Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, các DNVVN hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh vai trò và tiềm năng rất to lớn của mình trong việc sản xuất hàng hoá, máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất của xã hội, nhất là cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp, các DNVVN còn góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động,toạ ra sự phát triển cân đối giữa các vùng kinh tế Chính vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp này cần có sự quan tâm, phối hợp và giúp đỡ hơn nữa của Nhà Nước, các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho các DNVVN phát huy vai trò và tầm quan trọng của mình trong nên kinh tế xã hội, đồng thời góp phần ngăn ngừa được những nguy cơ rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này.
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay đối với các doanh ngiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triền Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về tình hình hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh trong một thời kỳ nhất định.
*Doanh số cho vay theo quy mô doanh nghiệp
Bảng 4: Doanh số cho vay theo quy mô doanh nghiệp của Chi nhánh
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
DN lớn
223.473
48,9
209.230
41,1
- 14.243
-7,8
177.546
30,2
-31.684
-10,9
DNVVN
210.220
46,0
269.770
53,0
59.550
7,0
358.620
61,0
88.850
8,0
Cho vay khác
23.307
5,1
30.000
5,9
7.307
0,8
52.000
8,8
22.000
2,9
Tổng doanh số cho vay
457.000
100
509.000
100
52.000
-
587.902
100
78.902
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 – 2007
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ ta thấy BIDV HN đã và đang thực hiện mở rộng cho vay đối với DNVVN trong nền kinh tế. Doanh số cho vay đối với DNVVN tăng liên tục giai đoạn 2005 – 2007. Năm 2005 đạt 210.220 triệu đồng; năm 2006 con số này tăng lên 269.770 triệu đồng và năm 2007 đạt 358.620 triệu đồng.
Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp DNVVN tại Chi nhánh không chỉ tăng theo con số tuyệt đối mà còn tăng lên một cách tương đối so với các loại hình doanh nghiệp khác. Năm 2005 tỷ trọng cho vay đối với DNVVN chiếm 46% tổng doanh số cho vay. Năm 2006 con số này tăng lên 53%, tăng hơn 7% (tương đương 59.550 triệu đồng) so với 2005. Năm 2007 tỷ trọng cho vay DNVVN chiếm 61%, tăng 8% (tương đương 88.850 triệu đồng) so với 2006.
* Doanh số cho vay đối với DNVVN theo thành phần kinh tế
Nếu xét theo thành phần kinh tế, DNVVN bao gồm: doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp cổ phần nhà nước >50%) và doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 5: Doanh số cho vay đối với DNVVN theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
Ơ
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
DNNN
52.555
25,0
56.651
21,0
4.096
-4,0
53.793
15,0
-2.858
6,0
DNNQD
153.461
73,0
206.914
76,7
53.453
3,7
294.068
82,0
87.154
6,7
DN có vốn đầu tư nước ngoài
4.204
2,0
6.205
2,3
2.001
0,3
10.759
3,0
4.554
0,7
Tổng doanh số cho vay
210.220
100
269.770
100
59.550
-
358.620
100
88.850
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 – 2007
Hiện nay, các DNVVN của nước ta hầu hết đều là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với quy mô nhỏ bé, khối lượng vốn ít. Vì vậy, trong cho vay đối với DNVVN của Chi nhánh thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2005 cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 73%; năm 2006 tăng lên 76,7%; năm 2007 tăng lên 82%, tăng 6,7% so với năm 2006. Trong khi đó, cho vay đối với các DNVVN quốc doanh giảm liên tục từ 25% năm 2005, 21% năm 2006 và năm 2007 chỉ còn 15%, giảm 6% so với năm 2006. Cho vay đối với các DNVVN có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù có xu hướng tăng lên qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ và tốc độ tăng chậm. Cụ thể năm 2005 chiếm tỷ trọng 2%; năm 2006 tăng lên 2,3% và năm 2007 là 3%, chỉ tăng 0,7% so với năm 2006.
Chúng ta có thể thấy được sự dịch chuyển cơ cấu cho vay DNVVN tại Chi nhánh. Doanh số cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh ngày càng tăng lên, trong khi doanh số cho vay đối với DNVVN quốc doanh thì ngày càng thu hẹp lại. Năm 2005 doanh số cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh đạt 153.461 triệu đồng; năm 2006 đạt 206.914 triệu đồng; năm 2007 đạt 294.068 triệu đồng, tăng 87.154 triệu đồng so với năm 2006. Điều này cho thấy ngân hàng đã chú trọng đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hơn, có cái nhìn bớt khắt khe hơn trong viẹc xem xét cho vay đối với các DN ngoài quốc doanh. Đối với các DNVVN có vốn đầu tư nước ngoài, doanh số cho vay tăng lên qua các năm nhưng tăng chậm. Năm 2005 doanh số cho vay đạt 4.204 triệu đồng; đến năm 2006 tăng lên 6.205 triệu đồng, tăng 2.001 triệu đồng so với năm 2005; năm 2007 đạt 10.759 triệu đồng, tăng 4.554 triệu đồng so với năm 2006.
Qua kết quả phân tích cho thấy BIDV HN đang mở rộng cho vay đối với các DNVVN ngoài quốc doanh, các DNVVN có vốn đầu tư nước ngoài và thu hẹp cho vay đối với các DNVVN quốc doanh. Như vậy BIDV HN đang mở rộng cho vay theo xu thế phát triển chung của các doanh nghiệp hiện nay trong nền kinh tế. Đó là sự gia tăng ngày càng nhiều các DNVVN ngoài quốc doanh, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thị trường chứng khoán trong nước ngày càng sôi động, số lượng các công ty cổ phần được thành lập mới hoặc chuyển đổi từ các doanh nghiệp quốc doanh sang ngày một tăng lên. Đồng thời Việt Nam đang là thị trường hấp dẫn thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Do đó số lượng các DNVVN có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể trong những năm gần đây.
* Doanh số cho vay đối với DNVVN theo thời hạn cho vay
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Cho vay ngắn hạn
195.925
93,2
249.807
92,6
53.882
-1,6
311.641
86,9
62.121
-5,7
Cho vay trung – dài hạn
14.295
6,8
19963
7,4
5.668
1,6
46.979
13,1
27.016
5,7
Tổng doanh số cho vay DN VVN
210.220
100
269.770
100
59.550
-
358.620
100
88.850
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 – 2007
Có thể thấy sự chênh lệch rất lớn giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh. Hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn, thường chiếm hơn 90% tổng doanh số cho vay. Trong 3 năm trở lại đây,doanh số cho vay ngắn hạn vẫn không ngừng tăng lên. Năm 2005 cho vay ngắn hạn đối với DNVVN đạt 195.925 triệu đồng; năm 2006 đạt 249.807 triệu đồng, tăng 53.882 triệu đồng so với năm 2005; năm 2007 đạt 311.641 triệu đồng, tăng 61.121 triệu đồng so với năm 2006. Doanh số cho vay trung- dài hạn đối với DNVVN cũng có chiều hướng gia tăng qua các năm nhưng tỉ trọng vẫn nhỏ. Cụ thể năm 2005 doanh số cho vay trung- dài hạn đạt 14.295 triệu đồng; năm 2006 đạt 19.963 triệu đồng, tăng 5.668 triệu đồng so với năm 2005; năm 2007 đạt 46.979 triệu đồng tăng 27.016 triệu đồng so với năm 2006. Sở dĩ như vậy là do tâm lý chung của các ngân hàng đều e ngại rủi ro từ các khoản cho vay trung – dài hạn, vì đối với các khoản nợ này, thời gian thu hồi vốn chậm hơn.
