3.1.1. Thiết lập kênh trao đổi thông tin với các Ngân hàng trong và ngoài nước:
Bên cạnh những sản phẩm truyền thống thì hiện nay trên thế giới đang có xu hướng sử dụng một số nghiệp vụ thanh toán mới như factoring, forfaiting, L/C back to back, Việc nghiên cứu, ứng dụng và áp dụng các sản phẩm mới sẽ đem lại nhiều ưu thế cùng lợi thế cho ngân hàng, lại phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Tuy nhiên để có thể ứng dụng các sản phẩm này vào trong hoạt động TTQT thì phải thực hiện các công việc như: Phân định rõ ràng trách nhiêm giữa các phòng ban liên quan như: Quan hệ khách hàng, Quan hệ ngân hàng đại lý, Quản lý các đề án công nghệ, Trung tâm tin học, Tổng hợp thanh toán, Ngoài ra cũng cần có sự phân trách nhiệm giữa Hội sở chính và chi nhánh nhằm đảm bảo xây dựng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng về cả nghiệp vụ và thời gian.
62 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1705 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ham mưu cho Đại Hội Cổ Đông, cơ quan thuộc thẩm quyền cấp dưới của Ban Kiểm Soát là Phòng kiểm toán nội bộ.
Có 03 cơ quan tham mưu cho Hội Đồng Quản Trị là: Văn phòng Hội Đồng Quản Trị; Hội đồng quản lý tài sản nợ, tài sản có; Hội đồng tín dụng
Có 11 phòng ban, trung tâm, bộ phận tham mưu cho Ban điều hành
Có 02 công ty trực thuộc VPBANK là: Công ty Quản lý tài sản VPBANK và Công ty Chứng khoán VPBANK
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng VPBANK:
Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của VPBANK:
Kể từ khi thành lập đến nay, VPBANK đã có những thành công nhất định trong một số lĩnh vực kinh doanh chủ yếu sau:
Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá nhân
Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước
Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác
Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân
Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành
Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng
Thực hiện kinh doanh ngoại tệ
Huy động nguồn vốn từ nước ngoài
Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán quốc tế
Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt chuyển tiền nhanh Western Union
Các sản phẩm chủ yếu của VPBANK:
Ngân hàng VPBANK cung ứng rất nhiều loại sản phẩm dịch vụ cho rất nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, nhưng có thể chia làm hai nhóm sản phẩm chính tương ứng với hai nhóm khách hàng, đó là: Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân và nhóm sản phẩm dành cho khác hàng doanh nghiệp.
Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân bao gồm các sản phẩm: Tiền gửi tiết kiệm( Tiết kiệm thường và tiết kiệm rút gốc linh hoạt), tiền gửi thanh toán( Tiền gửi thanh toán thông thường và tiền gửi lãi suất bậc thanhg), tín dụng bán lẻ( Bao gồm: Sản phẩm cho vay tín chấp đối với cán bộ quản lý; sản phẩm cho vày tín chấp đối với nhân viên; sản phẩm ôtô cá nhân thành đạt; sản phẩm ôtô cá nhân kinh doanh; cho vay hỗ trợ kinh doanh cá thể và tiêu dung; cho vay trả góp mua nhà và cho vay cầm cố cổ phiếu các NHTM) và các sản phẩm- dịch vụ khác(Bao gồm: Dịch vụ bảo lãnh; dịch vụ chuyển tiền nhanh trong nước; dịch vụ kiều hối; dịch vụ thanh toán hóa đơn Bilbox và cho vay hỗ trợ du học)
Nhóm sản phẩm dành cho khách hàng doanh nghiệp bao gồm các sản phẩm: Tín dụng doanh nghiệp(Bao gồm: Sản phẩm ôtô doanh nghiệp kinh doanh; sản phẩm ôtô doanh nghiệp thành đạt; cho vay từng lần; cho vay chiết khấu chứng từ XK; cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng; cho vay hợp vốn; cho vay theo dự án đầu tư và cho vay theo hạn mức tín dụng); Dịch vụ thanh toán trong nước(Bao gồm: Mở tài khoản tiền gửi; trả lương qua tài khoản; thanh toán qua tài khoản và chuyển tiền) và dịch vụ thanh toán quốc tế(Bao gồm: Thanh toán bằng thư tín dụng L/C; thanh toán nhờ thu chứng từ và thanh toán bằng điện chuyển tiền).
Các chính sách hoạt động Marketinh và phát triển của VPBANK:
VPBANK luôn chú trọng việc tăng cường đẩy mạnh các chính sách và hoạt động marketing và coi đó là một yếu tố không thể thiếu được để đạt tới thành công trong kinh doanh. Các hoạt động marketing của VPBANK được thể hiện qua các hoạt động như: Tăng cường việc xây dựng thương hiệu băng cách thay đổi logo thể hiện ý chí và mục tiêu hướng tới của ngân hàng; tham gia tài trợ cho các chương trình truyền hình lớn và tham gia các hoạt động xã hội
Ngoài ra VPBANK còn luôn chú trọng phát triển mạng lưới phân phối rộng khắp trên các tỉnh thành, các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm lớn trong cả nước. Hiện tại VPBANK có hơn 100i nhánh và phòng giao dịch tại 34 tỉnh thành trên cả nước. Ngoài ra VPBANK còn mở hai công ty trực thuộc phục vụ cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng đó là: Công ty quản lý tài sản VPBANK và công ty chứng khoán VPBANK.
Về chính sách phát triển sản phẩm thì từ 2004 đến nay VPBANK cũng đã đưa ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng phục vụ và hiệu quả cao như: Tiết kiệm VNĐ bù trừ trượt giá; huy đông tiết kiệm VNĐ bảo đảm bằng USD; thí điểm sản phẩm cho vay mua căn hộ chung cư thế chấp bằng chính căn hộ mua; thành lập Trung tâm thẻ và phát hành các thẻ của chính ngân hàng VPBANK; cho vay cầm cố bằng cổ phiếu các NHTM; cho vay cầm cố bằng trái phiếu chuyển đổi của các NHTM; ….
Nguồn vốn và cơ cấu vốn của VPBANK:
Vì mới được thành lập từ năm 1993 đến nay, lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997- 2000 nên quy mô vốn của VPBANK còn thấp. Tuy nhiên từ năm 2004 trở lại đây quy mô về vốn của VPBANK không ngừng tăng lên, ngân hàng đã thực hiện rất nhiều biện pháp tăng vốn, trong đó có việc bán cổ phần cho ngân hang OCBC của Singapo và đưa cổ phiếu của VPBANK lên niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng dưới đây thể hiện chỉ tiêu tài chính qua các năm, từ 2004 đến 2007:
Bảng 2: Kết quả kinh doanh Đơn vị: Triệu VNĐ
Kết quả kinh doanh
( Trong năm )
2007
2006
2005
2004
Tổng thu nhập hoạt động
1.233.851
995.003
470.226
286.170
Tổng chi phí hoạt động
(920.347)
(839.195)
(394.017)
(226.092)
Lợi nhuận trước thuế
313.504
156.808
76.209
60.078
( Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK)
Bảng 3: Các chỉ tiêu về tài sản Đơn vị: Triệu VNĐ
Các chỉ tiêu về tài sản
( Đến 31/12 )
2007
2006
2005
2004
Tổng tài sản có
18.214.856
10.159.301
6.093.163
4.149.288
Tiền huy động
15.355.843
9.065.194
3.178.389
3.872.813
Cho vay
13.217.426
5.031.190
3.014.209
1.865.364
Vốn cổ phần
1.041.389
750.000
309.386
198.409
( Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK)
Như vậy theo bảng 1 và 2 thì lợi nhuận của VPBANK liên tục tăng nhanh trong các năm từ 2004 đến 2007. Trong đó tổng thu nhập các hoạt động luôn tăng nhanh hơn tổng chi phí các hoạt động. Đi đôi với việc tăng lợi nhuận là Tổng tài sản của ngân hàng cũng tăng nhanh. Trong đó vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng.
