Như vậy, xét trên tổng thể, mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của nước ta thời gian qua, nhưng về cơ bản nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu. Những thành tựu đó đã góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước đến hợp tác làm ăn và đầu tư vào Việt nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
82 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Pháp luật về nhập khẩu và Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang thực sự trở nên gấp rút khi mà Việt Nam đã thực sự đặt chân vào sân chơi chung của hoạt động kinh tế Thế giới – WTO. Công tác hoàn thiện phải được thực hiện trên tất cả các khâu, từ quá trình đám phán đến khi hợp đồng chính thức được ký kết, để đảm bảo tối thiểu hóa được các rủi ro pháp lí cho doanh nghiệp khi những tranh chấp xảy ra bất kể la do lỗi của bên nào.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHẬP KHẨU VÀ NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA PHÍA VIỆT NAM
3.1. Những thành tựu chủ yếu về nhập khẩu hàng hóa của Việt nam những năm vừa qua và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về nhập khẩu
Bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra trên toàn Thế giới, thấm vào từng mạch máu kinh tế của Quốc gia, cộng thêm hệ thống pháp luật về thương mại Quốc tế ngày càng hoàn chỉnh, hoạt động xuất nhập của Việt Nam đã diễn ra vô cùng sôi động, đặc là trong khoảng 10 năm trở lại đây.
Hoạt động nhập khẩu đã tạo được nguồn vốn và thị trường để đảm bảo nhập khẩu vật tư, vật liệu, máy móc, thiết bị và công nghệ đáp ứng cơ bản về nhu cầu đầu vào cho quá trình sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng hóa là tư liệu sản xuất, giảm nhanh tỷ trọng hàng tiêu dùng. Năm 2000, tư liệu sản xuất chiếm xấp xỉ 95% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt nam; trong đó, máy móc thiết bị chiếm khoảng 26- 27%. Từ năm 2001 trở đi, tỷ trọng máy móc, thiết bị, phụ tùng chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt nam
Đơn vị: %
Nhóm hàng nhập khẩu
1990
2000
2001
2002
2003
- hàng tư liệu sản xuất
85
95
92
92.5
93.3
+ Máy móc, thiết bị, phụ tùng
27
30.5
30.7
29.8
+ Nguyên vật liệu
68
61.5
62.2
63.5
- Hàng tiêu dùng
15
5
7.9
7.1
6.7
Tổng cộng
100
100
100
100
100
Nguồn: Niên giám thống kê 1991, 2001, 2002, 2003 Tổng cục Thống kê
Sau gần 3 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, kim ngạch ngoại thương Việt Nam - Hoa Kỳ đã vượt ngưỡng 5 tỉ USD năm 2003, riêng 9 tháng năm 2004 đã đạt trên 4 tỉ USD, tăng 9,8% so cùng kỳ năm trước, đưa Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Điều đó cho thấy những ảnh hưởng tích cực của Hiệp định đối với thương mại Việt Nam. Đây là một tín hiệu tốt bởi Hoa Kỳ là thị trường công nghệ nguồn hàng đầu thế giới, nhập khẩu máy móc thiết bị từ Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta có được các trang thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nhập khẩu các nguyên liệu cần thiết mà trong nước chưa làm được để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ như nguyên phụ liệu của ngành dệt may, giày dép, linh kiện điện tử và vi tính, chất dẻo nguyên liệu, hay các vật tư cần thiết phục vụ sản xuất và đời sống như phân bón, sắt thép, tân dược... Điều này được phản ánh trong cơ cấu hàng nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ: năm 2002, các sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm tới 75% tổng trị giá nhập khẩu từ Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu là các sản phẩm máy móc và thiết bị giao thông, nguyên liệu và vật tư phục vụ cho sản xuất trong nước và cho xuất khẩu. Nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2003, tỷ trọng nhập khẩu các sản phẩm chế tạo tăng lên 77% tổng kim ngạch nhập khẩu trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị đạt 709,4 triệu USD, chiếm 62% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 61,5% so với 2002, nhập khẩu các nguyên liệu và vật tư cần thiết khác đạt 173,7 triệu USD bằng 15% tổng kim ngạch nhập khẩu....
Trong lĩnh vực nhập khẩu, năm 2005 kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường khu vực và thế giới vào Việt Nam đạt 37 tỷ USD, tăng 15,79% so với năm 2004. Mặc dù ta vẫn nhập siêu nhưng tỷ lệ nhập siêu đó đã giảm so với trước và điều quan trọng hơn cả: sự nhập siêu đó là cần thiết cho quá trình CNH - HĐH đất nước. Tuy còn nhập siêu ở mức cao nhưng vẫn ở trong tầm kiểm soát của nhà nước ta như Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã nhận định. Điều cần nói thêm là nhập siêu cao đã trở thành tính quy luật đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH nền kinh tế. Ví dụ giai đoạn 1980-1985 tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc là 11% (năm cao nhất là 20%), của Thái Lan là 39%, của Philippin là 40%...Nhìn chung, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam những năm vừa qua đã đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển sản xuất và nhu cầu tiêu dùng hợp lý của nhân dân. Những mặt hàng thiết yếu vẫn được nhập khẩu cân đối cung cầu như: xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, thuốc chữa bệnh, các máy móc, thiết bị kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại… Nhập khẩu chủ yếu trong thời gian qua là máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu đầu vào... phục vụ cho nhu cầu đầu tư của Nhà nước và của doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi tăng nhập khẩu thông qua tăng đầu tư trong nước thì hoàn toàn có thể kỳ vọng vào một sự tăng trưởng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Nhìn dưới góc độ này, nhập khẩu cao là một dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Ở Việt Nam, khi tình hình tài chính, tiền tệ diễn biến có lợi cho việc cung ứng ngoại tệ như thời gian qua, thì việc tranh thủ nhập khẩu để đầu tư cũng là điều cần thiết.
Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng trong nhập khẩu hàng hóa, nhất là trong nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại. Đến nay, phần lớn các loại máy móc này đều được nhập khẩu bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nhờ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.
Từ thực tế hoạt động nhập khẩu đã và đang phát triển với nhiều thành tựu nổi bật như vậy, đòi hỏi pháp luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu cũng phải thay đổi tương thích với nhịp độ phát triển đó. Pháp luật về nhập khẩu muốn đáp ứng kịp nhu cầu kinh doanh trong thời đại công nghệ này, cần bám sát theo các phương châm chủ yếu sau:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.
- Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu tâm đến một thực tế là nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do đó chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trường theo cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nước ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước khác, đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ của chiến lược 2001-2010.
Như vậy, việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật về nhập khẩu đòi hỏi phải đảm bảo khuyến khích hoạt động nhập khẩu phát triển đúng hướng, đặc biệt là tập trung khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc thiết bị từ các “nền công nghệ nguồn”, đồng thời vẫn đảm bảo điều kiện phát triển cho các hoạt động sản xuất trong nước. Trong khi hoạt động kinh doanh Quốc tế đang ngày càng trở nên phổ biến và phức tạp như hiện nay, pháp luật cũng cần có sự điều chỉnh theo hướng thống nhất với pháp luật Thương mại Quốc tế trên cơ sở đảm bảo lợi ích của các thương nhân Việt Nam.
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhập khẩu
3.2.1. Hoàn thiện về chủ thể của hoạt động nhập khẩu
Trong những năm vừa qua, ý thức được rằng cùng với xu thế hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, sẽ có ngày càng nhiều các đối tượng tham gia vào hoạt động thương mại Quốc tế, Nhà nước đã có những điều chỉnh trong pháp luật Thương mại để mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với những hoạt động này. Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của sự thay đổi này là sự ra đời của Luật Thương mại 2005 thay thế cho Luật Thương mại 1997.
Sự đổi mới trong quy định đối với hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế được thể hiện ngay trong những quy định về chủ thể của hợp đồng thương mại Quốc tế. Luật Thương mại 2005 có điểm khác biệt với Luật Thương mại 1997 ở chỗ đối tượng thương nhân đã được mở rộng khái niệm để bao trùm toàn bộ những chủ thể có hoạt động thương mại. so với Luật Thương mại năm 1997, đối tượng áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam mà còn cả những thương nhân có hoạt động thương mại tại nước ngoài mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này. Điều này tạo thuận lợi cho các hoạt động ngoại thương và góp phần bảo vệ quyền lợi của thương nhân Việt Nam.
Việc nhà nước Việt Nam công nhận năng lực pháp luật của pháp nhân và thể nhân nước ngoài là điều kiện cần thiết để những chủ thể nói trên có khả năng thực hiện các giao dịch thương mại với các Thương nhân Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng Thương mại Quốc tế, việc xác định năng lực pháp luật của các bên nước ngoài trong hợp đồng được ký kết giữa họ với doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều trường hợp là việc không hề dễ dàng.
Theo luật Thương mại 2005, để trở thành thương nhân, các chủ thể phải có các điều kiện cần và đủ sau đây :
Điều kiện cần: các chủ thể phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp hoặc là cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên.
Điều kiện đủ: muốn trở thành thương nhân, các chủ thể phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đây là một hạn chế cơ bản của Luật Thương mại Việt Nam cần được nhanh chóng khắc phục. Thương nhân theo pháp luật hiện hành của Việt Nam là phải có giấy phép kinh doanh và phải hoạt động thường xuyên, liên tục, tức là đã bỏ qua khái niệm “thương nhân thực tế”. Pháp luật thương mại của nhiều quốc gia đều có "ghi nhận" thương nhân thực tế. Thương nhân thực tế là “thương nhân” thể nhân chưa đăng ký, hay vì một lý do nào đó tạm thời không có đăng ký kinh doanh Tham luận tại hội thảo về Luật doanh nghiệp thống nhất, www.vibonline.com.vn
. Khi pháp luật đề cập vấn đề này thì điều này sẽ không có nghĩa là pháp luật khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh không đăng ký. Việc coi kinh doanh không đăng ký sẽ là vi phạm pháp luật và vẫn có thể bị xử lý về hành chính (Điều 120, Khoản 3, Luật doanh nghiệp). Đến nay, Luật doanh nghiệp dường như vẫn quan niệm như vậy. Tuy nhiên, khi xử lý các hành vi của thương nhân thực tế này cần coi chúng là thương nhân và hành vi đó là hành vi thương mại. Việc xác định như vậy là hợp lý vì lúc đó, hành vi thương mại trên thực tế không thể coi là hành vi dân sự mà theo đó, chủ nhân của hành vi có thể thoái thác khỏi trách nhiệm với tính cách là thương nhân.
3.2.2. Việt Nam cần xúc tiến lộ trình gia nhập Công ước Viên 1980
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán Quốc tế là công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có 66 quốc gia là thành viên Công ước này . Tuy Việt Nam chưa phải là thành viên của Công ước này, nhưng khi tham gia vào hoạt động thương mại Quốc tế, các thương nhân Việt Nam vẫn có thể lựa chọn Công ước Viên 1980 làm luật áp dụng theo 3 trường hợp sau:
Hợp đồng nhập khẩu được ký kết giữa một bên là doanh nghiệp Việt Nam với một bên là thương nhân có trụ sở thương mại tại Quốc gia đã là thành viên của Công ước;
Khi các bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước viên 1980 là luật áp dụng cho hợp đồng của mình;
Khi trong hợp đồng, các bên không lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp lựa chọn Công ước Viên 1980 để giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là toà án VN, toà án nước ngoài, trọng tài VN hay trọng tài nước ngoài.