Mặc dù doanh số cho vay ngắn hạn đối với DN VVN không ngừng tăng lên qua các năm nhưng tỉ trọng đã có xu hướng giảm dần. Năm 2005 chiếm 93,2% tổng doanh số cho vay DN VVN, năm 2006 giảm xuống 92.6% và năm 2007 là 86,9%. Đồng thời với sự giảm này là sự tăng lên một cách tương đối tỉ trọng cho vay trung – dài hạn đối với DN VVN. Điều đó chứng tỏ BIDV Hà Nội đang phấn đấu mở rộng cho vay trung – dài hạn đối với DN VVN.
2.2.3.2 Dư nợ cho vay đối với DN VVN
* Dư nợ cho vay đối với DN VVN theo quy mô doanh nghiệp
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
DN lớn
210.912
52,0
232.206
45,8
21.294
-6,2
250.240
37,0
18.034
-8,8
DN VVN
182.520
45,0
258.570
51,0
76.05
6,0
395.000
59,0
136.430
8,0
Cho vay khác
12.168
3,0
16.500
3,2
4.332
0,2
23.000
4,0
6.500
0,8
Tổng dư nợ cho vay
405.600
100
507.000
100
101.400
-
668.240
100
161.240
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 –2007
Qua bảng số liệu, ta thấy, cùng với dư nợ cho vay của cả ngân hàng, dư nợ cho vay đối với DN VVN liên tục tăng qua các năm. Năm 2005 dư nợ cho vay đối với DN VVN đạt 182.520 triệu đồng, chiếm 45% tổng dư nợ cho vay; năm 2006 đạt 258.570 triệu đồng, chiếm 51% tổng dư nợ cho vay, tăng 6% (tương đương 76.050 triệu đồng) so với năm 2005; năm 2007 đạt 395.000triệu đồng, chiếm 59% tổng dư nợ cho vay, tăng 8% ( tương đương 136.430 triệu đồng) so với năm 2006. Đây là dấu hiệu cho thấy BIDV Hà Nội đã ngày cang chú trọng hơn tới khu vực DN VVN. Ngân hàng đã dần nới lỏng cơ chế cho vay đối với các DN VVN.
Năm 2005 dư nợ cho vay đối với các DN VVN còn thấp hơn dư nợ cho vay đối với DN lớn, mặc dù năm 2005 doanh số cho vay DN VVN lớn hơn so với cho vay DN lớn. Nguyên nhân là vì trước đó BIDV Hà Nội vẫn tập trung cho vay các DN xây lắp hầu hết là các DN lớn. Sau này khi có chiến lược mở rộng cho vay đối với các DN VVN thì Chi nhánh đã giảm dần cho vay đối với các DN lớn này. Song, cho vay đối với các DN lớn thường là các món vay lớn, nhu cầu vay dài hạn cao nên dư nợ cho vay DN lớn năm 2005 vẫn cao hơn so với các DN VVN.
Năm 2006, 2007 cả doanh số cho vay và dư nợ cho vay đối với DN VVN đều tăng lên, tốc độ tăng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn nhất. Điều này phản ánh quá trình phát triển cho vay đối với DN VVN của Chi nhánh đang đạt được những kết quả khả quan theo như phương hướng hoạt động của Chi nhánh.
* Dư nợ cho vay đối với DN VVN theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
DNNN
47.547
26,05
57.920
22,4
10.373
-3,65
65.000
16,46
7.080
-5,94
DNNQD
131.414
72,00
193.930
75
62.516
3
320.000
81,01
126.070
6,01
DN có vốn đầu tư nước ngoài
3.559
1,95
6.720
2,1
3.161
0,15
10.000
2,53
3.280
0,43
Tổng dư nợ cho vay DN VVN
182.520
100
258.570
100
76.050
-
395.000
100
136.430
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 –2007
Nhìn chung, dư nợ cho vay đối với tất cả các DN VVN theo thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2007 đều tăng lên, phản ánh chính sách phát triển hoạt động cho vay đối với DN VVN tại Chi nhánh. Tuy nhiên với từng lọai hình doanh nghiệp thì việc phát triển hoạt động cho vay này có sự khác biệt.
Cũng giống như doanh số cho vay, dư nợ cho vay đối với DN ngoài quốc doanh chiếm tỉ trọng lợn nhất trong cho vay DN VVN theo thành pần kinh tế. Năm 2005, dư nợ cho vay đối với DN ngoài quốc doanh đạt 131.414 triệu đồng, chiếm 72 % tổng dư nợ cho vay; năm 2006 đạt 193.930 triệu đồng, chiếm 75% tổng dư nợ cho vay, tăng 3% (tương đương 62.516 triệu đồng) so với năm 2005; năm 2006 đạt 320.000 triệi đồng, chiếm 81% tổng dư nợ cho vay, tăng 6% ( tương dương 126.070 triệu đồng) so với năm 2006.
Có thể nói, ngân hàng đã mở rộng quy mô, tích cực củng cố khách hàng mới nên dư nợ đã tăng lên nhanh chóng. Nhưng đồng thời với việc đó, Ngân hàng cũng chú trọng đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hơn, có cái nhìn bớt khắt khe hơn trong việc xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì thế nên dư nọ khu vực DN VVN ngoài quốc doanh đã tăng lên đáng kể so với những năm trước.
Tuy nhiên cần thấy một điều rằng, tuy có tăng trong những năm qua nhưng tỉ trọng dư nợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh so với toàn bộ các DN VVN vẫn còn rất thấp so với tỷ trọng số lượng DN VVN ngoài quốc doanh trên tổng số các DN VVN. Chúng ta biết rằng trên 90% các DN VVN đều thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhưng dư nợ ngân hàng dành cho thành phần kinh tế này lại ở mức thấp dưới 30% trên tổng số các DN VVN.
Các ngân hàng nói chung cũng như BIDV Hà Nội nói riêng vẫn có sự ưu đãi hơn đối với các doanh nghiệp nhà nước. Khi có dự án hay cần vay vốn, các doanh nghiệp quốc doanh chỉ cần đưa ra những thông tin về báo cáo tài chính, chứng minh tính khả thi thì sẽ được cán bộ tín dụng thẩm định và ngân hàng xét duyệt cho vay vốn mà không cần phải có tài sản thế chấp. Trong khi đó, có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dự án khả thi nhưng không có tài sản thế chấp, không có đủ báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng cũng không cho vay vốn vì như vậy là làm sai quy chế. Và như vậy là DN mặc dù có nhu cầu vay vốn, dự án có tính hiệu quả thì cũng rất khó khăn để tiếp cận dược với ngân hàng.