Hiệu quả của hoạt động kinh doanh và cung ứng dịch vụ của ngân hàng VPBANK:
Theo bảng và các số liệu trên thì có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của VPBANK là rất tốt. Lợi nhuận liên tục tăng nhanh, quy mô tài sản liên tục tăng. Ngoài ra việc liên tục mở rộng mạng lưới giao dịch rộng khắp cũng thể hiện việc kinh doanh và cung ứng dịch vụ của VPBANK đang rất có hiệu quả. Bên cạnh đó một tín hiệu cũng rất khả quan của VPBANK đó là các công ty trực thuộc như Công ty Chứng khoán VPBANK và Công ty Quản lý tài sản VPBANK cũng có những kết quả hoạt động tốt ( Lợi nhuận từ công ty Chứng khoán VPBANKđạt 38.9 tỷ đồng, từ công ty Quản lý tài sản VPBANK đạt trên 2 tỷ đồng ).
Tuy nhiên trong cơ cấu nguồn vốn của VPBANK vẫn còn tỷ lệ nợ xấu và tuy rằng có xu hướng giảm trong những năm gần đây: Năm 2004 là 0.5%; năm 2005 là 0.75% và năm 2006 là 0.58% và năm 2007 là 0.49% nhưng vẫn có thể coi là còn cao và có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống.
Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2004- 2007:
Tình hình chung về hoạt động thanh toán XNK tại VPBANK:
Hoạt động TTQT của VPBANK vẫn tăng trưởng đều đặn trong những năm qua. Đến cuối năm 2007, trị giá L/C NK đạt 82.4 triệu USD, tăng 21.351 triệu USD so với năm 2006 (61.049 USD ), trị giá L/C xuất thông báo là 7.16 triệu USD, tăng 1.505 USD so với năm 2006 ( 5.655 USD ). Đặc biệt doanh số chuyển tiền TTR đạt 152.623 triệu USD, tăng 72.545 triệu USD so với năm 2006 ( 80.078 USD ). Doanh số nhờ thu XNK đạt 8.174 triệu USD, tăng 3.015 USD so với năm 2006 ( 5.159 USD ) và thu phí dịch vụ luỹ kế đạt 10.541 tỷ đồng, tăng 4.419 tỷ đồng so với năm 2006 ( 6.122 tỷ đồng ). Như vậy kim ngạch thanh toán XNK của VPANK tiếp tục tăng trưởng dương trong năm 2007 vừa qua bất chấp tình hình cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng kể từ trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO ( 7/11/2006). Bảng dưới đây cho ta thấy tình hình tăng trưởng trong hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK trong những năm 2004- 2007:
Bảng 4: Chỉ tiêu các hoạt động TTQT 2004- 2007 Đơn vị: 1.000 USD
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Trị giá L/C NK trong kỳ
26.834
38.225
61.049
82.420
Trị giá L/C XK thông báo trong kỳ
6.028
6.243
5.655
7.160
Doanh số chuyển tiền TTR
29.346
44.685
80.078
152.623
Doanh số nhờ thu ( XNK )
1.935
3.618
5.159
8.174
Tổng số phí thu được ( triệu đồng )
3.913
4.015
6.122
10.541
(Nguồn: Báo cáo thường niên- Ngân hàng VPBANK)
Từ bảng số liệu trên cho thấy, các chỉ tiêu trong TTQT của VPBANK không ngừng tăng trong các năm từ 2004- 2007 và các hoạt động TTQT chủ yếu là thanh toán L/C NK và thanh toán chuyển tiền TTR. Tổng kim ngạch thanh toán XNK các năm: 2006 là 151.941 triệu USD, chiếm 0.1809% tổng kim ngạch XNK cả nước; 2007 là 260.918 triệu USD, chiếm 0.24% tổng kim ngạch XNK cả nước. Mặc dù kim ngạch XNK của VPBANK năm 2007 có tăng tỷ trọng lớn hơn trong tổng kim ngạch XNK của cả nước so với năm 2006 nhưng con số này xem ra vẫn là nhỏ so với tổng kim ngạch XNK cả nước là 109.21 tỷ USD. Như vậy tức là thị phần thanh toán XNK của VPBANK chỉ chiếm có 0.24% của cả nước. Nếu so với các ngân hàng khác như VIETCOMBANK chẳng hạn, ngân hàng này hiện đang là một trong những ngân hàng có thị phần và doanh thu trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước với doanh thu năm 2007 là hơn gần 30 tỷ USD với thị phần là 28%, gấp 116.7 lần so với 0.24% của VPBANK hay ngân hàng TECHCOMBANK cũng có kim ngạch XNK là 4.023 tỷ USD chiếm gần 3.7% thị phần thanh toán XNK cả nước.
Dưới đây là bảng thị phần thanh toán XNK của VPBANK giai đoạn 2004- 2007:
Bảng 5: Thị phần thanh toán XNK của VPBANK Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Xuất khẩu
0.078
0.086
0.117
0.172
Nhập khẩu
o.14
0.18
0.24
0.27
Tổng
0.11
0.13
0.18
0.24
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007
Trong năm 2007, doanh số của các hoạt động cụ thể như sau: Hoạt động huy động vốn đạt 15.355 tỷ đồng ( 959.688 triệu USD ); hoạt động tín dụng đạt 13.217 tỷ đồng ( 826.063 triệu USD ); hoạt động TTQT đạt 260.918 triệu USD; hoạt động kiều hối đạt doanh số chi trả là 29.452 triệu USD; doanh số mua và bán ngoại tệ là 784 triệu USD và doanh số. Trong đó tỷ trọng của hoạt động TTQT so với các hoạt động khác là 9.12%. Trong thời kỳ thương mại hàng hoá quốc tế phát triển như hiện nay mà tỷ trọng của hoạt động TTQT tại VPBANK chỉ chiếm chưa đầy 10% tỷ trọng trong các hoạt động thì vẫn còn là rất khiêm tốn. Khách hàng TTQT của VPBANK cũng đa phần là các doanh nghiệp nhỏ, các cá nhân. Các hình thức chính chủ yếu là chuyển tiền TTR, thanh toán L/C nhập khẩu các lô hàng có giá trị không lớn.
