Với những nghiên cứu rất cơ bản trong phạm vị một chuyên đề tốt nghiệp, bài viết này đã phần nào làm rõ các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công và cũng đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công cùng các cơ quan ban ngành các cấp có liên quan. Qua những nghiên cứu trên cho thấy rằng tình hình cho vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công đang ngày càng được cải thiện song vẫn cần phải có sự quan tâm, phối hợp của các cơ quan ban ngành các cấp và bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hoạt động cho vay DNV&N tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung để có thể đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập kinh tế.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu trên máy tính có khớp đúng với hồ sơ phát tiền vay hay không; cập nhật số liệu vào bàng Theo dõi thực hiện hợp đồng tín dụng; tập hợp các chứng từ, hoá đơn, bản sao sổ phụ, phiếu chuyển khoản kế toán và các giấy tờ liên quan khác để lưu giữ trong hồ sơ vay vốn.
Quy trình kiểm tra sử dụng vốn vay
Kết quả kiểm tra khẳng định được ít nhất những nội dung sau: Khách hàng sử dụng vốn vay có mục đích không, giá trị tài sản hình thành bằng vốn vay không ít hơn giá trị đã phát tiền vay, phù hợp với cam kết trên hợp đồng tín dụng. Quy trình thực hiện cho sau:
Thứ nhất, xây dựng kế hoặch kiểm tra sử dụng vốn vay
Căn cứ vào đặc thù cho vay trên địa bàn, trưởng/phó phòng tín dụng chỉ đạo xây dựng kế hoặch kiểm tra sử dụng vốn vay một số loại cho vay cơ bản, hay gặp. Riêng đối với những khoản vay thực hiện dự án đầu tư, các khoản vay ngắn hạn có đặc điểm riêng biệt, các khách hàng vay có phương án sản xuất kinh doanh đặc thù, CBTD cần xây dựng kế hoặch kiểm tra sử dụng vốn vay riêng theo từng Hợp đồng tín dụng, chậm nhất là sau khi phát món vay đầu tiên. Sau đó CBTD trình kế hoặch cho cấp trên phê duyệt.
Thứ hai, Thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay
CBTD chủ động thực hiện bản kế hoặch kiểm tra sử dụng vốn vay. Trường hợp phát hiện khoản vay có dấu hiệu rủi ro, CBTD cần chủ động báo cáo trưởng/phó phòng tín dụng tổ chức kiểm tra vốn vay đột xuất.
Thứ ba, lập biên bản hoặc báo cáo kết quả kiểm tra sử dụng vốn vay
Sau mỗi lần kiểm tra sử dụng vốn vay, CBTD cần lập biên bản hoặc báo cáo kết quả kiểm tra sử dụng vốn vay trình Trưởng/phó phòng tín dụng có ý kiến. Tại Biên bản/Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, CBTD phải có ý kiến rõ ràng về việc: Khách hàng sử dụng vốn vay có đúng mục đích như đã thoả thuận tại Hợp đồng tín dụng không, giá trị tài sản hình thành từ vốn vay có cân đối với số tiền đã giải ngân không, tình hình tài sản đảm bảo, các ý kiến đề xuất kiến nghị.
Quy trình thu hồi nợ vay
Thứ nhất, đôn đốc thu hồi nợ gốc và nợ lãi khi đến hạn
Khi gần đến hạn trả nợ, CBTD gửi khách hàng thông báo về thời hạn trả nợ, tổng số nợ khách hàng phải trả (nợ gốc và nợ lãi), ngày đến hạn trả trình trưởng phó phòng kí duyệt và gửi 01 bản sao thông báo về thời hạn trả nợ cho bộ phận kế toán để cùng theo dõi, phối hợp thu nợ đúng hạn. Nếu khách hàng có dấu hiệu trì hoãn trả nợ thì phải có phương án xử lý kịp thời. Trường hợp khách hàng không trả nợ đúng hạn vì lý do khách quan, khách ahngf có văn bản đề nghị điều chỉnh kì hạn nợ hoặc gia hạn nợ, CBTD xem xét thẩm định nhu cầu thực tế và có báo cáo trìnẳơtngr phó phòng tín dụng.
Thứ hai, thực hiện thu nợ
Đến hạn trả nợ, CBTD phối hợp cùng bộ phận kế toán, bộ phận quỹ để thực hiện thu nợ. CBTD thu thập các chứng từ chứng minh việc trả nợ của khách hàng, lưu hồ sơ đồng thời thực hiện việc ghi chép trên phiếu Theo dõi thực hiện Hợp đồng đính kèm Hợp đồng tín dụng.
Thứ ba, Chuyển nợ quá hạn
Quá ngày đến hạn trả nợ (nợ gốc và nợ lãi) mà khách hàng không trả được hoặc trả không đủ, CBTD phối hợp cùng bộ phận kế toán thực hiện việc chuyển nợ quá hạn. Đồng thời với việc chuyển nợ quá hạn, CBTD thảo công văn gửi khách hàng Thông báo về việc chuyển nợ quá hạn và trình trưởng/phó phòng tín dụng kí duyệt. Ngoài các thông tin liên quan đến việc chuyển nợ quá hạn, Thông báo chuyển nợ quá hạn cần nêu rõ các biện pháp tiếp theo của ngân hàng nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn.
Thứ tư, xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ
Trường hợp khách hàng không trả được nợ vay đúng hạn, đối với các khoản vay có tài sản bảo đảm, CBTD có thể xem xét và đề xuất xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ.
2.2.3. Thực trạng hoạt động cho vay DNV&N tại chi nhánh NHNTTC
* Về dư nợ cho vay các DNV&N
Bảng 3: Dư nợ cho vay các DNV&N tại chi nhánh NHNTTC
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
Tổng dư nợ
658.096
100
691.901
100
721.951
100
DN lớn
552.801
84
534.148
77.2
537.269
74.42
DNV&N
72.391
11
121.774
17.6
145.336
20.13
Cho vay khác
32.904
5
35.979
5.2
39.346
5.45
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Qua bảng số liệu và bảng trên ta thấy:
Dư nợ cho vay các DNV&N cũng như tổng dư nợ cho vay qua các năm đều tăng. Cụ thể cho vay DNV&N năm 2004 là 72.391 tỷ đồng tương đương 11% tổng dư nợ cho vay của chi nhánh. Năm 2005 dư nợ cho vay DNV&N của chi nhánh tăng 49.383 tỷ đồng so với năm 2004, chiếm 17.6% tổng dư nợ. Cho đến năm 2006, sư nợ cho vay đối với các DNV&N đã là 145.336 tỷ đồng chiếm 20.13% tổng dư nợ cho vay của chi nhánh. Như vậy dư nợ cho vay đối với các DNV&N không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng về tỷ trọng so với tổng dư nợ cho vay của toàn chi nhánh. Việc tăng số lượng cũng như tỷ trọng cho vay DNV&N đã phần nào thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu cho vay, giảm tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước (doanh nghiệp lớn), mở rộng cho vay thành phần doanh nghiệp năng động là DNV&N. Tuy tỷ trọng cho vay DNV&N so với các doanh nghiệp lớn còn nhỏ hơn nhưng với một tỷ trong như trên thì đối với một chi nhánh cấp 2 như vậy là một kết quả không nhỏ bé.