* Dư nợ cho vay đối với DN VVN theo thời hạn cho vay.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2006 so với 2005
2007
2007 so với 2006
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Tăng / giảm
%
Ngắn hạn
144.264
79,04
197.677
76,45
53.413
-2,59
284.479
72,02
86.802
-4,43
Trung – dài hạn
38.256
20,96
60.893
23,55
22.637
2,59
110.521
27,98
49.628
4,43
Tổng dư nợ cho vay DN VVN
182.520
100
258.570
100
76.050
-
395.000
100
136.430
-
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của BIDV HN giai đoạn 2005 –2007
Phát triển hoạt động cho vay đối với DN VVN được thể hiện thông qua sự tăng lên liên tục về dư nợ cho vay cả ngắn hạn, trung- dài hạn qua các năm. Tuy nhiên dư nợ cho vay ngắn hạn đã có sự giảm tương đối về tỉ trọng, thay vào đó dư nợ cho vay trung dài hạn liên tục tăng cả về tuyệt đối lấn tương đối. Năm 2005 tỉ trọng cho vay trung- dài hạn chỉ chiếm 20,96% tổng dư nợ cho vay thì đến năm 2006 tăng lên 23,55% và năm 2007 chiếm 27, 98%. Sự tăng lên nhanh chóng này càng khẳng định quá trình mở rộng cho vay sang trung- dài hạn đối với DN VVN tại Chi nhánh đang diễn ra rất nhanh, thể hiện sự quan tâm của ngân hàng trong việc hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các DN VVN để mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa doanh nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh, theo kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế trong nước cũng như thế giới.
2.3 Đánh giá hoạt động cho vay DN VVN tại BIDV Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Trong hoạt động cho vay của NHTM, hoạt động cho vay nói chung và đặc biệt là cho vay các DNVVN luôn được xem là một hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Mặc dù hiện nay có nhiều yếu tố khách quan làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác tín dụng, nhưng BIDV HN không ngừng mở rộng phạm vi, quy mô và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung-dài hạn, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của Ngân hàng. Bước đầu, BIDV HN đã thu được một số kết quả đáng khích lệ:
Một là, BIDV HN đã trở thành một địa chỉ đáng tin cậy cho những nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Bằng những sản phẩm đa dạng, phong phú và hữu ích đối với khách hàng, với phong cách phục vụ giao dịch văn minh, hiện đại, BIDV HN đã từng bước mở rộng được thị phần của mình, thu hút thêm được nhiều khách hàng tiềm năng, doanh thu cho vay và thu nợ của BIDV HN cũng đạt được kết quả đáng khích lệ.
Hai là, cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNVVN thay đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu cho vay phân theo thành phần kinh tế không còn sự chênh lệch nhiều giữa cho vay DNNN và DNNQD như trước. Điều này thể hiện những tích cực trong chính sách tín dụng của BIDV HN , mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế, đa dạng hoá khách hàng của Ngân hàng, đó cũng là cơ hội để Ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng. Cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNVVN còn thể hiện mặt tích cực dư nợ cho vay trung-dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung dai-hạn có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Việc cho vay trung-dài hạn góp phần vào quá trình đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, tập trung vào các dự án dổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Mặc dù cho vay trung-dài hạn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn cho vay ngắn hạn nhưng nó lại đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng lớn hơn nhiều.
Ba là, hoạt động cho vay nói chung luôn là hoạt động đem lại thu nhập chính cho Ngân hàng. Với đặc thù là một Ngân hàng hoạt động chủ yếu trên địa bàn Thủ đô, sự cạnh tranh vô cùng gay gắt, bằng những nỗ lực chủ quan và phương pháp tiếp cận linh hoạt đối với khách hàng, khai thác sử dụng vốn một cách hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn của BIDV HN đã được nâng cao và có những bước tăng trưởng ổn định. Trong những năm vừa qua, hoạt động kinh doanh của BIDV HN liên tục có lãi. Đặc biệt trong năm 2007, lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của BIDV HN đạt gần 70 tỷ đồng.
Bốn là, công tác quản lý tín dụng được chỉnh đốn đi vào nề nếp, các quy định, quy trình cho vay được quy định cụ thể hướng dẫn CBTD thực hiện theo đúng tiêu chuẩn. BIDV HN cũng có những chính sách tín dụng thông thoáng hơn nhằm mở rộng cho vay, giúp các DNVVN tiếp cận được với nguồn tài trợ từ Ngân hàng, đồng thời Ngân hàng cũng thu hút được nhiều đối tượng khách hàng hơn.
Năm là, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ CBTD được nâng cao. BIDV HN tích cực có các chương trình đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ thường xuyên cho CBTD. Bên cạnh đó, sự nỗ lực không ngừng của các cán bộ trong Ngân hàng nói chung và CBTD nói riêng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của Ngân hàng.
2.3.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế
Hoạt động cho vay tại BIDV HN nói chung và cho vay đối với DNVVN nói riêng trong các năm qua đã đạt được một số kết quả tốt. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động cho vay, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại BIDV HN và ảnh hưởng đến lợi nhuận nhuận của toàn Ngân hàng.
Một là, dư nợ cho vay tại BIDV HN nói chung và cho vay đối với DNVVN nói riêng còn thấp và có xu hướng giảm dần. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của toàn Ngân hàng trong tương lai.
Hai là, BIDV HNchưa có một quy trình cho vay riêng đối với DNVVN. BIDV HN vẫn áp dụng theo một quy trình cho vay chung đối với các loại hình doanh nghiệp khác. DNVVN có các đặc điểm riêng của mình, khác với DNL. Việc áp dụng một quy trình chung cho tất cả đôi khi quá phức tạp đối với hoạt động kinh doanh của loại hình DNVVN, do đó dễ gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay của BIDV HN đối với DNVVN.
Ba là, thông tin khoản tín dụng bị hạn chế. Chất lượng hoạt động quản lý dư nợ và nợ có vấn đề không cao. Các thông tin về khách hàng về dự án về tình hình sử dụng vốn vay không được cập nhật thường xuyên. Điều này sẽ là một bất lợi lớn cho Ngân hàng và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khoản tín dụng.
Bốn là, sự thụ động của các CBTD trong việc tìm kiếm các khách hàng mới, các dự án có tiềm năng. BIDV HN chưa có một chiến lược khách hàng cụ thể. Chưa tạo được mối quan hệ gắn bó giữa khách hàng và Ngân hàng. Phần lớn các khách hàng là tìm đến Ngân hàng chứ Ngân hàng chưa tiếp cận gần hơn với khách hàng, khó có cơ hội lựa chọn khách hàng ưng ý.