DN cần nghiên cứu để nắm được tinh thần và nội dung của Công ước Viên1980 vì theo xu hướng chung của thế giới ngày nay, sẽ còn có nhiều tranh chấp nữa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế giữa doanh ngiệp Việt Nam và các đối tác nước ngoài sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án Việt Nam, tòa án nước ngoài và đặc biệt là các trọng tài quốc tế.Vì vậy, trước hết đến cần nhanh chóng có kế hoạch phổ biến Công ước này cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận và nắm được tinh thần và nội dung của Công ước này. Bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có thể tổ chức các khoá học cho doanh nghiệp nhằm mục đích này.
Lựa chọn luật áp dụng luôn là một vấn đề quan trọng và khó khăn đối với các nhà đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của Việt Nam. Họ có sự lựa chọn giữa luật Việt Nam, luật quốc gia của đối tác, luật quốc gia của nước thứ ba, điều ước quốc tế như Công ước Viên 1980 hay tập quán thương mại quốc tế… Hiện tại Việt Nam chưa gia nhập Công ước Viên nhưng các nhà nhập khẩu Việt Nam có thể lựa chọn Công ước Viên 1980 làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và nên lựa chọn vì ba lý do sau:
- Thứ nhất, tránh được những khó khăn khi phải đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng cho hợp đồng. Trên thực tế, việc lựa chọn luật quốc gia thường gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nếu như các nhà đàm phán nước ngoài thường có xu hướng lựa chọn luật quốc gia của mình thì điều này lại không hoàn toàn thuân lợi với các nhà đàm phán Việt Nam. Họ hiểu rằng việc dẫn chiếu đến luật Việt Nam đôi khi không phải là giải pháp tối ưu, vì pháp luật về hợp đồng nói chung và về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của Việt Nam còn hàm chứa nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện quốc tế, với pháp luật, tập quán thương mại quốc tế và như vậy, chưa thể bảo vệ một cách hiệu quả lợi ích của các bên trong hợp đồng quốc tế.
Việc lựa chọn luật quốc gia của nước ngoài có thể đem lại những rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật đó.
- Thứ hai, đây là nguồn luật phổ biến nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay. Công ước Viên 1980 đã được phê chuẩn bởi 66 quốc gia, trong đó có rất nhiều quốc gia là các nhà cung cấp công nghệ nguồn lớn và lâu dài của cac doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia, Trung Quốc... Thương nhân của các nước này đã áp dụng và đã quen áp dụng Công ước Viên cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, nếu phía Việt Nam đề xuất việc áp dụng Công ước này thì sẽ dễ dàng được đối tác chấp nhận.
- Thứ ba, có được sự an toàn về mặt pháp lý, vì các quy định của Công ước Viên là phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế, thường được các thương nhân lựa chọn áp dụng cũng như được các toà án, đặc biệt là các trọng tài quốc tế dẫn chiếu đến khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với tư cách là một văn bản luật thực chất nhằm giải quyết các xung đột trong kinh doanh quốc tế, các quy định trong Công ước được coi là rất hợp lý, đã thống nhất được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, tạo được sự bình đẳng giữa người bán và người mua trong quan hệ hợp đồng, giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Qua đó, lại thêm một vấn đề hoàn thiện pháp luật được đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam là chúng ta phải nhanh chóng xúc tiến gia nhập Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán Quốc tế để việc vận dụng công ước đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được dễ dàng và thuận tiện hơn.
3.2.3. Kết hợp hài hòa với việc sử dụng các công cụ khác nhằm phối hợp điều chỉnh hoạt động nhập khẩu
Xuất nhập khẩu hàng hóa là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động kinh tế của một Quốc gia, đồng thời cũng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phức tạp, có liên quan đến các quy định của Thế giới về quản lí xuất nhập khẩu hàng hóa. Vì vậy, cụ thể hóa các chế định pháp luật thông qua các công cụ kinh tế để điều hòa các hoạt động kinh tế đối ngoại là điều mà Chính phủ của các Quốc gia luôn phải quan tâm hàng đầu, đặc biệt là đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà hệ thống pháp luật cũng như hệ thống các công cụ kinh tế điều tiết hoạt động thương mại Quốc tế còn rất non kém và cần nhanh chóng được hoàn thiện nhằm theo kịp những biến động phức tạp của thị trường Thế giới.
Có rất nhiều các công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng để hỗ trợ điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó phổ biến nhất là công cụ thuế quan, công cụ tỷ giá hối đoái, và công cụ tín dụng.
3.2.3.1. Công cụ Thuế quan
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu khi qua hải quan của một nước. Như vậy, thuế quan nhập khẩu là khoản thu do Nhà nước đặt ra đối với hàng hóa nhập khẩu khi hàng hóa đó làm thủ tục thông quan tại cửa khẩu hải quan hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
Có nhiều loại thuế quan nhập khẩu khác nhau, nhưng nhìn chung chúng được phân chia thành 3 loại như sau:
- Thuế phần trăm thông thường: được thể hiện là một con số phần trăm của giá tính thuế hàng nhập khẩu. Hiện nay, trên Thế giới, đây là loại thuế được sử dụng rộng rãi nhất.
- Thuế phi phần trăm, gồm:
Thuế tuyệt đối: thuế xác định bằng một khoản cố định trên một đơn vị hàng nhập khẩu. Trong số các loại thuế phi phần trăm thì loại thuế này được các nước áp dụng nhiều nhất.
Thuế tuyệt đối thay thế: quy định quyền lựa chọn áp dụng thuế phần trăm hoặc thuế tuyệt đối, tùy thuộc vào mức nào cao hơn.
Thuế kết hợp: kết hợp cả thuế phần trăm và thuế tuyệt đối.
Một số loại thuế quan đặc biệt:
Hạn ngạch thuế quan: là một loại thuế với hai mức thuế suất căn cứ vào số lượng hàng hóa nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng theo phương thức: trong một khoảng thời gian xác định trước, một mức thuế suất thấp hơn được áp dụng đối với một số lượng hàng hóa nhập khẩu trong hạn ngạch còn tất cả số lượng hàng hóa nhập khẩu ngoài hạn ngạch phải chịu mức thuế suất cao hơn.