* Về cơ cấu dư nợ cho vay các DNV&N
Bảng 4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn tại chi nhánh NHNTTC
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
Dư nợ cho vay DNV&N
72.391
100
121.774
100
145.336
100
Cho vay ngắn hạn DNV&N
60.894
83.1
100.951
82.9
118.158
81.3
Cho vay trung và dài hạn DNV&N
11.497
15.9
20.823
17.1
27.178
18.7
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy trên ta thấy:
Dư nợ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các thành phần kinh tế cũng như đối với các DNV&N qua các năm đều tăng. Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2005 tăng gần 60% so với năm 2004 và chỉ bằng 85.43% năm 2006. Còn dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2005 tăng 81% so với năm 2004 và bằng 76.62% năm 2006. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay ngắn hạn có xu hướng giảm trong khi tỷ trọng trung và dài hạn lại tăng lên theo từng năm. Cụ thể tỷ lệ cho vay ngắn hạn năm 2006 giảm từ 83.1% năm 2004 xuống còn 81.3%, trong khi tỷ lệ cho vay trung và dài hạn năm 2006 tăng từ 15.9% năm 2004 lên 18.7%.
Như vậy với sự tăng lên về dư nợ cho vay trung và dài hạn cả về số lượng lẫn tỷ trọng không chi đối với toàn bộ khách hàng mà còn đối với các DNV&N. Đây là tín hiệu đáng mừng cho DNV&N cũng như đối với nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu mua sắm tài sản cố định, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của các DNV&N bằng vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên phần trăm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn đối với các DNV&N của chi nhánh NHNTTC vẫn còn chưa cao.
Bảng 5 : Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế tại NHNTTC
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Dư nợ cho vay DNV&N
72.391
100
121.774
100
145.336
100
Cho vay DNV&N quốc doanh
52.845
73
77.935
64
85.745
59
Cho vay DNV&N ngoài quốc doanh
19.546
27
43.839
36
59.588
41
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy
Dư nợ cho vay của các thành phần kinh tế trong DNV&N đều có xu hướng tăng qua các năm. Cụ thể dư nợ cho vay các DNV&N quốc doanh tăng từ 52.845 tỷ đồng năm 2004 lên đến 85.745 tỷ đồng năm 2006 , dư nợ cho vay các DNV&N ngoài quốc doanh năm 2005 là 43.839 tăng 124.28% so với năm 2004 và bằng 73.57% năm 2006. Tuy nhiên qua 3 năm tỷ trọng cho vay các DNV&N quốc doanh có xu hướng giảm giảm từ 73% năm 2004 xuống còn 59% năm 2006 trong khi tỷ trọng cho vay các DNV&N ngoài quốc doanh có xu hướng tăng cao từ 27% năm 2004 lên đến 41% năm 2006.. Nguyên nhân là do trước đây các ngân hàng luôn ưa thích đáp ứng nhu cầu cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là đối với các DNV&N ngoài quốc doanh thì độ ưa thích càng thấp hơn bởi các ngân hàng luôn cảm thấy không có độ an toàn cao khi cho vay đối với khu vực này. Nhưng thời gian gần đây, cùng với việc thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp thì các ngân hàng đã có phần đối xử bình đẳng hơn đối với hai khu vực doanh nghiệp này.
* Về tình hình nợ quá hạn
Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHNTTC
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tổng dư nợ cho vay
Nợ quá hạn
658.096
6.647
100
1.01
691.901
8.372
100
1.21
721.951
7.075
100
0.98
Cho vay DNV&N
Nợ quá hạn
72.391
0.311
100
0.43
121.774
0.816
100
0.67
145.336
0.538
100
0.37
Tỷ lệ NQH cho vay DNV&N trong tổng NQH
4.68
9.747
7.6
Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy:
Trong thời gian qua chi nhánh NHNTTC đã cố gắng nhiều trong việc kiểm soát NQH. Bằng chứng là NQH chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trên tổng dư nợ: năm 2004 chiếm 1.01%, năm 2005 chiếm 1.21% và đến năm 2006 thì đã giảm còn 0.98%. Về số tương đối thì tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh NHNTTC là những con số báo hiệu tốt trong hoạt động cho vay của chi nhánh, còn về số tuyệt đối, so với tổng dư nợ cho vay thì con số này dù chưa phải quá lớn nhưng cũng đang được chi nhánh quan tâm và giữ ổn định. Chi nhánh NHNT Thành Công luôn cố gắng có những biện pháp kịp thời để giảm tỷ lệ NQH xuống trong những năm tiếp theo.
Riêng đối với những DNV&N, nợ quá hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay của DNV&N. Năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn của cho vay DNV&N chỉ là 0.43%, năm 2005 con số này là 0.67% và đến năm 2006 thì giảm xuống còn 0.37%. Tỷ lệ này nhỏ thể hiện tình hình kinh doanh của các DNV&N là rất tốt. Nguyên nhân phần lớn là do họ không được Nhà nước hỗ trợ nhiều, họ nằm trong khu vực phải tự cung tự cấp, chịu mọi hậu quả trên phần tài sản của mình nếu làm ăn thua lỗ. Do đó các doanh nghiệp này luôn cố gắng tìm kiếm thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh doanh cao, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt khi cho vay của ngân hàng.
Qua biểu đồ trên càng thấy rõ hơn về mối tương quan giữa tỷ lệ NQH của DNV&N đối với tổng NQH. Tỷ lệ NQH của DNV&N trong tổng NQH qua các năm đều là những con số khá nhỏ. Năm 2006, NQH của DNV&N là 0.538 tỷ đồng chiếm 0.37% dư nợ cho vay DNV&N và chiếm 7.6% tổng nợ quá hạn. Tỷ lệ NQH qua từng năm giảm nói lên các DNV&N ngày càng làm ăn có hiệu quả và thể hiện là khu vực khách hàng đáng được ngân hàng quan tâm.
2.2.4. Đánh giá hoạt động cho vay DNV&N của chi nhánh NHNTTC
2.2.4.1.Những mặt đạt được
Qua những số liệu thực tế và những phân tích cơ bản về tình hình hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công đối với DNV&N trong 3 năm gần đây (2004-2006), ta có thể thấy chi nhánh đã đạt được những kết quả như sau:
Đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu hội nhập của nền kinh tế, sự canh tranh gay gắt trong việc hình thành nên hàng loạt các ngân hàng, chi nhánh NHNT Thành Công đã đổi mới hoạt động trong nhiều mặt. Hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, chính vì vậy nên chi nhánh luôn quan tâm và có những chiến lược mở rộng thị phần cho vay dưới sự định hướng của Nhà nước, sự chỉ đạo của NHNT Việt Nam, chi nhánh NHNT Hà Nội. Bằng việc duy trì các khách hàng vốn có quan hệ lâu dài với ngân hàng, các tổng công ty, các DNV&N lớn thì chi nhánh NHNTTC cũng vươn tầm hoạt động tới các DNV&N.