2.3.2.2 Nguyên nhân
a. Về phía nhân hàng:
Một là, mặc dù chính sách cho vay của Ngân hàng có những sự thông thoáng hơn trong những năm gần đây, nhưng thực sự việc tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng của DNVVN còn hạn chế. Yêu cầu phải có TSBĐ luôn là điều kiện kiên quyết đối với các DNVVN. Và tâm lý e dè khi xem xét cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh làm cho các doanh nghiệp này khó khăn trong việc vay vốn Ngân hàng ngay khi họ có phương án khả thi. Ngoài ra, cũng do tâm lý e ngại rủi ro, Ngân hàng chưa chú ý một cách đúng mức với những dự án lớn,chưa tin tưởng các DNVVN rong việc triển khai dự án. Từ đó, Ngân hàng mất một số đối tượng khách hàng tiềm năng. Điều này là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN tạiBIDV HN.
Hai là, BIDV HN chưa có hệ thống thông tin khách hàng, để thụ thập các thông tin về khách hàng, về dự án cho vay, về việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Do đó, các thông tin về khách hàng còn thiếu và chưa chính xác. Điều đó dẫn đến việc ra quyết định cho vay không chính xác, việc kiểm soát việc sử dụng vốn vay không cập nhật, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động cho vay của BIDV HN.
Ba là, công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ tại BIDV HNchưa thực sự được chấn chỉnh. Do vậy việc phát hiện ra những sai phạm của CBTD và việc kiến nghị chỉnh sửa còn nhiều hạn chế. Đây cũng là mọt trong nhưng nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tại BIDV HN.
b. Về phía khách hàng.
Một là, các doanh nghiệp, nhất là các DNVVN thường thiếu dự án mang tính khả thi cao. Đối với nhiều DNVVN, trình độ của cán bộ còn yếu kém dẫn đến việc không lý giải được những đòi hỏi thắc mắc của Ngân hàng, thậm chí không thể xây dựng được một phương án sản xuất kinh doanh một cách khoa học, hợp lý để có thể thuyết phục Ngân hàng cho vay vốn. Nếu Ngân hàng phải cho vay theo chỉ thị ở trên, thì một dữ án như vậy cũng không đảm báo tính an toàn cho khoản cho vay, ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Hai là, quy mô về vốn của DNVVN thường hạn chế, khả năng tự chủ về vốn chưa cao nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình có nhiều bất trắc, rủi ro dẫn đến tình trạng mất vốn, các doanh nghiệp này khó có thể tự cân đối nguồn vốn của mình để trả nợ cho Ngân hàng. Từ đó, làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay của nhân hàng.
Ba là, trình độ công nghệ của một số DNVVN còn yếu. Do quy mô tài chính nhỏ, bên cạnh đó trình độ thẩm định các thiết bị hiện đại thấp, nên các DNVVN không thường xuyên đổi mới được các dây chuyền công nghệ hiện đại. Điều này làm cho các sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường: về số lượng, về chất lượng, giá cả, mẫu mã. Từ đó dẫn đến tình trạng hàng hoá không bán được, bị ứ đọng và các doanh nghiệp phải chấp nhận lỗ, bán để gỡ gạt. Và các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng.
Bốn là, năng lực quản lý điều hành của cán bộ lãnh đạo còn yếu kém. Nhiều Doanh nghiệp đã không thích ứng với sự biến động khi kinh tế thị trường có sự biến động mạnh. Và điều đó kéo theo gây nợ xấu cho các khoản tín dụng tại BIDV HN là dễ hiểu.
Năm là, điều kiện về TSBĐ để vay vốn Ngân hàng của DNVVN thường không đảm bảo. Nhiều doanh nghiệp không có TSBĐ để vay vốn, một số khác có TSBĐ nhưng không đủ điều kiện pháp lý, dẫn đến việc Ngân hàng không cho vay. Cũng có trường hợp, BIDV HN cho vay, nhưng khi doanh nghiệp không trả được nợ thì Ngân hàng khó khăn trong việc phát mãi TSBĐ để thu hồi nợ vay.
Sáu là, do đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp không rõ ràng. Luôn tồn tại các doanh nghiệp có ý định đối phó với Ngân hàng bằng việc cung cấp các số liệu không trung thực về năng lực cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp mình. Một số doanh nghiệp làm giả báo cáo tài chính, báo cáo sai lệch nhằm mục đích vay vốn. Trong trường hợp nếu không cẩn trọng trong công tác thẩm định, phân tích tín dụng, bản thân Ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro trong hoạt động cho vay.
c. Nguyên nhân từ môi trường.
Một là, nền kinh tế Việt Nam và thế giới những năm qua các nhiều biến động. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đã chứng kiến sự tăng giá kỷ lục của các mặt hàng quan trọng( xăng dầu, sắt thép, giá vàng…), sự thay đổi tỷ giá, thị trường chứng khoán biến động,… những biến động này có tác động rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế, gây ra lạm phát lớn ở nước ta. Hàng loạt mặt hàng tăng giá, nền kinh tế lạm phát, thị trường chứng khoán biến động lên xuống… khiến cho hoạt động của Ngân hàng cũng bị ảnh hưởng không ít, đặc biệt là hoạt động cho vay đối với DNVVN. Các Ngân hàng tăng lãi suất cho vay, làm giảm đi một số lượng tín dụng khá lớn. Các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN thì khó khăn trong việc chống đỡ với sự biến động của nền kinh tế, ảnh hưởng hoạt động sản xuất, ảnh hưởng đến việc thanh toán nợ cho Ngân hàng.
Hai là, môi trường pháp lý tại Việt Nam chưa đồng bộ và đầy đủ. Mặc dù khi Việt Nam gia nhập WTO, hệ thống pháp luật đã được điều chỉnh khá nhiều để phù hợp với tiến trình hội nhập, nhưng nói chung, các văn bản pháp luật vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, chồng chéo nhau, gây cản trở cho việc thực hiện các văn bản luật, vân bản dưới luật…Chính sách tín dụng thì chưa ổn định, lại được áp dụng một cách tràn lan, phân tán nên việc đầu tư trở nên mất tập trung.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DN VVN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh trong năm 2008
Trên tinh thần phát huy tối đa những kết quả đạt được năm 2007, tiếp tục bám sát các nhiệm vụ kinh doanh năm 2008 của NH ĐT&PT VN, trong năm 2008 toàn chi nhánh tiếp tục quyết tâm phấn đấu theo định hướng: Thực hiện “kinh doanh tài sản nợ”, bảo đảm tăng trưởng tín dụng ổn định lành mạnh, tập trung thu hồi hết nợ xấu, thu hồi tối đa nợ ngoại bảng, phát triển các sản phẩm dịch vụ bán lẻ nhằm tăng thu phí dịch vụ. Cụ thể, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sau:
Tổng nguồn vốn huy động: 6000 tỷ đồng.