Hạn ngạch thuế quan có 3 tác động chính là:
Kiểm soát nhập khẩu theo số lượng hàng được cấp hạn ngạch;
Cân bằng cạnh tranh và bảo hộ ở số lượng và thuế suất trong hạn ngạch;
Hạn chế cạnh tranh bằng thuế suất cao khi khối lượng hàng nhập khẩu vượt quá mức hạn ngạch.
+Thuế đối kháng hay còn gọi là thuế chống trợ cấp
Đây là một loại thuế đánh vào sản phẩm nhập khẩu để bù lại việc các nhà sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đó được Chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp.
Thuế chống bán phá giá: là một loại thuế quan đặc biệt được áp dụng để ngăn chặn, chống lại và đối phó với hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường trong nước, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh. Việc bán phá giá một sản phẩm xảy ra khi giá xuất khẩu 1 sản phẩm thấp hơn giá hàng hóa tương tự bán tại nước xuất khẩu.
Thuế bổ sung: là loại thuế được đặt ra để thực hiện biên pháp tự vệ đặc biệt trong các trường hợp khẩn cấp. Các chính phủ có thể áp dụng thuế bổ sung cao hơn mức thuế thông thường nếu như kết luận hàng nhập khẩu của sản phẩm đó tăng lên quá nhanh với mức giá quá thấp gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ làm mất đi một ngành sản xuất nào đó trong nước.
Cho đến nay, thuế quan nhập khẩu vẫn là một công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của các Chính phủ trên Thế giới. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả Thế giới. Nhưng đối với một nên kinh tế lớn, khi đánh thuế nhập khẩu cao sẽ làm ảnh hưởng đến giá cả Thế giới ở những mức độ khác nhau đối với các mặt hàng có dung lượng thị trường tiêu thụ lớn. Thuế nhập khẩu tạo ra sự phận phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận được mức giá cao hơn), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của Quốc gia khác.
Thuế quan nhập khẩu có rất nhiều mặt tích cực. Ngoài ý nghĩa quan trọng nhất là bảo về nền sản xuất trong nước như đã nói ở trên, do thuế nhập khẩu có tính minh bạch nên dù đó là mức thuế cao hay thấp cũng cho phép nhà nhập khẩu lượng hóa được cơ hội tiếp cận thị trường tại mỗi Quốc gia để chủ động đề ra phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Việc cần thiết cho tiến trình hoàn thiện thuế quan trong thời kỳ tới là thực hiện đầy đủ việc cắt giảm hàng rào thuế quan theo các lộ trình đã cam kết với các Tổ chức Quốc tế và trong các Hiệp định Thương mại, đặc biệt là cam kết với WTO; khắc phục quan điểm chỉ chú trọng hỗ trợ đầu ra, ít chú trọng hỗ trợ đầu vào. Xu hướng chung của Thế giới là các nước sửa đổi thuế nhập khẩu theo hướng hạ thấp mức thuế, đơn giản hóa cơ cấu thuế quan, ít thuế suất và các thuế suất chênh lệch nhau nhưng không lớn.
Cần tiến hành thuế hóa các biện pháp phi thuế quan, vì việc sử dụng thuế quan vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước vừa cải thiện tính minh bạch của chính sách thương mại, và quan trọng hơn là phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Các quy định của WTO không xác định cụ thể các nước buộc phải dụng loại thuế nào nhưng trên thực tế, hầu hết các biểu thuế quan nhập khẩu của các nước được xác lập trên cơ sở thuế phần trăm. Trong một số trường hợp, thuế cố định và thuế tuyệt đối thay thế cũng có thể được cam kết, xuất phát từ thực tiễn thuế quan của từng nước và trong từng thời kỳ phát triển kinh tế cụ thể. Đồng thời, Nhà nước cũng cần từng bước xây dựng và sử dụng thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, chống độc quyền; hạn chế sự phức tạp của các thủ tục Hải quan, đơn giản hóa và mẫu hóa thống nhất các loại hóa đơn, chứng từ.
Áp dụng định hướng chung đó cho vấn đề hoàn thiện chính sách thuế, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu một cách cụ thể, chi tiết và nhất quán theo hướng minh bạch hóa, đơn giản hóa, hội nhập hệ thống thuế quan khu vực và Thế giới, phù hợp với những quy định của WTO.
Các ưu đãi, miễn giảm thuế để khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là những biện pháp thuế quan cần thiết trong giai đoạn đầu của chiến lược Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa Đất nước. Song, các biện pháp này cũng chỉ nên áp dụng trong một thời gian nhất định, phù hợp với trình độ phát triển và từng giai đoạn của lộ trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa , sau đó cần giảm dần và chuyển sang các hình thức ưu đãi khác phù hợp với tình hình chung.
Một hoạt động quan trọng hơn cả là Nhà nước cần tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý các trường hợp vi phạm về thu thuế, hoàn thuế, thoái thuế… Đối với các trường hợp miễn thuế quan, cần sớm chuyển sang hệ thống miễn thuế tự động dựa trên các yếu tố đầu vào- đầu ra và có thể áp dụng cho công tác hoàn thuế. Để ngăn ngừa và xử lí các hành vi trốn lậu thuế, cần tăng cường phối hợp hoạt động giữa cơ quan thanh tra liên ngành, hải quan, công an kinh tế và ngành Tòa án, nhất là trong việc xử lí các hành vi lợi dụng Chính sách hoàn thuế, thoái thuế, miễn thuế của Nhà nước để gian lận, trốn thuế. Đồng thời cũng phải tiến hành cải cách cơ chế và thủ tục khai nộp thuế theo hướng đơn giản, nhanh gọn, minh bạch và đúng pháp luật.
3.2.3.2. Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái phản ánh mối quan hệ về sức mua giữa nội tệ so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối đoái là loại giá cả Quốc tế quan trọng nhất, chi phối những loại giá cả khác và tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sồng kinh tế xã hội Quốc gia. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu tác động mạnh nhất và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỉ giá hối đoái.