Qua số liệu ở trên cho thấy quy mô cho vay qua các năm của chi nhánh đối với các DNV&N ngày càng tăng cả về số lượng lẫn tỷ trọng cho vay. Chi nhánh cũng đã có những sự thay đổi trong cơ chế cho vay với DNV&N: mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay ngoài quốc doanh, đặc biệt là cho vay DNV&N ngoài quốc doanh (năm 2006, tỷ trọng dư nợ cho vay ngoài quốc doanh là 41% gần twong đương với dư nợ cho vay DNV&N quốc doanh). Qua sự phân tích, theo dõi chặt chẽ của CBTD ngân hàng, sự quản lý của các cấp lãnh đạo, chi nhánh luôn tìm ra được những đối tượng DNV&N thoả mãn yêu cầu vay vốn dù đó là nhu cầu vay trung và dài hạn hoặc là DNV&N ngoài quốc doanh, không có sự phân biệt như trước nữa. Việc làm này đã góp phần váo sự phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế nói chung và của DNV&N nói riêng.
Cũng từ việc tăng cường công tác thẩm định và kiểm tra, tỷ lệ nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của chi nhánh là chi là 0.98% năm 2006, riêng đối với DNV&N tỷ lệ này chi là 0.37%. Đây là kết quả tốt trong hoạt động cho vay các DNV&N của chi nhánh NHNTTC.
2.2.4.2.Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của nó
Ngoài những kết quả đạt được kể trên, hoạt động cho vay DNV&N của chi nhánh còn tồn tại những hạn chế sau:
Mặc dù quy mô cho vay các DNV&N đang ngày càng được mở rộng và tăng lên qua các năm nhưng tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N vẫn chưa lớn trong tỷ trọng dư nợ cho vay của chi nhánh. Con số này cao nhất là 20.3% năm 2006.
Sự tương quan giữa cho vay ngắn hạn và trung và dài hạn nhưng nhìn chung vẫn chưa cân xứng lắm. Cụ thể tỷ lệ cho vay trung và dài hạn toàn chi nhánh năm cao nhất cũng chỉ đạt 21% còn đối với DNV&N thì con số là chỉ là 18.7% so với dư nợ cho vay các DNV&N. Điều này gây bất lợi cho các DNV&N bởi họ đang thiếu vốn trung và dài hạn trầm trọng để đổi mới công nghệ và mở rông sản xuất kinh doanh.
Tại chi nhánh NHNT Thành Công, hình thức cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh chưa phong phú, hiện chỉ áp dụng chủ yếu hai phương thức cho vay đó là phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Mặc dù đây là phương thức cho vay gây ít rủi ro cho ngân hàng nhưng lại gây phiền toái cho khách hàng về vấn đề thủ tục.
Ngoài ra, nguồn vốn dành cho vay đối với các DNV&N chưa có quỹ riêng đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh của chi nhánh NHNT Thành Công còn hạn chế trong khi nhu cầu đầu tư để phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNV&N nói riêng là rất lớn. Điều này gây ra sự mất cân bằng trong cung ứng vốn cho các DNV&N.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó là:
Mặc dù đã có những thay đổi nhận thức trong vấn đề DNV&N nhưng chi nhánh vẫn có tâm lý thận trọng khi các DNV&N đến trình hồ sơ vay vốn bởi trước đây cũng có những trường hợp doanh nghiệp loại này cũng đã gây cho ngân hàng những tổn thất. Bên cạnh đó, ngân hàng luôn đặt mục tiêu an toàn lên hàng đầu, coi trọng chất lượng hơn là số lượng, vì vậy tâm lý giữ mối quan hệ với một lượng nhỏ các doanh nghiệp lớn thay vì số lượng lớn các DNV&N. Ngoài ra, ngân hàng cũng đắn đo khi cho vay các DNV&N vì DNV&N thường vay vốn số lượng nhỏ, nhu cầu phát sinh lại thường xuyên trong khi chi phí giao dịch cho một món vay vẫn không giảm. Cho dù cho vay DNV&N là biện pháp đa dạng hoá khách hàng, phòng ngừa rủi ro nhưng đây vẫn chỉ là phương hướng.
Tại chi nhánh NHNT Thành Công chưa quan tâm nhiều đến khách hàng DNV&N biểu hiện là chưa có một phòng ban riêng cho khách hàng DNV&N. Chi nhánh cũng chưa có một quy trình cho vay riêng đối với DNV&N gây ra sự phức tạp, rắc rối và mất thời gian cho cả phía ngân hàng và cả phía doanh nghiệp. Trong quá trình giải ngân, mỗi một lần nhận tiền, khách hàng lại phải lập một giấy nhận nợ. Việc làm này có vẻ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng nhưng trên thực tế mất thời gian và gây ra tâm lý không tốt, sự phiền phức cho khách hàng.
Chi nhánh chưa có chính sách lãi suất riêng đối với cho vay các DNV&N, nhiều khi các DNV&N phải vay với lãi suất cao hơn bình thường vì có mức độ rủi ro cao hơn, tạo ra mức giá cả đắt cho DNV&N khiến họ không muốn vay ngân hàng.
Ngân hàng chưa có những biện pháp giới thiệu, tiếp cận với khách hàng DNV&N, hướng dẫn họ về thủ tục, quy trình cho vay. Nhiều DNV&N luôn nghĩ rằng vay vốn ngân hàng phải cần rất nhiều thủ tục, mất thời gian và chi phí tốn kém, vì vậy họ rất ngần ngại khi đưa ra quyết định đi vay ngân hàng
Về cán bộ tín dụng: Vẫn còn thiếu cán bộ cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đặc thù số lượng khách hàng DNV&N đông, qui mô nhỏ, việc bố trí đủ cán bộ phục vụ nhóm khách hàng này là một khó khăn chung của chi nhánh NHNT Thành Công, đồng thời chi nhánh cũng chưa có một bộ phận chuyên trách về cho vay DNV&N, thiếu một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tài trợ cho DNV&N
Khi cho vay với các DNV&N, ngân hàng luôn yêu cầu có tài sản bảo đảm thay vì các dự án khả thi và đây cũng chính là khó khăn lớn nhất của các DNV&N bởi tài sản của họ thường là tài sản đi thuê, hoặc thường không có sự phân biệt rạch ròi giữa tài sản thuộc sở hữu của cá nhân chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp nên gây khó khăn cho việc nhận TSBĐ của ngân hàng.
Nhìn chung các DNV&N chưa gây uy tín được với ngân hàng, luôn là khu vực gây cảm giác mạo hiểm, rủi ro lớn làm cho ngân hàng không dám cho vay.
Ngoài ra, việc lập các báo cáo tài chính đúng theo chuẩn mực quốc gia, chế độ kiểm toán, đúng theo yêu cầu của ngân hàng chưa được các DNV&N quan tâm gây khó khăn trong việc quản lý, giám sát của ngân hàng. Hơn nữa, các giao dịch của DNV&N nhất là các hộ kinh doanh, các cơ sở sản xuất thường theo phương thức mua bán trao tay không có hợp đồng kinh tế, một số trường hợp thậm chí không có hoá đơn, thanh toán bằng tiền mặt nên ngân hàng rất khó đánh giá doanh số hoạt động thực tế cũng như xác minh nguồn trả nợ. Thêm váo đó, các DNV&N chưa có khả năng lập dự án khả thi hoàn chỉnh thuyết phục được ngân hàng. Mặc dù nhiều khi các DNV&N rỏ ràng là có những ý tưởng kinh doanh khả thi nhưng lại không thể lập thành một dự án hoàn chỉnh để vay vốn ngân hàng nên kế hoặch vẫn bị bỏ dở.