Dư nợ cho vay nền kinh tế:1600 tỷ đồng, trong đó phấn đấu chuyển đổi danh mục cho vay đạt cơ cấu: 50-30-20 (khoảng 50% dư nợ nhóm khách hàng lớn: 30% dư nợ khách hàng vừa và nhỏ: 20% dư nợ đối với khách hàng cá nhân)
Nợ quá hạn: đến 31/12/2008 dưới 1%.
Nợ xấu: đến 31/12/2008 không còn nợ xấu.
Mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ, tiện ích Ngân hàng, phấn đấu có những dịch vụ trọn gói phục vụ khách hàng. Thu phí dịch vụ tối thiểu là 8,5 tỷ đồng
Lợi nhuận đã trích dự phòng rủi ro: tối thiểu 55 tỷ đồng.
3.2 Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay đối với DN VVN tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển thành phố Hà Nội
3.2.1 Thiết lập chính sách cho vay hợp lý
Chính sách cho vay là một hệ thống các nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thông qua chính sách cho vay, Ngân hàng sẽ có cơ sở để thiết lập kế hoạch kinh doanh dài hạn, chủ động trong việc điều hành và giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính sách cho vay của BIDV HN nên được xây dựng một cách hài hoà và bám sát theo mục tiêu cho vay của Ngân hàng là “ an toàn,chất lượng,hiệu quả” . Bên cạnh đó nó cũng nên được phối hợp chặt chẽ và phù hợp với các chính sách của Ngân hàng như chính sách maketing, quản lý tài sản nợ và có, đầu tư, chính sách nguồn nhân lực, chính sách định giá,…
Chính sách cho vay của Ngân hàng phải có cơ sở tham khảo cho các CBTD và hướng dẫn cho các CBTD thực hiện công việc của mình một cách tự tin trong quyền hạn được phép.Trong chính sách cho vay, BIDV HN nên cụ thể hoá được những yếu tố cơ bản như : giới hạn cho vay đối với những ngành nghề khác nhau, quy mô, địa bàn đầu tư, danh mục đầu tư…để từ đó có thể định hướng được hoạt động kinh doanh và hạn chế rủi ro của Ngân hàng. Chính sách cho vay của Ngân hàng cũng nên đề ra quy trình cụ thể trong việc kiểm tra giám sát hoạt động cho vay, xây dựng mục tiêu hoạt động cho vay hợp lý theo định hướng phát triển của nền kinh tế, góp phần thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá Thủ Đô. Kiên quyết không cho vay với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ, phương án vay vốn không khả thi, không hiệu quả hoặc những doanh nghiệp thường xuyên chây ì trong việc trả nợ vay Ngân hàng.
3.2.2 Đa dạng hoá các loại TSBĐ tiền vay.
Ngân hàng từng bước áp dụng đa dạng hoá các loại TSBĐ tiền vay nhằm tạo điều kiện nâng cao khả năng đáp ứng TSBĐ của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể xem xét chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận từng phần các loại TSBĐ là bất động sản như : nhà ở, khách sạn, cửa hàng, nhà kho,...và các tài sản khác gắn liền với đất đai, kể cả tài sản gắn với nhà ở, công trình xây dựng. Ngoài ra đối với các TSBĐ là bất động sản, bên cạnh các TSBĐ truyền thống như tiền trên tài khoản, hàng hoá , máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, Ngân hàng cũng nên mở rộng việc nhận thế chấp với các loại tài sản như những giấy tờ khác trị giá được bằng tiền, cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, quyền tác giả,… Từng bước mở rộng đối tượng TSBĐ theo hướng: giá trị của TSBĐ đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm; TSBĐ có đầy đủ cơ sở pháp lý, thuận tiện cho Ngân hàng trong việc xử lý tài sản. Việc đa dạng hóa TSBĐ sẽ tháo gỡ cho các doanh nghiệp nhất là các DNVVN để điều kiện vay vốn Ngân hàng. Vận dụng hình thức bảo đảm thích hợp với các loại kỹ thuật cho vay để vừa tạo điều kiện cho các DNVVN có dự án, phương án kinh doanh khả thi, có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn đúng đắn được dễ dàng hơn trong việc tiếp cận vốn vay, vừa làm động lực thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng.
3.2.4 Thực hiện tốt công tác phân tích khách hàng
Việc phân tích, đánh giá khách hàng vay vốn một cách đúng đắn là một trong những yếu tố then chốt góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay của Ngân hàng. Qua việc phân tích, đánh giá giúp cho Ngân hàng thấy được tư cách của người vay vốn, khả năng vay vốn hiện tại, khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó tạo lập được cơ sở cho Ngân hàng làm căn cứ làm quyết định cho vay đúng đắn. Hiện nay, đối với việc cho vay các DNVVN, BIDV HN cần chú ý đến một số nội dung sau :
3.2.4.1 Tư cách của khách hàng vay vốn
Ngân hàng cần xem xét khách hàng có đầy đủ tư cách pháp nhân hay chưa thông qua việc xem xét các quyết định thành lập, quyết định tổ chức, giấy phép kinh doanh của khách hàng. Ngoài ra,thông qua kỹ năng và kinh nghiệm của các CBTD cũng cần xem xét thêm một số thông tin về khách hàng như : lịch sử quan hệ của khách hàng với Ngân hàng, giữa khách hàng với bạn hàng. Những thông tin khách hàng cung cấp có nhất quán và phù hợp với những gì được trình bày trong hương án,dự án kinh doanh của khách hàng không? Các thông tin trong quá khứ của khách hàng có tốt không? Nếu là khách hàng mới thì tại sao lại đến BIDV HN để vay?...
3.2.4.2 Năng lực của khách hàng vay vốn.
Việc xem xét kỹ lưỡng năng lực của các doanh nghiệp nhất là các DNVVN là rất quan trọng. Nó giúp cho Ngân hàng thấy được khả năng quản lý, tổ chức sản xuất và điều hành của các nhà quản lý, các giám đốc của các doanh nghiệp, ngoài ra nó còn cho thấy khả năng về vốn, công nghệ, khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất, khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm…của các doanh nghiệp để từ đó đưa ra quyết định cho vay chính xác.
3.2.4.3 Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng.
