Chuyên đề Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008

Trái phiếu là công cụ huy động vốn có hiệu quả của Nhà nước. Trong những năm gần đây, doanh số phát hành trái phiếu cho đầu tư phát triển không ngừng tăng lên, bình quân mỗi năm đạt trên dưới 20.000 tỷ đồng. Việc phát hành trái phiếu công trình có khả năng huy động được khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn, giúp cho các công trình trọng điểm có thể thi công đúng tiến độ, đảm bảo nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Kết quả này là một đóng góp rất quan trọng để cân đối nguồn vốn đầu tư cho NSNN hàng năm, giải quyết kịp thời các nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Việc phát hành TPCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện NSNN Việt Nam còn hạn hẹp như hiện nay. Phát hành TPCP không chỉ giúp NSNN có vốn tài trợ cho ĐTPT mà còn góp phần hình thành thị trường tài chính đồng bộ và phát triển. Tăng nhanh tiềm lực tài chính Quốc gia, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, tạo thế là lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 nước ta đã cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hiện đại, đưa tổng GDP gấp 5 lần so với 2000. Để hoạt động phát hành TPCP trong thời gian tới đáp ứng được yêu cầu chung và bối cảnh của nền kinh tế cần hoàn thiện hơn phương thức phát hành, nghiệp vụ, mục đích phát hành theo hướng coi trọng huy động vốn thông qua phát hành TPCP tài trợ cho đầu tư phát triển.

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược quyền lợi của người đầu tư cũng như nhu cầu vốn của NSNN và các chủ thể phát hành khác. Các điều khoản, điều kiện của trái phiếu đã đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết để niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, góp phần nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu, đồng thời cung cấp khối lượng hàng hoá khá lớn cho TTGDCK trong giai đoạn đầu hoạt động. Trong khoảng thời gian 3 năm kể từ khi thị trường giao dịch thứ cấp tại TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động (14/7/05), Quy mô giao dịch của HASTC đã không ngừng mở rộng. Từ tháng 7/2008 toàn bộ TPCP được giao dịch tại thị trường HASTC. Hiện nay đã có 514 trái phiếu được giao dịch. Trong tháng 11/2008, khối lượng giao dịch bình quân của trái phiếu đạt 11,8 triệu đơn vị/phiên giao dịch với giá trị giao dịch bình quân đạt 1,150 tỷ đồng/phiên giao dịch. Năm 2007, quy mô toàn thị trường trái phiếu so với GDP là 13,72%, trong đó trái phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 15% dung lượng toàn thị trường. Giao dịch trên thị trường đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực, cụ thể năm 2007 tăng 98,11% so với mức trung bình 21,1% của các nước mới nổi Đông Á. Khối lượng giao dịch 9 tháng đầu năm 2008 đạt 1370 triệu trái phiếu, tăng 21% so với cả năm 2007. 2.3.1.4 Hình thức huy động ngày càng đa dạng. Hệ thống KBNN với chức năng huy động vốn cho NSNN và ĐTPT đã góp phần tạo ra những yếu tố tiền đề cho sự hình thành một TTCK. Các hình thức tín phiếu, trái phiếu ngày một đa dạng hoá với nhiều loại kì hạn, lãi suất và phương thức phát hành – thanh toán khác nhau, chính là nguồn cung cấp hàng hoá ban đầu hết sức quan trọng cho TTCK. Phương thức phát hành và thanh toán TPCP không ngừng được cải tiến. Ngoài các phương thức truyền thống là bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu qua NHNN, hiện nay TPCP được phát hành qua nhiều kênh mới như đấu thầu qua thị trường chứng khoán, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành. TPCP được phát hành với nhiều kỳ hạn khác nhau, từ dưới 1 năm đến trên 5 năm, 10 năm. Ngoài phương thức lãi trả một lấn cùng tiền gốc khi đến hạn, lãi trả trước KBNN còn thực hiện thanh toán tiền lãi định kỳ hàng năm. TPCP được thanh toán vãng lai tại bất kỳ một đơn vị KBNN trong hệ thống KBNN. Các điều khoản, điều kiện của Trái phiếu Chính phủ đã đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết để niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, góp phần nâng cao tính thanh khoản của Trái phiếu. 2.3.1.5 Đã thiết lập được bộ máy làm công tác phát hành, thanh toán trái phiếu trên địa bàn cả nước. Bên cạnh việc không ngừng nghiên cứu, cải tiến phương thức phát hành - thanh toán trái phiếu để thu hút vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, hệ thống KBNN rất chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác phát hành – thanh toán trái phiếu. Qua gần 20 năm triển khai thực hiện, đến nay hệ thống KBNN đã thiết lập được bộ máy chuyên trách có trình độ nghiệp vụ vững vàng trong công tác phát hành, thanh toán trái phiếu trên địa bàn cả nước, gây dựng được lòng tin của công chúng đối với TPCP. Một số hạn chế và nguyên nhân. 2.3.2.1 Khối lượng vốn huy động cho ĐTPT thông qua hình thức phát hành trái phiếu nhìn chung còn thấp. Theo tính toán của các ngành chức năng và các nhà khoa học, nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế còn rất tiềm tàng bao gồm cả ngoại tệ và nội tệ, nằm rải rác trong các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức và đoàn thể xã hội. Khối lượng vốn huy động thông qua việc phát hành trái phiếu trong những năm qua chưa đáp ứng kịp so với nhu cầu vốn phục vụ cho ĐTPT kinh tế xét trên cả 2 phương diện: Khối lượng và kỳ hạn, nguyên nhân chính là do chính sách huy động vốn thời gian qua nhìn chung vẫn còn đơn điệu, việc phát hành qua KBNN từ năm 1996 chỉ chủ yếu duy trì một loại kỳ hạn trái phiếu 2 năm với phương thức thanh toán gốc lãi 1 lần khi đến hạn. Mặt khác, mặc dù cơ cấu vốn huy động đang chuyển từ ngắn hạn sang trung và dài hạn nhưng khối lượng vốn dài hạn hiên nay vẫn ít, chỉ chiếm khoảng 54% trong tổng dư nợ Trái phiếu; trong khi đó nhu cầu vốn của nền kinh tế lại chủ yếu là trung hạn và dài hạn. Để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ ĐTPT trong giai đoạn tới, ngoài việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, Nhà nước cần phải có thêm những hình thức huy động thông qua các kênh khác để tạo ra tiềm năng mới về vốn. 2.3.2.2 Chưa xây dựng được kế hoạch phát hành mang tính khả thi cao và ổn định trong từng giai đoạn. Một trong những công việc hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của chiến lược huy động vốn, đó là công tác kế hoạch hoá, song công tác này hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức, mới chỉ xây dựng kế hoạch hàng