Phần lớn đội ngũ lãnh đạo DNV&N chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu quản lý điều hành dựa vào kinh nghiệm, bộ máy quản lý tài chính thường hay thay đổi, vì vậy khó khăn trong phối hợp với ngân hàng.
Công tác quản lý của Nhà nước đối với các DNV&N còn chưa chặt chẽ, hệ thống văn bản pháp luật đối với các DNV&N chưa cụ thể gây ra tình trạng phát triển tràn lan, không hiệu quả của các DNV&N. Hơn nữa, hệ thống thông tin của các cơ quan Nhà nước cung cấp cho ngân hàng còn quá ít. Ngoài ra, chính sách của Nhà nước đối với một số ngành không ổn định (lắp ráp xe máy, ô tô, chế biến gỗ…) gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn.
Bên cạnh đó, hệ thống thông tin của chi nhánh NHNT Thành Công (bao gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, vẫn còn một số vướng mắc trong việc cung ứng thông tin một cách thống nhất và trong việc quản lý thông tin…
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ Ở CHI NHÁNH NHNT THÀNH CÔNG
3.1.Định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công
3.1.1.Định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Hà Nội
Trước ngày 1/1/2007 chi nhánh NHNT Thành Công vẫn là chi nhánh cấp 2 phụ thuộc vào chi nhánh NHNT Hà Nội. Cho dù đến nay, chi nhánh NHNT Thành Công đã tách ra độc lập với chi nhánh NHNT Hà Nội nhưng về cơ bản chi nhánh NHNT Hà Nội vẫn luôn là đơn vị hướng dẫn chi nhánh trong thời gian đầu chuyển thành chi nhánh cấp 1. Chính vì vậy, định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công ít nhiều chịu ảnh hưởng của định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Hà Nội. Trong năm 2007, chi nhánh NHNT Hà Nội cùng các chi nhánh trên địa bàn nỗ lực phấn đấu thực hiện định hướng chung của NHNT Việt Nam là:
Tập trung cao độ mọi nguồn lực để thực hiện thành công chương trình Cổ phần hoá: phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trường chứng khoán, quan tâm tới việc chọn đối tác chiến lược để tạo nền tảng thực hiện mục tiêu chiến lược.
Xây dựng mô hình tập đoàn theo sự chỉ đạo của Chính phủ, xây dựng chiến lược phát triển cho NHNT đến năm 2015
Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ cấu tổ chức và áp dụng mô thức quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế; nâng cao một bước quản trị hệ thống, hoàn thiện công tác quản trị hệ thống, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Thay đổi, điều chỉnh một cách cơ bản cơ cấu đối tượng khách hàng. Có bước đi quan trọng trong việc thay đổi cơ cấu khách hàng theo hướng hạn chế tập trung hoá: phát triển khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng bán lẻ thông qua việc cơ cấu lại tổ chức, phát triển mạng lưới
Đa dạng hoá các sản phẩm huy động; tăng cường và đẩy mạnh các giải pháp nhằm triển khai ứng dụng một cách có hiệu quả các sản phẩm mới, đặc biệt các sản phẩm đi kèm khuyến mãi. Đổi mới công tác khách hàng, trước hết là phong các giao tiếp.
Tăng trưởng tín dụng hợp lý, song song với tăng trưởng nguồn vốn. Tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng khách hàng.
Tập trung tăng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo đúng quy chế tín dụng của ngân hàng Nhà nước và giảm tỷ lệ nợ quá hạn, không để phát sinh thêm các khoản nợ khó đòi
Tăng nhanh các sản phẩm dịch vụ, đổi mới công nghệ, tổ chức cán bộ hợp lý và nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng
Một số chỉ tiêu hoạt động
Kế hoặch xác định chung cho các chi nhánh NHNT trên địa bàn Hà Nội năm 2007:
Tổng nguồn vốn huy động đạt 12700 tỷ đồng, tăng 22.7% so với năm 2006.
Huy động ngoại tệ chiếm 50-53% nguồn vốn huy động từ khách hàng
Dư nợ tín dụng đến hết năm 2007 đạt 4890 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2006
Khống chế nợ quá hạn dưới 2.5% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đạt 32% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay có TSBĐ lên 40%
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công
Bám sát định hướng của ngành, mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố Hà Nội và sự chỉ đạo của NHNT Việt Nam, chi nhánh NHNT Thành Công quyết tâm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản trị điều hành, thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ được giao, khắc phục những tồn tại thiếu sót trong năm qua. Cụ thể, chi nhánh đã đề ra những chính sách chiến lược sau:
Thực hiện đa dạng hoá các hoạt động, sản phẩm dịch vụ ngân hàng, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
Tăng trưởng tín dụng luôn đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tín dụng, không mở rộng tín dụng một cách tràn lan mà không tính đến nâng cao chất lượng tín dụng. Tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo nhu cầu và lợi ích khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng đồng thời tuân theo qui định của pháp luật.
Phát triển tín dụng nên tập trung vào các doanh nghiệp, khách hàng làm ăn có hiệu quả, các khách hàng truyền thống, có uy tín. Bên cạnh đó phải quan tâm phát triển khách hàng mới
Trên cơ sở về quan điểm phát triển tín dụng như vậy, chi nhánh NHNT Thành Công đã đề ra các chương trình hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới là:
Tổ chức phân loại khách hàng và có kế hoặch chăm sóc khách hàng một cách thường xuyên. Có kế hoặch phát triển khách hàng với các ưu đãi kèm theo để tạo khả năng hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng. Bên cạnh đó luôn giữ vững ổn định khách hàng cũ.
Tăng cường phát triển tối đa nguồn vốn huy động VNĐ và ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế và dân cư bằng cách đa dạng hoá các loại hình tiết kiệm, mở rộng mạng lưới huy động vốn
Tiếp tục đổi mới cơ cấu tín dụng, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn , cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Mở rộng tín dụng đối với các khu vực kinh tế vừa và nhỏ với lãi suất phù hợp. Tập trung vào các ngành như: điện tử, chế biến, vận tải… Phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách hàng
Mở rộng và tổ chức các dịch vụ nhằm hỗ trợ phát triển hoạt động tín dụng như thanh toán chuyển tiền điện tử nhanh, thu chi tiền mặt và trả lương tại đơn vị.
Tăng cường đổi mới công nghệ, có kế hoặch ra đời các thanh toán nối mạng vi tính đến các doanh nghiệp tạo thuận lợi và giảm thời gian đi lại với các doanh nghiệp
Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay, thực hiện nghiêm túc các qui trình thủ tục cấp tín dụng theo nội dung qui định của NHNT Việt Nam
Củng cố đội ngũ cán bộ tín dụng có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định, xét và quyết định cho vay; kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, chủ động thu hồi nợ đầy đủ gốc lãi theo từng kì hạn đúng khế ước hợp đồng vay vốn, phấn đấu không để phát sinh nợ quá hạn mới.
