LỜIMỞĐẦU
Có thể nói cho vay tiêu dùng (CVTD) đang và sẽđóng một vai tròchủđạo trong các dịch vụ ngân hàng. Bởi vì cho vay tiêu dùng không chỉlà khoản mục mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng mà còn vì người tiêu dùng với trình độ dân trí và mức sống ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để tiêu dùng, để nâng cao mức sống bản thân vàđáp ứng các kế hoạch chi tiêu trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai.
Nhưng hoạt động cho vay tiêu dùng cho đến nay tại Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Vì vậy với tư cách là trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại cần phải thúc đẩy hoạt động đó. Hiện nay đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam thì tín dụng vẫn đang là hoạt động mang lại thu nhập chính, do đó họ cũng rất quan tâm phát triển cho vay tiêu dùng trong thời gian tới. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương(NHCT) Ba Đình là một Ngân hàng thương mại quốc doanh có mức dư nợ hàng năm lên đến hàng nghìn tỷđồng, trong nhưng năm gần đây hoạt động cho vay tiêu dùng của NHCT Ba Đình đã có những bước phát triển đáng kể, chất lượng cho vay được cải thiện dần qua từng năm.
Qua thời gian thực tập tại NHCT Ba Đình, em đã cóđiều kiện tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động kinh doanh cua Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng. Làm sao để cùng với việc tăng trưởng dư nợ là chất lượng CVTD không ngừng được nâng cao? Đây không chỉ là một vấn đề trăn trở với NHCT Ba Đình mà còn đối với các NHTM nói chung. Do vậy em chọn đề tài: “Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương khu vực Ba Đình” để làm đề tài nghiên cứu với hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động CVTD nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình nói chung trong những năm tới.
Ngoài phần mởđầu và kết luận thì nội dung chính được chia thành 3 chương.
+ Chương 1: Khái quát chung về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại.
+ Chương 2; Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Ba Đình.
+ Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình.
MỤCLỤC
LỜINÓI ĐẦU 1
NỘIDUNG 3
CHƯƠNG 1: KHÁIQUÁTCHUNGVỀCHOVAYTIÊUDÙNG(CVTD) CỦANGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠI. 3
1.1. Khái niệm đặc điểm và phân loại CVTD 3
1.1.1. Khái niệm CVTD 3
1.1.2. Đối tượng CVTD 4
1.1.3. Đặc điểm CVTD 5
1.2. Các phương thức CVTD 8
1.2.1. Phân loại CVTD dựa vào mục đích 8
1.2.2. Căn cứ theo phương thức hoàn trả 9
1.2.3. Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay 11
1.2.4. Căn cứ vào nguồn gốc các khoản CVTD 11
1.3. Các nhân tố tác động đến CVTD 19
1.3.1. Nhóm các nhân tố khách quan 19
1.3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan 21
CHƯƠNG 2: THỰCTRẠNGCVTD TẠICHINHÁNH NGÂNHÀNG CÔNGTHƯƠNG(NHCT) BAĐÌNH 24
2.1. Khái quát về chi nhánh ngân hàng Công Thương Ba Đình 24
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 24
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhiệm vụ các phòng ban 26
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình 40
2.2. Thực trạng CVTD tại chi nhánh NHCT Ba Đình 49
2.2.1. Đối tượng và quy trình CVTD 49
2.2.2. Thực trạng CVTD tại chi nhánh 51
2.3. Đánh giá hoạt động CVTD tại chi nhánh 57
2.3.1. Kết quảđạt được 57
2.3.2. Nguyên nhân và hạn chế 57
CHƯƠNG 3: GIẢIPHÁPPHÁTTRIỂN CVTD TẠI NHCT BAĐÌNH 67
3.1. Định hướng phát triển của NHCT Ba Đình 67
3.1.1. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2006 67
3.1.2. Các biện pháp thực hiện 67
3.2. Các giải pháp 69
3.2.1. Phải có chính sách cụ thể về CVTD 69
3.2.2. Hoàn thiện quy trình CVTD 71
3.2.3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay tiêu dùng 72
3.2.4. Đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh 73
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng 74
3.2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 76
3.2.1. Tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 78
3.3. Một số kiến nghị 79
3.3.1. Kiến nghịđối với sự quản lý vĩ mô của nhà nước 80
3.3.2. Kiến nghịđối với ngân hàng nhà nước 81
3.3.3. Kiến nghịđối với các cấp có liên quan 82
3.3.4. Kiến nghịđối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam 83
Kết luận 84
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương khu vực Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu hiện ở nguồn vốn huy động, tổng dư nợ nói chung và dư nợ cho vay tiêu dùng nói riêng ra tăng một cách rõ rệt.
+ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng đã từng bước được nâng lên. Ngân hàng đã rất chú trọng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, vì cho dù trong bất cứ lĩnh vực nào thì nhân tố con người luôn là nhân tố trung tâm không thể thiếu, nó quyết định đến toàn bộ sự phát triển của ngân hàng. Để tạo ra một lợi thế cạnh tranh của mình thì ngân hàng đã liên tiếp cử các cán bộ, nhân viên của mình đi tham gia vào các khoá đào tạo nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ. Tất cả điều này đều nhằm tạo ra một mạng lưới hoạt động rộng khắp và hiệu quả hơn nữa, và mục tiêu cuối cùng là để phục vụ khách hàng được tốt nhất. Bên cạnh các khoá học nội bộ thì các cán bộ có khả năng còn được đi học ở các trường đại học về các khoá học như : phân tích tài chính, quản lý tín dụng, thị trường chứng khoán, quản lý nhân lực…
2.3.2. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
2.3.2.1. NHỮNG HẠN CHẾ CẦN KHẮC PHỤC
Cho vay tiêu dùng ở NHCT Ba Đình trong những năm qua đã tăng trưởng mạnh nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân và chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của ngân hàng. Để cho vay tiêu dùng trong những năm tới thực sự phát triển và nâng cao được chất lượng của mình thì ngân hàng cần phải khắc phục một số hạn chế sau:
+ Điều đầu tiên là mức cho vay và thời hạn cho vay không có đảm bảo bằng tài sản tối đa đối với cán bộ công nhân viên còn chưa hợp lý. Hiện nay mức cho vay tối đa của hệ thống NHCT áp dụng đối với cho vay cán bộ công nhân viên chỉ có 20 triệu đồng, trong khi đó một số ngân hàng có mức cho vay tối đa cao hơn nhiều. Ngoài ra đối với các cán bộ công nhân viên và những hộ có thu nhập thấp thì nhu cầu vay vốn tiêu dùng là rất lớn như: mua nhà ở,mua đất xây nhà ở, mua ôtô… là không thể. Mặt khác thời hạn cho vay tiêu dùng tối đa phổ biến hiện nay là 3 năm. Như vậy rất khó khăn cho những người có thu nhập thấp có thể cải thiện đời sống của mình, bởi vì do nguồn thu nhập của họ thấp nên muốn tích luỹ được một khoản lớn thì họ phải mất một khoảng thời gian dài nên thời gian 3 năm là chưa thật hợp lý, chưa thật hấp dẫn đối với đối tượng này. Các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng với mức cho vay và thời hạn cho vay hợp lý sẽ tạo ra thói quen tiết kiệm cho người dân đồng thời cũng góp phần làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán, từ đó kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
+ Chưa thực hiện được cho vay mua nhà trả góp với giá trị khoản vay lớn, thời hạn dài. Trong khi đó nhu cầu thị trường đối với sản phẩm này là rất lớn và còn đang ở trong giai đoạn mới khai thác. Do vậy việc không cho vay mua nhà phần nào đã hạn chế việc mở rộng doanh số cho vay và dư nợ cho vay của loại tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh.