năm, quý, tháng chưa có chiến lược tổng thể về huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT thông qua hình thức trái phiếu, dẫn đến việc triển khai công tác phát hành trái phiếu không theo kế hoạch. Nguyên nhân chính là do thời gian qua chúng ta chỉ chú trọng tới việc xây dựng kế hoạch phát hành TPCP dựa vào nhu cầu chi tiêu của NSNN trên cơ sở dự toán ngân sách đã được Quốc hội thông qua, chưa tính đến chiến lược tổng thể về phát triển KTXH và các mục tiêu của chính sách tài khoá, không thống nhất với kế hoạch vay nợ để phát triển thị trường. Mặc khác thiếu căn cứ để tính toán xác định các nguồn vốn trong xã hội cũng như trong từng khu vực, từng thời gian chưa gắn công tác huy động vốn bằng TPCP với các hình thức huy động vốn của ngân hàng, doanh nghiệp. Ngoài ra công tác điều hành NSNN vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập dẫn tới việc phát hành trái phiếu còn thụ động, thời điểm phát hành còn chưa phù hợp với khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế. Như vậy để có thể huy động được tối đa các nguồn lực phục vụ cho nhu cầu ĐTPT trong giai đoạn mới (từ nay đến 2010), Chúng ta cần phải quan tâm tới công tác kế hoạch hoá, từ đó có những giải pháp phù hợp với từng thời kỳ. 2.3.2.3 Trái phiếu Chính phủ chưa thực sự đóng vai trò là hàng hoá chủ đạo trên thị trường vốn và vai trò điều hành trên thị trường tiền tệ. Nguyên nhân chính là do, với mục tiêu huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, Bộ Tài chính (KBNN) chỉ chủ yếu quan tâm đến khối lượng huy động vốn được thông qua phát hành TPCP để bù đắp thiếu hụt NSNN, chưa quan tâm đúng mức đến tác dụng nhiều mặt của TPCP như vài trò là hàng hoá trên thị trường vốn, vai trò điều hành trên thị trường tiền tệ. Mặt khác phải kể đến sự hoạt động kém hiệu quả của thị trường vốn trong thời gian vừa qua, mặc dù Chính phủ đã ra quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch chứng khoán, tạo ra một thị trường công khai và tương đối hoàn hảo để các nhà đầu tư có nhu cầu có thể tìm đến thị trường này để “mua, bán” vốn. Tuy nhiên sau nhiều năm hoạt động, thị trường này dường như vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và mục đích đặt ra. Trên thị trường này đã có tới hàng chục loại TPCP được niêm yết và giao dịch, tuy nhiên khối lượng giao dịch rất hạn chế. Bên cạnh việc nghiên cứu những giải pháp để thúc đẩy thị trường hoạt động sôi nổi và quy mô hơn, về phía các nhà phát hành chứng khoán, đặc biệt là TPCP cũng cần phải có những giải pháp nhằm cải tiến các điều khoản và điều kiện của trái phiếu để tăng tính hấp dẫn của nó trên thị tronwgf. Phải bảo đảm hài hoà giữa 2 lợi ích: Về phía NSNN, TPCP là công cụ huy động vốn đắc lực cho NSNN và ĐTPT. Đứng trên giác độ quản lý kinh tế vĩ mô, TPCP phải là hàng hoá chủ đạo trên thị trường vốn và đóng vai trò điều hành thị trường tiền tệ. 2.3.2.4 Cơ chế phát hành trái phiếu chưa hoàn thiện. Cùng với sự củng cố và phát triển của ngành, KBNN đã từng bước cải tiến công tác huy động vốn cho phù hợp với nhu cầu đổi mới công tác quản lý tài chính trong từng thời kỳ, thực tế những năm vừa qua, cơ chế phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu đã có nhiều thay đổi theo hướng đa dạng, phong phú đảm bảo an toàn, tiết kiệm. Mặc dù vậy có thể khẳng định cơ chế phát hành trái phiếu chưa được hoàn thiện ở 3 mặt: Hình thức trái phiếu chưa phong phú, lãi suất chưa hấp dẫn, phương thức trả lãi thiếu linh hoạt (chủ yếu là trả lãi cùng với gốc khi đến hạn). Chưa có các hình thức trái phiếu hiện đại, háp dẫn người mua và có khả năng mua bán dễ dàng trên thị trường. Chính sự đơn điệu của các loại hình trái phiếu đã không khai thác hết tiềm năng về vốn trong xã hội, còn bỏ sót nhiều nhà đầu tư tiềm năng. Việc phát hành trái phiếu qua hệ thống KBNN thường kéo dài trong nhiều tháng, không có lịch biểu phát hành cụ thể. Các trái phiếu của mỗi đợt phát hành có mức lãi suất khác nhau, không có thời gian đáo hạn thống nhất. Đa số trái phiếu đều phát hành dưới dạng có ghi tên, việc chuyển nhượng phải làm thủ tục tại KBNN nơi phát hành. Vì vậy, trái phiếu không đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết để giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. Các phương thức đấu thầu qua NHNN, đấu thầu qua TTGDCK, bảo lãnh phát hành đã từng bước được triển khai và dần đi vào nề nếp, song nội dung còn rất nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu. Số thành viên tham gia thị trường còn ít và không thường xuyên ( chủ yếu là một số ngân hàng thương mại quốc doanh). Khối lượng và lãi suất đặt thầu không ổn định nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của các đợt đấu thầu. Trong từng phiên đấu thầu chỉ có một loại kỳ hạn và vẫn áp dụng cơ chế lãi suất trần. Việc bảo lãnh phát hành chưa phát huy được ưu thế của nó. Khối lượng trái phiếu bảo lãnh không được phân phối ra công chúng mà các tổ chức bảo lãnh phát hành vẫn nắm giữ 100%. Nguyên nhân chính là do: Việc huy động vốn thông qua phát hành TPCP phụ thuộc vào nhu cầu vốn của NSNN và các công trình, KBNN là cơ quan phát hành nhưng không thể chủ động trong việc quy định các phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu. Cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật của KBNN còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về đổi mới nghiệp vụ. Chưa đề cao vai trò của TPCP trên thị trường vốn, từ đó chưa đặt ra yêu cầu đổi mới kỹ thuật phát hành. 2.3.2.5 Tính thanh khoản của trái phiếu còn thấp. Việc mua bán lại các loại TPCP còn rất hạn chế. Nguyên nhân chính là do: TPCP chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp, vì vậy nó càng trở nên kém hấp dẫn trên thị trường thứ cấp. Chưa xây dựng được khung pháp lý hoàn chỉnh phù hợp điều hành hoạt động thị trường sơ cấp tại Việt Nam Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc nghiên cứu và điều hành hoạt động của thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 2.3.2.6 Việc quy định đối tượng phát hành trái phiếu công trình còn bó hẹp. Chỉ những công trình nằm trong kế hoạch đầu tư của Nhà nước và chưa được bố trí vốn NSNN trong năm mới được phát hành trái phiếu công trình. Chương 3 – MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM TỚI. 3.1 – Nhu cầu vốn đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ nay cho tới năm 2015. 