Có hoạt động hỗ trợ khách hàng như tư vấn, cung cấp thông tun chính xác để khách hàng có thể nắm bắt được xu thế phát triển, giải quyết được các khó khăn
Đẩy mạnh hoạt động đoàn thể, động viên cán bộ nhân viên đóng góp các ý kiến và trực tiếp tham gia tìm kiếm khách hàng để đảm bảo chỉ tiêu kinh doanh và thu nhập ổn định
Một số chỉ tiêu mà chi nhánh NHNT Thành Công đề ra trong năm 2007:
Chi nhánh NHNT Thành Công đặt ra các chỉ tiêu dựa trên các chỉ tiêu của chi nhánh NHNT Hà Nội nhưng cũng quan tâm đến đặc điểm riêng của chi nhánh :
Tổng nguồn vốn huy động đạt 2978.882 tăng 32% so với năm 2006
Huy động ngoại tệ chiếm 55% nguồn vốn huy động từ khách hàng
Dư nợ tín dụng đến hết năm 2007 đạt 781.873 tỷ đồng tăng 8.3% so với năm 2006
Khống chế nợ quá hạn ở mức 0.69% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đạt 32% tổng dư nợ
3.2. Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHNT Thành Công
3.2.1. Thống nhất quan điểm, nhận thức về phát triển khách hàng DNV&N
Việc thống nhất quan điểm, nhận thức khách hàng từ trung ương đến chi nhánh, từ cấp lãnh đạo tới cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó cụ thể hoá mục tiêu phát triển DNV&N vào chương trình hành động của chi nhánh. trợ giúp kịp thời cho các DNV&N.
Thống nhất về quan điểm nhận thức ở đây có nghĩa là chi nhánh cần mở rộng, khuyến khích cho vay DNV&N, loại bỏ tâm lý lo ngại rủi ro đối với cho vay DNV&N. Thay vào đó, ngân hàng cần phải đi thẩm định xem xét về tình hình làm ăn của khách hàng, hoạt động ra sao, có yêu cầu về vốn như thế nào, tình hình tài chính ra sao…để có những quyết định cho vay phù hợp đáp ứng yêu cầu của khách hàng vừa tránh được rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra chi nhánh cần phải có những trợ giúp trong tâm lý e ngại khi đến vay vốn ngân hàng của các DNV&N bằng việc giải thích và hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp về quy trình thủ tuc vay vốn, giúp doanh nghiệp khắc phục những khó khăn của mình.
3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá hoạt động của chi nhánh NHNT Thành Công với DNV&N
Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2007 và những năm sắp tới. Cụ thể là xây dựng triển khai một chương trình tuyên truyền, quảng bá bài bản, thống nhất trong toàn bộ hệ thống trong toàn bộ hệ thống NHNT nói chung và chi nhánh NHNT Thành Công nói riêng. Chi tiết có thể như sau:
Dù là một chi nhánh nhỏ nhưng nếu chi nhánh NHNT Thành Công có được một website riêng cho ngân hàng của mình và trong đó có thêm mục “chi nhánh NHNT với DNV&N” thì đây sẽ là một kênh tuyên truyền và quảng bá hoạt động rất tốt. Trang web này sẽ là cầu nối của chi nhánh NHNT Thành Công với các DNV&N thông qua cung cấp thông tin, quảng cáo, giới thiệu, tạo điều kiện cho các khách hàng DNV&N biết về chi nhánh và về các dịch vụ của chi nhánh nhiều hơn.
Xúc tiến quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng như quảng cáo trên báo chí, truyền thanh, truyền hình hay phát tờ rơi đặc biệt là quảng cáo về những dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Ngoải ra có thể tổ chức các hội nghị khách hàng các DNV&N để tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng với DNV&N. Ở đây, là một chi nhánh nhỏ, chi nhánh NHNT Thành Công khó có thể thực hiện quảng cáo trên truyền thanh truyền hình nhưng có thể nghiên cứu đế thiết kế các tờ rơi giới thiệu sản phẩm hoặc có thể đăng một số thông tin liên quan đến các dịch vụ của chi nhánh, giới thiệu về chi nhánh cũng như các chính sách hỗ trợ của chi nhánh đối với các DNV&N trên một số tờ báo, tạp chí mà được nhiều người quan tâm trong lĩnh vực kinh tế, tài chính như : Thời báo kinh tế, Thời báo ngân hàng, Tạp chí ngân hàng…
3.2.3. Hoàn thiện bổ sung các sản phẩm phù hợp với đối tượng khách hàng DNV&N
Giải pháp này thực hiện theo cả hai hướng đó là thiết kế lại các sản phẩm hiện có cho phù hợp với khách hàng DNV&N và nghiên cứu các sản phẩm mới. Trên cơ sở đó ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản phẩm riêng biệt. Quá trình thực hiện có sự đúc rút, sơ kết, tổng kết những cái được, chưa được theo từng loại sản phẩm.
Thứ nhất, chi nhánh cần đa dạng hoá các sản phẩm hiện có theo xu hướng phù hợp với từng đối tượng khách hàng như khách hàng DNV&N.
Mặc dù ngân hàng cũng định hướng áp dụng tất cả các phương thức cho vay đối với DNV&N nhưng lại chưa xem xét để đưa ra phương thức cho vay nào là phù hợp nhất, là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DNV&N. Thực tế hiện nay ở chi nhánh áp dụng chủ yếu phương thức cho vay đối với các DNV&N là phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Mặc dù đây là phương thức cho vay gây ít rủi ro cho ngân hàng nhưng lại gây phiền toái cho khách hàng về vấn đề thủ tục.
Qua xem xét chi nhánh có thể cho các DNV&N vay theo hình thức hạn mức thấu chi bởi khi khách hàng muốn vay phải mở tài khoản tại ngân hàng. Do đó ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình thu chi của doanh nghiệp để có quyết định cho vay tiếp hay không, đồng thời doanh nghiệp có thế chủ động, kịp thời, linh hoạt trong việc sử dụng vốn.
Chi nhánh NHNT Thành Công sẽ kết hợp với NHNT Việt Nam lấy ý kiến để tìm hiểu, đánh giá quy trình thủ tục của các ngân hàng bạn và lấy ý kiến từ nhiều nguồn khác nhau như CBTD, khách hàng DNV&N để cải tiến quy trình của NHNT nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, đặc biệt là các vấn đề thường vướng mắc khi cho vay khách hàng DNV&N như định giá tài sản bảo đảm, thu thập và xử lý thông tin trong trường hợp hệ thống báo cáo tài chính của khách hàng DNV&N không đầy đủ.
Phát triển sản phẩm mới thông qua nhu cầu khách hàng, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng trong và ngoài nước. Trước mắt dự kiến nghiên cứu, triển khai một số sản phẩm mới như bao thanh toán, cho vay nhượng quyền thương mại, tư vấn khách hàng (tư vấn vay vốn, tư vấn lựa chọn dự án đầu tư…)
Thứ hai, ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với DNV&N đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, đầu tư tài sản cố định của DNV&N bằng cách thẩm định kĩ lưỡng dự án sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp, tránh hiện tượng DNV&N vay vốn ngắn hạn để đầu tư vào TSCĐ gây rủi ro cho ngân hàng.
Thứ ba, ngân hàng cần đổi mới quy trình cho vay phù hợp với DNV&N.