+ Chưa phát triển hình thức tài trợ cho khách hàng bằng cách phát hành thẻ tín dụng và chưa khai thác triệt để được các nhu cầu đa dạng của khách hàng để mở rộng cho vay tiêu dùng. Ta thấy ở Việt Nam một số ngân hàng đã bắt đầu sử dụng thẻ trong việc thanh toán đi đầu là ngân hàng Ngoại Thương, tuy nhiên việc áp dụng hình thức này vẫn chưa phổ biến mới chỉ có một số rất ít các ngân hàng đang áp dụng, nghiệp vụ này cũng đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Vì thế việc chưa phát triển được hình thức này là một mục tiêu trong tương lai của ngân hàng Côn Thương Ba Đình.
+ Việc thẩm định khách hàng còn chưa chặt chẽ, chưa theo đúng quy trình thủ tục. Khi khách hàng là diện quen biết thì việc xin được vay sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều, bên cạnh đó cũng tồn tại những khách hàng sử dụng khoản tiền vay không đúng với mục đích xin vay ban đầu. Việc theo dõi nợ đến hạn, gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn gặp nhiều khó khăn từ chính ngân hàng. Việc kiểm tra kiểm soát sau khi giải ngân vẫn còn mang tính hình, thức chưa được coi trọng đúng mức…
2.3.2.2. NGUYÊN NHÂN
a/ Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Về luật pháp thì pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể đối với cho vay tiêu dùng mà mới chỉ tạo ra được một cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM tuy nhiên còn rất khái quát, chung chung và chưa đi vào chi tiêt. Căn cứ pháp lý về cho vay tiêu dùng chưa đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ để bảo đảm an toàn. Các nước phát triển đều đã xây dựng cho mình một hệ thống luật tín dụng bao gồm một loạt các qui định điều chỉnh các vấn đề liên quan đến cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận sở hữu nhà là những tài sản bảm đảm có giá trị thì rất ít hộ có đủ giấy tờ, do hiện nay thủ tục cấp giấy còn phức tạp và chưa đồng bộ. Ngoài ra, rất nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp sống trong các khu tập thể nên chỉ có các quyết định giao đất, giao nhà. Còn các tài sản khác thường có giá trị thật sự không lớn vì họ là những người có thu nhập thấp nên tài sản tích luỹ cũng vậy.
- Về văn hoá xã hội: Đây là một trong những yếu tố có tác động lớn nhất đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng. Quy mô hoạt động cho vay tiêu dùng còn thấp, khả năng mở rộng các nghiệp vụ cung cấp khó khăn, dẫn đến những hạn chế trong hoạt động cho vay tiêu dùng có một nguyên nhân bắt nguồn từ tâm lý người dân nước ta. Họ không thích ở trong tình trạng nợ nần và chịu những áp lực khi chưa trả hết nợ. Họ có tư tưởng rằng giao dịch với ngân hàng là biến thành con nợ của ngân hàng, điều này đã trở thành ý thức chung của những người dân (đại đa số vẫn là nông dân) nên rất khó trong một thời gian ngắn có thể thay đổi ngay được những quan niệm này.
Ngoài ra do mới trải qua thời kỳ đói nghèo, nên xu hướng tích luỹ tích kiệm vẫn còn phổ biến hơn là đi vay để tiêu dùng rồi tích góp sau để trả nợ. Chính vì thế nếu các ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng thì phải tác động tới mặt tâm lý người dân, thuyết phục và giải thích cho họ những lợi ích họ thu được từ việc cho vay tiêu dùng là nhiều hơn là những áp lực tâm lý mà họ có thể có khi ở trong tình trạng nợ nần. Bên cạnh đó việc phân bố mật độ dân cư ở các vùng nước ta không đều, khả năng thu nhập và lối sống tiêu dùng của những nơi khác nhau là khác nhau. Những nhóm người có thu nhập khá và cao thường tập trung ở khu vực các đô thị và chiếm số lượng không nhiều nhưng ngược lại nhóm người có thu nhập thấp lại tập trung ở khu vực nông thôn và chiếm số lương đông đảo do đó mức tiêu thụ hàng hoá còn thấp và thường chỉ tập trung ở những khu đô thị và những thành phố lớn. Một yếu tố nữa là thường ở các khu vực này thì tỷ lệ thất nghiệp cao hơn các khu vực khác vì nhiều người trong độ tuổi lao động tập trung và di cư đến nhằm mục đích là kiếm được một công viêc tốt hơn là ở nông thôn. Và hiện nay thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn là một trong những nước thấp nhất trên thế giới điều này là một nguyên nhân hết sức khách quan giải thích vì sao cho vay tiêu dùng của nước ta chưa phát triển, một phần là đời sống trung bình của hầu hết các người dân còn thấp.
- Về khách hàng: việc nắm bắt được những thông tin này cũng gặp nhiều khó khăn, thường nó không được đầy đủ vầ thiếu chính xác. Người tiêu dùng không muốn tiết lộ thông tin về tình hình thu nhập hàng tháng của gia đình, tình trạng sức khoẻ… vì nếu các nguồn thu nhập không đảm bảo thì họ sẽ không được ngân hàng cho vay vốn. Vì vậy, nếu cán bộ ngân hàng không thẩm định và kiểm tra kiểm soát một cách kỹ lưỡng thì rất dễ đưa ra các quyết định tín dụng sai lầm và gây thiệt hại cho ngân hàng. Ngoài ra thì giá cả thị trường luôn biến đổi không ngừng và các loại hàng hoá sản phẩm rất đa dạng và nhiều chủng loại nó yêu cầu các cán bộ tín dụng phải liên tục cập nhật tình hình giá cả thị trường để có được những thông tin chính xác nhất để từ đó đưa ra quyết định của chính mình.
- Về sự cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện nay càng ngày càng lớn. Do càng ngày càng có nhiều ngân hàng ra đời, có cả những ngân hàng tư nhân trong nước, hay các ngân hàng nước ngoài. Do các ngân hàng này cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện và nâng cao chất lượng các sản phẩm và dịch vụ của chính mình nên mỗi ngân hàng đều nỗ lực trong việc đưa ra những lợi thế so sánh và những ưu điểm khác nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh tốt nhất trên thị trường. Và đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, vì đối với các ngân hàng thì nó vẫn đang còn khá mới mẻ, nó được coi là một thì trương mới và đầy tiềm năng trong tương lai khi mà đất nước đang có tốc độ tăng trương kinh tế khá nóng như hiện nay. Do đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng lại càng trở nên quyết liệt hơn.
