Trong thời gian thực tập, dựa trên cơ sở lý luận thực tiễn và các kiến thức đã tiếp thu được em đã hoàn thành chuyên đề với đề tài : “Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM cổ phần Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm”.
Những nội dung được trinh bày mới chỉ là một khía cạnh, chưa thể hiện được hết toàn bộ hoạt động tín dụng của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các phướng hướng để thực hiện được mục tiêu phát triển tín dụng. Với thời gian thực tập có hạn, cũng như với kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của thầy, cô giáo cũng như các cô chú, anh chị trong ngân hàng để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
101 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Chính vì vậy việc lựa chọn hướng đi nào cho phù hợp, để phát huy được những thuận lợi và hạn chế được nhũng khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và trước mắt là giai đoạn 2006-2010 với mục tiêu phát triển thêm 320.000 doanh nghiệp mới và tạo thêm việc làm cho khoảng 2,7 triệu lao động, là một câu hỏi luôn được đặt ra và khuyến khích các ý kiến đóng góp. Hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ:
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, cải cách thủ tục hành chính và chính sách tài chính theo hướng tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và dịch vụ phát triển kinh doanh phát triển.
Về hoàn thiện khung khổ pháp lý: Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật nói chung và khung khổ pháp luật kinh tế nói riêng theo hướng mọi công dân, tổ chức được quyền làm những gì pháp luật không cấm và Nhà nước đảm bảo khung pháp lý cho các hoạt động đó là một đòi hỏi tất yếu. Giai đoạn 5 năm tới, nền kinh tế bước vào giai đoạn hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, triển khai thực hiện các cam kết song phương và đa phương về kinh tế, tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng trên cơ sở hệ thống pháp lý đầy đủ, ổn định sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển cả về số lượng và chất lượng, thu hút thêm được mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Về nguyên tắc, một môi trường kinh doanh ổn định có nghĩa là ít có sự thay đổi về chính sách. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, nên các chính sách đều chưa hoàn thiện, thêm vào đó là đang chuẩn bị tham gia các cam kết song phương, đa phương, nên việc sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp với các cam kết đã ký là đòi hỏi mang tính khách quan. Nhưng theo phản ánh của các doanh nghiệp, hiện nay các chính sách được thay đổi quá nhanh đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của tất cả các doanh nghiệp.
Như vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế được những ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách đối với hoạt động của doanh nghiệp?
Lập kế hoạch xây dựng mới và/hoặc sửa đổi, bổ sung các luật, các văn bản pháp quy, trong đó chi tiết về dự kiến loại văn bản ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung; thời gian ban hành, thời gian văn bản có hiệu lực; hướng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; đối tượng điều chỉnh. Kế hoạch này được phổ biến công khai, để các đối tượng chịu ảnh hưởng có thể tiên liệu được để họ có thời gian lập kế hoạch điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp cho phù hợp.
Trong quá trình xây dựng pháp luật cần có sự tham gia rộng rãi của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và đặc biệt là sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp, doanh nhân là đối tượng áp dụng của loại văn bản đó.
