốc hội khoá XI ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đã ghi nhận sự thay đổi trong việc mở rộng quyền năng cho các chủ thể được làm những gì mà pháp luật không cấm, đảm bảo cho "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" mà Điều 57 Hiến pháp 1992 đã quy định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển biến không ngừng, giao lưu kinh tế mở rộng, các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng và phức tạp, thì quan hệ mua bán hàng hoá cũng không nằm ngoài xu thế đó. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng vẫn rất cần được quan tâm.
Xuất phát từ sự quan tâm về quan hệ mua bán hàng hóa, đề tài đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề pháp lý về chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá, từ đó khẳng định vai trò và vị trí của hợp đồng mua bán hàng hoá với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại một Công ty để đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật và việc áp dụng pháp luật hợp đồng nói chung trong thời gian gần đây: Ban hành những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các văn bản luật đó để đảm bảo sự thống nhất giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, xây dựng và ban hành Luật Trọng tài thương mại đảm bảo các quy định thống nhất với Bộ luật tố tụng Dân sự 2004 và Luật Thương mại 2005, từ đó hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001
2. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006
3. Luật Thương mại được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006
4. Nghị quyết số 45/2005-QH11 của Quốc hội ban hành ngày 14/06/2005 về việc thi hành Bộ luật Dân sự
5. Luật doanh nghiệp năm 2005
6. Bộ luật tô tụng dân sự năm 2004
7. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002
8. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
9. Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/07/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại
10. Nghị định số 25/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại
11. Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL
12. Công ước Viên 1980 về vấn đề mua bán hàng hoá
II. GIÁO TRÌNH VÀ SÁCH THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) - Giáo trình Pháp luật Kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - NXB Thống kê 2006
2. TS. Trần Thị Hoà Bình - TS. Trần Văn Nam (đồng chủ biên) - Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - NXB Lao động - Xã hội 2005
3. TS. Đinh Trung Tụng (chủ biên) - Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự năm 2005 - NXB Tư pháp 2005
4. Thạc sỹ luật học: Đặng Văn Được - Hướng dẫn pháp luật Hợp đồng thương mại -: NXB Lao động - Xã hội 2006
5. TS luật học Ngô Huy Cương - Góp phần bàn về cải cách luật ở Việt Nam hiện nay - NXB Tư pháp 2006
6. TS. Huỳnh Viết Tuấn - Luật trong kinh doanh (diễn giải) - NXB Chính trị quốc gia 2006
7. Thạc sỹ: Nguyễn Khánh Ly - 236 Câu hỏi và giải đáp về pháp luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành - NXB Lao động - Xã hội 2006
8. Bùi Ngọc Toàn - Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 02/2006
9. TS. Hoàng Văn Tú - Đánh giá chất lượng dự án Luật, Pháp lệnh hiện nay - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 06/2006
10. TS. Phạm Văn Hùng - Đổi mới quan niệm về pháp luật - khởi điểm của quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 05/2006
11. Phan Tuấn Lâm - Vào WTO: Thách thức và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả -Tạp chí Pháp lý số tháng 12/2006
12. Lê Nguyễn - Luật đi vào đời sỗng xã hội, nếu… - Tạp chí pháp lý số tháng 12/2006
13. Mộc Hàn - Ý thức pháp luật của người dân trong tiến trình hội nhập - Tạp chí pháp lý số (1-2)/2007
14. PGS,TS. Thái Vĩnh Thắng - Bàn về các nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế - Tạp chí Luật học số 07/2006
15. TS. Hoàng Phước Hiệp - Việt Nam gia nhập WTO và vấn đề hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam - Tạp chí Luật học số 01/2007
16. TS. Nguyễn Viết Tý - Hai mươi năm phát triển của Luật Kinh tế - Nhìn dưới góc độ phương pháp luận - Tạp chí Luật học số 01/2007
17. Thạc sỹ luật học: Phạm Hoàng Giang - Sự phát triển của pháp luật hợp đồng: Từ nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng đến nguyên tắc công bằng - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2006
18. TS. Nguyễn Ngọc Khánh - Hợp đồng: Thuật ngữ và khái niệm - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2006
19. TS Luật học: Dương Anh Sơn - Bàn về Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2006
20. Nguyễn Thị Thục - Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2006
21. Thạc sỹ luật học: Nguyễn Thị Hoài Phương - Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng Trọng tài thương mại - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2006
22. Phạm Sỹ An - Ổn định tăng trưởng kinh tế năm 2006 - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số03/2007
23. Nguyến Đình Hoà - Một số vấn đề về khu vực doanh nghiệp năm 2006 - Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 03/2007
IV. MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
1. Đề tài cấp Bộ và bản tốm tắt đề tài cấp Bộ: "Hợp đồng kinh tế và vấn đề hoàn thiện chế độ pháp lý về Hợp đồng kinh tế"
2. Một số tài liệu tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32005.doc