Hơn một thập kỷ qua, việc Nhà nước ta sử dụng công cụ tỷ giá chủ yếu là nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô nên tác động của tỷ giá này đến xuất nhập khẩu hàng hóa chưa rõ nét. Việc sử dụng công cụ kinh tế này nhằm mục tiêu điều chỉnh nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ chưa thể hiện rõ hiệu quả.
Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ giá hối đoái hợp lí theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, tiếp tục áp dụng tỉ giá thả nổi có quản lí, góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo đó, Nhà nước có thể sử dụng mềm dẻo công cụ tỉ giá, điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường, song vẫn phải đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vào vị trí ưu tiên hàng đầu.
Cùng với việc thực hiện mục tiêu ổn định giá, việc sử dụng công cụ tỉ giá phải góp phần từng bước nâng cao uy tín của đồng Việt Nam, tạo những tiền đề cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. Cần từng bước xóa bỏ sự bất hợp lí về việc gắn quá chặt đồng Việt nam vào đôla Mỹ trong khi ta có quan hệ kinh tế với hơn 170 nước mà rất nhiều trong số đó đồng tiền của họ không phải là đôla. Vì vậy cần nhanh chóng xúc tiến chuyển sang điều hành tỉ giá đa phương qua một số đồng ngoại tệ mạnh gồm đôla Mỹ, Yên Nhật, và EUR.
Mục tiêu trước nhất của việc sử dụng tỉ giá trong thời kỳ tới là tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt nam, của doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh tế.
3.2.3.3. Công cụ tín dụng
Đây là một trong những công cụ Tài chính thường được Chính phủ các nước sử dụng dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm cung cấp các khoản tín dụng đầu tư phát triển và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, được thực hiện bằng cơ chế hỗ trợ về lãi suất tín dụng của Nhà nước đối với người đi vay.
Các công cụ tín dụng cần được điều chỉnh theo hướng góp phần làm giảm chi phí đầu vào cho sản xuất. Cụ thể là giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hạ giá bán các yếu tố sản xuất mà vẫn đảm bảo được lợi ích cho họ.
Chính phủ cũng cần nhanh chóng thành lập các ngân hàng hỗ trợ phát triển và tín dụng, hoạt động với tính chất là một ngân hàng chuyên phục vụ xuất nhập khẩu với mục tiêu tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng, ưu đãi tín dụng vào một kênh duy nhất. Qua đó, Nhà nước tập trung tín dụng trung và dài hạn cho đầu tư phát triển công nghệ, nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, phát triển vùng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.
Để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có đủ sức cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cần tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại của Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, tăng vốn cho các ngân hàng thương mại bằng cách chào bán cổ phần, cổ phiếu cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để cùng tham gia góp vốn và chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, Nhà nước cũng nên thiết lập và củng cố các công cụ kinh tế khác để hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói riêng, điển hình như hệ thống bảo hiểm. Nhà nước cần sớm ban hành và hỗ trợ một khoản kinh phí để phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong xuất nhập khẩu hàng hóa, hỗ trợ các Hiệp hội ngành hàng thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro cho riêng ngành hàng của mình, đặc biệt là các ngành hàng quan trọng tức là các ngành có yếu tố công nghệ hiện đại.
3.3. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu
Theo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010 do Bộ thương mại đề ra, phương châm hoạt động đối với hàng nhập khẩu là:
Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010 (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
2000
2010
1. Máy móc thiết bị
18.000
27
36
2. Nguyên nhiên vật liệu
30.000
69
60
3. Hàng tiêu dùng
2.000
4
4
Tổng kim ngạch NK
50.000
100
100
Nguồn: Bộ Thương mại (2000)
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng..., hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Trong thương mại Quốc tế, tranh chấp là điều khó có thể tránh được vì giữa các bên tham gia hợp đồng thường có sự xa cách về mặt địa lí, khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, có thể còn do sự thiếu hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hơn nữa, điều kiện ngoại cảnh ở mỗi nước đều có thể gây ra những khó khăn không thể lường trước, đôi khi là bất khả kháng cho mỗi bên khi thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Trong bối cảnh hội nhập và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nền kinh tế đều đã và đang phát triển theo hướng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, từ đó kéo theo các tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương mại Quốc tế nói riêng diễn ra ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam, tranh chấp xảy ra thường do nguyên nhân chủ yếu là nền kinh tế mở, số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế tăng nhanh trong khi hệ thống pháp luật điều chỉnh chưa phát triển tương thích, sự hiểu biết về luật pháp trong lĩnh vực thương mại Quốc tế cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các thương nhân Việt Nam còn chưa bắt nhịp kịp với điều kiện kinh doanh của cơ chế đã kéo theo sự gia tăng các vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu hoặc từ các hoạt động có liên quan đến hợp đồng này. Vì thế, cùng với việc xuc tiến chỉnh sửa, hoàn thiện pháp luật, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần chủ động nâng cao hiểu biết của bản thân mình cũng như nghiên cứu các phương cách để củng cố lợi ích của mình trong quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu tâm đến vấn đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật về Thương mại Quốc tế cho các cán bộ, nhân viên, cần chuẩn bị đội ngũ cán bộ giỏi ngoại ngữ và hiểu rõ về tập quán thanh toán quốc tế, đặc biệt là những người thường xuyên trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng để có thể đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt nam ngay trong việc xác lập hợp đồng cũng như để họ có thể tự bảo vệ mình nếu xảy ra tranh chấp về sự vi phạm nghĩa vụ của các bên, nhất là từ phía đối tác nước ngoài.