Thanh toán XK tại VPBANK:
Từ năm 2004- 2007, kim ngạch thanh toán XK của VPBANK vẫn tăng đều đặn về giá trị, mặc dù năm 2006 có giảm so với năm 2005 từ 6.243 triệu USD xuống còn 5.655 triệu USD nhưng lại tăng lên7.160 triệu USD năm 2007. ( Bảng 4)
Bảng 6: Kim ngạch thanh toán XK của VPBANK Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
VPBANK
20.561
27.967
46.137
81.073
Cả nước
26,503.000
32,442.000
39,600.000
47,238.000
Thị phần của VPBANK
0.078%
0.086%
0.117%
0.172%
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007)
Như vậy mặc dù tổng giá trị thanh toán XK của VPBANK có tăng trong giai đoạn này nhưng tỷ trọng trong tổng kim ngạch XK cả nước lại giảm hay nói cách khác là thị phần giảm.
Trong hoạt động thanh toán XK tại VPBANK thì phương thức thanh toán bằng chuyển tiền luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất về doanh số, kế đến là trị giá L/C XK và cuối cùng là nhờ thu XK. (Bảng 5 )
Bảng 7: Thanh toán XK tại VPBANK Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chuyển tiền TTR
13.752
20.553
38.214
70.059
Trị giá L/C XK
6.028
6.243
5.655
7.160
Nhờ thu XK
0.781
1.171
2.268
3.854
Tổng
20.561
27.967
46.137
81.073
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007)
Các mặt hàng xuất khẩu chính được thanh toán qua VPBANK là: Gạo, thuỷ sản, hạt tiêu, hạt điều, các sản phẩm dệt may, giày dép. Tuy nhiên trong hình thức chuyển tiền TTR thì không ghi rõ mục đích cũng như các loại hàng hoá và dịch vụ thanh toán nên không thể thống kê cụ thể và không thể phân tích được.
Thanh toán NK tại VPBANK:
Thanh toán NK luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch thanh toán XNK qua VPBANK trong những năm qua. Khác với thanh toán XK, trong thanh toán NK thì phương thức thanh toán bằng chuyển tiền TTR chỉ chiếm tỷ trọng thứ hai, lớn nhất là thanh toán bằng L/C và nhỏ nhất là nhờ thu NK. ( bảng 6 )
Bảng 8: Thanh toán NK tại VPBANK Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chuyển tiền TTR
15.594
24.132
41.864
82.568
Trị giá L/C NK
26.834
38.225
61.049
82.420
Nhờ thu
1.154
2.447
2.891
4.320
Tổng
43.582
64.804
105.804
169.308
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007)
Bảng 9: Kim ngạch thanh toán NK của VPBANK Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
VPBANK
43.582
64.804
105.804
169.308
Cả nước
31,945.000
36,987.000
44,410.000
61,972.000
Thị phần của VPBANK
o.14%
0.18%
0.24%
0.27%
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007)
Cũng như thanh toán xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu cũng không thể xác định được cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu được thanh toán qua VPBANK, các loại nhập khẩu được thanh toán qua VPBANK chủ yếu là các mặt hàng tiêu dung, xăng dầu, sắt thép và máy móc thiết bị. Tuy nhiên qua các hình thức thanh toán bằng L/C và nhờ thu thì có thể nhận thấy mặt hàng được thanh toán NK qua VPBANK nhiều nhất là xăng dầu, kế đến là các mặt hàng tiêu dung, sau đó là sắt thép và cuối cùng là máy móc thiết bị.
Kết hợp bảng số liệu 7 và 8 cho thấy xu hướng chung của các doanh nghiệp Việt Nam là khi XK thì thường hay chon hình thức thanh toán đơn giản, chi phí thấp mà chủ yếu là bằng điện chuyển tiền TTR. Còn khi NK thì lại thanh toán bằng L/C. Đây là một xu hướng không có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động giao lưu buôn bán, thương mại quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế khác tại VPBANK:
Ngoài hoạt động thanh toán XNK bằng các hình thức như chuyển tiền, nhờ thu và L/C thì VPBANK còn đang thử nghiệm hình thức thanh toán bằng thẻ trả trước quốc tế VPBank Platinum EMV Master Card. Đây cũng là một hình thức hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển và cạnh tranh gay gắt mà rất nhiều ngân hàng khác cũng đã và đang thử nghiêm thành công.
Một hình thức khác liên quan đến việc hỗ trợ thanh toán đó là nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Có rất ít tài liệu và số liệu nói về hoạt động nay, nhưng nói chung là ngân hàng VPBANK vẫn cố gắng duy trì lượng ngoại tệ dự trữ để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ của khách hàng.
Đánh giá chung về hoạt động thanh toán quốc tế của VPBANK:
Những kết quả đạt được:
Mặc dù kết quả hoạt động thanh toán XNK tại VPBANK trong giai đoạn vừa qua là vẫn còn khiêm tốn nhưng nhìn chung là có những tiến triển nhất định, cụ thể là:
- Thứ nhất, là việc kim ngạch thanh toán XNK qua VPBANK liên tục tăng chứng tỏ ngân hàng ngày càng có được sự tin cậy từ phía khách hàng.
- Thứ hai, là cùng với việc tăng kim ngạch thanh toánh XNK qua VPBANK là việc mạng lưới ngân hàng đại lý ngày càng được mở rộng khắp nơi trên thế giới, hiệu quả hoạt động cao.
- Thứ ba, là trong ba phương thức TTQT chính là chuyển tiên, nhờ thu và L/C thì hình thức thanh toán bằng thư tín dụng L/C là hình thức ưu việt nhất, giảm thiểu được nhiều rủi ro trong TTQT nhất đối với các doanh nghiệp, mặt khác nó đem lại nguồn thu cao hơn và trách nhiệm của ngân hàng cũng nhiều hơn. Việc nay đồng nghĩa với việc ngân hàng phải có uy tín thì khách hàng mới tin tưởng mở L/C. Và trong tương lai phương thức này sẽ là hình thức thanh toán được áp dụng nhiều nhất. Mà trong khi đó trị giá L/C NK trong kỳ của VPBANK luôn luôn cao và tăng nhanh chứng tỏ sự tin cậy của các doanh nghiệp trong nước đối với VPBANK ngày càng mở rộng.
- Thứ tư, là công việc thử nghiệm hình thức thanh toán bằng thẻ trả trước quốc tế VPBank Platinum EMV Master Card đã có những dấu hiệu tích cực, mà trước hết là được sụ ủng hộ tích cực từ phía dư luận và chính phủ.
Những mặt còn hạn chế:
Trong giai đoạn 2004- 2007 vừa qua, đặc biệt là trong năm 2007 với rất nhiều thành tích đáng ghi nhận đối với VPBANK, đặc biệt là việc đi tiên phong trong lĩnh vực bán lẻ. Trong lĩnh vực TTQT cũng có những ghi nhận nhất định. Tuy nhiên ngoài những ghi nhân trên thì trong lĩnh vực TTQT của VPBANK vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Những hạn chế đó là:
- Sức cạnh tranh chưa cao so với các ngân hàng khác, ngay cả với các ngân hàng trong nước. Điều này thể hiện ở thị phần TTQT của VPBANK rất khiêm tốn là 0.24% trong khi của VIETCOMBANK là 28%, của TECHCOMBANK là 3.7% so với tổng kim ngạch TTQT của cả nước.