- Công khai các chính sách, quy định mới và tiến hành đánh giá các tác động của các chính sách đó tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đẩy mạnh cải cách hành chính: Mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc cải cách hành chính, nhưng nhìn chung công tác hành chính ở nước ta vẫn tồn tại nhiều bất cập, năng lực của bộ máy nhà nước vẫn là khâu yếu, chậm thay đổi nhất, thể hiện trên các mặt như: nhận thức của bộ máy nhà nước nói chung chuyển biến không đồng đều giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan cùng cấp có liên quan, và chậm hơn nhiều so với những thay đổi của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn phong phú, năng động trong mấy năm qua; thái độ và tâm lý làm việc, phương thức và công cụ quản lý của các cơ quan có liên quan chưa có thay đổi một cách rõ nét để phù hợp với cơ chế, chính sách mới; tính khoa học, chuyên môn, chuyên nghiệp theo cơ chế thị trường trong các công việc của cơ quan nhà nước còn thấp; những bộ phận và công cụ cần thiết đối với thực hiện Luật Doanh nghiệp nói riêng, hỗ trợ và quản lý phát triển doanh nghiệp nói chung chưa được xây dựng, củng cố và tăng cường đúng như quy định. Có những công chức, kể cả thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp chưa nắm được những thay đổi cơ bản trong nội dung Luật Doanh nghiệp, có những cán bộ đầu ngành ở tỉnh cũng không nắm được tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ ảnh hưởng tới doanh nghiệp trong nước như thế nào; trong một số cơ quan chức năng, vẫn còn không ít công chức vừa kém năng lực, vừa kém đạo đức, đã gây nhiều cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp. Những tồn tại trên đã và đang gây khó khăn và tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi phải được nhìn nhận một cách khách quan để khắc phục nhằm đẩy nhanh hơn, mạnh hơn công tác cải cách hành chính trong thời gian tới theo hướng thân thiện hơn với doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giảm chi phí khởi sự doanh nghiệp đến mức cạnh tranh nhất so với các nước trong khu vực như tổ chức và thường xuyên duy trì đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp có thể nhận được những tham vấn về kinh doanh, nộp hồ sơ, thực hiện thủ tục hoàn thuế và khai thác thông tin sơ cấp một cách nhanh và rẻ nhất; giảm nhẹ thủ tục đăng ký kinh doanh thông qua việc thiết lập hệ thống nối mạng đăng ký kinh doanh toàn quốc.
Chính sách về tài chính: Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích khởi sự doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm. Đồng thời, thực hiện đổi mới chế độ kế toán, thống kê theo hướng đơn giản hoá, khuyến khích doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế.
Sửa đổi, bổ sung quy định về Thuế Thu nhập Doanh nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản hoá phương pháp và căn cứ tính thuế; giảm các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hoá chính sách ưu đãi, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi; thu hẹp khoảng cách giữa đối tượng nộp thuế khoán và đối tượng nộp thuế theo thu nhập, dần hạn chế áp dụng chế độ khoán thuế và tiến tới áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn. Khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.
Sửa đổi quy định về Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập khẩu theo hướng xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết và các quy tắc của hội nhập.
- Thực hiện các chính sách phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, đồng thời bảo vệ môi trường
Trong khi nhiều DNNN được giao đất và sử dụng không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiêu công sức và tiền bạc. Điều này đã góp phần hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp.
Nhằm giải quyết vấn đề về mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ số 180/2004/NĐ-CP, 181/2004/NĐ-CP, 188/2004/NĐ-CP..., đã quy định một số vấn đề cụ thể. Nhưng đến nay, việc thực hiện các quy định của Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn đều đang được triển khai và cũng còn gặp nhiều khó khăn.
Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất và có thể sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới tập trung giải quyết một số vấn đề:
Đổi mới các thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thủ tục giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất theo hướng cải cách thủ tục hành chính; Thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên toàn quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc khi có sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra.
Hình thành một hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất, đồng thời giúp Nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác định mục đích sử dụng đất; Xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất, giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư và thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu quả, lãng phí tài nguyên đất. Thực chất là đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn Luật này.
- Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các quỹ dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong khi các ngân hàng thương mại đều cho rằng họ không thiếu vốn để cho vay, nhưng có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể xây dựng kế hoạch khả thi thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn. Còn các doanh nghiệp thì lại cho rằng họ rất khó khăn trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Vấn đề ở đây là cung và cầu chưa gặp nhau và vai trò của Nhà nước là hỗ trợ tạo điều kiện để cung và cầu về tiền cho sản xuất - kinh doanh gặp được nhau. Cụ thể là:
- Về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp có khả năng lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục các ngân hàng cho vay vốn; khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn hình thành các quỹ tự giúp nhau…
- Về phía ngân hàng, Nhà nước cần nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi, bảo đảm lợi nhuận mà các ngân hàng thương mại thu được từ khoản vay của các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích: Thành lập những Quỹ, công ty bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; các quỹ đầu tư mạo hiểm; phát triển lĩnh vực cho thuê và cho vay không cần thế chấp; phát triển các mô hình tài chính vi mô bền vững về mặt tài chính và được quản lý một cách chuyên nghiệp theo hướng thị trường...