BIDV HN cần chú ý và thường xuyên hơn nữa trong việc phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Đối với các DNVVN thì cần chú ý đến hai chỉ tiêu chính là: doanh thu và kết quả kinh doanh. Qua việc phân tích chỉ tiêu doanh thu và bản chất của nó sẽ giúp cho Ngân hàng thấy được khả năng tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất của khách hàng, doanh thu tăng làm cho doanh nghiệp có điều kiện trả nợ Ngân hàng. Đối với chỉ tiêu kết quả kinh doanh của khách hàng, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao thể hiện quá trình kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả, khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên,khi phân tích chỉ tiêu này cũng cần hết sức thận trọng để có được những đánh giá chính xác về kết quả kinh doanh của khách hàng, tránh tình trạng một số doanh nghiệp hiện nay mà chủ yếu là các DNVVN lập báo cáo quyết toán sai sự thật, báo cáo lãi trong khi hoạt động kinh doanh thua lỗ nhằm mục đích vay vốn Ngân hàng hay một số các doanh nghiệp khác nâng khống chi phí nhằm mục đích giảm lãi để tránh nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.Cả hai trường hợp trên đều dễ làm cho Ngân hàng có những nhận định sai về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó làm cho quyết định của Ngân hàng trong việc xét duyệt cho vay không chính xác.
3.2.4.4 Tình hình tài chính của khách hàng.
Phân tích tài chính của doanh nghiệp giúp cho Ngân hàng đánh giá được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.Có rất nhiều các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp để Ngân hàng có thể dựa vào đó tiến hành phân tích,tuy nhiên,tạiBIDV HN,khi cho vay đối với các DNVVN nên tập trung phân tích một số nhóm chỉ tiêu sau: nhóm chỉ tiêu thanh khoản ( tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán trung bình), nhóm tỷ lệ sinh lời, nhóm tỷ lệ rủi ro.
3.2.5 Tái xét tín dụng và phán hạn tín dụng.
Ngân hàng cần phải thường xuyên hơn trong việc thực hiện tái xét tín dụng. Ngân hàng nên thành lập bộ phận này hoạt động một cách độc lập.Thông qua hoạt động này, Ngân hàng đánh giá được các khoản cho vay theo những tiêu chí quản trị khác nhau như xếp loại theo chất lượng tín dụng, theo khả năng hoạt động, theo quy mô, nhu cầu vay vốn của khách hàng…Qua việc tái xét tín dụng, Ngân hàng có điều kiện thanh tra, kiểm tra lại hoạt động cho vay của Ngân hàng đảm bảo hoạt động cho vay được an toàn, đúng hướng có hiệu quả.
3.2.6 Nâng cao chất lượng CBTD và thuê chuyên gia thẩm định nếu thấy cần thiết.
Một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay của Ngân hàng là yếu tố con người. Muốn nâng được chất lượng thẩm định dự án,phương án vay vốn của khách hàng, BIDV HN cần phải có một đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi, được đào tạo hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng…Muốn vậy, Ngân hàng cần quan tâm thích đáng đến việc đào tạo cán bộ, coi đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xay dựng nên một đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn, có hiểu biết về quy trình, kỹ thuật thẩm định dự án, phương án vay vốn của khách hàng, biết thu thập xử lý những thông tin cần thiết ,có hiểu biết nhất định về tình hình kinh tế xã hội trong nước cũng như quốc tế để đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên thường xuyên giáo dục về tư tưởng, phẩm chất đạo đức đối với đội ngũ CBTD, tránh tình trạng một số CBTD tha hoá về đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm, không trung thực hoặc cấu kết với doanh nghiệp lừa đảo để chiếm đoạt vốn vay Ngân hàng…làm thất thoát tiền của nhà nước và nhân dân.
Đối với các dự án lớn, phức tạp, các khách hàng hoạt động đa dạng thì các cán bộ giỏi đến đâu cũng khó có thể thẩm định được đầy đủ, chính xác, nhất là thẩm định về mặt kỹ thuật, tính đồng bộ của thiết bị, công nghệ, giá của thiết bị, thị trường tiêu thụ sản phẩm, các chi phí liên quan khác của dự án, phương án vay vốn của khách hàng. Chính vì vậy, vấn đề thuê chuyên gia, kể cả chuyên gia nước ngoài là rất cần thiết. Để làm tốt điều này, BIDV HN cần tập hợp đội ngũ các chuyên gia, các cộng tác viên, nghệ nhân giỏi ngoài Ngân hàng tham gia thẩm định dự án, phương án vay vốn. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng nhằm gắn được lợi ích và trách nhiệm của các chuyên gia,các nhà khoa học…để vừa có thể tận dụng được tối đa kiến thức chuyên môn,kinh nghiệm của họ vừa được ngăn ngừa được việc để lộ bí mật về kế hoạch kinh doanh, kỹ thuật công nghệ…của khách hàng.
3.2.7 Thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ là một công việc hết sức quan trọng và trong những năm vừa qua công tác này đã đạt được những thành công đáng kể, góp phần vào thành công trong hoạt động củaBIDV HN. Tuy nhiên, để công tác kiểm soát được phát huy hơn nữa thì Ngân hàng phải nhận thức được đầy đủ hơn về vai trò của hoạt động này, cần có sự phối hợp giữa kiểm tra chuyên trách với kiểm tra kiểm soát tại chỗ ở mỗi bộ phận chuyên môn.Ngân hàng cũng cần có những quy định cụ thể để phân đinh rõ hơn chức năng nhiệm vụ của bộ phận kiểm tra kiểm soát để phát huy tối hiệu quả của bộ phận này đồng thời tránh sự chồng chéo làm ảnh hưởng đến các công tác khác.Ngoài ra, do quy mô hoạt động của BIDV HN hiện nay đang có sự phát triển mở rộng, số lượng các doanh nghiệp tham gia vay vốn ngày càng nhiều nhất là các DNVVN nên nội dung và phương pháp hoạt động kiểm tra kiểm soát của BIDV HN cũng nên được cải tiến theo hướng cần kiểm tra kiểm soát thường xuyên hơn nhưng thời gian mỗi đợt kiểm tra không nên kéo dài,công tác kiểm tra nên nhanh gọn nhẹ,không cồng kềnh chỉ kiểm tra chọn mẫu một số đơn vị đang hoạt động hoặc một số đơn vị có tình hình phúc tạp để công tác kiểm tra kiểm soát của Ngân hàng vừa không làm xáo trộn hoạt động chuyên môn khác vừa có tác dụng kiểm tra nhắc nhở thương xuyên việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ của CBTD. Cùng với việc thương xuyên kiểm tra theo dõi việc chấp hành quy trình hoạt động cho vay của các quy trình khác của Ngân hàng, bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ cũng cần phân tích, đánh giá các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, trong đó phải đặc biệt chú ý đến những rủi ro trong hoạt động cho vay đối với DNVVN như hiện tượng lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích, kết cấu với cán bộ cho vay làm giả, làm sai lệch hồ sơ vay vốn, hồ sơ kinh tế chiếm dụng vốn Ngân hàng…để tham mưu cho ban giám đốc thực hiện việc quản lý có hiệu quả. Bên cạnh đó, bộ phận này cũng cần làm tốt công tác kiến nghị, chỉnh sửa bổ sung và xử lý các sai phạm sau khi kiểm tra. Có như vậy, các nội quy, quy trình công tác của Ngân hàng mới không bị xem nhẹ, kỷ cương được giữ vững và có tác dụng ngăn ngừa được những sai phạm tiếp theo.