- Sự phối hợp giữa các bộ phận, các phòng ban chức năng tại Hội sở chính với Các chi nhánh không hiệu quả, chưa tạo được một hệ thống khép kín cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế tốt nhất cho khách hàng.
- Việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh là cần thiết cho sự phát triển, tuy nhiên nó làm nảy sinh mâu thuẫn và có sự cạnh tranh giành giật khách hàng bằng cách giảm mức phí chứ không phải là tăng các hoạt động tư vấn hỗ trợ và phục vụ khách hàng và xảy ra tình trạng không hỗ trợ lẫn nhau giữa các chi nhánh với nhau trong các hoạt động, trong đó có hoạt động TTQT.
- Việc TTQT cần rất nhiều ngoại tệ, tuy nhiên trong hệ thông ngân hàng VPBANK vẫn có lúc, có nơi xảy ra tình trạng ngoại tệ không sẵn có để thanh toán nên buộc phải từ chối mở L/C hoặc khi doanh nghiệp NK có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán thì cũng không có để bán.
- Chưa có những biện pháp và chính sách thích hợp để thu hút khách hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Ví dụ như công tác phục vụ và tư vấn cho khách hàng chưa được chu đáo, hơn nữa nguồn vốn cho hoạt động TTQT vẫn còn hạn hẹp, không chủ động trong quá trình thực hiện TTQT như kiểm tra chứng từ, thông báo những sai xót trong chứng từ thanh toán và những điểm cần lưu ý cho khách hàng.
- Trình độ tác nghiệp của nhân viên TTQT chưa cao, hầu như nhân viên chỉ làm một cách “máy móc” theo yêu cầu của khách hàng, chưa thực sự làm tốt công việc tư vấn cho khách hàng nên và không nên những gì trong hoạt động TTQT. Cán bộ TTQT chưa được cập nhập những thông tin liên quan đến diễn biến gias cả cũng như thị trương để có thể thận trọng hơn khi mở L/C và cũng để khuyến cáo khách hàng trong việc kiểm tra chứng từ trước khi thông báo với bên nước ngoài…
Nguyên nhân của hạn chế:
Những han chế của ngân hang VPBANK hay bất kỳ một tổ chức kinh tế nào cũng đều xuất phát từ nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan do các yếu tố khách quan và chủ quan tác động tới. Cụ thể:
Nguyên nhân khách quan:
Ngoài những yếu tố khách quan có tác động tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK còn có những yếu tố tác động không tốt, gây khó khăn và là nguyên nhân gây ra những hạn chế trong hoạt động TTQT của ngân hàng VPBANK. Các yếu tố đó có thể kể ra là:
- Rào cản thương mại và phi thương mại ở nhiều thị trường thế giới gây khó khăn cho hàng XK Việt Nam: Đặc biệt là các vụ kiện bán phá giá trong thời gian gần đây ở các thị trường Mỹ, Canada và EU đánh mạnh vào thủy sản, dệt may và giày dép đã khiến cho nhiều doanh nghiệp XK Việt Nam lao đao. Những sự kiện này làm giảm hoạt động XK của các doanh nghiệp Việt Nam và qua đó ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán XK tại VPBANK.
- Những nguyên nhân khách quan khác có tác động xấu đến XK trong nước về các mặt hàng thực phẩm: Thiên tai, nạn cúm gia cầm và dịch tiêu chảy cấp đã và đang làm giảm sút nghiêm trọng sản lượng và kim ngạch các mặt hang thực phẩm chế biến xuất khẩu của Việt Nam, từ đó làm giảm tốc độ phát triển của hoạt động TTQT tại VPBANK . Nguyên nhân này còn ảnh hưởng đến việc thu hút du lịch đến Việt Nam và từ đó ảnh hưởng xấu đến nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của VPBANK.
- Việc gia nhập WTO đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho các ngân hàng, trong đó có VPBANK. Nhưng nó cũng chứa đựng vô vàn thách thức lớn lao. Đơn cử là việc các ngân hàng trong nước mọc lên đông đúc, sự được phép hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là một thách thức lớn cho hoạt động của VPBANK nói chung và hoạt động TTQT của VPBANK nói riêng. Sự chia sẻ thị trường và cạnh tranh gay gắt trong hoạt động TTQT là khó tránh khỏi.
- Sự biến động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như: Trên thế giới đồng USD giảm giá, giá vàng tăng, giá dầu thô tăng…ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của VPBANK; trong nước gì giá cả, lạm phát leo thang, các ngân hàng chịu những chính sách như thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, tăng lượng dự trữ bắt buộc trong các NHTM làm ảnh hưởng đến lượng tiền mặt và khả năng thanh toán của các ngân hàng, trong đó có ngân hàng VPBANK, cụ thể là ảnh hưởng đến các nghiệp vụ thanh toán XK của VPBANK.
Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân khách quan khác tác động tiêu cực đến hoạt động TTQT của ngân hàng VPBANK như các yếu tố về chính trị, văn hóa, xã hội,… mà ngân hàng phải xem xét và tính đến.
Nguyên nhân chủ quan:
Trong những hạn chế mà ngân hang VPBANK hay bất kỳ một ngân hàng nào mắc phải đều một phần xuất phát từ những yếu tố chủ quan trong bản thân chính nội bộ ngân hàng. Các yếu tố này thương có tác động trực tiếp đến tính hiệu quả và sự phát triển của các hoạt động trong ngân hàng VPBANK. Các yếu tố đó bao gồm
- Công tác áp dụng các chính sách Marketing vào việc thu hút khách hàng vẫn còn hạn chế,chưa thực sự phát huy hiệu quả: Một thực tế hiện nay là vịêc nghiên cứu ứng dụng các chính sách Marketing vào để phát triển các hoạt động trong Ngân hàng là một quá trình khó khăn mà không phải ngân hàng nào cũng có khả năng thực hiện. Mặc dù hoạt động marketing đã được các chi nhánh chú trọng nhiều hơn nhưng vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả. Ngân hàng chỉ tìm biện pháp để gĩư chân khách hàng mà không chú trọng tìm biện pháp để khai thác những khách hàng tiềm năng khác. Những chiến lượng Marketing như phân tích khách hàng, phân tích đối thủ cạnh tranh, thực hiện xúc tiến hỗn hợp vẫn chưa được chú trọng. Chính vì vậy lượng khách đến ngân hàng thực hiện giao dịch dù có xu hướng tăng lên nhưng vẫn là không đáng kể so với một số ngân hàng khác. Các chi nhanh đã có nỗ lực trong việc thu hút khách hàng thực hiện TTQT qua VPBANK nhưng các chính sách thu hút còn chưa mang tầm chiến lược, chưa toàn diện, chưa chú trọng nâng cao thái độ phục vụ khách hàng.
- Việc giảm chi phí cho khách hàng mới chỉ dừng lại ở việc giảm phí dịch vụ mà chưa quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ, tư vấn và hướng dẫn khách hàng. Việc giảm phí dịch vụ này sẽ gây ra cạnh tranh không lành mạnh giữa các chi nhánh, từ đó làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động TTQT và sự phát triển của hoạt động này.