- Xúc tiến phổ biến thông tin, kỹ thuật - công nghệ tới doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như nâng cao năng lực của các doanh nghiệp này trong việc xác định, lựa chọn và thích ứng với công nghệ
Thiếu thông tin đang là một trong những rào cản lớn cho việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, trong kỳ kế hoạch tới, chúng ta cần tập trung mọi nguồn lực cần thiết cho việc thiết lập hệ thống thu thập và xử lý thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích việc hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, phát triển có hiệu quả các chương trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng thương mại, khuyến khích phát triển mô hình liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, trường kỹ thuật với doanh nghiệp .
- Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp.
Nhìn chung, trên thế giới việc liên kết doanh nghiệp luôn được đề cập dưới các hình thức là hiệp hội doanh nghiệp, liên kết chùm (cluster)... Tuy nhiên, ở Việt Nam cả 2 hình thức này mới chỉ phát triển ở mức hạn chế và hiệu quả hoạt động chưa cao. Do đó, cần có những chính sách phù hợp hơn để khuyến khích phát triển các hiệp hội theo hướng trợ giúp đào tạo cán bộ hội; các Bộ, cơ quan ngang Bộ hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để các hội tham gia các hoạt động thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật, tổ chức lấy ý kiến của hội để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực; trợ giúp phát triển các chùm công nghiệp trong các ngành công nghiệp phụ trợ; khuyến khích phát triển liên kết giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với các tổ chức nghiên cứu và giáo dục có trình độ phát triển cao thông qua chính sách trợ giúp phù hợp.
- Thực hiện trợ giúp có trọng điểm để tăng cường khả năng cạnh tranh của một số ngành hàng mà Việt Nam có lợi thế.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, vì tất cả các Chính phủ đều có nguồn ngân sách hạn chế, trong khi nhu cầu trợ giúp của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng là rất lớn và nhìn chung đều vượt quá khả năng của Chính phủ. Trong mỗi giai đoạn nhất định, mỗi quốc gia đều lựa chọn một số lĩnh vực mà quốc gia mình có lợi thế để tập trung phát triển. Đối với Việt Nam, trong điều kiện rất hạn chế về tài chính cho hoạt động trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ, chúng ta càng phải kiên định với nguyên tắc trợ giúp có trọng điểm, có thể việc trợ giúp chỉ thực hiện được với một số ít doanh nghiệp, nhưng đảm bảo rằng sau khi nhận được sự trợ giúp, doanh nghiệp đó có thể có được khả năng cạnh tranh. Hoạt động trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ cần tránh xu hướng chia đều và sự trợ giúp mà mỗi doanh nghiệp nhận được đều không giải quyết được khó khăn của doanh nghiệp như chúng ta đã làm trước đây.
- Khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh (BDS) theo định hướng của nền kinh tế thị trường, tách chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước.
Thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh là khái niệm tương đối mới ở Việt Nam. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, Nhà nước cung cấp và phân phối theo kế hoạch tất cả các dịch vụ và hàng hoá cho xã hội, do đó hầu như chúng ta không có các dịch vụ phát triển kinh doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì các dịch vụ phát triển kinh doanh như dịch vụ tư vấn, đào tạo… đã và đang dần xuất hiện. Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao và quá trình hội nhập diễn ra, để thực hiện các cam kết quốc tế, các Chính phủ sẽ không thực hiện các hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp mà phải thông qua thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh và thị trường này cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển vững chắc các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đạt được mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thực hiện các bước đi phù hợp để khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh (cả về phía cung tức là khuyến khích phát triển các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, đào tạo… và phía cầu tức là tuyên truyền, tạo cho các doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội có thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn); từng bước tách chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ ra khỏi chức năng quản lý nhà nước. Các cơ quan nhà nước sẽ hoàn toàn tập trung vào việc xây dựng chính sách và thực hiện vai trò xúc tiến, hỗ trợ, giám sát và quản lý chất lượng các dịch vụ cung cấp trên thị trường.