3.2.8 Nâng cao chất lượng công tác thông tin
Trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải có đầy đủ thông tin về khách hàng vay vốn. Các thông tin cơ bản về khách hàng như : doanh nghiệp đã từng vay bao nhiêu tiền, vay của ai, tình hình trả nợ, hiệu quả vay vốn, thị trường của sản phẩm…là vô cung quan trọng để Ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay. Đó là một công việc không phải dễ dàng, nhất là khi xem xét cho vay đối với các DNVVN, bởi vì việc khai thác các thông tin từ chính các doanh nghiệp này rất hạn chế, tính chính xác của các thông tin khó kiểm định…Đó là còn chưa kể tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép,chiếm dụng vốn bất hợp pháp,gây rủi ro tổn thất đến Ngân hàng.Vì vậy muốn đạt được hiệu quả cao,an toàn cần phải có hệ thống thông tin khách hàng để phục vụ cho công tác này.Hiện nay,việc thu nhập thông tin khách hàng để phục vụ công tác cho vay của BIDV HN cơ bản được lấy từ nguồn hệ thống thông tin tín dụng NHNN từ trung tâm thông tin tín dụng của NH ĐT&PT VN và các nguồn khác do Ngân hàng thu thập. Nguồn số liệu của NHNN chủ yếu do các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp cung cấp nên nguồn này còn gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin dẫn tới những số liệu thông tin do NHNN cung cấp chưa được cập nhật, độ tin cậy thấp. Chính vì vậy, các thông tin này là không đủ cho Ngân hàng đánh giá đúng khả năng và thực trạng của khách hàng để quyết định cho vay. Nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng NH ĐT&PT VN còn thiếu thốn hơn nữa, thậm chí số liệu còn sai rất nhiều so với thực tế. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, BIDV HNcần phải có những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để tự khai thác, tìm kiếm, trang bị cho mình những thông tin về doanh nghiệp và dự án, phương án vay vốn của họ. Ngân hàng cần thành lập một bộ phận chuyên thu thập và xử lý dữ liệu, bộ phận này sẽ phối hợp với tất cả các bộ phận nghiệp vụ có liên quan trong Ngân hàng để thu thập thông tin về khách hàng ngay từ bên trong Ngân hàng. Ngoài ra nó còn thu thập thông tin qua các nguồn khác như: thông tin từ các cuộc hội thảo, thông tin của các NHTM, của NHNN, của các bộ ngành có liên quan và của Chính Phủ…Việc thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác sẽ góp phần làm cho quyết định cho vay của Ngân hàng được nâng cao.
3.2.9 Tổ chức sắp xếp lại mô hình hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Do quy mô hoạt động ngày càng lớn, số lượng khách hàng giao dịch vay vốn Ngân hàng càng nhiều nên hoạt động cho vay của BIDV HN cũng cần phải có sự cải tiến, sắp xếp lại cho phù hợp với thực tế, rút gon được thời gian giao dịch của khách hàng.
Mô hình tổ chức hoạt động của Ngân hàng nên cải tiến theo tiêu thức “hướng vào khách hàng” tức là khách hàng được hướng dẫn một cách cụ thể, tỷ mỉ các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp thông qua một đầu mối duy nhất.Theo mô hình này,Ngân hàng nên lập ra một bộ phận hoặc một phòng khách hàng chuyên tiếp nhận những yêu cầu của khách hàng , hướng dẫn khách hàng làm những thủ tục cần thiết theo quy định của Ngân hàng, thực hiện việc kiểm tra và xử lý các thông tin mà khách hàng cung cấp. Sau đó bộ phận hoặc phòng này sẽ tự chuyển các hồ sơ chứng từ có liên quan đến các phòng xử lý nghiệp vụ để giải quyết. Như vây,khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng chỉ phải giao dịch qua một cửa,hơn nữa chính bộ phận này lại nắm được thông tin về khách hàng một cách tổng hợp, đầy đủ cả về năng lực và uy tín của khách hàng. Từ đó có những quyết định đúng đắn,góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
3.3 Những kiến nghị với các bộ, ngành có liên quan nhằm phát triển hoạt động cho vay đối với DN VVN tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam.
Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, các DNVVN hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh vai trò và tiềm năng rất to lớn của mình trong việc sản xuất hàng hoá, máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất của xã hội, nhất là cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp, các DNVVN còn góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động,toạ ra sự phát triển cân đối giữa các vùng kinh tế…Chính vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp này cần có sự quan tâm, phối hợp và giúp đỡ hơn nữa của Nhà Nước, các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho các DNVVN phát huy vai trò và tầm quan trọng của mình trong nên kinh tế xã hội, đồng thời góp phần ngăn ngừa được những nguy cơ rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này.
3.3.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước
Một là, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật và các văn bản khác một cách rõ ràng,chính xác và hạn chế sự thay đổi trong một thời gian ngắn.
Hai là, cần bảo đảm cung cấp thông tin về các DNVVN một cách chính xác,kịp thời, đầy đủ cho các NHTM. Nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng NHNN thông qua việc phối hợp với các cơ quan ban ngành khác trong việc thu thập và xử lý thông tin về các doanh nghiệp như: bộ tài chính, các cơ quan thuế, Bộ kế hoạch và đầu tư, các chính quyền địa phương, các NHTM và cả các doanh nghiệp…Làm tốt vấn đề này sẽ giúp cho các NHTM có điều kiện thuận lợi tiếp nhận những thông tin cần thiết về các doanh nghiệp và môi trường hoạt động đầu tư của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đầu tư một cách chính xác.
Ba là, NHNN cần tăng thêm quyền tự chủ cho các NHTM, để cho các NHTM tự do cạnh tranh một cách bình đẳng trước pháp luật.
Bốn là, cần áp dụng một cách linh hoạt những công cụ như : lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thi trường mở…để điều tiết cung cầu tiền tệ trên thị trường và những diễn biến bất thường của lãi suất. Tránh để tình trạng nền kinh tế bị “ khát” vốn hay bị “đóng băng” về vốn, đồng thời tránh sự can thiệp quá sâu về mặt kỹ thuật nghiệp vụ của NHNN vào hoạt động của các NHTM.
Năm là, cần có một quy chế cho vay và quy chế miễn giảm lãi áp dụng riêng đối với các DNVVN để các NHTM có căn cứ cụ thể hơn nữa trong việc thực hiện cho vay đối với hình thức doanh nghiệp này.