Trong một số trường hợp, do không vững về nghiệp vụ nên doanh nghiệp không lưu ý hết các điều kiện ràng buộc nên khi xảy ra tranh chấp thường bị thua thiệt. Nhiều doanh nghiệp không hiểu hết pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế nên bị động trong đàm phán, giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết thông tin về nhu cầu thị trường, khả năng đối tác, đối thủ cạnh tranh... DN còn lúng túng do thiếu cơ sở dữ liệu để chứng minh mình đúng khi có tranh chấp xảy ra mà vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da là một ví dụ điển hình. Phần lớn DN chưa nhận thức hết các rủi ro, chưa có sự đề phòng thích đáng và sẵn sàng đối mặt với môi trường kinh doanh quốc tế.
Các doanh nghiệp Việt nam cần có kế hoạch tạo điều kiện cho các cán bộ chuyên trách về xuất nhập khẩu tham gia các khóa học bồi dưỡng kiến thức pháp luật về Thương mại Quốc tế và cả những khóa học nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là cách sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành về kinh tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, nhằm nâng cao khả năng ứng phó cũng như khả năng thuyết phục đối tác trong quá trình đàm phán.
Thứ hai, để tạo điều kiện cho quá trình xác lập và ký kết hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài diễn ra nhanh chóng thuận lợi mà vẫn đảm bảo quyền lợi cho mình, các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam cần tìm hiểu các quy định pháp luật, cập nhật những thay đổi trong quy định của pháp luật cũng như những vấn đề thực tế thường phát sinh trong hoạt động nhập khẩu, để dựa vào đó soạn thảo ra một hợp đồng mẫu nhằm mục đích chuẩn bị thế chủ động cho mình khi tham gia đàm phán, và có thể đưa ra đối chiếu với những điều khoản mà bên đối tác đưa ra. Công việc này trên thực tế có liên quan mật thiết đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về đàm phán và ký kết hợp đồng.
Trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng, rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam vì lí do này hay lí do khác như thiếu hiểu biêt pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng vì quá tin tưởng và dựa vào lí do giữa các bên đã có mối quan hệ làm ăn lâu dài, mà họ trở nên mất cảnh giác, dẫn đến viêc hợp đồng ký kết có nội dung quá sơ sài. Những trường hợp như thế bình thường thì các doanh nghiệp nhận thấy không có trở ngại gì, thậm chí họ còn thấy thuận tiện vì quá trình xác lập hợp đồng rất đơn giản và gọn nhẹ, nhưng nếu vì một lí do không thể lường trước nào đó (nhà xuất khẩu muốn thay đổi đối tác, doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn không thể thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhà nhập khẩu,…) mà hợp đồng không thể được thực hiện một cách trọn vẹn thì doanh nghiệp rất khó có thể có đủ bằng chứng để đấu tranh cho lợi ích của mình.
Thực tiễn, khi tham gia quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ quốc tế, các thương nhân nước ngoài thường đưa ra các dự thảo hợp đồng để các doanh nghiệp Việt Nam xem xét, góp ý kiến trước khi các bên đàm phán với nhau. Có lẽ do nhiều năm (hàng chục hoặc hàng trăm năm) được hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường (hiện nay, nền kinh tế nước ta vẫn bị coi là nền kinh tế phi thị trường và theo cam kết gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phải chuyển sang nền kinh tế thị trường trong thời hạn 12 năm kể từ ngày gia nhập WTO), nên các công ty nước ngoài luôn có đội ngũ luật sư chuyên nghiệp bên cạnh (luật sư độc lập hoặc văn phòng luật sư) để tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp đó. Cho nên, các dự thảo hợp đồng do các đối tác nước ngoài đưa ra thường có hướng bảo vệ quyền, lợi ích của họ, chứ không thực sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các bên tham gia hợp đồng. Do vậy, nếu không có chuyên môn và kinh nghiệm, thì các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể phát hiện được những điều khoản trong dự thảo hợp đồng bất lợi cho mình và bị vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo pháp luật được lựa chọn làm luật điều chỉnh hợp đồng. Trong quá trình thương lượng và đàm phán dự thảo hợp đồng, doanh nghiệp Việt Nam có quyền đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ những điểm bất lợi cho mình và nêu rõ lý do. Để bên nước ngoài chấp nhận ý kiến đề xuất của doanh nghiệp Việt Nam, thì ý kiến đó phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và/hoặc thông lệ, tập quán quốc tế. Đối với những vấn đề không được pháp luật quy định, doanh nghiệp có thể thỏa thuận với bên nước ngoài. Trong trường hợp này, kỹ năng thuyết phục và đàm phán của đại diện bên Việt Nam sẽ giữ vai trò quan trọng quyết định đến kết quả đàm phán. Còn nếu chúng ta cứ luôn thụ động trong đàm phán và soạn thảo hợp đồng thì các vấn đề rủi ro pháp lý từ những điều khoản nói trên luôn tiềm ẩn đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá với với thương nhân nước ngoài, khi bên nước ngoài không thực hiện theo đúng thoả thuận trong hợp đồng và vụ việc được đưa ra Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp Việt Nam thường bị yếu lý, thậm chí bị thua kiện.
Đơn cử như đối với các hợp đồng nhập khẩu của một công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nhập khẩu máy móc, thiết bị như Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi thì hợp đồng cần phải được chỉnh sửa ngay tại các điều khoản được coi là căn bản nhất nhưng cũng là chứa đựng nhiều rủi ro nhất mà lẽ ra chúng luôn phải được quan tâm hoàn thiện ngay từ khi doanh nghiệp bước chân vào lĩnh vực kinh doanh Quốc tế này. Đó là các điều khoản về áp dụng luật, về các điều kiện giao hàng, lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, và phương thức thanh toán.
Trong hoạt động Thương mại Quốc tế, khả năng được thanh toán trong nhiều trường hợp gặp không ít khó khăn, và thậm chí việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cũng không đơn giản. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, các bên nhất thiết phải lưu tâm đến việc lựa chọn các điều kiện về thanh toán.