- Phát triển văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, khuyến khích khởi sự doanh nghiệp.
Nhằm khơi gợi tinh thần kinh doanh, phát triển nền văn hoá doanh nghiệp, cần thiết phải triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh thần doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí điểm thực hiện việc đưa các bài học về kinh doanh vào chương trình học ở trường phổ thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp, các doanh nhân phải có đạo đức trong kinh doanh, có những hiểu biết về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã hội,… Những cái đó được coi là văn hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp tuy hiểu biết về pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, thì vẫn còn diễn ra tình trạng một số doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp không có kiến thức về pháp luật nên đã vô tình vi phạm pháp luật trong quá trình hoạt động. Vì vậy, phát triển văn hoá kinh doanh cũng là một khía cạnh cần được quan tâm nhiều trong công cuộc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn tới.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chính phủ sẽ cải thiện tình hình điều phối thực hiện các hoạt động trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua tăng cường vai trò chỉ đạo của Hội đồng Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và hoạt động của các Tổ công tác liên Bộ, để phân định trách nhiệm giữa các Bộ, giữa cơ quan Trung ương với địa phương trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; thực hiện phân cấp mạnh hơn cho các địa phương trong triển khai các hoạt động phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; giao cho các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức tư vấn, đào tạo trực tiếp triển khai các chương trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.2. MỤC TIÊU HƯỚNG TỚI CỦA NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI TRONG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
Hoạt động tín dụng đối với doang nghiệp vừa và nhỏ là một kênh nằm trong hoạt động tín dụng của NHTM. Vì vậy, mục tiêu hướng tới của NHTM cổ phần Quân đội trong phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tách rời riêng biệt với mục tiêu phát triển hoạt động tín dụng của Ngân hàng. động phức tạp, tiềm ẩn những rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện trong nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập, nhưng cũng là hoạt hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới, những mục tiêu phát triển mới.
Mục tiêu hướng tới của NHTM cổ phần Quân đội trong phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
- Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh số cho vay. Doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không những tăng về số tiền mà còn tăng về tỷ trọng trong tổng doanh số cho vay đối với nền kinh tế của NHTM Cổ phần Quân Đội, năm 2005 tỷ trọng này là 32,2 % thì đến năm 2007 tăng lên 33,96 %. Tuy nhiên, tốc độ tăng này vẫn còn thấp, chưa xứng đáng với khả năng cho vay của Ngân hàng cũng như tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Với mục tiêu phát triển bền vững, mục tiêu hướng tới đối với phát triển tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ là không ngưng tăng trưởng về quy mô cho vay trung và dài hạn. Cùng với việc có thêm các khách hàng mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các nghiệp vụ tín dụng, hạn chế rủi ro, sẽ tiến tới tăng tỷ trọng cho vay các khoản vay dài hạn. Xây dựng cơ chế ưu đãi cho khach hàng lâu năm, có uy tín, để họ hợp tác lâu dài với Ngân hàng. Với công tác thẩm định chuyên nghiệp, đúng quy trình Ngân hàng sẽ có đươc các khoản đầu tư dài hạn với lợi nhuận cao, trên cơ sở làm tốt hoạt động phòng ngừa rui rỏ.
- Cùng với việc mở rộng tín dụng là tiếp tục giảm tỷ lệ nợ quá hạn các khoản tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng đảm bảo mở rộng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng vững chắc.
Ngân hàng Quân đội đã mất 5 năm theo đuổi và hoàn thiện đề án “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ”. Dự kiến, trong Quý 2/2008, MB sẽ chính thức đưa hệ thống quản lý rủi ro tín dụng này vào hoạt động và cũng là Ngân hàng đầu tiên quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NHTM cổ phần Quân đội thực hiện xếp hạng toàn bộ các khach hàng vay vốn trên cơ sỏ chấm điểm các chỉ tiêu, bao gồm các chỉ tiêu định tính và định lượng với các trọng số cho từng nhóm chỉ tiêu phù hợp với mỗi ngành, quy mô và lĩnh vực hoạt động của khách hàng.