b/ Nhóm nguyên nhân chủ quan
- Do ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngân hàng Công Thương từ khi mới thành lập đã có khách hàng mục tiêu là các công ty, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nên đã xây dựng được mối quan hệ lâu dài, có uy tín với nhiều khách hàng truyền thống lớn. Các khoản cho vay đối với khách hàng công ty, doanh nghiệp thường rất lớn, có khi đến hàng chục, hàng trăm tỷ đồng, gấp nhiều lần so với các món vay tiêu dùng. Do đó, về mặt tâm lý cũng như nghiệp vụ, ngân hàng thường thích giải quyết những món vay có giá trị lớn hơn. Hơn nữa xem xét dưới góc độ ngân hàng, hoạt động cho vay tiêu dùng phát sinh nhiều chi phí hơn là tín dụng tài trợ sản xuất kinh doanh, đồng thời hoạt động cho vay tiêu dùng cũng mang lại nhiều rủi ro hơn nếu không được xem xét kĩ càng. Đó chính là những yếu tố chính khiến cho ngân hàng nói chung và cán bộ nói riêng chưa quan tâm đáng kể đến hoạt động này. Nhưng trên thực tế lợi nhuận thu được từ các khoản vay tiêu dùng là rất cao, thường cao hơn các loại cho vay theo các loại hình tín dụng khác. Nếu quy mô hoạt động cho vay tiêu dùng lớn thì chi phí bình quân mỗi món vay sẽ nhỏ và lợi nhuận thu được từ loại hình này sẽ lớn hơn. Và các công ty, doanh nghiệp giao dịch với các ngân hàng theo mối quan hệ lâu dài nên rất khó có thêm một khách hàng mới. Khi đó, ngân hàng một mặt phải củng cố các mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, mặt khác phải hoàn thiện, cải tiến các sản phẩm dịch vụ của mình để thu hút thêm các khách hàng mới mà chủ yếu là các khách hàng cá nhân. Để chiếm lĩnh thị trường và thị phần, ngân hàng cần xây dưng cho mình một vị trí trên thị trường cho vay tiêu dùng mới càng sớm càng tốt.
- Sự vận hành của các ngân hàng thương mại còn chưa hoạt động đúng theo cơ chế thị trường, nó vẫn còn bị nằm trong những quy định nghiêm ngặt của các cơ quan quản lý nhà nước và ngân hàng nhà nước. Cùng với nó là thực trạng lĩnh vực tài chính ngân hàng của nước ta cho đến nay vẫn chưa thực sự phát triển nên các hình thức huy động vốn còn đơn điệu, chưa có hình thức huy động và nhận tiền gửi mới, phù hợp với nhu cầu người dân và các tổ chức kinh tế. Số tài khoản tiền gửi cá nhân tài khoảt vãng lai còn ít, loại tiền huy động còn hạn chế. Lượng vốn huy động còn thấp so với lượng vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Cơ cấu vốn huy động chưa thật sự hợp lý, số vốn huy đông phần lớn là ngắn hạn làm cho tính ổn định thấp và không cao chưa phù hợp với kỳ hạn sử dụng vốn. Do đó các ngân hàng thường tập trung vốn dài hạn cho những dự án lớn, cho các khách hàng truyền thống. Nhưng cũng không thể bỏ qua phương thức lấy ngắn nuôi dài: tức là lấy các nguồn huy động ngắn hạn để tài trợ các khoản cho vay dài hạn, ở đây phải có sự sắp xếp gối đầu các khoản vay và trả một cách hợp lý.
- Hiện nay sự bảo trợ của nhà nước phần nào làm hạn chế tính chủ động, sự nhạy bén kinh doanh của ngân hàng. Một vài năm tới khi Viêt Nam gia nhập WTO thì các ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng nước ngoài, và sự nỗ lực của bản thân các ngân hàng trong nước để thu hút và duy trì những khách hàng cũ là chưa đủ. Hiện nay ngân hàng đã chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng nhưng hiện tượng ngân hàng ngồi chờ khách hàng đến với mình không phải là không có. Ngoài ra hoạt động Marketing ở các ngân hàng mặc dù đã được triển khai và hô hào từ lâu nhưng nó thực sự không mang lại hiệu quả thực sự như mong đợi, như nhiệm vụ vốn có của nó. Việc thu thập thông tin trên thị trường còn chưa được quan tâm đúng mức, thông tin thu được là không đầy đủ và chính xác điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sản phẩm ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, từ đó không thu hút được khách hàng đến với ngân hàng,
- Mặc dù hệ thống NHCT Việt Nam đã thực hiện công nghệ hoá hiện đại hoá một số lĩnh vực nhưng ở trong bộ phận tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng thì vẫn chưa có được sự ứng dụng một cách đồng bộ và hoàn thiện. Hơn nữa việc quản lý, lưu trữ nợ và các thông tin khách hàng còn chưa thuận tiện, gây khó khăn trong việc quản lý, xem xét cũng như phân tích thông tin khách hàng. Khi mở cửa hội nhập trong thời gian tới các ngân hàng nước ngoài sẽ xâm nhập thị trường Việt Nam, nếu các ngân hàng thương mại trong nước không liên tục đổi mới, cải tiến và phát triển thì các ngân hàng trong nước sẽ bị thua thiệt rất nhiều trong quá trình cạnh tranh dành giật khách hàng. Các ngân hàng nước ngoài với trình độ công nghệ cao, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến sẽ có tác động đáng kể đến hoạt động của các ngân hàng trong nước, trong đó không loại trừ hệ thống NHCT Việt Nam.
Do đó đây là thời gian chuẩn bị tốt nhất và phù hợp nhất trước khi gia nhập WTO. Ngân hàng nên có những đổi mới mạnh mẽ hơn về công nghệ cần thiết nhằm tạo ra sự hợp lý và hiệu quả trong hoạt động. Việc công nghệ hoá, hiện đại hoá ngân hàng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.
- Thực tế hiện nay thì thủ tục vay vốn của các NHTM còn rườm rà, phức tạp, gây tâm lý ngần ngại cho người vay vốn. Từ trước người dân đã rất xa lạ với hoạt động ngân hàng là do họ ít khi có nhu cầu và cũng do cả yếu tố tâm lý. Đôi khi để biết được điều kiện vay vốn, hồ sơ vay vốn cần những gì và chuẩn bị được hồ sơ theo đúng qui định, khách hàng phải đi lại rất nhiều lần đến ngân hàng, làm mất rất nhiều thời gian của họ, từ đó giảm mong muốn của khách hàng đến ngân hàng vay tiền.
- Trình độ cán bộ ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân cần phải được củng cố và khắc phục, nó sẽ làm giảm chất lượng các khoản vay, gây ra các rủi ro cao hơn bởi vì không phải ai cũng có kiến thức và trình độ chuyên môn sâu rộng, và nếu có rồi thì cũng phải có thời gian để thích ứng một cách tốt nhất đối với lĩnh vực mà mình hoạt động.
Thật vậy để thúc đẩy các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng thì NHCT Ba Đình nên đề ra những mục tiêu và định hướng kinh doanh cụ thể để từ đó đưa ra những chiến lược cũng như những giải pháp hữu hiệu nhất, nó không những đáp ứng được nhu cầu trước mắt mà nó còn phải là những bước đi mang tính lâu dài. Có như vậy thì mới có thể đưa lĩnh vực cho vay tiêu dùng trở thành một trong những hoạt động cơ bản và mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho chi nhánh.
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA ĐÌNH
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
3.1.1. CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH CHỦ YẾU NĂM 2006
- Tổng nguồn vốn huy động 4.720 tỷ, trong đó VNĐ 3.950 tỷ.