- VPBANK chưa có hệ thống thông tin về giá cả dịch vụ cụ thể của các ngân hàng đại lý để tư vấn, hỗ trợ cho khách hàng ngay khi họ chọn phương thức và ngân hàng để thực hiện hoạt động thanh toán trong giao dịch. Khi khách hàng có khiếu nại về các khoản chi phí bị từ chối thanh toán và bị trừ vào tiền hàng, các thanh toán viên chier biết xuất trình điện thông báo của nước ngoài liên quan đến các khoản phải thu, điều này sẽ dẫn đến khách hàng phiến lòng và mất tin cậy vào ngân hàng.
- Trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT chưa thật đồng đều: mặc dù đã được chú trọng trọng tuyển dụng, đào tạo cũng như trong việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ nhân viên làm việc, phát huy hết khả năng Song không phải cán bộ nào làm việc cũng đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, thái độ làm việc và phục vụ khách hàng của nhiều cán bộ nhân viên vẫn chưa được chu đáo, thiếu nhiệt tình, thiếu tinh thần trách nhiệm và chưa gây được cảm tình với khách hàng.
- Việc xây dựng các sản phẩm mới còn chậm nguyên nhân là nhiều bộ phận, nhiều chi nhánh còn ngần ngại trong việc tiếp cận với những sản phẩm mới từ đó dẫn tới không thực hiện được một số yêu cầu nhất định của khách hàng
- Thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận và các nghiệp vụ liên quan. Trong một số trường hợp thông tin và hồ sơ của khách hàng bị lưu giữ tại bộ phận khách hàng quá lâu, không kịp thời chuyển đến bộ phận nghiệp vụ liên quan để thống nhất hướng xử lý.
Trên đây là một số nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng lớn đến hoạt động TTQT của ngân hàng. Vẫn còn nhiều nguyên nhân khác có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nay. Nhưng tóm lại những nguyên nhân này hoặc it hoặc nhiều, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động TTQT và sự phát triển của hoạt động này cũng như sự phát triển của cả hệ thống ngân hàng VPBANK.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế cho ngành Ngân hàng Việt Nam và cho VPBANK:
Định hướng phát triển chung của ngành Ngân hàng Việt Nam:
Ngày 07/11/2007, Việt Nam chính thức ra nhập WTO. Việc mở của nền kinh tế, tham gia vào quá trình hội nhập sâu rộng này đã đặt toàn bộ hệ thống các NHTM Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Trong suốt thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực triển khai các hoạt động trong khuôn khổ hợp tác, thực hiện cam kết quốc tế và chủ động phát triển quan hệ tài chính, ngân hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở đó, ngành ngân hàng Việt Nam cũng đã và đang xây dựng cho mình một kế hoạch và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó có phải kể đến Quyết định số 663/2003/QĐ- NHNN ngày 26/6/2003. Các định hướng lớn cho ngành ngân hàng bào gồm:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo lộ trình và bước đi phù hợp với khả năng của hệ thông ngân hàng Việt Nam. Thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trước hết là Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ, Hiệp định khung về Thương mại dịch vụ ( AFAS ) của ASEAN và WTO.
- Tăng cường vai trò ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng Việt Nam đối với thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTM Việt Nam trên thị trương chứng khoán trong nước và trên thị trường tài chính quốc tế.
- Mở cửa thị trường ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về quyền tiếp cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
- Tăng cường áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về hoạt động của NHTM, đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán và quy chế quan hệ bắt buộc giữa các ngân hàng trung gian với các ngân hàng Trung ương về tái cấp vốn, thị trường mở, thanh toán quốc gia vâ các chuẩn mực, nguyên tắc về thanh tra, giám sát ngân hàng
- Tham gia các điều ước quốc tế, các câu lạc bộ, các diển đàn khu vực và quốc tế về tiền tệ và ngân hàng.
Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại VPBANK:
Mục tiêu cho sự phát triển hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK là:
- Đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao hiệu quả của hoạt động TTQT
- Tăng thị phần trong lĩnh vực TTQT của ngân hàng VPBANK
- Nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về TTQT
Với những mục tiêu trên có thể định hướng cho hoạt động TTQT của VPBANK trong giai đoạn tiếp theo theo các kế hoạch cụ thể như sau:
- Từng bước cơ cấu lại các mảng hoạt động TTQT theo mô hình ngân hàng tiên tiến hiện đại gồm các khối: Khối tài trợ thương mại quốc tê, khối trung tâm chuyển tiền, khối định chế tài chính phù hợp với chiến lược và đề án tái cơ cầu, mở rộng kinh doanh và tăng vốn của VPBANK. Dự kiến kế hoạch này sẽ được thực hiện trong vòng 5 năm, từ 2008 đến 2012
- Ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng hoạt động TTQT, nhập thêm các máy ATM, liên kết với các ngân hàng khác, đảm bảo yêu cầu phục vụ đa dạng hóa các loại đối tượng khách hàng là tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và các cá nhân bằng các sản phẩm và dịch vụ phong phú thích hợp với từng loại đối tượng.
- Phấn đấu đưa trình độ nghiệp vụ về TTQT của VPBANK bắt kịp với các ngân hàng hàng đầu trong nước, khu vực và quốc tế, theo đúng chuẩn mực và tập quán ngân hàng quốc tế.
- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại với các ngân hàng, tổ chức tín dụng quốc tế, kể cả mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng khắp các châu lục, đặc biệt quan tâm đến các khu vực châu Phi và Nam Mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh XK hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế tại VPBANK
- Từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng, kể cả thanh toán quốc tế trực tiếp tại một số trung tâm ngân hàng tài chính lớn như Hồng Kông, Singapo và Mỹ
- Gắn liền hoạt động TTQT với các mảng khác của ngân hàng như huy động vốn, tín dụng kinh doanh ngoại tệ. Xây dựng chiến lược tổng thể về chính sách khách hàng, chính sách Marketing, chính sách về sản phẩm, chính sách về giá cả dịch vụ đồng bộ với các chính sách về vốn, tín dụng, ngoại tê,… thì mới hỗ trợ và thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động TTQT phát triển. Ngược lại, hoạt động TTQT phải đóng vai trò như một mắt xích quan trong góp phần gắn kết các hoạt động còn lại của ngân hàng trong một hệ thống liên hợp thống nhất và hoạt động trơn tru.