Ngoài chức năng xếp loại và phân nợ, hệ thống này còn bổ sung chức năng hỗ trợ ra quyết định cho vay, cho phép trích lập dự phòng trực tiếp và chiết khấu ra được các báo cáo theo yêu cầu quản trị.
Với hệ thống này, việc đo lường và định dạng các rủi ro tín dụng được thực hiện thống nhất, tập trung trong suốt quá trình cho vay và quản lý khoản vay từ hội sở tới tất cả các điểm giao dịch.
Hệ thống này cũng mang lại nhiều lợi ích cho chính khách hàng. Thời gian xử lý các giao dịch sẽ nhanh chóng hơn thông qua việc chấm điểm tự động. Các khách hàng được xếp loại tốt sẽ nhận được chính sách ưu đãi về giá, phí…
Tuy vậy, sẽ không có phương pháp phân tích hay một hệ thống phức tạp nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn của chính các cán bộ tác nghiệp mà cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa yếu tố con người và công nghệ.
3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI.
Với mục tiêu là phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy giải pháp đưa ra dựa trên cơ sở về khái niệm phát triển gồm hai yếu tố là tăng trưởng(mở rộng về quy mô) và nâng cao hiệu quả dịch vụ tín dụng.
3.3.1. Các giải pháp tăng trưởng tín dụng.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động.
Mở rộng mạng lưới hoạt động sé giúp khoảng cách từ ngân hàng đến doanh nghiệp được thu hẹp. Giúp ngân hàng tiến gần hơn đến doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khắp các tỉnh thành, đây là bước đi quan trọng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng khi nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là một trong nhũng nền kinh tế có tốc độ phát triển cao hiện nay.
-Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Một trong những điều quan tâm của doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, hài hoà lợi ích ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên thực hiện lãi suất dựa vào độ tín nhiệm của doanh nghiệp, xu thế sản xuất kinh doanh trên thị trường...
- Góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho doanh nghiệp vay vốn mà có thể lựa chọn xem doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất, kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh, yếu của khách hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa tạo ra thu nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Về phía doanh nghiệp, do có sự tư vấn, cộng tác của phía ngân hàng, doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. Cách thức này là rất hiệu quả và cũng trong khả năng đầu tư, quản lý của ngân hàng vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn.
- Chiết khấu các chứng từ có giá
Hình thức này có thể áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đây có thể là các doanh nghiệp nắm giữ nhiều các loại giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Họ có thể đem những chứng từ có giá này đến ngân hàng xin chiết khấu để có thêm vốn sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp bán hàng nhưng do người mua chưa kịp thanh toán, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ mà được ngân hàng thẩm định một cách chặt chẽ.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Nghiệp vụ này còn mới và chưa được thực hiện rộng rãi. Trong tương lai cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tăng cường hình thức cho vay nhằm mở rộng đầu tư tín dụng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của NHTM đối với khách hàng.
- Linh hoạt hình thức cho vay đảm bảo
Năng lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng tín dụng đồng thời tạo hướng cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp.
- Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh, qua đó thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên phân loại khách hàng – doanh nghiệp theo tiêu chí nhất định để có chính sách ưu đãi nhất định đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ...
Ngoài những vấn đề cần quan tâm trên đây, về phía Nhà nước cũng cần có các giải pháp hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, trước mắt là ở các khía cạnh chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thủ tục cấp phép, đăng ký kinh doanh…để nhằm lành mạnh hóa môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Làm tốt công tác quảng cáo, Marketing
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào muốn làm ăn có hiệu quả đều phải chú trọng đến công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình ra thị trường. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp cũng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận vì vậy nó cũng phải chú trọng đến khâu marketing. Làm tốt công tác marketing sẽ giúp cho Ngân hàng quảng bá được hình ảnh của mình trên thị trường từ đó thu hút thêm khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng, nâng cao lợi nhuân cho Ngân hàng.