- Dư nợ cho vay nền kinh tế 2.800 tỷ, trong đó VNĐ 1.977 tỷ
Trong đó: Tỷ trọng nợ xấu đến 31/12/2006: 1,07%.
- Xử lý tài sản đảm bảo và thu hồi nợ đã được xử lý: 43.300 triệu đồng.
- Thu dịch vụ Ngân hàng: Gấp 2 lần thực hiện năm 2005.
- Lợi nhuận chưa trích DPRR: 140 tỷ đồng.
3.1.2. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
* Đẩy mạnh hình thức huy động vốn với hình thức phong phú và đa dạng; Tiếp tục tìm kiêm khai thác các doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn gửi vốn tại Chi nhánh, trong đó chú trong tới các Ban quản lý dự án có sử dụng nguồn vốn từ các tổ chức Quốc tế chuyển vốn về giải ngân tại Chi nhánh.
- Đẩy mạnh huy động vốn nguồn tiền gửi dân cư với lãi suất linh hoạt, hình thức khuyến mãi khách hàng phong phú.
- Quảng bá kịp thời các tiện ích, giá trị gia tăng của các sản phẩm huy động vốn.
* Nâng cao chât lượng tín dụng bảo đảm an toàn vốn
- Tiếp tục khai thác khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh sản xuất kinh daonh có hiệu quả để đầu tư vốn, đồng thời phân tịch, đánh giá, chọn lọc, xếp hạng khách hàng vay vốn để xác định giới hạn tín dụng cho từng đơn vị vay vốn trước khi ký hợp đồng tín dụng năm 2006, thực hiện nghiêm túc các qui trình nghiệp vụ, chính sách pháp luật của nhà nước. Trong quá trình cho vay phải thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính doanh nghiệp để có các biện pháp xử lý thích hợp nhằm thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch dư nợ và tiếp tục tăng trưởng tín dụng bền vững.
- Về thu nợ đã được xử lý: Phân công cho từng cán bộ tín dụng, cán bộ phụ trách chịu trách nhiệm thu nợ của từng đơn vị đã được xử lý theo kế hoạch được giao. Định kỳ có kiểm điểm tiến độ thực hiện.
- Chú trọng hơn nữa cho vay vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, DNTN, các hộ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp, cho vay tiêu dùng.
* Hoàn thiện và phát triển màng lưới, nghiệp vụ kinh doanh theo cơ cấu lại tổ chức của hệ thống NHCTVN tại Chi nhánh, phát triển thêm 3 điểm giao dịch trước tháng 6/2006.
* Đổi mới cơ chế quản trị điều hành trong công tác chỉ đạo cho phù hợp với chương trình hiện đại hoá, phân công phân cấp rõ ràng từ giám đốc đến từng nhân viên để đảm bảo xử lý công việc nhanh chóng, có hiệu quả và đảm bảo an toàn tài sản theo qui chế quản lý của NHCTVN.
* Phát triển các dịch vụ Ngân hàng mang tính đột phá, đặc biệt là công tác phát hành thẻ ATM, VISA/MASTER card… và các dịch vụ khác nhằm nâng cao tỷ trọng thu nhập về dịch vụ. Phấn đấu năm 2008 phát hành được 8000 thẻ.
* Thực hiện khai thác các kết quả của chương trình hiện đại hoá theo tiến độ hoàn thành chương trình hiện đại hoá INCAS và thực hiện tốt tiêu chuẩn ISO 9001 – 2000 của hệ thống NHCTVN nhằm xử lý nhanh các giao dịch, đồng thời đảm bảo tính bảo mật tuyệt đối của toàn Hệ thống.
* Mỗi cán bộ nhân viên phải tự nâng cao ý thức trách nhiệm trong công việc và thường xuyên học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ dưới nhiều hình thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để đáp ứng được yêu cầu kinh doanh theo tình hình mới với phong cách giao dịch văn minh lịch sự, không để công việc chậm trễ, mọi vướng mắc của khách hàng phải được giải quyết kịp thời thoả đáng.
* Nghiêm túc thực hiện các cơ chế, qui chế, qui trình nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm tự kiểm tra, kiểm soat và kịp thời khắc phục theo yêu cầu của các đoàn thanh tra, kiểm tra những sai sót vi phạm. An toàn tuyệt đối kho quỹ, và thực hiện tốt các qui định bảo mật và công khai khác của NHCTVN yêu cầu như: Mã thẩm quyền, an ninh trong thanh toán điện tử, niêm yết các qui định về an toàn bảo mật thông tin nơi làm việc và các điểm giao dịch…
* Triển khai xây dựng trụ sở làm việc tại 126 Đội Cấn theo phê duyệt của NHCTVN. Phấn đấu để công trình sớm được khởi công vào đầu quí II năm 2006.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP
3.2.1. CHI NHÁNH PHẢI CÓ CHÍNH SÁCH CỤ THỂ VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
Chiến lược chính là mục tiêu dài hạn, mà ở đó mỗi ngân hàng lựa chọn con đường của mình phù hợp với nguồn lực sẵn có để đạt được một mục tiêu nào đó. Trong môi trường cạnh tranh ngày một gay gắt như hiện nay thì để chiến thắng và tồn tại thì việc vạch ra một mục tiêu dài hạn là vô cùng cần thiết nó sẽ đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn. Do đó để mở rộng cho vay tiêu dùng trong những năm tới chi nhánh cần phải có chính sách cụ thể về cho vay tiêu dùng sao cho chính sách này vừa hợp với nhu cầu thực tế vừa phù hợp với điều kiện của riêng ngân hàng. Các chính sách cụ thể này phải chú ý đến một số đặc điểm sau.
Cần mở rộng nhiều hơn nữa các loại hình sản phẩm dịch vu cho vay tiêu dùng, trong đó các loại sản phẩm cần trở nên phong phú không nên chỉ dừng lại ở các sản phẩm như: cho vay mua nhà, mua xe hay là vật dụng trong gia đình mà nên mở rộng ra các sản phẩm khác nữa như cho vay du học hay để xuất khẩu lao động… Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên mở rộng đối tượng cho vay cho những người có thu nhập ổn định như cán bộ công nhân viên. Đây là thị trường rất lớn và đầy tiềm năng, họ cũng có nhu cầu rât lớn về thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nên cần phải khuyến khích ngân hàng mở rộng đối với thị trường này. Ngân hàng có thể gửi giấy thông báo đến các cơ quan tổ chức này nhằm vừa quảng cáo cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và vừa có tác dụng giới thiệu các loại sản phẩm và dịch vụ khác đến mọi người. Đi cùng với thông báo thì ngân hàng nên có những qui định chi tiết và cụ thể để mọi người có thể nhận biết và thực hiện như: đối tượng vay vốn, điều kiện vay vốn, thủ tục sồ sơ vay vốn, lãi suất… Do ngân hàng cũng có nhiều mối quan hệ với các công ty lớn nên mối quan hệ tín dụng giữa công ty và chi nhánh cũng tương đối nhiều do đó có thể giảm thiểu được rủi ro khi ngân hàng thiết lập quan hệ cho vay tiêu dung với khách hàng là nhân viên của các cơ quan này.Ngoài ra đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể huy động thêm tiền gửi của dân cư.