Việc thanh toán có liên quan mật thiết đến vấn đề ngoại tện thanh toán, do đó cần thỏa thuận rõ ràng các điều kiện: xác định ngoại tệ của hàng hóa (sử dụng đồng tiền của nước nào), điều kiện chuyển đổi từ ngoại tệ này sang ngoại tệ khác nếu ngoại tệ giá và ngoại tệ thanh toán có mức chênh lệch được coi là đáng kể, và có thể quan tâm đến cả những biện pháp ngăn chặn rủi ro do biến động tỷ giá.
Một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, như đã đề cập, có thể được điều chỉnh bằng nhiều nguồn luật khác nhau. Việc các bên thỏa thuận để lựa chọn ra một văn bản pháp quy hay một Điều ước Quốc tế để thống nhất điều chỉnh hành vi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng là một việc vô cùng quan trọng vì đây có thể coi như một thước đo để xác định được trong quá trình thực hiện hợp đồng, hành vi của các bên có bị coi là sai phạm hay không và nếu có thì ở mức độ nào.
Ngoài việc chú trọng tìn hiểu Công ước Viên 1980 như vậy thì các nhà nhập khẩu Việt Nam cũng cần lưu tâm đến các tập quán thương mại Quốc tế, điển hình và phổ biến nhất là hai hệ thống Incoterms và UCP. Hai hệ thống tập quán thương mại quốc tế này có rất nhiều phiên bản được thiết lập qua mội kỳ sửa đổi, nên các thương nhân cần chú ý xác định phiên bản cụ thể để dẫn chiếu vào hợp đồng, tránh tình trạng gây ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho cả hai bên do sự thỏa thuận không rõ ràng. Khi đã xác định được phiên bản Incoterms nhất định thì việc lựa chọn ra một điều kiện giao hàng cụ thể sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp với tư cách là nhà nhập khẩu cũng rất quan trọng. Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn, điều này gián tiếp làm mất đi cơ hội phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng, công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khẩu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F. Thêm vào đó, nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của nước ta. Do đó doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam nên lựa chọn FOB hoặc C&F lam điều kiện giao hàng trong hợp động nhập khẩu của mình, như vậy chẳng những đảm bảo lợi ích cho bản thân doanh nghiệp mà còn góp phần đảm bảo lợi ích nhiều mặt cho nền kinh tế Việt Nam, cụ thể nhất ở đây là lợi ích và tiềm năng phát triển của ngành bảo hiểm trong nước.
Thứ ba, luôn chuẩn bị sẵn phương thức đối phó với tình thế bất thường xảy ra nếu bên đối tác vi phạm hợp đồng nhằm giảm thiểu mọi tổn thất.
Trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam, những vi phạm hợp đồng mà đối tác nước ngoài hay mắc phải nhất là vi phạm về số lượng và chất lượng hàng hóa. Vì thế, khi tham gia hợp đồng nhập khẩu, dù muốn hay không thì doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam cũng nên và cần phải chuẩn bị phản xạ trước những vi phạm như thế để nếu vi phạm xảy ra, nhà nhập khẩu sẽ không bị bối rối và không phải quá nhiều rắc rối vì một sai phạm hoàn toàn có thể được dự báo trước như vậy. Cụ thể, khi xảy ra vi phạm về số lượng hay chất lượng hàng hóa, người nhập khẩu phải tiến hành ngay các công việc:
Kịp thời mời cơ quan giám định có thẩm quyền đến giám định và xác nhận số lượng, trọng lượng hay tình trạng chất lượng hàng hóa thực giao tại thời điểm người mua nhận hàng;
Thông báo ngay cho người bán để bên bán có thể cử người sang làm biên bản giám định đối tịch;
Áp dụng ngay các biện pháp bảo quản, bảo vệ để giữ nguyên tình trạng của hàng hóa khi nhận hàng;
Thu thập chứng cứ và hoàn chỉnh hồ sơ khiếu nại.
Những hiểu biết ban đầu như vậy trước mắt sẽ giúp các nhà nhập khẩu Việt nam khỏi bỡ ngỡ trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng. Còn đối với những doanh nghiệp đã có thâm niên trong lĩnh vực này thì những kiến thức trên đây cũng có thể phần nào giúp họ củng cố thêm sự bảo đảm cho quyền lợi của các nhà nhập khẩu Việt nam trong hoạt động kinh doanh Quốc tế.
Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình thói quen sử dụng tư vấn luật để hạn chế những rủi ro pháp lí có thể xảy ra trong quá trình tham gia hoạt động thương mại Quốc tế.
Một vấn đề đã rất phổ biến trong xã hội của những nước có nền kinh tế phát triển nhưng lại khá mới mẻ với xã hội Việt Nam, mới mẻ ngay cả đối với những người Việt Nam thường xuyên tiếp xúc với môi trường hiện đại – môi trường kinh doanh Quốc tế, là sử dụng tư vấn luật. Bước chân vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các thị trường quốc tế. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc, doanh nghiệp sẽ cần hơn những chuyên gia tư vấn luật giàu kinh nghiệm, tư vấn luật kinh doanh quốc tế.
DN cần làm quen với việc thuê luật sư hoặc sử dụng chuyên gia pháp luật để soạn thảo hợp đồng khi tiến hành đàm phán. Thực tế ở nước ta cho thấy đã có rất nhiều vụ việc mà phía Việt Nam đã phải chịu những hậu quả cay đắng do không có đủ kiến thức pháp luật để theo kiện. Những bài học kinh nghiệm cụ thể trong vụ kiện của huấn luyện viên Letard với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF), chống phá giá cá ba sa, tôm, da giày và mới đây nhất là vụ thua kiện của Vietnam Airlines đã nêu ra những sai lầm của doanh nghiệp Việt nam khi không rõ luật dẫn đến thua kiện. Trong khi đó, chúng ta có thể thấy rõ những thành công đáng kể của các nước láng giềng với Việt Nam có được do sự tiến bộ trong nhận thức về hiểu biết pháp luật. Kinh nghiệm khi Trung Quốc vào WTO, các doanh nghiệp nước này cũng gặp khó khăn nhưng họ đã sẵn sàng ứng phó, sẵn sàng hầu kiện để không bị mất khách hàng và xa hơn là có thể giảm thiểu giá trị đền bù trong lần phúc thẩm.
Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải ý thức việc tham khảo ý kiến tư vấn của các nhà làm luật chuyên nghiệp là việc phải được duy trì thường xuyên trong suốt các giai đoạn của quá trình tham gia hoạt động nhập khẩu. Vì thực tế ở Việt nam hiện nay, chỉ có rất ít các doanh nghiệp xuất khẩu có sử dụng chuyên gia tư vấn luật nhưng phần lớn chỉ là khi đã có tranh chấp xảy ra. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho công tác tư vấn của các nhà làm luật vì thông thường, nếu không được tư vấn ngay từ đầu, việc ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp này đã ấn định những điều khoản bất lợi cho phía Việt Nam khi giải quyết tranh chấp, cũng như việc chuẩn bị hệ thống các tài liệu chứng từ để theo kiện cũng không thể được thực hiện đầy đủ. Các doanh nghiệp nên tập làm quen với các bản hợp đồng dài có nhiều điều khoản ràng buộc để tạo độ an toàn cho họ khi làm ăn với quốc tế. Để soạn thảo, đọc hiểu được những bản hợp đồng đó, các doanh nghiệp bắt buộc phải có sự tư vấn của luật sư, những người am hiểu cặn kẽ về luật pháp của đối tác ngay từ giai đoạn chuẩn bị đàm phán với các đối tác đó.
Tóm lại, để có thể tồn tại và phát triển thịnh vượng trong môi trường kinh doanh Quốc tế thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam cần phải cải thiện rất nhiều mặt trong nội bộ doanh nghiệp mình. Trên đây là những kiến nghị cơ bản nhất để các thương nhân Việt Nam có thể bước đầu khẳng định khả năng cũng như bản lĩnh của mình khi phải tham gia vào một sân chơi chung rất bình đẳng mà cũng vô cùng khốc liệt, chứa đựng nhiều rủi ro pháp lí như thế này. Thiết nghĩ, Nhà nước Việt Nam ngoài việc nhanh chóng tạo dựng hành lang pháp lí vững chắc cho hoạt động Thương mại Quốc tế thì cũng nên có các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp để họ có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu cũng như giải đáp cho họ những thắc mắc về các vấn đề pháp lí xoay quanh hoạt động phức tạp này.
KẾT LUẬN
Như vậy, xét trên tổng thể, mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của nước ta thời gian qua, nhưng về cơ bản nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu. Những thành tựu đó đã góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước đến hợp tác làm ăn và đầu tư vào Việt nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
Để thực hiện các chiến lược,chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lí và sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, trước hết là các công cụ kinh tế. Trong đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu là rất cấp bách.
Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam vươn tới các thị trường có “nền công nghệ nguồn” để nhập khẩu các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, giảm nhanh tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng và máy móc thiết bị từ các nước có “nền công nghệ trung gian” và “nền công nghệ thấp”.
Kinh nghiệm của những nước và cùng lãnh thổ Châu Á đã thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu hay còn gọi là Chiến lược hướng về xuất khẩu như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, cho thấy, hầu hết các nước đều chú trọng hoàn thiện để sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển.
Qua đó, có thể khẳng định lĩnh vực hoạt động của công ty Cổ phần thiết bị Thắng Lợi là lĩnh vực vẫn còn rất nhiều điều hứa hẹn cho sự phát triển lâu dài và bền vững, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Hoạt động của công ty đã đi hoàn toàn đúng hướng với phương châm thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo hướng hiện đại của Chính phủ Việt nam. Đó là nhập khẩu các thiết bị công nghệ cao từ các “nền công nghệ nguồn” như Nhật, Mỹ, Đức, Anh, Thụy Điển… Nối tiếp theo những thành công trong hơn 10 năm trưởng thành và phát triển, công ty nên tiếp tục khai thác các lĩnh vực kinh doanh vô cùng hấp dẫn này, và tin rằng cùng với các chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị thì hoạt động kinh doanh của công ty sẽ ngày càng gặp nhiều thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các văn bản pháp luật
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán Quốc tế
Incoterms 2000
Bộ luật dân sự 2005
Luật Thương mại 1997 (đã hết hiệu lực)
Luật thương mại 2005
Luật doanh nghiệp 1999 (đã hết hiệu lực)
Luật doanh nghiệp thống nhất 2005
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài
Các tài liệu khác
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, TS. Trần Thị Hòa Bình, TS. Trần Văn Nam (2005), Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế.
Hợp đồng nhập khẩu và các tài liệu có liên quan của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi.
Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh Sơn (2006), ĐH Quốc Gia TP.HCM, Giáo trình luật Hợp đồng thương mại Quốc tế.
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (Tháng 9/2005), Đặc san tuyên truyền pháp luật số 2, Chủ đề: Luật Thương mại 2005
Đậu Thị Thuần (2003), Giải pháp hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, LATSKH kinh tế, Thư viện Quốc gia.
Bùi Ngọc Sơn (2002), Mối quan hệ giữa việc giải quyết tranh chấp trong mua bán quốc tế hàng hóa và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam, LATSKH Kinh tế, Thư viện Quốc gia.
TS. Nguyễn Minh Hằng, Giải quyết hợp đồng mua bán Quốc tế, Diễn đàn doanh nghiệp.
website: www.mpi.gov.vn
website: www.viettrade.gov.vn
website: www.dost-dongnai.gov.vn
website: www.vnexpress.net
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn thể các cô chú, các anh chị trong công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi đã cho tôi cơ hội được học hỏi, thâm nhập thực tế để mở mang kiến thức cũng như sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo - TS. Trần Thị Hòa Bình, thầy giáo - ThS. Nguyễn Anh Tú, đã cho những ý kiến đóng góp quý báu để bản báo cáo này được hoàn thành.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32008.doc