3.3.2. Các giải pháp phát triển chất lượng tín dụng.
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chất lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt chẽ với các bên liên quan (ngoài ngân hàng) để thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát
Sau khi hoàn thiện xong một hợp đồng tín dụng và giải ngân, công tác tín dụng không chi dừng lại ở đó, quá trình giám sát chặt chẽ sự vận động của tiền vay là công việc mang tính quyết định đến chất lượng của khoản tín dụng.
Sau khi cho vay, theo định kỳ cán bộ Ngân hàng tiến hành giám sát, kiểm tra nhằm phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình giám sát, kiểm tra có thể phát hiện ra những sai lệch, những hạn chế của quá trình thẩm định hoặc phát hiện ra người vay sử dụng tiền dụng vay không đúng mục đích, có nguy cơ rủi ro cao, cán bộ tín dụng có thể đề nghị thu hồi nợ trước hạn. Quy trình kiểm tra sau cũng giúp cán bộ tín dụng nắm rõ những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải từ đó có thể tư vấn hoặc giới thiệu cho doanh nghiệp những đối tác, đồng thời cung cấp thêm tín dụng cho những nhu cầu mới phát sinh mà đảm bảo chất lượng tín dụng giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trôi chảy.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng có thể cung cấp thêm những dịch vụ tiện ích khác của Ngân hàng cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có nhu cầu.
Thông qua quá trình kiểm tra, Ngân hàng có thể thâm nhập trực tiếp vào mọi hoạt động của doanh nghiệp như khả năng tiêu thụ hàng hóa, tình hình hàng tồn kho, thanh toán công nợ ...Từ đó Ngân hàng phải có những kiến nghị với doanh nghiệp về những vấn đề còn tồn tại. Đồng thời cán bộ tín dụng phải báo cáo kịp thời với phòng kinh doanh, với Giám đốc Ngân hàng để có những biện pháp xử lý tín dụng như tạm ngừng cho vay, tích cực thu nợ...
Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát cán bộ tín dụng sẽ thu được những thông tin bổ ích để tiến hành phân tích tài chính của doanh nghiệp hiện tại đang thực sự diễn ra chứ không phải thông tin trong quá khứ.
- Nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng
Đối với Ngân hàng, với đặc điểm và vị trí của hoạt động tín dụng, muốn nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo vốn kinh doanh, vấn đề tiêu chuẩn hóa cán bộ, đào tạo và đào tạo lại cán bộ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực tế cho thấy, một trong những vấn đề quyết định đến chất lượng tín dụng cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào vào các công việc, từ việc chấp hành các cơ chế chính sách đến việc thẩm định các dự án, xét duyệt hồ sơ, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn thu nợ. Nói chung mọi đúng sai, thành bại của các dự án tín dụng ngoài nguyên nhân khách quan đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể cho vay. Đương nhiên, trong đó có yếu tố chủ quan cố ý về mục đích tư lợi nhưng cũng có những yếu tố do trình độ, do khả năng không thể làm được.
Trong điều kiện chúng ta đang hội nhập và phát triển, hơn lúc nào hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người vì sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước noi chung, và hiện đại hóa ngành Ngân hàng nói riêng mà trong đó mục tiêu Nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh được đặt lên hàng đầu.
Để có được một đội ngũ cán bộ Ngân hàng tiêu chuẩn, Ngân hàng cần phải thường xuyên hướng dẫn, tổ chức tập huấn về kiến thức chuyên môn, cơ chế của ngành, đường lối chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu phát triển Kinh Tế của Nhà Nước, của Thành Phố. Trong quá trình đó phải gắn lý luận với thực tiễn, phải thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm đưa ra các tình huống cũng như các giải pháp để nâng cao kinh nghiệm, trình độ trong nghiệp vụ.