Cũng do những đối tượng này không có tài sản đảm bảo nên số tiền mà ngân hàng cho các đối tượng này vay cũng không lớn vì nếu không trả được thì ngân hàng không có bất cứ tài sản nào để xử lý. Để giải quyết khó khăn này thì ngân hàng nên xem xét phát triển cho vay thông qua người đại diện. Giải pháp này được đưa ra trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên ( ngân hàng, người đại diện, người vay) cũng như có dự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình thẩm định, giải ngân và thu nợ. Để làm được việc đó thì ngân hàng nên có các chính sách ưu đãi đối với người đại diện, từ đó tiết kiệm được thời gian chi phí cho vay và thu hồi nợ, hạn chế rủi ro.
Đây là phương thức cho vay có hiệu quả do đó chi nhánh cần phải mở rộng chính sách cho vay tiêu dùng. Và việc ngân hàng đưa ra một lãi suất hợp lý và phù hợp cũng là vấn đề có ý nghĩa cho việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Nó sẽ vừa thoản mãn nhu cầu của một số lượng lớn các cán bộ công nhân viên và vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
3.2.2. HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CHO VAY TIÊU DÙNG
Hiện nay, ngân hàng công thương cũng có tài liệu công văn hướng dẫn thực hiện quy trinh cho vay tiêu dùng. Nó là các bước mà các chi nhánh phải thực hiện và tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng. Quy trình này bao gồm các bước, tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ. Nhưng hiện tại các bước này thường được áp dụng chung cho toàn hệ thống vì mỗi ngân hàng lại có địa bàn hoạt động khác nhau với những điều kiện kinh tế văn hoá chính trị khác nhau nên cho dù có công văn hướng dẫn thì việc thực hiện tại chi nhánh vẫn luôn gặp khó khăn. Do đó nhiều lúc thực hiện theo công văn lại không thật sự phù hợp với chi nhánh của mình. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng, ngân hàng nên lập một quy trình cho vay riêng dựa trên quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng công thương Việt Nam. Chi nhánh cần chú ý việc thẩm định khách hàng để có được quyết định cho vay đúng đắn nhất. Sau khi giả ngân thì cán bộ tín dụng cần giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng, xem ngân hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã nêu trong hợp đồng không. Nếu có thì ngân hàng phải có biện pháp xử lý phù hợp. Đặc biệt là trong trường hợp cán bộ công nhân viên chức, những người vay không có tài sản đảm bảo thì lại cần phải theo dõi chạt chẽ hơn nữa xem xét tình hình làm việc, họ có chuyển đổi cơ quan hay không, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thu hồi khoản nợ.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần có sự phối hợp giữa phòng khách hàng cá nhân và phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ để tằng cường sự kiểm tra kiểm soát. Bởi vì hiện nay phòng kiểm tra kiểm soát thường chỉ kiểm tra kiểm soát thường xuyên những khoản vay có giá trị lớn như các khoản vay cho các doanh nghiệp để kinh doanh, thực hiện dự án, tái sản xuất đầu tư còn những khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ hơn (nhất là đối với những đối tượng không có tài sản đảm bảo) thì chỉ được kiểm tra một cách ngẫu nhiên, không đầy đủ và thường xuyên. Điều này chính là mối rủi ro tiềm ẩn của ngân hàng. Ngoài ra nó còn giúp ngân hàng phát hiện những cán bộ tín dụng không có đầy đủ về đạo đức nghề nghiệp gây thất thoát tài sản và uy tín của ngân hàng
Vì thế việc hoàn thiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng một cách an toàn chặt chẽ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng nói riêng và cho việc quản lý ngân hàng nói riêng. Nó còn giúp cho ngân hàng giảm thiểu và tránh được những rủi ro không đáng có.
3.2.3. ĐA DẠNG HOÁ CÁC PHƯƠNG THỨC CHO VAY TIÊU DÙNG
Hiện nay có 2 phương thức cho vay tiêu dùng là phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp và phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp. Tuy nhiên các ngân hàng chủ yếu sử dụng phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp mà phương thức cho vay tiêu dung gián tiếp chưa được chú trọng phát triển, nó se thoả mãn nhu cầu của những khách hàng muốn vay tiêu dùng nhưng lại ngại đi đến ngân hàng.
Ngân hàng có thể kết hợp với các công ty, đại lý bán hàng trong việc hỗ trợ vốn tiêu dùng cho ngân hàng. Thông qua các công ty bán hàng này, ngân hàng sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và đưa ra các thông tin về sản phẩm cho vay tiêu dùng theo phương thức này, ngân hàng sẽ tài trợ cho người tiêu dùng một phần tiền còn thiếu khi người tiêu dùng mua hàng của các công ty đại lý bán hàng. áp dụng phương thức này thì ngân hàng sẽ thu hút được một số lượng khách hàng rất lớn nữa, đây là một thị trường đầy tiềm năng nhưng chưa được các ngân hàng chú ý khai thác. Nhưng bởi vì các khoản cho vay này không trực tiếp đối với khách hàng mà thông qua các công ty đại lý bán hàng thay mặt khách hàng xem xét và đề xuất cho vay. Nhưng cũng do các công ty này và bản thân các nhân viên của công ty không có đủ trình độ chuyên môn và chỉ muốn bán thật nhiều hàng hoá dịch vụ nhằm thu lại lợi ích cho mình chứ ít nghĩ đến lợi ích cho ngân hàng nên rủi ro là không tránh khỏi. Đây cũng là một trong những khó khăn của phương thức cho vay này, do đó muốn giảm rủi ro thì ngân hàng phải lựa chọn các công ty bán hàng có uy tín để cung ứng loại hình cho vay gián tiếp này. Việc nâng cao và đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ góp phần vào việc quảng bá, khuếch trương và giới thiệu các loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay tiêu dung hơn nữa.
Ngoài ra ngân hàng nên mở rộng cho vay mua sắm đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt theo phương thúc thấu chi thông qua các điểm bán hàng. Muốn vậy ngân hàng phải liên kết với các điểm bán hàng tiêu dùng như các siêu thị, các đại lý… Và các cá nhân muốn vay vốn theo hình thưc này cũng phải có tiền gửi tại ngân hàng và khoản tiền lương hàng tháng đều được chuyển thẳng vào đó. Đó thường là những người làm việc tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và được hưởng lương theo tháng.
3.2.4. ĐẢM BẢO NGUỒN VỐN CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Vấn đề đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là bài toán khó cho các ngân hàng . Mặc dù có sự gia tăng rất nhiều về nguồn vốn huy động nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nguồn vốn để kinh doanh. Nếu không đủ vốn thì thì ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu vốn vay tiêu dùng của dân cư chứ chưa nói đến là ngân hàng còn phải bảo đảm và hoàn thiện chất lượng cho vay tiêu dùng. Chính vì thế đảm bảo nguồn vốn kinh doanh cũng là một yêu cầu quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của chi nhánh. Ngân hàng có thể tăng cường các biện pháp sau;
+ Đẩy mạnh huy động tiền gửi dân cư, tiền tiết kiệm , kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản cá nhân bằng cách: Khoán chỉ tiêu huy động vốn cho cán bộ tín dụng, mở rộng mạng lưới các bàn giao dịch, tổ chức các hình thức mới như, tiết kiệm gửi góp, bậc thang, tiết kiệm có thưởng… Ngoài ra nên chú trọng phát triển nguồn tiền gửi thanh toán thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Mở rộng các hình thức mở tài khoản cá nhân, dịch vụ chuyển tiền… Vì đây chính là loại tiền gửi mà ngân hàng phải trả chi phí thấp nhất nên việc thu hút thêm được nhiều khoản tiền gửi này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.