Giải pháp cấp vĩ mô:
Đối với Nhà nước:
Quy định và áp dụng các tiêu chuẩn về sản xuất và chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu:
Hiện nay rất nhiều các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trong nước không có một tiêu chuẩn hay một quy trình sản xuất có khoa học phù hợp với luật pháp quốc tế. Có thể kể đến các doanh nghiệp và các hộ nuôi cá tra và cá basa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long. Do không có chế độ sổ sách ghi chép đầy đủ về quy trình nuôi trồng và chế biến cá nên đã thua trong các vụ kiện bán phá giá tại Mỹ, EU và Nhật Bản, vốn là các thị trường lớn của Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những quy định về việc áp dụng các chế độ sổ sách khoa học, các tiêu chuẩn kỹ thuật về sản xuất và sản phẩm. Để làm được điều này thì các doanh nghiệp một mặt phải chấp hành quy định của Nhà nước, một mặt phải chủ động thay đổi và cải tiến chính mình cho phù hợp với những quy định của Nhà nước và luật pháp quốc tế. Trong vòng từ nay đến hết năm 2009 có thể thí điểm áp dụng tại một số doanh nghiệp và địa phương, sau đó sẽ tiến hành áp dụng trên cả nước và hoàn thành phấn đấu hoàn thành vào năm 2014. Có như vậy mới thúc đẩy ngoại thương và xuất khẩu hàng hoá trong nước phát triển, từ đó thúc đẩy hoạt động TTQT phát triển.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về ngân hàng nói chung và thanh toán quốc tế:
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến các hoạt động kinh tế như: Luật thương mại, Luật ngân hàng, Luật dân sự, Pháp lệnh chứng khoán, sửa đổi Luật thuế, thay đổi Nghị định quản lý ngoại hối,… Tuy nhiên có những điều luật vừa ban hành đã không phù hợp hoặc không đồng bộ với những điều luật khác.
Trong lĩnh vực TTQT cũng vậy, Nhà nước và chính phủ nên sớm ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động thanh toán XNK để tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng trong hoạt động này. Tạo cơ chế thông thoáng, chính sách khuyến khích phát triển cho hoạt động này. Có thể là một Nghị định về TTQT đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch trong hợp đồng ngoại thương của người mua, người bán với giao dịch tín dụng chứng từ giữa các ngân hàng. Mối quan hệ về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của người NK, XK và ngân hàng khi tham gia sử dụng thư tín dụng, mối quan hệ này cũng cần được pháp lý hóa trên cơ sở luật pháp quốc gia. Để tạo hành lang pháp lý cho giai đoạn này giữa ngân hàng và khách hàng, cần ký kết thỏa thuận chung mang tính nguyên tắc trong giao dịch bằng văn bản. Để thực hiện có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cần có những văn bản quy định trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý các chứng từ khi chuyển tiền ra nước ngoài. Như vậy, việc ban hành một văn bản pháp lý về TTQT là cần thiết và cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan nhằm tạo sự nhất quán cho việc ban hành và thi hành văn bản trên.
Nhanh tróng rà soát, sửa đổi , bổ sung cơ chế chính sách và các văn bản pháp quy phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, tài chính và ngân hàng. Tiếp tục sửa đổi Luật về ngân hàng và các văn bản hướng dẫn kèm theo, tập trung vào những vấn đề chủ yếu như: Nâng cao vị thế và tính độc lập, tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng, nâng cao năng lược thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Dự kiến các văn bản pháp lý này sẽ được từng bước hoàn thành trong các năm tiếp theo và hoàn thiện và năm 2012. Có như vậy thì các ngân hàng thương mại trong nước mới có cơ sở pháp lý trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động TTQT vì hoạt động này có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Từ đó, nâng cao sức cạnh tranh và có thể dân nâng cao trình độ nghiệp vụ trong TTQT nhằm phục vụ có hiệu quả hơn trong điều kiện hội nhập ngày nay.
Tiến hành tự do hóa các giao dịch tài chính:
Quá trình tự do hóa tài chính quốc tế có vai trò vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị của quốc gia.
Những lợi ích có thể thu được khi tự do hóa lĩnh vực tài chính- ngân hàng như sau:
- Tự do di chuyển nguồn vốn sẽ cho phép các nước có nguồn tài chính hạn chế sẽ có thể thu hút đức nguồn tài chính của nước khác đầu tư vào các dự án có hiệu quả trong nước, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đa dạng hóa các hình thức đầu tư của mình, đồng thời phân tán rủi ro thông qua việc đầu tư rộng rãi hơn. Cụ thể là tự do hóa giao dịch vốn sẽ cho phép cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí là các quốc gia có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng bằng cách vay từ nước ngoài, khi thu nhập tăng lên thì trả nợ nước ngoài. Từ do hóa giao dịch vốn sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài thu được tỷ lệ lợi nhuân cao hơn có thể và sẽ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Khi xu thế mở cửa, tăng cường giao lưu buôn bán quốc tế ngày càng tăng, nhu cầu chi trả, thanh toán cho các giao dịch vãng lai ngày càng tăng, và chủ yếu đây là những khoản thanh toán, chi trả cho các nhu cầu thường xuyên cần thiết với giá trị không lớn. Việc tự do hóa giao dich ngoại tệ sẽ giúp giảm bớt các chi phí xã hội, giảm bớt phiền hà cho người dân khi có nhu cầu mua ngoại tệ chuyển ra nước ngoài vì những mục đích hợp pháp, các nhà đầu tư chuyển lợi nhuần về nước khi kinh doanh có lãi,…
Vì vậy trong vòng 5 năm tới, Nhà nước nên chủ động nới lỏng các quy định về tài chính- ngân hàng và tiến tới tự do hoá lĩnh vực này, một mặt vừa theo đúng lộ trình đã cam kết với WTO, một mặt vừa tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động của các ngân hàng phát triển, đặc biệt là hoạt động TTTQT
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ thống ngân hàng ở Việt Nam:
Tổ chức tốt thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái ở Việt Nam:
Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để các NHTM mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tạo điều kiện phục vụ TTQT được thực hiện tốt. Thông qua thị trường này, Ngân hàng Trung ương có thể điều hành tỷ giá cuối cùng một cách linh hoạt và chính xác nhất. Hoàn thiên và phát triển thị trường này để làm cơ sở cho việc hình thành thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam sau này, chúng ta cần thực hiện ngay các hình thức giao dịch như: Đa dạng hóa các ngoại tệ, các công cụ TTQT được mua bán trên thị trường. Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như ngân hàng Trung ương, các NHTM, những người môi giới, các tổ chức tín dụng,… nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động với tỷ giá chuẩn hơn, sát với thực tế hơn.
Chỉ khi thực hiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái phát triển thì mới đảm bảo có một tỷ giá linh hoạt, hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị trường phát triển. Tỷ giá thích hợp sẽ khuyến khích XK và hạn chế NK, góp phần mở rộng sản xuất và tái sản xuất trong nước.
Tiến hành hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống thanh toán quốc tế trên toàn hệ thống và xây dựng kênh trao đổi thông tin giữa các ngân hàng:
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc cập nhập thông tin một cách kịp thời và chính xác có thể nói là vấn đề sống còn đối với các NHTM. Hoàn thiện và chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ, quản lý nghiệp vụ ngân hàng, nhất là những nghiệp vụ ngân hàng cơ bản theo hướng tự động hóa, ưu tiên phát triển các nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ tín dụng, kế toán, quản lý rủi ro và hệ thống quản lý thông tin. Phát triển hệ thống thanh toán điện tử và hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trên phạm vị toàn quốc nhằm hình thành một hệ thống thanh toán quốc gia thống nhất và an toàn, tiến tới tự động hóa hoàn toàn hệ thống thanh toán ngân hàng.