3.1.1 Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2015. Trong các văn kiện tại Đại hội đại biểu toàn quốc trong những năm gần đây của Đảng đã quyết định Chiến lược phát triển KTXH 2005 – 2015 với mục tiêu tổng quát là: Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị trí của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Mục tiêu tổng thể của Chiến lược đã được cụ thể hoá bằng các mục tiêu sau: Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30%GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16 đến 17%, công nghiệp là 40 – 41%. Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 còn khoảng 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5% quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80 – 85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trên cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ cải thiện. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự nhiên phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông đảm bảo lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lước giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá,… Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Các thành phần kinh tế khác đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả. 3.1.2 Nhu cầu vốn đầu tư phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta từ nay cho tới năm 2015. Để đạt được các mục tiêu phát triển KTXH, vấn đề đầu tiên phải tính đến là nguồn vốn đầu tư. Vì vậy phải huy động tối đa nguồn lực tài chính để đáp ứng, trước hết là những nguồn lực Nhà nước có thể kế hoạch hoá được như vốn NSNN, vốn tín dụng Nhà nước, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), vốn đầu tư phát triển chính thức (ODA) và vốn vay thương mại. Theo các chuyên gia kinh tế tính toán và dự báo, với hệ số ICOR của nước ta khoảng 4 – 4,2 thì cả giai đoạn 2001 – 2015 cần có tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 2.150 – 2.160 nghìn tỷ đồng, tốc độ đầu tư tăng bình quân hàng năm 9 – 11%, nâng tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội lên 30 – 32% GDP. Trong đó vốn trong nước 98 -100 tỷ USD, chiếm 64% tổng nguồn vốn, vốn ngoài nước 50 – 52 tỷ USD, chiếm 36% tổng nguồn vốn. Dự kiến phân định các chủ thể đầu tư như sau: Nguồn vốn đầu tư được bố trí trong dự toán NSNN hàng năm chiếm tỷ trọng 23 – 24% tổng vốn đầu tư, tương đương 35 -36 tỷ USD ( nguồn vốn này dự kiến sẽ dành khoảng 65 – 70% để tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế và khoảng 30 – 35% kết cấu hạ tầng xã hội). Nguồn vốn tín dụng đầu tư Nhà nước chiếm tỷ trọng 17 -18% tổng vốn đầu tư, tương đương 27 – 28 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 17 – 18% tổng vốn đầu tư, tương đương 26 – 27 tỷ USD. Vốn đầu tư từ khu vực dân cư và doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng 24 – 25% tổng vốn đầu tư, tương đương 36 – 37 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng 16 - 17% tổng vốn đầu tư, tương đương 25 – 26 tỷ USD. Đối với NSNN: với mức phấn đấu thu ngân sách bình quân hàng năm đạt tỷ lệ 20 – 21% GDP, trong đó thuế và phí khoảng 18 – 20%. Bội chi ngân sách và lạm phát được khống chế ở mức độ hợp lý (bội chi NSNN: 5% GDP; lạm phát: 6 – 8%/năm). Trên cơ sở đó, dự tính cân đối ngân sách thời kì 2005 – 2015 như sau: - Tổng thu Ngân sách khoảng 1.805 nghìn tỷ đồng. - Tổng chi Ngân sách khoảng 2.276 nghìn tỷ đồng, trong đó: + Chi thường xuyên và trả nợ 1.590 nghìn tỷ đồng, chiếm 69,8% tổng số chi NSNN + Chi ĐTPT 686 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,2% tổng chi NSNN. - Bội chi ngân sách cả giai đoạn 2005 – 2015 là 471 nghìn tỷ đồng; trong đó, dự kiến vay trong nước là 309 nghìn tỷ đồng, vay nước ngoài là 162 nghìn tỷ đồng. Số tiền bội chi này Nhà nước phải huy động thêm, mục tiêu của yếu là dành cho ĐTPT. Giai đoạn 2006 – 2010 chúng ta còn phải huy động cho NSNN khoảng 347 nghìn tỷ đồng, trong đó, vay trong nước 225 nghìn tỷ đồng, vay nước ngoài 122 nghìn tỷ. Đối với tín dụng đầu tư của Nhà nước: Dự kiến trong giai đoạn 2005 – 2015, tổng nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước khoảng 390 nghìn tỷ đồng, tương đương 27 – 28 tỷ USD; trong đó, nguồn vốn phải huy động thêm để cân đối nguồn vốn cho vay là 220 nghìn tỷ đồng. Giai đoạn từ nay đến năm 2015 còn phải huy động cho tín dụng đầu tư của Nhà nước khoảng 170 nghìn tỷ đồng. Đối với vốn ODA và vay thương mại: Dự kiến giai đoạn 2005 – 2015, tổng nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài được huy động từ các nguồn đầu tư trực tiếp (nguồn vốn FDI) và đầu tư gián tiếp (nguồn vốn ODA và vay thương mại) khoảng 50-52 tỷ USD; trong đó, vốn FDI khoảng 25-26 tỷ USD. Như vậy nhu cầu vốn ODA và vay thương mại trong giai đoạn này dự kiến khoảng 25-26 tỷ USD; trong đó, nguồn vốn ODA khoảng từ 17 đến 18 tỷ USD, số vốn chúng ta phải vay thương mại từ 7 đến 8 tỷ USD. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 còn phải vay ODA khoảng từ 12 đến 13 tỷ USD và vay thương mại từ 5 đến 6 tỷ USD. Để đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển KTXH, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo vốn đầu tư, phải phấn đấu tăng thu NSNN, khuyến khích các thành phần kinh tế và dân cư tiết kiệm, dành vốn cho đầu tư. Mặt khác, Nhà nước còn phải có nhiều chính sách và biện pháp tích cực, hữu hiệu để huy động vốn trong và ngoài nước bù đắp cho số vốn còn thiểu trong tổng nhu cầu vốn ĐTPT của Nhà nước. 3.1.3 Xây dựng lộ trình triển khai công tác phát hành TPCP ở Việt Nam. 3.1.3.1 Từ nay tới năm 2010. Mục tiêu quan trọng trong giai đoạn này là phải nâng cao hơn nữa tính thanh khoản của thị trường, TPCP phải đóng vai trò chủ đạo và là mốc chuẩn tham chiếu cho các công cụ nợ khác trên thị trường. Việt Nam cần thiết lập một khuôn khổ pháp lý phù hợp với sự phát triển của TPCP, bên cạnh đó cần tiến hành cải cách hệ thống Thuế và hệ thống kế toán cho phù hợp với sự phát triển của thị trường trái phiếu. Cần thiết phải xây dựng và cải thiện kỹ năng quản lý rủi ro của các ngân hàng, công ty chứng khoán hoặc các tổ chức kinh tê khác có thể tham gia vào thị trường OTC và kiểm soát được các rủi ro; cơ chế giám sát cũng cần được thiết lập để chống lại các rủi ro của hệ thống tài chính. 