Sáu là, NHNN cần nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát các NHTM trong hoạt động cho vay nhất là cho vay đối với các DNVVN. Hoạt động này có thể được tiến hành theo phương thức giám sát từ xa hay kiểm tra tại chỗ. Bên cạnh việc tìm ra những bất cập trong hoạt động cho vay của các NHTM, công tác thanh tra còn phải nêu lên được những kiến nghị, giải pháp để tháo gỡ, sửa chữa cho các NHTM để từ đó nâng cao được chất lượng quản lý của NHTM trong hoạt động cho vay, hạn chế và ngăn ngừa các rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng. Để làm tốt công tác này, NHNN cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác thanh tra, tránh một tình trạng phổ biến hiện nay một số cán bộ thanh tra hiện nay có trình độ chuyên môn thấp khi vào thanh tra NHTM không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn ro các món vay hay của khách hàng vay, một số khác do không nắm chắc quy trình cho vay và các văn bản có liên quan hiện hành nên đưa ra những đòi hỏi,yêu cầu không cần thiết, không sát với thực tế, không tập trung thanh tra vào nội dung chủ yếu của công tác cho vay, dẫn đến hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát chưa cao.
3.3.2 Đối với BIDV HN
Một là, việc mở rộng mạng lưới huy động vốn là yêu cầu bức xúc của BIDV HN. Nó giúp cho Ngân hàng có thể nâng cao khả năng tiếp cận với thị trường, thu hut vốn.
Hai là,BIDV HN cần xây dựng và có những hướng dẫn riêng, cụ thể hơn về chính sách cho vay đối với các DNVVN. Chính sách cho vay phải phù hợp với thực trạng và đặc điểm của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải có một trương trình phối hợp giữa NH ĐT&PT VN và các chi nhánh trong việc triển khai cho vay đối với các DNVVN, qua đó có thể trao đổi kinh nghiệm, thông tin và hỗ trợ nhau trong công tác theo rõi, quản lý doanh nghiệp.
Ba là, BIDV HN nên thường xuyên tổ chức các chương trình hộ thảo, các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho vay đối với các doanh nghiệp cho các CBTD trong toàn hệ thống. Thông qua các chương trình này, CBTD sẽ có được cái nhìn toàn diện hơn và nâng cao được kỹ năng quản lý, kỹ năng phân tích của mình. Bên cạnh đó, để không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác cho vay, BIDV HNcũng nên tạo điều kiện hơn nữa về thời gian và vật chất cho cán bộ tham gia các chương trình đào tạo trong nước và quốc tế.
Bốn là, cần phát triển và hoàn thiện hơn nữa mạng lưới thông tin về các DNVVN để các chi nhánh tham khảo thêm thông tin trước khi ra quyết định cho vay. Nguồn thông tin cần phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Trước mắt, nên phối hợp với một số đơn vị có nhiều thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực này trong trao đổi,thu thập thông tin về các DNVVN.
3.3.3 Đối với nhà nước
Một là, cần đơn giản hoá thủ tục và đẩy mạnh việc thành lập và đăng ký các doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các Công ty cổ phần mới. Tạo điều kiện để các DNVVN có thể nhanh chóng chuyển đổi hình thức sở hữu vốn, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN nhất là các DNVVN.
Hai là, Nhà nước cần sớm chỉ đạo bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng với cán bộ, ngành và địa phương ban hành các hướng chiến lược cho sự phát triển của DNVVN. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những chính sách nhất quán hỗ trợ toàn diện cho sự tăng trưởng nhanh chóng và sự phát triển lành mạnh của DNVVN.
Ba là, thực sự đối sử bình đẳng và công bằng đối với các DNVVN trước pháp luật, nhất là bình đẳng khi tiếp cận với các nhân tố sản xuất, đặc biệt là đất đai, những ưu đãi của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và cơ hội tham gia vào các kinh doanh đầu tư nước ngoài.
Bốn là, Nhà nước cần có những chính sách xây dựng hệ thống thông tin thị trường,hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu để tạo điều kiện cho các DNVVN có căn cứ chính xác trong việc hoạch định kế hoạch kinh doanh của mình. Vì hiện nay, việc tìm hiểu các thông tin về thị trường đối với các DNVVN là rất khó khăn.
Năm là, cần tạo điều kiện và có những chính sách thông thoáng hơn trong việc cấp đất hoặc cho thuê đất đối với các DNVVN để giúp các doanh nghiệp này có điều kiện triển khai mở rộng sản xuất, đồng thời nhà nước cũng cần cải tiến hệ thống cấp giấy phép đối với việc thực hiện chuyển quyền sử dụng đất để giảm bớt sự phiền toái, quan liêu, không có hiệu quả kinh tế và tạo kẽ hở để một số cán bộ trong lĩnh vực này lạm dụng chức quyền, yêu sách, tham nhũng.
KẾT LUẬN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới nói chung cũng như ở Việt nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, chiếm tới gần 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 25% GDP và thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều công ăn việc làm và góp phần làm chuyến dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, đúng với tính chất tên gọi của doanh nghiệp là Doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở Việt nam hiện nay các doanh nghiệp này đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Không những thế, việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng, đối với lọai hình doanh nghiệp này là tương đối khó khăn do tính chất, đặc điểm của doanh nghiệp thường mang lại cho các ngân hàng tâm lí thận trọng khi cho vay. Trong khi đó, hoạt động cho vay đối với các ngân hàng là hoạt đông thiết yếu, mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển nền kinh tế nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng. Chính vì vậy các Ngân hàng thương mại nên tạo điều kiện thuận lợi nhất để hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh được hiệu quả, vừa nâng cao chất lượng, uy tín của ngân hàng trong hoạt động cho vay, vừa thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng phát triển được an toàn và bền vững.
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển thành phố Hà Nội vừa qua, với mong muốn được góp phần giúp cho Chi nhánh phát triển hơn nữa hoạt động cho vay đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, bài viết xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị đối với các Bộ ngành có liên quan, với hi vọng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Thành phố Hà Nội cũng như toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư& Phát triển Việt Nam sẽ ngày càng dạt được những kết quả tốt nhất trong hoạt động kinh doanh cũng như nâng cao hơn nữa vị thế của mình trên thị trường.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện chuyên đề, do những kiến thức về lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những góp ý từ các thầy cô giáo để chuyên đề được hoàn thiện hơn,. Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Trần Việt Hà
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2004) , Nhà xuất bản Thống kê.
Tiền và hoạt động ngân hàng – Lê Vinh Danh (1996), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Tạp chí ngân hàng.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- Frederic S.Mishkin.
Luật các tổ chức tín dụng 1997, 2004.
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997.
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước.
Nghị định số 52/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ.
Trang web các ngân hàng, thông tin kinh tế.
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ&PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ&PHÁT TRIỂN, CHI NHÁNH HÀ NỘI
Họ tên cán bộ nhận xét:
Chức vụ:
Nhận xét về quá trình thực tập của sinh viên : Trần Việt Hà
(Tại phòng tín dụng khách hàng vừa và nhỏ)
Lớp: Ngân hàng 46Q
Khoa: Ngân hàng – Tài chính
Trường: Đại học Kinh tế quốc Dân
Nhận xét:
Hà Nội, ngày….. tháng 5 năm 2008
Chữ ký của cán bộ nhận xét
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28597.doc