DNV&N thường có quy mô hoạt động nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế, hệ thống sổ sách không rõ ràng, nhu cầu món vay nhỏ… Do vậy để DNV&N có thể tiếp cận vốn ngân hàng một cách dễ dàng cần xây dựng quy trình, thủ tục vay vốn phù hợp với điều kiện và nhu cầu vay vốn của DNV&N. Trong khi xây dựng quy trình cho vay, ngân hàng cố gắng rút bớt các thủ tục không cần thiết, rườm rà cho DNV&N, chỉnh sửa kịp thời những quy định không còn phù hợp với thực tiễn nữa để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng vay, để đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời của DNV&N
Khi xây dựng quy trình thủ tục vay đối với DNV&N thì chi nhánh cần cụ thể hoá thể lệ, chế độ Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để tránh việc thực hiện sai sót hay CBTD không hiểu hết, đồng thời phù hợp với đối tượng khách hàng DNV&N và đặc điểm của chi nhánh.
Thứ tư, ngân hàng nên xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với các DNV&N.
Việc xác định một mức lãi suất phù hợp là rất khó vì các doanh nghiệp đi vay luôn mong muốn mong muốn được vay với mức lãi suất thấp để giảm chi phí sử dụng vốn và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp trong khi các ngân hàng không những một mức lãi suất có thể bù đắp chi phí huy động mà còn muốn một khoản lãi để duy trì hoạt động cũng như để phát triển, vì vậy ngân hàng phải đẩy lãi suất lên cao ở mức tối thiểu. Việc vay mượn chỉ có thể diễn ra khi có sự “thuận mua vừa bán” giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Ngoài ra, lãi suất cho vay của NHTM phụ thuộc vào lãi suất của NHNN, vì vậy không phải ngân hàng nào cũng có thể dùng lãi suất thấp thấp để thu hút khách hàng vì điều này có thể gây hậu quả xấu tác động tới toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa khi lãi suất biến đổi sẽ gây ảnh hưởng đến giá cả của nhiều sản phẩm dịch vụ khác bởi lẽ nguồn vốn ngân hàng là một bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp. Vì thế ngân hàng cần xác định mức lãi suất cho vay căn cứ vào rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải chứ không căn cứ vào quy mô doanh nghiệp là lớn hay nhỏ.
Ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi đối với các DNV&N quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng và những DNV&N mới đến quan hệ với ngân hàng.
Mặt khác, các doanh nghệp có các chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau, vì vậy ngân hàng phải phân lãi suất cho vay theo nhiều kỳ hạn khác nhau tương ứng với lãi suất huy động theo từng kỳ hạn, tránh tình trạng hoà đồng lãi suất cho vay. Ngân hàng cần căn cứ vào hai luồng tiền: Huy động vốn (đầu vào) và cho vay (đầu ra) để đưa ra mức lãi suất phù hợp. Thông thường, lãi suất đầu vào nhỏ hơn lãi suất đầu ra, lãi suất huy động không kì hạn nhỏ hơn lãi suất huy động 3 tháng, lãi suất huy động 3 tháng nhỏ hơn lãi suất huy động 6 tháng… Chính vì vậy lãi suất cho vay theo nhiều kì hạn như 3 tháng, 6 tháng…sẽ căn cứ trên lãi suất huy động có kì hạn tương ứng.
Thứ năm, cần mở rộng điều kiện vay vốn bằng việc mở rộng hình thức đảm bảo tiền vay.
Ngân hàng luôn yêu cầu các DNV&N phải có tài sản đảm bảo khi vay, lý do là các DNV&N luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng..Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn, chính vì vậy hầu hết các khách hàng DNV&N phải có tài sản đảm khi nhận các khoản cho vay của ngân hàng. Yêu cầu có TSĐB, ngân hàng muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ.
Mặc dù bảo đảm tiền vay tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng lại gây khó khăn cho DNV&N bởi TSCĐ của họ rất ít hoặc là tài sản của cá nhân chủ doanh nghiệp không tách biệt với tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay, tại chi nhánh NHNT Thành Công tất cả các DNV&N khi vay vốn ngân hàng phải có TSBĐ đã gây những khó khăn cho DNV&N. Vì vậy khả năng vay được vốn ngân hàng của DNV&N là rất thấp. Cho nên ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay không cần tài sản thế chấp trong một quy mô vốn, chỉ cần thế chấp kèm theo phương án vay vốn mang tính khả thi. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu vốn của DNV&N.
3.2.4. Khai thác tối đa các nguồn vốn rẻ, dài hạn để tài trợ DNV&N
Do nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh NHNT Thành Công còn hạn chế trong khi nhu cầu đầu tư để phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là của DNV&N rất lớn, việc thu hút các nguồn vốn rẻ, dài hạn từ bên ngoài có ý nghĩa rất lớn. Để tăng được nguồn vốn huy động này thì phải xúc tiến chính sách huy động phù hợp, tạo niềm tin cho khách hàng gửi tiền. Đây cũng là vấn đề liên quan đến hoạt động Marketing ngân hàng. Bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quỹ quay vòng của các chương trình tín dụng nước ngoài hiện có, chi nhánh NHNT Thành Công đang tích cực tìm kiếm, thu hút các nguồn vốn rẻ, dài hạn để bổ sung nguồn tài trợ DNV&N .
3.2.5. Tăng cường hoạt động hỗ trợ phi tài chính đối với khách hàng DNV&N
Đây là giải pháp nhằm thu hút và tạo sự gắn bó của khách hàng với chi nhánh NHNT Thành Công. Các hoạt động hỗ trợ phi tài chính bao gồm cung cấp thông tin kinh tế tài chính, hướng dẫn thủ tục, giới thiệu các cơ hội kinh doanh, giới thiệu đối tác đầu tư/bạn hàng/nhà cung cấp cho khách hàng thông qua nhiều kênh khác. Đồng thời chi nhánh NHNT Thành Công cũng có thể hỗ trợ những khách hàng tiêu biểu tham gia các khoá đào tạo, tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm, thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và sắp tới đây có thêm ngân hàng nước ngoài đòi hỏi mỗi ngân hàng ngay từ bây giờ ngoài các khách hàng DNV&N truyền thống phải chủ động tìm kiếm các khách hàng riêng cho mình trong đó chắc chắn đối tượng khách hàng DNV&N sẽ chiếm đa số bởi xu hướng phát triển nhanh chóng của loại hình doanh nghiệp. Để thu hút được khách hàng, chi nhánh nên có chính sách khách hàng một cách chi tiết, chủ động tìm kiếm khách hàng. Các DNV&N thường có nguồn thông tin kinh tế rất hạn chế, họ không còn gì mong muốn hơn nếu các nhà ngân hàng là người tư vấn, là người giúp doanh nghiệp giải quyết sự cố, thực hiện được vấn đề hơn là người cung cấp tín dụng đơn thuần. Riêng đối với ngân hàng thì việc quan tâm đến khách hàng, chia sẻ thông tin, tư vấn giúp đỡ khách hàng sẽ giúp ngân hàng nắm rõ được các vấn đề mà các doanh nghiệp gặp phải, hiểu rõ được tình hình hoạt động của doanh nghiệp hơn để ra những quyết định cho vay hợp lý. Mặt khác, được sự giúp đỡ, tư vấn của ngân hàng, DNV&N sẽ làm ăn hiệu quả hơn, tin tưởng vào ngân hàng hơn và doanh nghiệp sẽ có lựa chọn đầu tiên là vay vốn ngân hàng đó.