3.1.3.2 Giai đoạn 2011 – 2015. Sau khi hoàn thành được các mục tiêu trong giai đoạn trên, cùng với việc đi vào hoạt động của thị trường OTC nhất thiết phải hình thành được thị trường mua lại để nâng cao tính thanh khoản của thị trường. Cần quan tâm đến kỹ năng quản lý rủi ro của những thành viên tham gia thị trường và cần được cải thiện một cách đáng kể trong giai đoạn này. Để thị trường có tín thanh khoản, cần thiết phải có dịch vụ thông tin về giá cả. Việc sử dụng thông tin của các nhà cung cấp như Reuter, Bloomberg có thể còn quá đắt so với các tổ chức tài chính của Việt Nam ở giai đoạn đầu. Do đó, sẽ là hữu ích nếu xem xét cân nhắc sử dụng hệ thống thông tin nối mạng (như của Thái Lan đang làm), thông qua đó các thành viên tham gia thị trường có thể tiếp cập thông tin với giá không quá đắt. Trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam có thể đa dạng hoá các trái phiếu của mình, qua đó đường cong lợi nhuận của thị trường sẽ được thiết lập trong tương lai dài hạn, hệ thống thanh toán bù trừ cũng cần được nâng cấp. 3.1.3.3.Giai đoạn từ 2015 trở đi. Ở giai đoạn này có thể xem xét khả năng các tổ chức tài chính đa quốc gia phát hành trái phiếu bằng đồng Việt Nam tại thị trường trong nước. Qua đó, những trái phiếu này sẽ đóng vai trò là trái phiếu chuẩn cùng với TPCP. Việc có được một đường cong lợi nhuận chuẩn và tăng tính thanh khoản của thị trường TPCP sẽ được coi là những điều kiện cơ bản cho việc phát triển thị trường TPCP, thị trường vốn của Việt Nam. 3.2 – Những giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển ở nước ta. Các giải pháp về cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy. Hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động vốn và cơ chế phát hành công trái XDTQ. Xây dựng và ban hành Pháp lệnh (hoặc Luật) về lĩnh vực huy động vốn cho ĐTPT của Nhà nước theo hướng: Nghiên cứu xác định các chủ thể được phép phát hành trái phiếu phục vụ nhu cầu huy động vốn cho ĐTPT trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố; các doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh và các định chế tài chính. Đối tượng mua TPCP: tạo sân chơi bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân người Việt Nam được tự do mua các loại TPCP phát hành dưới các hình thức bán buôn bán lẻ. Theo đó, các thành viên của thị trường đấu thầu và bảo lãnh phát hành vẫn được mua trái phiếu Kho bạc phát hành trựuc tiếp ra công chúng. Bổ sung quy định cho phép các tổ chức, cá nhân người nước ngoài được tham gia mua TPCP trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho ĐTPT. Sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước cho phép chính quyền địa phương được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, đồng thời nâng tỷ lệ dư nợ trái phiếu đầu tư bằng 100% so với tổng mức vốn đầu tư XDCB của ngân sách tỉnh, nhằm nâng cao trách nhiệm tự chủ tài chính của chính quyền địa phương. Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng cho phép ngân hàng thương mại được mua bán TPCP trong phạm vi thời gian đáo hạn không quá 1 năm, nhằm nâng cao tính thanh khoản của TPCP, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng cường hàng hoá cho thị trường tiền tệ. Ngoài việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho ĐTPT, đề nghị Chính phủ cho phép làm thí điểm việc bán có thời hạn một số công trình thuộc cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư cho các thành phần kinh tế khác quản lý, khai thác nhằm thu hồi vốn nhanh để đầu tư cho các công trình khác. Sau khi thực hiện thí điểm thành công việc bán có thời hạn các công trình thuộc cơ sở hạ tầng để các thành phần kinh tế khác quản lý, khai thác, thu hồi vốn đầu tư cho NSNN, các cơ quan cần phối hợp soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế chuyển giao, nhượng bán có thời hạn các công trình được Nhà nước đầu tư đã hoàn thành và đang được khai thác có hiệu quả. Bên cạnh việc phát hành TPCP huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, trong trường hợp đặc biệt, cần huy động một khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn, có thể tổ chức các đợt phát hành công trái XDTQ với cơ chế phát hành, thanh toán đã được cải tiến, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người mua. Lãi suất công trái được xác định trên cơ sở bảo đảm lợi ích của người đầu tư, kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và động viên tinh thần yêu nước của tầng lớp nhân dân. Nguồn vốn huy động từ phát hành công trái được đầu tư cho các công trình có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho người dân ở các vùng sâu, vùng xa, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Sau Pháp lệnh về phát hành Công trái XDTQ số 12/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27/4/1999 đến nay, chưa có Nghị định hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh như điều 17 của Pháp lệnh đã quy định mà chỉ có Nghị định cụ thể phát hành từng đợt. Vì vậy, mỗi lần phát hành công trái tốn khá nhiều thời gian trong việc xây dựng và ban hành Nghị định cũng như các văn bản dưới luật và công tác triển khai thực hiện. Từ tình hình trên, để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cần soạn thảo một Nghị định chung về phát hành công trái xây dựng tổ quốc, theo hướng Chính phủ giao cho Bộ Tài chính quyết định khối lượng, lãi suất và thời điểm phát hành từng đợt để KBNN hướng dẫn việc tổ chức triển khai phát hành công trái XDTQ. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá phát hành TPCP. Sau khi thành lập cơ quan quản lý nợ quốc gia, cơ quan này sẽ có nhiệm vụ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng kế hoạch huy động vốn cho ĐTPT, phù hợp với nhu cầu đầu tư của Nhà nước và khả năng của thị trường, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho NHNN. Kế hoạch huy động vốn được xây dựng theo từng chủ thể phát hành, bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Kế hoạch huy động vốn theo từng loại kỳ hạn Kế hoạch huy động vốn theo thời gian. Bao gồm kế hoạch ngắn hạn ( dưới 1 năm), kế hoạch trung hạn (2-5 năm) và kế hoạch dài hạn (10 – 15 – 20 năm). Kế hoạch huy động vốn theo các phương thức phát hành. Bao gồm huy động vốn dưới hình thức đấu thầu qua NHNN và qua TTGDCK; huy động vốn dưới hình thức đại lý và bảo lãnh phát hành. Kế hoạch huy động vốn phải gắn với kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ, bảo đảm sử dụng vốn hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Thực hiện phân loại các đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ để từ đó có chính sách huy động cụ thể với từng đối tượng đó Đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ hiện nay chưa đa dạng, chỉ tập