+ Mở rộng hơn nữa hoạt động thu đổi, giao dịch, thanh toán ngoại tệ để huy động được tiền gửi nhiều hơn nữa của các cá nhân tổ chức khác.
+ Phải duy trì được mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, tạo được sự tin tưởng và thuận tiên cho họ khi họ sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng.
+ Phải có sự linh hoạt trong chính sách lãi suất, hết sức nhạy cảm với sự biến động lãi suât trên thị trường đảm bảo chấp hành đúng chính sách lãi suất của bản thân ngân hàng nhưng vẫn phải có tính cạnh tranh với các ngân hàng khác. Nếu không có chính sách lãi suất hợp lý thì nó sẽ ảnh hưởng ngay đến nguồn vốn huy động của ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, tức thời cho khách hàng khi họ có nhu cầu, đảm bảo giữ vững uy tín, tạo được sự tin tưởng cho khách hàng.
3.2.5. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG MARKETING NGÂN HÀNG
Marketing bao gồm hàng loạt công việc: nghiên cứu, phát hiện và thoả mãn nhu cầu của khách hàng về vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng để nhằm tới mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng. Sự thành công của mỗi ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng đó sử dụng các công cụ marketing như thế nào vào chính các hoạt động của ngân hàng. Khi thâm nhập vào một thị trường mới hay đơn giản là để duy trì và mở rộng thị trường đang khai thác. Ngoài ra ngân hàng cần nghiên cứu, điều tra về tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng của các ngân hàng khác để từ đó đưa ra phương án phù hợp cho ngân hàng mình. Việc phân tích đối thủ cạnh tranh và tăng cường khả năng của bản thân ngân hàng mình là một đề tài khá mới mẻ và cần được nghiên cứu và phát triển rất nhiều.
Thực tế hiện nay tuy nhu cầu của dân cư vê tiêu dùng là rất lớn nhưng số lượng khách hàng đến với ngân hàng nhằm mục đích tiêu dùng còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng vẫn chưa được biết đến các thông tin về loại hình cho vay tiêu dùng của ngân hàng, chưa nhận thức được lợi ích của hoạt động cho vay tiêu dùng. Do đó ngân hàng phải đẩy mạnh hơn nữa công tác khuếch trương, quảng cáo, giúp người dân biết đến ngân hàng, đặc biệy la biết rõ về cho vay tiêu dùng, vì đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ.
Chính vì thế ngân hàng cần xây dựng chính sách giao tiếp – khuếch trương. Đây là những hoạt động hỗ trợ nhằm làm cho khách hàng hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc sử dụng các chính sách giao tiếp khuếch trương, vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng sẽ tạo nên hình ảnh của ngân hàng. Qua đó ngân hàng sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn nghiệp vụ cho vay tiêu dùng đến tận các nhân viên trong cơ quan, đơn vị kinh tế và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để cho người tiêu dùng hiểu rõ hơn về sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nó sẽ giúp ngân hàng đưa ra được một sản phẩm tốt nhất để thoả mãn nhu cầu của khách hàng đồng thời thu hút được các khách hàng tiềm năng. Thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, cùng với sự chính xác của nhân viên sẽ tạo nên một ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng.
Vì thế, việc tiến hành chiến lược quảng bá, tiếp thị sẽ tạo ra hiệu quả tích cực, giúp cho ngân hàng có thể mở rộng được phạm vi hoạt động của mình, mang lại nguồn thu nhập cao hơn. Chính sách khuếch trường quảng bá, không nhất thiết là một chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các chương trình khuyến mại lớn. Để tiết kiệm chi phí, đồng thời tiến hành hoạt động tiếp thị quảng bá sản phẩm đạt hiệu quả nhất thì cán bộ tín dụng nên tiếp cận trực tiếp với đối tượng vay vốn, những người thực sự có nhu cầu vay vốn. Phòng marketing ngân hàng nên là những cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình trong công việc, từng nhóm sẽ quản lý và thực hiện một nhiệm vụ riêng. Có thể trực tiếp tiếp cận các cơ quan, công ty và thông qua ban lãnh đạo, đoàn thể công đoàn để giới thiệu về loại hình cho vay tiêu dùng. Họ có thể tổ chức các buổi hội thảo tại từng doanh nghiệp, công ty có nhu cầu vay vốn để truyền đạt những thông tin về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh đó ngân hàng nên cung cấp đầy đủ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, đài phát thanh để tăng cường tuyên truyền về hoạt động cho vay tiêu dùng, nêu rõ những lợi ích mà khách hàng thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng.
Thật vậy việc sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketinh ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
3.2.6. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, toàn bộ quá trình cho vay như gặp gỡ tiếp xúc khách hàng, thẩm định, ra quyết định… không có một máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bọ tín dụng đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, sự năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Những điều kiện cần thiết mà một cán bộ tín dụng nên có là:
+ Có kiến thức, trình độ, có kỹ năng chuyên môn vững vàng, có năng lực dự đoán các vấn đề liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ.
+ Có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong quan hệ xã hội, khả năng giao tiếp tốt.
+ Có năng lực học tập, nghiên cứu, có ý thức học hỏi trau dồi kinh nghiệm, không ngừng vươn lên trong công tác. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực như:
- Thực hiện tốt chiến lược đào tạo cán bộ, xây dựng các chương trình đào tạo chính thức đối với các cán bộ này là vấn đề hết sức quan trọng. Nội dung của chương trình đào tạo chủ yếu này là đào tạo tại chỗ trong đó cán bộ tập sự sẽ được làm việc cùng với cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và nghiệp vụ giỏi trên cơ sở một kèm một. Như vậy cán bộ tập sự sẽ thu lượm được nhiều kiến thức, thông qua quan sát học hỏi. Sau khi đạt đến một trình độ nhất định, cán bộ tập sự sẽ cho phép cho vay dưới sự kiểm soát của cán bộ tín dụng cho đến khi đủ năng lực làm việc độc lập. Ngoài việc đào tạo tại chỗ, ngân hàng cũng nên mở các lớp học ngoại ngữ, vi tính cho cán bộ công nhân viên. Ngân hàng cần phát triển hơn nữa việc đào tạo cho giao dịch đổi mới công nghệ ngân hàng. Tăng cường cử cán bộ nhân viên tham dự các khoá học về nghiệp vụ ngân hàng và ngân hàng cũng nên tạo điều kiện cho các cán bộ học lên thạc sĩ và tiến sĩ.
- Nâng cao kỹ năng giao tiếp, điều tra, phân tích đánh giá cho cán bộ tín dụng là việc làm hết sức quan trọng. Đây là một kỹnăng hết sức cần thiết đối với một cán bộ tín dụng vì họ là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với cán bộ lãnh đạo phê duyệt. Chất lượng thẩm định của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của cán bộ lãnh đạo ngân hàng. Do vậy đội ngũ cán bộ này phải có khả năng thu thập và xử lý thông tin tốt, có khả năng giao tiếp để thu hút khách hàng, có hiểu biết thực tế. Họ phải khéo léo trong việc đàm phán, thương lượng với khách hàng về các điều kiện vay vốn làm sao đảm bảo lợi ích của ngân hàng nhưng vẫn thu hút được ngân hàng.
- Tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng để họ làm việc với năng suất và trách nhiệm cao từ lúc cho vay đến khi thu nợ.
- Bố trí sắp xếp và xử dụng cán bộ một cách hợp lý. Ngân hàng cần tìm hiểu về năng lực, sở trường của từng cán bộ tín dụng để đề bạt, bố trí, quản lý sử dụng cán bộ phù hợp, phát huy tốt khả năng của mỗi người nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác, ngăn ngừa rủi ro xảy ra.
- Quy định thời gian cán bộ tín dụng đi cơ sở chiếm 2/3 thời gian làm việc trong tháng để nắm bắt được tình hình khách hàng vay vốn, kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc thu lãi, thu nợ và xử lý nợ kịp thời khi có các vấn đề xảy ra có nguy cơ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Công tác tuyển dụng cán bộ tín dụng cũng là một trong những vấn đề ngân hàng đặc biệt quan tâm.Ngân hàng cần đặt ra các điều kiện và yêu cầu tối thiểu về trình độ nghiệp vụ, tổ chức thi tuyển để lựa chọn những người thực sự có năng lực vào công tác. Nếu thực hiện được tốt việc tuyển dụng này, ngân hàng hoàn toàn có thể yên tâm thực hiện các mục tiêu phát triển của mình, đồng thời nguồn nhâ lực tốt sẽ tạo lợi thế cạnh tranh của ngân hàng so với ngân hàng khác trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, ngân hàng nên tiến hành các cuộc thăm dò nội bộ về mức độ hài lòng của nhân viên ngân hàng về chế độ lương, thưởng điều kiện làm việc cũng như mục đích, định hướng của họ trong tương lai, nhằm giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có các thông tin đầy đủ và có cách nhìn nhận đúng đắn về nhân viên của mình.
Ngoài ra, ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các cuộc giao lưu, văn nghệ thể thao hay các cuộc thi nghiệp vụ trong nội bộ ngân hàng nhằm tạo cơ hội cho các nhân viên trao đổi thêm kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết lẫn nhau. Đồng thời bộ phận tín dụng và các bộ phận khác cũng cần có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ, tăng cường học hỏi giúp đỡ lẫn nhau vì mục tiêu chung của ngân hàng.
3.2.7. TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ CHO CƠ SỞ VẬT CHẤT, HIỆN ĐẠI HOÁ CÔNG NGHÊ NGÂN HÀNG
Đổi mới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là yêu cầu cấp thiết của hầu hết các ngân hàng hiện nay nếu như họ muốn tồn tại và phát triển. Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mà nó phải gắn với việc đổi mới qui trình sản xuất của ngân hàng. Thời gian trước đây thì khách hàng phải tìm đến ngân hàng nhưng hiện nay ngân hàng cần chủ động tìm đến khách hàng thì đối với mỗi doanh nghiệp thì họ có rất nhiều ngân hàng để lựa chọn. Điều quan trọng là ngân hàng phải làm sao chứng minh được tính ưu việt của mình hơn các ngân hàng khác, do đó ngân hàng phải tập trung vào những vấn đề sau:
+ Hiện đại hoá hệ thống thanh toán, bằng việc trang bị hệ thống máy vi tính hiện đại và cải tiến thủ tục thanh toán nhằm mục tiêu thu hút thêm được nhiều thành phần kinh tế mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Việc này sẽ làm cho số dư tiền gửi tăng thêm và chi phí của ngân hàng cho loại tiền gửi này cũng giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng.
+ Phát triển thêm các dịch vụ tiên tiến cung ứng cho khách hàng, với trang thiết bị máy móc hiện đại ngân hàng có thể phục vụ các nhu cầu của khách hàng như giao dịch qua điện thoại, qua mạng máy tính cá nhân… Để thu hút thêm khách hàng ngân hàng có thể mở dịch vụ thông tin cho khách hàng đóng vai trò như một nhà tư vấn cho khách hàng.
+ Ngân hàng đang định tiến hành hiện đại hoá các trang thiết bị để phục vụ cho việc thẩm định, giám sát các khoản cho vay với khách hàng. Ngân hàng đang từng bước tin học hoá các hoạt động quản lý như quản lý nhân sự, thư viện điện tử… Đầu tư vào trang thiết bị công nghệ giúp cho ngân hàng phục vụ nhu cầu của khách hàng mình nhanh chóng, tiện lợi đảm bảo tính hiệu quả cao. Điều này sẽ thu hu ts được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Họ sẽ không cảm thấy ngại và mất nhiều thời gian khi đến giao dịch với ngân hàng. Điều này góp phần không nhỏ vào việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Mặt khác nó còn là một trong những hình ảnh, tiêu chuẩn đầu tiên về ngân hàng khi khách hàng đên giao dịch. Vì tâm lý khách hàng là muốn giao dịch với những ngân hàng có trụ sở to lớn, bề thế, các trang thiết bị hiện đại. Những hình ảnh trên sẽ tạo cho khách hàng tin tưởng vào sự an toàn, thoải mái, thuận tiện khi giao dịch. Do đó việc thường xuyên phải nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị đối với ngân hàng là một tất yếu khách quan.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI SỰ QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC
Do chính nhưng lợi ích mà thu được khi cho vay tiêu dùng được hoàn thiện và mở rộng nên nhà nước cũng cần có những nỗ lực nhằm hộ trợ cho muc tiêu phát triển tín dụng tiêu dùng, khuyến khích và tạo ra những điều kiện thuận lợi để sự phát triển của loại hình cho vay này diễn ra một cách lành mạnh tốt đẹp.
+ Nhà nước cần phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. Ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý được coi là nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên. Chính việc nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế chính trị – xã hội ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích luỹ và tiêu dùng của công chúng ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về hàng hoá và tiêu dùng. Hơn nữa, việc có một môi trường ổn định cũng giúp cho các doanh nghiệp an tâm tiến hành sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu đa dạng phong phú về hàng hoá dịch vụ tiêu dùng của dân cư.
+ Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu dùng và các ngành dịch vụ phục vụ đời sống của dân cư.
+ Nhà nước cần sớm ban hành luật tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nhà nước cần chỉ thị cho cơ quan lập pháp và các ban ngành có liên quan nghiên cứu về luật tín dụng tiêu dùng. Vận dụng sáng tạo của các nước khác vào điều kiện thực tế vủa Việt Nam là một việc làm cần thiết, vì các nước đi trước luôn cho ta những bài học kinh nghiệm nhưng vận dụng thế nào cho khéo thì đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu hơn nữa.
+ Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề đó phải nằm trong chiến lược phát triển chung của quốc gia. Do vật muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngành ngân hàng thì cần có một đương lối chiến lược chỉ đạo của nhà nước. Do đó, nhà nước cần có khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học trong khối kinh tế nói chung.
+ Nhà nước nên tiếp tục xúc tiến các chương trình phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa, các chương trình hỗ trợ nông dân và các hộ gia đình có thu nhập thấp để giúp họ nâng cao, cải thiện mức thu nhập, thu hẹp dần hố sau ngăn cách giầu nghèo, tránh tình trạng có sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp xã hội.