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tín dụng tại Ngân hàng là một việc lâu dài và liên tục không thể giải quyết một sớm, một chiều. Tuy nhiên, cần có những quy định và những bước đi cụ thể để đào tạo lại cán bộ.
- Xây dụng chính sách tín dụng hợp lý.
Một chính sách cho vay hợp lý rõ ràng sẽ mang lại cho Ngân hàng rất nhiều thuận lợi. Một số nội dung cho vay mà Ngân hàng cần xác định và xây dựng cho được là:
Một Bảng tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay. Để xây dựng được Bảng này đòi hỏi sự xem xét cân nhắc kỹ lưỡng tình hình thị trường, nó phải được chỉnh sửa cho phù hợp với từng thời kỳ, với sự biến động của tình hình kinh doanh thực tế của Ngân hàng nói riêng và của toàn hệ thống nói chung.
Xây dựng được các bước cụ thể cần phải tiến hành để tìm kiếm, phân tích và phát triển các khoản cho vay có vấn đề cần hướng dẫn hỗ trợ cho cán bộ tín dụng nâng cao chất lượng khoản cho vay
Xây dựng được danh sách những khoản, những đối tượng xin vay mà Ngâh hàng nên từ chối hoặc nên chú trọng đầu tư ưu tiên. Muốn xây dựng được Ngân hàng phải nắm được xu thế vận động của nền Kinh tế, của các ngành, lĩnh vực cũng như chủ trương của Nhà nước trong việc phát triển những ngành đó và phải nắm được sự chuyển dịch cơ cấu trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngân hàng cũng cần có những thông tin về khách hàng và sắp xếp vào danh sách này.
- Tăng cường vốn trung và dài hạn, mở rộng đầu tư tín dụng và những dự án đầu tư dài hạn.
Nguốn vốn đầu tư tín dụng là một mặt vô cùng quan trọng của hoạt động tín dụng. Không có vốn thì không thể đầu tư, Ngân hàng không có nguồn vốn đủ lớn, ổn định thì không thể đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng một cách thỏa đáng, không có đầu tư tín dụng thì không thể đặt ra vấn đề chất lượng tín dụng. Mọi giải pháp đưa ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đều phải đặt dưới giả thiết là nguồn vốn cho đầu tư tín dụng được đáp ứng về quy mô và kỳ hạn.
Hiện nay quy mô nguồn vốn trung và dài hạn còn có quy mô nhỏ khiến cho Ngân hàng không thể tập trung đầu tư tín dụng trung và dài hạn trên quy mô lớn mà loại cho vay này trong giai đoạn tới lại có nhu cầu cao nhất là nhu cầu vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ.
Mặt khác, huy động được nguồn vốn lớn giúp cho Ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng, tìm kiếm những khoản đầu tư an toàn hơn (như cho vay đồng tài trợ). Các biện pháp huy động vốn phải được thực hiện linh hoạt đối với mỗi đối tượng, mỗi nguồn khác nhau từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng, đó là một chính sách lãi suất mềm dẻo linh hoạt vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, đó là tạo ra tính lỏng cao cho các loại tiền gửi, sẵn sàng đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng, tạo lòng tin cho khách hàng.Có những chính sách khuyến khích gửi tiền dài hạn về lãi suất về bảo đảm tiền vay.
- Đa dạng hóa các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, các hình thức tín dụng mới cũng được nảy sinh. Nó là hàng hóa của NHTM trên thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về tín dụng càng trở nên đa dạng và phong phú.
Trong nền kinh tế như hiện nay cùng với thực trạng của hệ thống Ngân hàng, tín dụng của Ngân hàng mới chỉ chủ yếu là cho vay trực tiếp và các dịch vụ truyền thống. Rất nhiều các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng hiện đại đã ra đời và khẳng định vị trí và hiệu quả của nó trong các hoạt động Ngân hàng cũng như những tiện ích của nó trong nền kinh tế.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng để cùng hội nhập, một định hướng và tìm giải pháp thực hiện không thể thiếu đó là phát triển các hình thức tín dụng mới trên cơ sở tìm tòi, sáng tạo dựa trên những đặc điểm nhu cầu của quá trình tái sản xuất, tạo đòn bẩy thực sự, tạo đà phát triển cho nền kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức cho vay không chỉ mở rộng quy mô tín dụng mà còn có tác dụng thu hút thêm nhiều khách hàng vay, tăng thêm lợi nhuận, phân tán và hạ thấp tỷ lệ rủi ro.