Ngày 07/11/2006 là ngày đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập và phát triển của Việt Nam, chính thức trở thành thành viên của WTO, và chúng ta đã mở cửa thị trương, chào đón các nhà đầu tư nước ngoài vào. Ngành ngân hàng cũng không ngoại lệ. Và cạnh tranh đã, đang và sẽ diễn ra ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng trong nước mà còn với cả các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính rất mạnh, mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Chỉ có một hệ thống quản lý và thông tin hiện đại mới giúp các ngân hàng Việt Nam đương đầu và cạnh tranh ngang bằng với họ, chỉ có tích cực đi trước đón đầu công nghiệ, hiên đại hóa hệ thống thanh toán thì mới đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay.
Điều chỉnh các chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ một cách hợp lý:
Trước tình hình giá cả leo thanh như hiện nay, Ngân hàng Trung ương nên có những chính sách tài khoá và tiền tệ thích hợp để một mặt vừa giảm được tốc độ làm phát, một mặt vẫn đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, không rơi vào suy thoái. Ví dụ như nhà nước có thể giảm thuế đối với một số mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng có liên quan đến nhiều mặt hàng khác như xăng dầu chẳng hạn, hay điều chỉnh lượng tiền cung ra thị trường một cách hợp lý. Và nên kết hợp các chính sách này với nhau thì sẽ thu được hiệu quả cao. Vì lạm phát và giá cả là một vấn đề nhạy cảm và vừa mang tính chất trước mắt, vừa mang tính chất lâu dài nên Ngân hàng Trung ương nên sớm có các chính sách điều chỉnh cho hợp lý, mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế. Có hạn chế được lạm phát thì Ngân hàng Nhà nước mới có thể nới lỏng chính sách thắt chặt tiền tệ đối với các ngân hàng thương mại, khi đó các ngân hàng thương mại mới có thể mở rộng các nghiệp vụ, trong đó có nghiệp vụ TTQT.
Và điều kiện áp dụng tất cả các chính sách này là cả Chính phủ, Nhà nước, Ngân hàng Trung ương, toàn bộ hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp cùng thống nhất thực hiện triệt để các chính sách do Nhà nước và Ngân hàng Trung ương đưa ra. Có như vậy thì mới thúc đẩy toán bộ nền kinh tế phát triển và thúc đẩy hoạt động TTQT phát triển.
Giải pháp cấp vi mô:
Xuất phát từ mục tiêu phát triển của ngân hàng VPBANK là trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu trong nước và khu vực.
Xuất phát từ thực tế hoạt động và từ những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK, ta có thể đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế và tiến tới phát triển toàn diện hoạt động TTQT tại VPBANK như sau:
Xây dựng những mô hình mới, hiện đại cho Ngân hàng VPBANK:
Mô hình mới được xây dựng cần dựa trên nền tảng công nghệ thuộc chương trình dự án “Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng và hệ thống TTQT” của WB.
Đối với hoạt động tài trợ thương mại, mô hình phân cấp chi nhánh hoạt động đầy đủ và mô hình hoạt động không đầy đủ chưa phải là một mô hình hoàn thiện mà chỉ là bước đi đầu tiên trên con đương tập trung hóa và chuyên môn hóa trong hoạt động thanh toán XNK tại VPBANK. Có thể phân đoạn quá trình tập trung hóa và chuyên môn hóa thanh toán XNK thành ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn I ( 2008- 2009): Phân loại và hoàn thiện quy trình tác nghiệp, quy trình luân chuyển chứng từ giữa các chi nhánh hoạt động đầy đủ và chi nhánh hoạt động không đầy đủ.
Giai đoạn II ( 2009- 2010 ): Sắp xếp hoạt động thanh toán XNK theo hướng đẩy mạnh tài trợ thương mại thanh toán XNK, phát triển các sản phẩm tài trợ mới, tiếp tục tập trung hóa xử lý các giao dịch thanh toán thương mại tại các chi nhánh có chất lượng xử lý cao.
Giai đoạn III ( 2010- 2012 ): Ứng dụng mô hình các phòng dịch vụ thanh toán thương mại tại các chi nhánh chịu trách nhiệm tiếp thị, quảng bá, cung ứng các sản phẩm thanh toán thương mại bên cạnh các Trung tâm miền chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch thanh toán thương mại. Tối đa có thể là 2 hoặc 3 Trung tâm miền trên toàn lãnh thổ.
Các trung tâm này phù hợp với thực tế phát triển của các trung tâm thương mại, công nghiệp tại Việt Nam, phù hợp với xu hướng tập trung hóa các ngân hàng hiện đại trên thế giới và với tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ ngân hàng tại VPBANK. Để mô hình này đi vào thực tế thì cần phải:
- Tăng cương công tác kiểm tra, giám sát số lượng và chất lượng xử lý các giao dịch thanh toán XNK theo từng chi nhánh
- Tiếp tục nâng cấp chương trình xử lý để các chi nhánh không trực tiếp xử lý vẫn có thể đứng danh trong các giao dịch.
Với hoạt động vốn là một trong những hoạt động được giao dịch chính tại VPBANK dự kiến sẽ tập trung hóa toàn bộ hoạt động chuyển tiền trong nước cũng như ngoài nước để ứng dụng công nghệ xử lý tự động giao nhận chứng từ, đơn giản hóa các khâu và nghiệp vụ tác nghiệp để các chi nhánh có điều kiện tập trung vào công tác khách hàng.
Xây dựng, mở rộng và phát triển hệ thống và quan hệ ngân hàng đại lý cả trong nước và quốc tế:
Chủ trương của Nhà nước ta hiện nay là mở rộng thị trương XK, thúc đẩy kinh tế ngoài thương phát triển. Đặc biệt trong thời gian tới đây sẽ tiếp tục xúc tiến thương mại sang các khu vực thị trường còn nhiều tiềm năng chưa khai thác hết, đó là chât Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh. VPBANK cũng không thể bỏ qua cơ hội này. Muốn vậy phải tích cực mở rộng quan hệ đại lý với các NHTM ở khu vực này, để từ đó đáp ứng kịp thời chủ trương của Nhà nước, phù hợp với xu thế phát triển của thị trường. Với hơn 200 ngân hàng đại lý trên hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng số ngân hàng đại lý tại các khu vực kể trên còn rất ít. Chính vì vậy mà trong thời gian tới VPBANK có thể sẽ phải chú trọng tới việc mở rộng quan hệ đại lý tới các khu vực này để có thể tận dụng được mọi thời cơ và có thể đón bắt được các cơ hội từ xu thế của thị trường.
Nghiên cứu và phát triển các chính sách Marketinh quốc tế:
Khách hàng chính là người quyết định tới sự thành công hay thất bại của công tác TTQT nói riêng cũng như tất cả các hoạt động của VPBANK nói chung. Chính vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong hệ thống để có thể đưa ra được những chính sách Marketing phù hợp nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần thanh toán quốc tế cho VPBANK.
Tùy thuộc vào tính đặc thù của địa bàn, các chi nhánh có thể tổ chức cuộc hội thảo theo nhóm khách hàng như: Khách hàng dệt may, giày dép, thủy sản, dầu mỏ, thủ công mỹ nghệ,… để có thể giới thiệu, cảnh báo những điểm cần lưu ý khi thực hiện giao dịch. Cần theo dõi một cách có hệ thống chất lượng dịch vụ của các ngân hàng để có thể tư vấn cho khách hàng lựa chọn ngân hàng phù hợp nhằm giảm chi phí cho khách hàng. Nghiên cứu xây dựng văn bản thỏa thuận với khách hàng cho từng dịch vụ nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng cũng như của ngân hàng trong giao dịch.