trung vào một số nhà đầu tư nhất định; đặc biệt là số lượng các nhà đầu tư tham gia mua Trái phiếu thông qua các phương thức như đấu thầu, bảo lãnh, đại lý là rất ít. Điều này dẫn đến thực trạng là công tác huy động vốn của KBNN phụ thuộc quá nhiều vào một nhóm các nhà đầu tư cố định; gây ra sự khó khăn, lãng phí và kém hiệu quả trong công tác huy động vốn. Nếu có chính sách phân loại đối tượng đầu tư của Trái phiếu Chính phủ đúng đắn, tức là hiểu rõ những đối tượng đầu tư là những thành phần nào? Động cơ nào thúc đẩy các đối tượng đó đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ? Các đặc điểm riêng biệt của từng loại đối tượng đầu tư? Thông qua việc tìm hiểu về các nhà đầu tư của Trái phiếu Chính phủ đó, cần xây dựng các chiến lược huy động cho từng nhà đầu tư; trong đó bao gồm các biện pháp đa dạng hóa các công cụ phát hành, các phương thức phát hành và thực hiện các biện pháp cụ thể hướng tới từng nhà đầu tư nhằm khuyến khích họ tích cực tham gia đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ. Cần phân biệt rõ các nhà đầu tư tài chính và các nhà đầu tư không thuộc đầu tư tài chính. Các nhà đầu tư tài chính là các NHTM, công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ… Các nhà đầu tư thông thường là các công ty, tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,… các nhà đầu tư lẻ. Đối với các NHTM: Các NHTM đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ là nhằm đáp ứng nhu cầu về tính thanh khoản của tài sản, thu được một khoản lãi ổn định nhằm bù đắp cho những khoản đầu tư khác có tính rủi ro cao hơn, thực hiện quản lý tính thanh khoản trong ngắn hạn. Đồng thời, việc đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ giúp các NHTM cung cấp các khoản ký quỹ cho các hoạt đông giao dịch repo với khách hàng và các khoản vay chiết khấu từ NHTW. Sự phát triển các hoạt động giao dịch giao dich repo sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đầu tư vào các Trái phiếu Chính phủ dài hạn. NHTM là một trong những đối tượng đầu tư bắt buộc của Trái phiếu Chính phủ. Bằng cách quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ tài sản thanh khoản cao và cơ chế đảm bảo rằng Trái phiếu Chính phủ là những tài sản thích hợp đáp ứng yêu cầu đó; Trái phiếu Chính phủ nghiễm nhiên có một đối tượng đầu tư với chi phí thấp. Tuy nhiên, nếu các NHTM được tự do đầu tư và trao đổi các Trái phiếu Chính phủ để nhằm đáp ứng các yêu cầu cho công tác quản lý nguồn vốn và tài sản của NHTM, dự phòng cho các hoạt động mang nhiều rủi ro và đáp ứng các yêu cầu của hoạt động giao dịch repo thì các NHTM sẽ trở thành các nhà đầu tư chính của Trái phiếu Chính phủ. Đối với các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí: Các công ty bảo hiểm và quỹ BHXH là các nhà đầu tư quan trọng của Trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là các Trái phiếu dài hạn. Quỹ BHXH tạo ra một nguồn tài chính dài hạn và như vậy thích hợp với việc đầu tư vào các công cụ dài hạn của Trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, do tính chất nguồn vốn của quỹ, quỹ bảo hiểm cần xem xét để kết hợp thời gian đến hạn của các Trái phiếu với nghĩa vụ thanh toán các khoản lương hưu. Các nghĩa vụ thanh toán này phụ thuộc vào cấu trúc về tuổi tác của đối tượng được hưởng lương hưu. Bản chất và kết cấu của nghĩa vụ thanh toán cũng ảnh hưởng đến chính sách đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Thời hạn của các bản hợp đồng và nghĩa vụ chi trả thường dài, do đó các công ty bảo hiểm nhân thọ có thời hạn thanh toán của Trái phiếu với các nghĩa vụ thanh toán của mình để tránh các rủi ro do tái đầu tư đem lại. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo hiểm có khi có thời hạn của Trái phiếu Chính phủ. Đây là một vấn đề cần phải xem xét khi quy định thời hạn của Trái phiếu Chính phủ. Đối với các công ty chứng khoán: Các công ty chứng khoán có vai trò là người trung gian trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trương Trái phiếu Chính phủ nói riêng. Nó có chức năng là tạo ra cơ chế huy động vốn đưa ra các dịch vụ quản lý chuyên nghiệp và đa dạng hóa tài sản với tính thanh khoản cao và chi phí thấp. Đối tượng của các công ty chứng khoán là các nhà đầu tư lớn như các NHTM, các công ty bảo hiểm… và các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Công ty chứng khoán thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua hai nghiệp vụ chính. Thứ nhất là làm trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Thứ hai là qua nghiệp vụ tự doanh; tức là công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình, sau đó thực hiện mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch gia. Đối với các doanh nghiệp: Thường thì các doanh nghiệp này không phải là các nhà đầu tư dài hạn của Trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ chỉ là công cụ để các doanh nghiệp đảm bảo tính lỏng của tài sản trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời này hay các quỹ của doanh nghiệp cũng là những nguồn tiềm năng của Trái phiếu Chính phủ nếu có cơ chế khai thác phù hợp. Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ ( dân cư): trong quá trình thực hiện huy động vốn, các nhà đầu tư nhỏ lẻ luôn được dành một sự quan tâm đặc biệt. Mục đích mua Trái phiếu Chính phủ của bộ phận các nhà đầu tư này là một hình thức đầu tư khoản tiền tiết kiệm nhằm mục đích dự phòng hoặc đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên, bộ phận này cũng chủ yếu đầu tư vào các công cụ Trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn ngắn. Mặc dù cũng có những bộ phận dân cư có nguồn vốn nhàn rỗi dài hạn, nhưng do ý thức sợ ảnh hưởng của lạm phát, của các biến động về kinh tế nên không dám đầu tư vào các loại Trái phiếu dài hạn. Dựa trên sự phân tích trên đây ta thấy rằng để huy động tối đa các nguồn lực trong nước cần có một chính sách huy động vốn toàn diện và linh hoạt để đáp ứng những nhu cầu đầu tư khác nhau của từng nhà đầu tư. Thứ nhất, tạo cơ chế khuyến khích phát triển hoạt động repo của NHTM; đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM chủ động trong việc đảm bảo tính thanh khoản của tài sản, thực hiện dự phòng bù đắp rủi ro… nhằm tăng thêm tính thanh khoản của TPCP. Thứ hai, tạo cơ chế để thúc đẩy hoạt động của các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí cảu BHXH… các công ty, các quỹ này là các nhà đầu tư dài hạn tiềm năng của Trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, để khai thác nguồn vốn này, cần có chính sách thích hợp một mặt khuyến khích hoạt động của các nhà đầu tư này phát triển, mặt khác có chính sách huy động phù hợp nhằm thu hút tối đa nguồn vốn này. Để thúc đẩy hoạt động của các tổ chức này thì Nhà nước cần có những quy định và giám sát cụ thể nhằm tạo cơ chế hoạt động minh bạch, rõ ràng; khuyến khích thành lập các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí…; hoặc miễn giảm thuế kinh doanh… Mặt khác, để huy động nguồn vốn dài hạn của các nhà đầu tư này cần có những công cụ huy động vốn phù hợp với thơi gian thực hiện nghĩa vụ của các nhà đầu tư theo như đặc điểm hoạt động của họ quy định. Tuy nhiên, do là các công cụ dài hạn nên sẽ không tránh khỏi những rủi ro ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh tác động đến giá trị thực của Trái phiếu khi đến hạn; do vậy, cần phải xem xét phát hành các Trái phiếu Chính phủ vừa có kỳ hạn dài, vừa có các đặc điểm cân thiết để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư Trái phiếu, chẳng hạn như Trái phiếu có kèm theo các đặc điểm như: lãi suất thả nổi, Trái phiếu có mối quan hệ với lạm phát… Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư thực hiện tốt chức năng của mình. Đối với các công ty chứng khoán, cần có cơ chế tách bạch rõ ràng giữa hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động tự doanh. Cần có cơ chế thúc đẩy hoạt động môi giới chứng khoán và xem đó là một trong những công cụ làm giảm chi phí phát hành Trái phiếu Chính phủ. Mặt khác, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán mở ra một kênh huy động tiềm năng cho Trái phiếu Chính phủ; do vậy, cần có những chính sách ưu đãi khuyến khích thành lập và phát triển hoạt động của các công ty chứng khoán trong nước cũng như nước ngoài. Thứ tư, ban hành các quy chế quản lý các quỹ được trích lập sai lợi nhuận của doanh nghiệp một cách rõ ràng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng quỹ đó đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ trong thời gian ngắn khi nhàn rỗi. Đồng thời, về phía KHNN, cần nghiên cứu, xem xét phát hành các loại Trái phiếu ngắn hạn, có đặc điểm thích hợp với nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp nhằm khai thác nguồn vốn tạm thời của doanh nghiệp. Thứ năm, cần có các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ lẻ mua trái phiếu Chính phủ. Việc khuyến khích có thể thông qua công tác tuyên truyền cho họ thấy rõ được lợi ích của họ khi mua Trái phiếu. Đồng thời, KBNN cũng cần tính toán đến những đặc điểm của Trái phiếu mà các nhà đầu tư nhỏ lẻ yêu cầu như: tính an toàn, lãi suất cao, dễ mua, dễ chuyển nhượng… Đồng thời, ngoài kênh tiếp cận với các nhà đầu tư nhỏ lẻ thông qua bán lẻ qua hệ thống KBNN, cần phát triển các kênh tiếp cận khác như thông qua thị trường chứng khoán, thông qua các trung gian tài chính như các công ty tài chính, các công ty chứng khoán… Thứ sáu, nghiên cứu các cơ chế cho phép cá nhân, tổ chức nước ngoài mua Trái phiếu Chính phủ để mở rộng khả năng huy động vốn của Chính phủ cho đầu tư phát triển; đồng thời thúc đẩy công tác huy động vốn vận động phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác huy động vốn. Ngoài công tác kế hoạch hóa công tác huy động vốn, sự phối hợp giữa các cơ quan như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, NHNN, KBNN, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, UBND các tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương… cần được tăng cường để thực hiện các công việc như: - Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy hướng dẫn việc phát hành Trái phiếu Chính phủ, cơ chế giao dịch Trái phiếu trên thị trường chứng khoán. - Xây dựng kế hoạch phát hành Trái phiếu theo phương thức đấu thầu qua NHNN và qua Trung tâm GDCK hàng quý, hàng năm và dài hạn hơn nữa. - Tổ chức có hiệu quả công tác đấu thầu, bảo lãnh, đại lý Trái phiếu Chính phủ. - Xây dựng các chính sách có liên quan như chính sách lãi suất, Chính phủ thuế… để khuyến khích hoạt động đầu tư, mua bán Trái phiếu Chính phủ. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ và nâng cao kiến thức của công chúng về lĩnh vực huy động vốn. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác huy động vốn, đặc biệt là nhóm cán bộ xây dựng chiến lược huy động vốn, cơ chế, chính sách huy động vốn với các hình thức: Đối với cán bộ lãnh đạo: tham gia các khoá học ngắn hạn, hội thảo về tài chính công, chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn, giúp cho nhóm cán bộ này được cập nhật kiến thức thường xuyên. Đồng thời, tổ chức các đợt khảo sát, học tập kinh nghiệm phát triển thị trường vốn ở các nước kinh tế phát triển hoặc các nước trong khu vực có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng để nghiên cứu vận dụng vào thực tế tại Việt Nam. Đối với nhóm cán bộ xây dựng chính sách, chế độ: cử tham gia các khoá đào tạo tập trung, dài hạn, trong nước, nước ngoài về ngoại ngữ và chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức các lớp huấn luyện ngắn hạn, hội thảo chuyên sâu về lĩnh vực tài chính công và phát triển thị trường vốn, giúp cho nhóm cán bộ này củng cố, cập nhật kiến thức, phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng chính sách, chế độ. Đối với nhóm cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ phát hành, thanh toán trái phiếu: thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ, giúp cho nhóm cán bộ này có khả năng triển khai các nghiệp vụ phát hành mới, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người dân, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Khuyến khích toàn dân thực hiện chính sách tiết kiệm cho ĐTPT và tham gia thị trường chứng khoán: Tổ chức các khoá đào tạo miễn phí phổ biến kiến thức về huy động vốn và lý thuyết chung về thị trường chứng khoán cho tất cả các đối tượng, đặc biệt quan tâm nhóm đối tượng là sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp các trường đại học. Tổ chức các cuộc hi tìm hiểu về lĩnh vực huy động vốn cho các đối tượng và đông đảo các tầng lớp nhân dân để phát hiện các sáng kiến, giải pháp tăng cường huy động các nguồn vốn trong dân cho ĐTPT. Phổ biến kiến thức rộng rãi cho công chúng thông qua việc phát hành và phân phối miễn phí các loại sách, báo, tạp chí, băng, đĩa…liên quan đến lĩnh vực huy động vốn và thị trường chứng khoán. Nhóm giải pháp kỹ thuật, nghiệp vụ. 3.2.2.1 