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin
Để có thể phục vụ một số lượng lớn khách hàng DNV&N, việc hoàn thiện hệ thống thông tin (bao gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) có ý nghĩa quan trọng và là một nhiệm vụ cấp thiết.
Muốn có được các thông tin đáng tin cậy thì phải chấn chỉnh ngay từ khâu nhập dữ liệu từ cơ sở. Các trường số liệu cần đặc biệt lưu ý là đăng kí kinh doanh, loại hình doanh nghiệp. Chi nhánh có thể kết hợp cùng hội sở chính cần sớm đưa ra quy chế phối hợp cung cấp thông tin thống nhất, xác định rõ thẩm quyền cũng như trách nhiệm trong việc cung cấp, quản lý thông tin.
Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng, làm căn cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả đối với mỗi khách hàng.
Chi nhánh cũng không nên hạn chế chi tiêu vào vấn đề hoàn thiện hệ thống thông tin. Bởi chỉ có bằng cách này chi nhánh mới có thể tự hoàn thiện, nâng cao tính hội nhập cao, có khả năng kiểm soát thông tin hơn, tiết kiệm thời gian trong mọi hoạt động, tính chính xác trong công việc cũng được đẩy mạnh, và về lâu dài thì sẽ là giảm
3.2.7. Ngân hàng cần hình thành một bộ phận chuyên cho vay DNV&N và quỹ riêng để cho vay DNV&N
Nếu ngân hàng có sự quan tâm đến việc cho vay khu vực các DNV&N thì sẽ hình thành một bộ phận chuyên cho vay DNV&N và quỹ riêng để cho vay DNV&N. Có được một phòng ban chuyên trách, có lực lượng cán bộ tín dụng chuyên môn và một quỹ riêng để cho vay DNV&N thì không có lý gì hoạt động cho vay DNV&N không phát triển. Bởi các cán bộ và phòng ban phục vụ riêng cho hoạt động cho vay DNV&N sẽ tìm hiểu nhu cầu của DNV&N, tìm hiểu được thông tin đúng đắn về khách hàng qua đó có những kiến nghị lên các cấp lãnh đạo ngân hàng ra quyết định chính xác là không đáp ứng hay đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho DNV&N. Ngoài ra việc hình thành quỹ riêng để cho vay DNV&N sẽ tạo sự lưu thông không bị ngắt quãng hay chậm trễ trong quá trinh giải ngân, tạo sự chủ động trong hoạt động cho vay DNV&N.
3.2.8. Đào tạo cán bộ chuyên sâu về DNV&N
Song song với việc bố trí đủ số lượng cán bộ phù hợp với số lượng khách hàng, cần quán triệt tới cấp cán bộ để thống nhất quan điểm, nhận thức về sự cần thiết phát triển khách hàng DNV&N và đào tạo kĩ năng, kiến thức chuyên sâu về phục vụ khách hàng DNV&N.
Trình độ CBTD là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển cho vay các doanh nghiệp nói chung và các DNV&N nói riêng cũng như hiệu quả cho vay của một ngân hàng thương mại. Vì vậy chi nhánh luôn phải tổ chức các khoá học hoặc gửi cán bộ đi học liên tuc để tiếp thu những kiến thức mới, bổ sung những phần chưa đủ trong đó có vấn đề khoa học công nghệ trong ngân hàng.
Việc đào tạo không chỉ dừng lại ở kiến thức chuyên môn mà quan trọng hơn cả là tăng cường tính chủ động của cán bộ chi nhánh NHNT Thành Công tiếp cận với khách hàng và hoàn thiện các kĩ năng giao dịch, đạo đức của cán bộ nhằm tạo uy tín cho khách hàng về ngân hàng. CBTD là hình ảnh đầu tiên mà các doanh nghiệp ấn tượng về ngân hàng, về sự chuyên nghiệp, tận tình của ngân hàng. Các CBTD cũng cần phải xoá đi mặc cảm rủi ro về khu vực DNV&N đầy tiềm năng này. Tự thân các cán bộ trên mọi cương vị cần thường xuyên nghiên cứu học hỏi để không ngừng rèn luyện tư cách đạo đức và tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp. Chi nhánh cũng cần có những chính sách khuyến khích các cán bộ nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ.
Chi nhánh NHNT Thành Công cần xây dựng một cơ chế lương, thưởng gắn với chất lượng và hiệu quả công việc, đảm bảo động lực cho cán bộ tâm huyết với nghề. Chi nhánh cũng cần đề ra chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với các cán bộ ngân hàng. Trong vấn đề này, chi nhánh nên có chính sách cụ thể về các hình thức, chế độ khen thưởng đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm với công việc cũng như các chính sách liên quan đến hình thức kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, không có trách nhiệm với công việc.
3.3. Một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay khách hàng DNV&N
3.3.1.Kiến nghị với chính phủ
Thứ nhất, chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý để tao môi trường kinh doanh bình đẳng cho DNV&N phát triển. Hiện tại địa vị pháp lý của các DNV&N chưa được xác định rõ ràng, hoạt động của các DNV&N chưa đượcđiều chỉnh và hướng dẫn ngoại trừ Nghị định 90 của Chính phủ về hỗ trợ các DNV&N. các DNV&N phải hoạt động theo nhiều luật khác nhau gây ra nhiều khó khăn cho cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy chính phủ cần phải có văn bản chung, thống nhất, qui định cho loại hình doanh nghiệp này
Thứ hai, để tăng cường công tác quản lý DNV&N trong đăng kí kinh doanh cũng như giám sát hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, Chính phủ nên sơm hình thành một cơ quan riêng phụ trách việc tổ chức đăng kí kinh doanh và giám sát quản lý các DNV&N. Bên cạnh đó, tăng cường công tác kiểm tra, gáim sát công tác kế toán tại các DNV&N buộc các DNV&N chấp hành đúng luật thống kê, kế toán, kiểm toán
Thứ ba, chính sách thuế hiện nay đang áp dụng với DNV&N còn nhiều bất cập bởi vẫn còn tồn tại nhiều mức thuế khác nhau với cách quản lý phức tạp, không chặt chẽ đã gây ra nhiều phiền hà cho các DNV&N đồng thời dẫn đến hiện tượng trốn thuế. Vì vậy, chính phủ phải điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với DNV&N
Thứ tư, chính phủ cần có những biện pháp đơn giản hoá vấn đề thủ tục trong việc giao, cấp đất, hay chuyển nhượng tài sản cố định; đơn giản các thủ tục công chứng, xác nhận, sao đăng kí xe đối với tài sản thế chấp là ô tô..
Thứ năm, chính phủ cần tăng cường cung cấp thông tin và dịch vụ tài chính cho các DNV&N; mở rộng các danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ kế toán, dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thể thuê kiểm toán báo cáo tài chính.