Bên cạnh đó tiếp tục xây dựng và hoàn thiện biểu chi phí dịch vụ ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng. Điều này là quan trọng vì nó đem lại lợi ích lớn nhất không chỉ cho khách hàng mà còn cho chính VPBANK.
Tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm quảng bá hình ảnh và thương hiệu của ngân hàng tới khách hàng trong và ngoài nước. Tiếp tục xây dựng hình ảnh một ngân hàng VPBANK thân thiện gần gũi với khách hàng. Phấn đấu trong vòng 2 năm nữa sẽ đưa hình ảnh của VPBANK đến với hầu hết các khách hàng trong nước và đến với nhiều khách hàng quốc tế.
Thiết lập kênh trao đổi thông tin với các Ngân hàng trong và ngoài nước:
Bên cạnh những sản phẩm truyền thống thì hiện nay trên thế giới đang có xu hướng sử dụng một số nghiệp vụ thanh toán mới như factoring, forfaiting, L/C back to back,… Việc nghiên cứu, ứng dụng và áp dụng các sản phẩm mới sẽ đem lại nhiều ưu thế cùng lợi thế cho ngân hàng, lại phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Tuy nhiên để có thể ứng dụng các sản phẩm này vào trong hoạt động TTQT thì phải thực hiện các công việc như: Phân định rõ ràng trách nhiêm giữa các phòng ban liên quan như: Quan hệ khách hàng, Quan hệ ngân hàng đại lý, Quản lý các đề án công nghệ, Trung tâm tin học, Tổng hợp thanh toán,… Ngoài ra cũng cần có sự phân trách nhiệm giữa Hội sở chính và chi nhánh nhằm đảm bảo xây dựng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng về cả nghiệp vụ và thời gian.
Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các thành tựu công nghệ mới, hiện đại vào thanh toán quốc tế của Ngân hàng VPBANK:
Việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động TTQT sẽ là một trong những bước tiến quan trọng trong giai đoạn phát triển tiếp theo của ngân hàng VPBANK. Thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động TTQT sẽ tạo điều kiện thực hiện tốt mục tiêu chiến lược dài hạn của ngân hàng. Hiện nay, việc triển khai ký kết hợp tác với một số ngân hàng lớn trên thế giới về ứng dụng công nghệ mới, nhập 1000 mày ATM là một bước đi tích cực đáng khích lệ của VPBANK trong việc đổi mới công nghệ của ngân hàng vào phục vụ cho các hoạt động thanh toán trong nước và TTQT. Hiện VPBANK đang triển khai dự án khai thác phần mềm mới ( T24 ) để phát triển các sản phẩm dịch vụ hiện đại ( Internet Banking; SMS Bankinh và các sản phẩm dịch vụ khác ). Dự án này sẽ giúp cho các khách hàng thực hiện nghĩa vụ TTQT của mình một cách dễ dàng hơn. Dự kiến đến hết năm 2009 sẽ thí điểm thành công phần mềm này và đưa vào hoạt động trên phạm vi cả nước. Phải luôn luôn theo dõi và cập nhập thông tin về các công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ các cán bộ thanh toán quốc tế và tăng cường công tác kiểm tra giám sát tại các chi nhánh của ngân hàng:
Với mục tiêu nâng cao trình độ chuyên môn, chủ động trong công việc, có khả năng tiếp thu tốt, áp dụng các kỹ thuật mới, kỹ năng xử lý giao dịch linh hoạt. Đặc biệt quan tâm đào tạo cán bộ TTQT cho các chi nhánh để cán bộ có thể nhánh tróng nắm bắt kiến thức cơ bản về bán hàng và xử lý hồ sơ ở mức sơ bộ trước khi chuyển về các trung tâm và các chi nhánh lớn, đào tạo chuyên sâu các nghiệp vụ TTQT, trong đó chú ý tới các nghiệp vụ mới như factoring, forfaiting, L/C back to back,… Tiếp tục hợp tác đào tạo tại Việt Nam và tại nước ngoài với các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới. Cùng với việc đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ TTQT là việc tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với tất cả các hoạt động tại các chi nhánh và các phòng giao dịch để đảm bảo hoạt động an toàn và phát triển bền vững cho ngân hàng, từ đó đáp ứng và phục vụ tốt nhất nhu cầu TTQT của khách hàng cả trong và ngoài nước.
KẾT LUẬN
Việt Nam bắt đầu thực hiện cải cách kinh tế từ những năm cuối thập niên 80. Chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ quản lý theo mệnh lệnh hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế quốc tế cũng vậy, từ nền ngoại thương độc quyền khép kín buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa là chính, đến mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, các thương nhân Việt Nam có cơ hội thử sức trên một thương trường rộng lớn.
Trong hơn 16 năm qua, việc mở của nền kinh tế đã mang lại những bước chuyển biến tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế, đối với hoạt động của các NHTM cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực XNK. Kim ngạch XNK tăng mạnh qua các năm. Có được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các NHTM với tư cách là trung gian thanh toán cho hoạt động XNK. Thông qua công tác TTQT các NHTM giúp cho hoạt động TTQT được diễn ra nhanh tróng, liên tục và đạt hiệu quả cao, ổn định tâm lý cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng đa dạng của thương mại quốc tế, các nghiệp vụ TTQT của các NHTM nhiều lúc và ngày càng tỏ ra có nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhứng đòi hỏi ngày càng cao của thương mại quốc tế và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích kinh tế quốc gia.
Do vậy khi nghiên cứu đề tài “Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng VPBANK” em đã tập trung phân tích tình hình TTQT tại ngân hàng VPBANK giai đoạn 2004- 2007 để qua đó rút ra được những ưu nhược điểm, những mặt tích cực cũng như tồn tại, hạn chế và những nhận xét chung. Từ những kết quả phân tích được, em đã mạnh dạn đề ra những định hướng và giải pháp để phát triển hoạt động TTQT tại ngân hàng VPBANK, trong đó có bao gồm cả những giải pháp ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, do trình độ có hạn, cộng với kinh nghiệm thực tiễn còn ít cho nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thếu sót. Do vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cố và các bạn để bài biết được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình “Kinh tế Quốc tế”- PGS.TS Đỗ Đức Bình, TS Nguyễn Thường Lạng, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội, 2004
2.Giáo trình “Nghiệp vụ thanh toán Quốc tế”- PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo, Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội, 2006
3.Giáo trình “Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương”- PGS Đinh Xuân Trình, Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo Dục, 1998
4. Báo cáo Tổng kết công tác thanh toán quốc tế của VPBANK giai đoạn 2003- 2007- Phòng Thanh
5.Báo cáo thường niên 2004- Ngân hàng VPBANK
Báo cáo thường niên 2005- Ngân hàng VPBANK
Báo cáo thường niên 2006- Ngân hàng VPBANK
Báo cáo thường niên 2007- Ngân hàng VPBANK
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26372.doc