+ Nhà nước nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc phổ biến kiến thức, thông tin về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Cụ thể, nhà nước có chỉ thị cho các cơ quan truyền hình, truyền thanh, báo chí của nhà nước quảng bá về tín dụng tiêu dùng, tạo ra các chính sách hỗ trợ, ưu tiên nhằm khuyến khích cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.
+ Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan, như là việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hạn chế các sai sót, tiêu cực trong công tác này nhằm bảo vệ quyền hạn của các ngân hàng trong vấn đề liên quan đến cầm cố, thế chấp.
3.3.2. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
+ Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp qui đối với hoạt động cho vay tiêu dùng. Để hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển và các ngân hàng thương mại dễ dàng trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể trong đó quy định về các loại hình sản phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng, đồng thời cũng ban hành các văn bản hỗ trợ khuyến khích đối với cho vay tiêu dùng, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và đầy đủ để bảo vệ quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Đồng thời tạo sự chủ động hơn nữa của ngân hàng trong phát triển cho vay tiêu dùng, giải quyết nợ quá hạn để tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
+ Ngân hàng nhà nước nên thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng. Trong thời gian tới, ngân hàng nên cùng với ngân hàng thương mại khác cùng nhau phối hợp xây dựng và tham gia vào hệ thống nối mạng thông tin liên ngân hàng. Hệ thống này sẽ cho phép các ngân hàng có khả năng truy cập các thông tin kinh tế xã hội liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, các thông tin về khách hàng một cách nhanh chóng nhất.
+ Hoạch định về chiến lược chung về cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Vì ngân hàng thương mại đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra sự thống nhất và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong cả nước. Hơn nữa, nhằm mục đích chung là hoạt động đồng bộ giữa các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Việc này cũng đòi hỏi phải tăng cường sự hợp tác và trao đổi giữa các ngân hàng thương mại.
3.3.3. KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CẤP CÓ LIÊN QUAN
Để hoạt động cho vay tiêu dùng đạt hiệu quả cao thì rất cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng tại địa phương như UBND phường, xã, các cơ quan quản lý nơi có khách hàng vay vốn… Những cơ quan này phải hợp tác, cung cấp thông tin đầy đủ chính xác thì ngân hàng mới có thể đưa ra được quyết định tín dụng đúng đắn.
Các cơ quan chức năng của nhà nước cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan như việc chứng nhận quyền sở hữu tài sản làm bảo đảm tín dụng hay quá trình xử lý các tài sản này để thu hồi nợ… Các cơ quan này cần hạn chế các sai sót tiêu cực gây bất lợi cho ngân hàng. Trong thực tế vẫn có một số cán bộ làm ăn quan liêu, cố tình gây trở ngại khó khăn khi khách hàng phải làm chứng nhận các giấy tờ để làm thủ tục vay vốn tại ngân hàng. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong việc xử lý tài sản thế chấp, cụ thể là giữa toà án với cơ quan thi hành án, để việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ được diễn ra thuận lợi. Nhà nước nên xoá bỏ các thủ tục rườm rà, không cần thiết để tránh tình trạng nhiều qui định chặt chẽ quá mức cần thiết trong khi một số qui định lại quá lỏng lẻo tạo khe hở cho một số cá nhân lợi dụng.
3.3.4. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
+ Nâng cao mức cho vay tối đa và kéo dài thời hạn cho vay với cán bộ công nhân viên. Trong thực tế, mức cho vay tối đa hiện nay còn nhỏ và chưa phù hợp vì: Nó sẽ giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình với ngân hàng đối thủ khi họ có mức cho vay tối đa lớn hơn của minh. Với khoản cho vay ít thì khó có thể phục vụ thoả mãn được các nhu cầu tiêu dùng lớn như mua sắm nhà, đất, ôtô…
+ Giảm bớt những thủ tục giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ vay. Qua quá trình triển khai thực hiện công tác cho vay tiêu dùng, hồ sơ vay vốn còn có quá nhiều giấy tờ mang nặng tính hình thức, không cần thiết.
+ Cho phép triển khai thực hiện cho vay trả góp đối với cán bộ công nhân viên và hộ có thu nhập thấp để mua nhà ở, đất đai với thời hạn dài và sẽ dùng luôn tài sản đó làm tài sản đảm bảo.
KẾT LUẬN
Ta có thể thấy ở bất cứ một quốc gia nào, kể cả những quốc gia có nền kinh tế đã phát triển và các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển thì nhiệm vụ và những hoạt động của ngân hàng luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trong không thể thiếu trong công cuộc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của một nước. Nó được coi là trung gian tài chính bậc nhất trong nền kinh tế, và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngành nghề khác. Vì thế việc cải tổ và thường xuyên nâng cao hiệu quả của ngân hàng là nhiệm vụ không chỉ đối với hệ thống ngân hàng Công Thương Viêt Nam mà nó còn là nhiệm vụ của tất cả các NHTM khác. Hiện nay hầu hết doanh thu của ngân hàng đều bắt nguồn từ các hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng ngân hàng tuy là một hoạt động chứa đựng sự rủi ro cao nhưng trước thực trạng tín dụng đang đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng như hiện nay thì việc quan tâm để phát triển tín dụng cũng là một tất yếu.
Cho nên ngoài việc phải hoàn thiện nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ cũ thì ngân hàng cũng nên mở rộng phát triển các sản phẩm loại hình dịch vụ mới, một trong những số đó là hoạt động cho vay tiêu dùng. Chính vì nó là thì trường mới mẻ và đầy tiềm năng nên nó đòi hỏi cần nghiên cứu một cách sâu sắc và kỹ càng dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu và thực tập tại NHCT Ba Đình em đã được các cô chú cán bộ giảng dạy giúp đỡ rất nhiều để hoàn thành chuyên đề, và phần nào phân tích đánh giá được thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh. Nhìn chung trong những năm gần đây cho vay tiêu dùng luôn tăng trưởng đều đặn, với tốc độ khá mà chất lượng tín dụng lại rất tốt hầu như không có rủi ro. Nhưng tổng doanh số cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là tình trạng chung của hầu hết các ngân hàng hiện nay. Cùng với sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn của mình em mong rằng bài viết sẽ có tác dụng trong việc thúc đẩy sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng hơn nữa của chi nhánh.
Do hạn chế về nhiều mặt: thời gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo và tiếp xúc thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHCT Ba Đình đóng góp ý kiến và bổ sung kiến thức để bài viêt được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Vũ Duy Hào và các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHCT Ba Đình đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
Giáo trình tín dụng ngân hàng - Học viện ngân hàng.
Giáo trình Marketing ngân hàng - Học viện ngân hàng.
Báo cáo thường niên Ngân hàng Công Thương Ba Đình 2003,2004,2005
Ngân hàng thương mại – Edward W.Reed and Edward K.Gill.
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, David Cox, NXB Chính trị Quốc gia.
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – F.S.Mishkin.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 2003,2004,2005.
Tạp chí ngân hàng năm 2003,2004,2005.
Thời báo ngân hàng.
Sổ tay tín dụng NHCT Ba Đình
Công văn số 34/CV – NHNN về việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với CBCNV và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp và các khoản thu nhập khác.
Quyết định số 049/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 31/5/2002 của NHCT Việt Nam.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và của tổ chức tín dụng.
Thông tin lấy từ các bài báo điện tử trên internet.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH112.docx