Ngoài ra, chính phủ cũng cần cung cấp các kênh thông tin cho ngân hàng về tình hình hoạt động, tình hình tài chính của các DNV&N giúp ngân hàng có thể phân tích kĩ lưỡng, chính xác và nhanh chóng hơn trước khi quyết định cho vay DNV&N.
3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt nam
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp chỉ đạo hoạt động cho vay đối với DNV&N nên việc làm quan trọng để phát triển hoạt động cho vay DNV&N cần phải ban hành một cơ chế riêng, một quy trình cho vay riêng phù hợp với đặc điểm của các DNV&N; mở rộng các điều kiện cho vay đối với DNV&N như vấn đề bảo đảm tiền vay không chỉ là thế chấp các TSCĐ mà còn mở rông sang các hình thức khác.
Ngân hàng Nhà nước cần phát triển hệ thống thông tin qua trung tâm thông tin tín dụng (CIC), một nơi cung cấp tất cả những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác, và bảo mật cho các ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước cũng cần tìm kiếm các nguồn vốn tài trợ cho các DNV&N của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để gia tăng nguồn vốn hoạt động, đáp ứng nhu cầu vốn cấp thiết của khu vực doanh nghiệp này
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất chỉ đạo hoạt động của chi nhánh NHNT Thành Công cần chỉ đạo các chi nhánh có những quan điểm tích cực về các DNV&N và có những quy định cụ thể hơn nữa về cho vay DNV&N. Ngân hàng cần ban hành các văn bản hướng dẫn quy định thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay riêng đối với loại hình DNV&N , cách tính điểm trong thẩm định cho vay các DNV&N sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng chi nhánh; thường xuyên có những hướng dẫn, định hướng cho vay DNV&N để đôn đốc các chi nhánh thực hiện tốt hoạt động cho vay DNV&N.
Thêm vào đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N để có những chỉ đạo, điều chỉnh kịp thời.
Cùng với các cơ quan Nhà nước như chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần hỗ trợ tài chính, thông tin, nhân lực cho các chi nhánh để toàn hệ thống để phát triển hoạt động cho vay nói chung và hoạt động DNV&N nói riêng
Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần có các chương trình như: khoá học tập ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ ngân hàng nhất là cán bộ phòng tín dụng, thẩm định… đi học nước ngoài để họ có thể nâng cao nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm các nước. Đó cũng là khuyến khích lòng nhiệt tình ham học hỏi của nhân viên ngân hàng.
3.3.4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mối liên hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp là mối liên hệ đối tác cùng kinh doanh và cùng có lãi. Do đó, hai đối tương này cần xích lại gần nhau, cùng giúp đỡ nhau. Ngoài các nỗ lực từ phía ngân hàng, các DNV&N cũng phải hoàn thiện, nâng cao năng lực kinh doanh, tạo các phương án kinh doanh hiệu quả để nâng cao uy tín, mang đến sự tin tưởng của ngân hàng thì khả năng được vay mới cao.
Để làm được điều này, các DNV&N cần phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho người lao động, đồng thời đẩy mạnh khả năng quản lý giỏi, thích ứng được môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình sản xuất hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao. Từ việc làm ăn hiệu quả, các DNV&N sẽ có khả năng trả nợ đúng đúng hạn, tạo lòng tin cho ngân hàng.
Hệ thống sổ sách cần rõ ràng, minh bạch và dầy đủ thông tin, không nên lập các báo cáo mang tính chất hình thức, không đúng thực tế. Vì khi ngân hàng đi thẩm định luôn quan tâm đến hệ thống sổ sách của doanh nghiệp. Nếu ngân hàng không cảm thấy tin tưởng vào hệ thống sổ sách của doanh nghiệp thì nhiều khả năng DNV&N sẽ không được ngân hàng cho vay vốn. Do đó các DNV&N cần tuân thủ các quy định, các chế độ tài chính kế toán, kiểm toán của Nhà nước. Các DNV&N cũng nên áp dụng các phần mềm kế toán để chi phí và cũng để ngân hàng dễ theo dõi.
Các DNV&N cũng cần tiếp cận thường xuyên hệ thống thông tin của Nhà nước, của ngân hàng để tìm hiểu về thực trang chung của nền kinh tế nói chung và cuả các DNV&N nói riêng, đồng thời cũng tìm hiểu về các dịch vụ gì của ngân hàng mà các DNV&N có thể sử dụng. Các DNV&N nên tham gia vào các chương trình phát triển DNV&N, trung tâm hỗ trợ DNV&N để có giao lưu các doanh nghiệp với nhau, tìm hiểu được nhiều thông tin hữu ích cho DNV&N, đồng thời cũng có thể nhận được những sự tư vấn kịp thời.
Các DNV&N nên nâng cao trình độ kế toán của các cán bộ kế toán doanh nghiệp mình để có thể thực hiện đúng, chính xác chế độ kế toán của Nhà nước, đáp ứng được yêu cầu của các ngân hàng
Ngoài ra DNV&N cũng cần làm tiến hành các thủ tục pháp lý của các TSCĐ để bảo đảm tính pháp lý khi là tài sản bảo đảm. Cần phân biệt rõ tài sản của chu doanh nghiệp và tài sản của DNV&N
Trên đây là một vài kiến nghị đối với các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các DNV&N. Để thực hiện tốt các giải pháp đề ra, tất cả các cơ quan chức năng, hệ thống ngân hàng trong đó có chi nhánh NHNT Thành Công phải liên kết chặt chẽ, phối hợp một cách đồng bộ thì mới phát triển được hạot động cho vay các DNV&N đồng thời nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng và trợ giúp cho các DNV&N trong nhu cầu về vốn.
KẾT LUẬN
Với những nghiên cứu rất cơ bản trong phạm vị một chuyên đề tốt nghiệp, bài viết này đã phần nào làm rõ các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công và cũng đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công cùng các cơ quan ban ngành các cấp có liên quan. Qua những nghiên cứu trên cho thấy rằng tình hình cho vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công đang ngày càng được cải thiện song vẫn cần phải có sự quan tâm, phối hợp của các cơ quan ban ngành các cấp và bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hoạt động cho vay DNV&N tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung để có thể đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập kinh tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo và các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHNT Thành Công đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính-tiền tệ, NXB Thống Kê Hà Nội.
2.PGS.TS Phan Thu Hà (chủ biên), 2006, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê Hà Nội.
3.Frederic S.Mishkin, 2001, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật Hà Nội
4.QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng của Thống đốc ngân hàng Nhà nước
5.QĐ 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 ban hành sửa đổi, bổ sung quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001.
6.Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
7.Báo cáo thường niên, báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, định hướng phát triển kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
8.Cẩm nang tín dụng của NHNT Thành Công
9.Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N
10.Phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị với các Doanh nghiệp Hà Nội ngày 9/2/2006
11.Hà Vy, 9/12/2005, DNV&N còn mơ hồ với hội nhập, www.vnexpress.net
12.TBTC, 2004, DNV&N: Sáu bước vượt “rào cản”, www.mof.gov.vn
13.Theo vneconomy, Vốn cho DNV&N: Ngân hàng nói gì?, www.kiemtoan.com.vn
14.Bài viết: DNV&N…quay lưng với ISO, 2004, www.moi.gov.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32118.doc