Hoàn thiện phương thức phát hành TPCP. Cải tiến cơ chế đấu thầu: Từng bước chuyển dần việc đấu thầu theo kiểu Hà Lan sang đấu thầu kiểu Mỹ. Hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan là xác định giá trúng thầu thấp nhất (tương ứng với lãi suất trúng thầu cao nhất) áp dụng chung cho tất cả các thành viên trúng thầu. Hình thức này thực sự phát huy tác dụng trong giai đoạn thị trường mới phát triển vì khuyến khích về giá với các thành viên thị trường. Tuy nhiên, trên phương diện nhà phát hành thì không có lợi do các thành viên đặt lãi suất thấp nhưng vẫn trúng thầu ở mức lãi suất cao. Về lâu dài, nên áp dụng hình thức đấu thầu kiểu Mỹ (các thành viên đặt thầu ở mức giá nào thì trúng thầu ở mức giá đó) để tăng khả năng cạnh tranh của các thành viên thị trường, đồng thời giúp nhà phát hành giảm chi phí huy động vốn so với hình thức đấu thầu kiểu Hà Lan. Cải tiến cơ chế bảo lãnh: Cần xác định lại điều kiện để tham gia thành viên thị trường bảo lãnh. Ngoài tiêu chuẩn về vốn, các tổ chức bảo lãnh phải có khả năng phân phối trái phiếu ra công chúng thể hiện qua mạng lưới chi nhánh, hệ thống khách hàng tiềm năng... Thực hiện nghiêm cơ chế bắt buộc các tổ chức bảo lãnh phải chào bán trái phiếu ra công chúng để đợt phát hành mang tính đại chúng, từ đó tăng khả năng giao dịch, mua bán lại trái phiếu sau khi phát hành. Đổi mới cơ chế lựa chọn tổ chức bảo lãnh trong các đợt phát hành theo hướng tổ chức phát hành đấu thầu để chọn ra các nhà bảo lãnh. Thông qua đấu thầu sẽ xác định được lãi suất và khối lượng trái phiếu phát hành, các tổ chức bảo lãnh được lựa chọn là các đơn vị trúng thầu. Các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm phân phối trái phiếu ra công chúng và được hưởng phí. Mức phí này có thể tính bằng tỷ lệ nhất định trên số tiền trái phiếu nhận bảo lãnh hoặc bằng chênh lệch giữa giá trúng thầu và giá phát hành. 3.2.2.2. Sớm thành lập các nhà đại lý cấp một trên thị trường sơ cấp Đại lý cấp một bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán có tiềm lực tài chính, tham gia thị trường đều đặn, có uy tín và đáp ứng được một số yêu cầu quy định của Bộ Tài chính. Các đại lý cấp một được ưu tiên mua trái phiếu, hưởng phí phát hành thoả đáng. Trường hợp cần vốn để kinh doanh, các đại lý này được sử dụng TPCP để vay tái cấp vốn của NHNN. Đồng thời, họ được đưa ra các ý kiến, nguyện vọng của mình và của các nhà đầu tư cho Bộ Tài chính và các tổ chức phát hành nhằm phát triển thị trường TPCP. Trong những giai đoạn nhất định, các đại lý cấp một có thể được áp dụng chính sách ưu đãi về thuế, phí để khuyến khích thị trường phát triển. Gắn với quyền lợi trên, các đại lý phân phối cấp một có trách nhiệm tham gia đều đặn các đợt đấu thầu, bảo lãnh trái phiếu và phải mua lại trái phiếu khi các nhà đầu tư có nhu cầu bán nhưng không tìm được người mua. Như vậy các đại lý sẽ phải thường xuyên yết giá mua, giá bán trái phiếu, thực hiện các nghiệp vụ mua vào bán ra các trái phiếu sau khi phát hành. Do vậy, các đại lý cấp một còn đóng vai trò nhà tạo lập thị trường (market maker), làm tăng tính thanh khoản cho TPCP trên thị trường thứ cấp. Hàng năm, Bộ Tài chính sẽ xem xét lại tư cách của các đại lý cấp một, loại bỏ những thành viên không đủ tiêu chuẩn, uy tín giảm sút. Quy định này sẽ buộc các thành viên đại lý có trách nhiệm cao hơn trong việc tham gia vào thị trường trái phiếu. Mặt khác, việc giới hạn một số đơn vị đại lý cấp một sẽ làm cho các nhà đầu tư khác muốn đầu tư vào TPCP sẽ phải đặt mua qua các đại lý cấp một, hoặc muốn được công nhận làm đại lý cấp một thì phải phấn đấu để đạt các tiêu chuẩn của Bộ Tài chính đưa ra. Điều này làm cho thị trường TPCP sôi động hơn. 3.3.2.3. Cải tiến cơ chế xác định lãi suất TPCP. Vấn đề xác định lãi suất là yếu tố quan trọng nhất của một đợt phát hành trái phiếu. Lãi suất TPCP cũng như các công cụ lãi suất khác đều có hai mặt và rất nhạy cảm: Nếu lãi suất cao thì có lợi cho nhà đầu tư, khả năng huy động nhanh nhưng lại không hiệu quả đối với việc sử dụng vốn và ngược lại. Đặc biệt đối với trái phiếu trung và dài hạn, lãi suất là một yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến khả năng huy động vốn. Một chính sách lãi suất hợp lý, bảo đảm được lợi ích của người đầu tư là một đòn bẩy kinh tế hấp dẫn, xoá bỏ tâm lý e ngại đầu tư vào trái phiếu trung và dài hạn. Tại các nước có thị trường vốn phát triển hoàn chỉnh, lãi suất TPCP được hình thành qua đấu thầu, là lãi suất thị trường, không có sự can thiệp của Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường phát hành TPCP mới hình thành, còn ở trong tình trạng chưa phát triển nên không thể áp dụng cơ chế để lãi suất hình thành tự phát qua đấu thầu. Trước mắt, cần duy trì cơ chế lãi suất trần để định hướng thị trường và tránh những tác động tiêu cực từ các tổ chức đầu tư. Khi thị trường vốn phát triển hoàn chỉnh hơn, cần tháo bỏ cơ chế này, từng bước xác định lãi suất theo hướng tự do hoá để lãi suất trái phiếu phản ánh sát thực tình hình thị trường. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính cần thực hiện thí điểm việc bãi bỏ lãi suất trần với tín phiếu Kho bạc vì hiện nay trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã có tính cạnh tranh lớn. Mặt khác, tín phiếu Kho bạc có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp nên lãi suất tín phiếu Kho bạc có thể coi là lãi suất chuẩn cho thị trường. Trên cơ sở lãi suất tín phiếu Kho bạc, cộng thêm một phụ trội nhất định để xác định lãi suất TPCP trung hạn và dài hạn (xác định lãi suất trái phiếu bán lẻ và xác định trần lãi suất phát hành theo phương thức đấu thầu, bảo lãnh TPCP). 3.3.2.4. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cho thị trường TPCP. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong thời đại hiện nay, việc ứng dụng thành tựu của công nghệ tin học vào công tác quản lý TPCP là cần thiết và sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Công nghệ tin học giúp cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác phục vụ công tác quản lý, đồng thời cung cấp dịch vụ thuận tiện cho người đầu tư. Để áp dụng công nghệ tin học nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP, góp phần đảm bảo an toàn, nâng cao khả năng huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: Xây dựng chương trình quản lý nợ Chính phủ, trong đó có một phần phục vụ công tác quản lý TPCP của KBNN, nhằm cung cấp thông tin quản lý về tình hình thị trường TPCP, đáp ứng các nhu cầu phát hành, thanh toán TPCP, đặc biệt là trái phiếu vãng lai bán lẻ qua hệ thống KBNN. Cung cấp các trang thiết bị tin học như máy tính, đường truyền... nhằm xây dựng hệ thống mạng vi tính để phục vụ cho giao dịch mua bán TPCP trên thị trường OTC; cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà đầu tư và nhà phát hành về tình hình thị trường trong và ngoài nước, sự biến động của nền kinh tế và các nhân tố khác có ảnh hưởng đến thị trường TPCP. Ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến vào công tác quản lý hoạt động giao dịch trái phiếu, rút ngắn thời gian của các món giao dịch, tiết kiệm chi phí và hạn chế các sai sót có thể xảy ra. Việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian tài chính kết nối trực tiếp với Sở GDCK tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thanh toán chuyển giao trái phiếu và thanh toán chuyển tiền, kết nối với Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ nhằm thực hiện các quyền đối với chủ sở hữu trái phiếu như thanh toán gốc, lãi, cầm cố và chiết khấu trái phiếu trong các quan hệ tín dụng KẾT LUẬN. Trái phiếu là công cụ huy động vốn có hiệu quả của Nhà nước. Trong những năm gần đây, doanh số phát hành trái phiếu cho đầu tư phát triển không ngừng tăng lên, bình quân mỗi năm đạt trên dưới 20.000 tỷ đồng. Việc phát hành trái phiếu công trình có khả năng huy động được khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn, giúp cho các công trình trọng điểm có thể thi công đúng tiến độ, đảm bảo nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Kết quả này là một đóng góp rất quan trọng để cân đối nguồn vốn đầu tư cho NSNN hàng năm, giải quyết kịp thời các nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Việc phát hành TPCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện NSNN Việt Nam còn hạn hẹp như hiện nay. Phát hành TPCP không chỉ giúp NSNN có vốn tài trợ cho ĐTPT mà còn góp phần hình thành thị trường tài chính đồng bộ và phát triển. Tăng nhanh tiềm lực tài chính Quốc gia, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, tạo thế là lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 nước ta đã cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hiện đại, đưa tổng GDP gấp 5 lần so với 2000. Để hoạt động phát hành TPCP trong thời gian tới đáp ứng được yêu cầu chung và bối cảnh của nền kinh tế cần hoàn thiện hơn phương thức phát hành, nghiệp vụ, mục đích phát hành theo hướng coi trọng huy động vốn thông qua phát hành TPCP tài trợ cho đầu tư phát triển. Việc hoàn thiện công tác phát hành TPCP , cơ chế chính sách huy động vốn cho ĐTPT của Nhà nước là một vấn đề phức tạp nên trong phạm vi của chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Học viên mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo, cô giáo để bài chuyên đề được hoàn thiện hơn ./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007), Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS Lê Văn Hưng (2006), Các giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nước giai đoạn 2005-2010, NXB Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2000), Kho bạc Nhà nước Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, NXB bản Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2003), Đề án phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư một số công trình hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng của Nhà nước. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2005), giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ Kho Bạc Nhà nước, NXB Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2006, 2007, 2008), Tài liệu hội nghị tổng kết công tác các năm 2006, 2007, 2008 hệ thống Kho bạc Nhà nước, Hà Nội. Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước Việt Nam (2008), Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước đến 2020, NXB Tài chính, Hà Nội. Hồ Xuân Phương, Lê Văn Ái (2004), giáo trình quản lý tài chính Nhà nước, NXB Tài chính, Hà Nôi. Lê Văn Hưng (2004), Huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nước – thực trạng và giải pháp. Kho bạc Nhà nước Việt Nam, ban huy động vốn (2004, 2005, 2006, 2007, 2008), Báo cáo tổng kết công tác các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, Hà Nội Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 182/2003/QĐ-TTg ngày 05/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước. Chính phủ (2003), Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương. Bộ Tài Chính (2004), Thông tư số 19/2004/TT-BTC ngày 18/03/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc đấu thầu tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ qua NHNN Việt Nam. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 32/2004/TT-BTC ngày 12/04/2004 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/08/2004 của Bộ Tài chính ban hành quy chế hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương. Bộ Tài chính (2006), Quyết định số 4/2006/QĐ-BTC ngày 6/09/2006 của Bộ Tài chính về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn. Một số website: www.tapchiketoan.com ; www.vneconomy.vn ; www.hanoigov.vn ; www.vietbao.vn ; www.vnexpresss.net ; www.vietnamnet.vn ; www.vbpq.mof.gov.vn ; www.diendankinhte.info ; … MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN và ĐTPT giai đoạn 2004 – 2008. 30 Bảng 2.2 : Tình hình thực hiện kế hoạch phát hành TPCP cho ĐTPT giai đoạn 2003-2008. 31 Bảng 2.3: Tổng hợp phát hàng trái phiếu GT-TL từ năm 2004-2008. 34 Bảng 2.4 : Tình hình giải ngân trái phiếu GT-TL từ 2003 đến 2008. 36 Bảng 2.5: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục so với kế hoạch vận động năm 2005. 39 Bảng 2.6: Kết quả thực hiện việc phát hành công trái giáo dục năm 2005 ở một số tỉnh thành trong cả nước. 40 Bảng 2.7: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức huy động vốn giai đoạn 2004-2008. 43 Bảng 2.8: Giao dịch TPCP trên thị trường chứng khoán 2004 – 2008. 45 Bảng 2.9: Kết quả bán lẻ qua hệ thống KBNN cho ĐTPT giai đoạn 2004 - 2007 46 Bảng 2.10: Kết quả đấu thầu TPCP do KBNN phát hành qua TTGDCK giai đoạn 2004-2008. 48 Bảng 2.11: Kết quả phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành giai đoạn 2004 – 2008. 51 Bảng 2.12: Danh mục công trình sử dụng nguồn vốn phát hành TPCP giai đoạn 2003 – 2010. 53

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21608.doc
Tài liệu liên quan