Trước mắt để khắc phục tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp, các Ngân hàng cần nghiên cứu để vận dụng phát triển nhiều hình thức tín dụng khác nhau như: thuê mua tài chính, thời hạn thuê thường sẽ giúp cho các doanh nghiệp cải thiện điều kiện sản xuất thực hiện quá trình cạnh tranh trên thị trường và vì thế nhu cầu khác về vốn tăng lên. Ngân hàng có điều kiện để mở rộng hoạt động của mình và tăng cường mối hiểu biết lẫn nhau giữa Ngân hàng và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện hình thức tín dụng nói trên, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật quản lý của Ngân hàng phải được đổi mới, môi trường pháp lý phải đồng bộ và đầy đủ.
Ngoài ra, Ngân hàng còn phải mở rộng hình thức cầm cố, chiết khấu những chứng từ có giá giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh vòng quay vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin là xu hướng tất yếu, nó giúp ngân hàng hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ, giúp thông tin đến với khách hàng dễ dàng hơn, thuận tiên và tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
3.4.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhận thức được vai trò to lớn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước đã có chủ trương chính sách nhằm khuyến khích hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Tuy nhiên để đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tạo cơ sở cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời và phát triển, cho hệ thống ngân hàng mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngược lại các doanh nghiệp này có thể tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn ngân hàng. Sau đây là một số kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước:
3.4.1.1. Kiến nghị với Nhà nước .
Thứ nhất, cùng với quá trình cải cách kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Vì vây, trong thời gian tới, về phía Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển thông qua các giải pháp sau:
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về tài chính nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cả về nghĩa vụ và các ưu đãi của Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu cần tập trung hỗ trợ đầu vào cho người sản xuất hàng xuất khẩu như hỗ trợ giá bán cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu cho nông dân, miễn giảm thuỷ lợi phí cho những vùng gặp khó khăn. Ưu đãi cho hàng xuất khẩu như cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn với lãi suất thấp đối với các dự án đầu tư, nâng cấp dây chuyền sản xuất để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm tạo sức cạnh tranh cho hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời, thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý hàng sản xuất trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, thành phố, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi dành quỹ đất giành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất phù hợp, có chính sách khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất và được ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp theo quy định của pháp luật.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác trong sản xuất nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, thị trường tài chính trong nước còn nhỏ bé và non trẻ, tài trợ thông qua hệ thống ngân hàng vẫn là kênh đầu tư vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt chính sách cho các ngân hàng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tiếp vốn thêm cho loại hình doanh nghiệp này, đó là:
- Nới rộng và cụ thể hoá các quy định về cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cởi mở hơn theo hướng các NHTM được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sơ xem xét đánh giá thời gian quan hệ, uy tín trong giao dịch với ngân hàng và có chú trọng đến thương hiệu của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều nước trong đó có Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình có giá trị bằng tiền, chính vì vậy phát triển Luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị của thương hiệu nhằm hỗ trợ cho ngân hàng an tâm đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao mức đóng góp của các doanh nghiệp này cho nền kinh tế đất nước.
- Thúc đẩy nhanh sự hình thành và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm bổ sung cho mức độ tín chấp của Ngân hàng. Nguồn vốn của quỹ này do ngân sách Nhà nước cấp và được bổ sung từ vốn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của trong và ngoài nước.
- Với mức độ rủi ro tín dụng cao khi đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cần có chính sách rõ ràng và cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngành ngân hàng, hạn chế hình sự hoá các vụ việc tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và khách hàng khi xảy ra rủi ro. Những rủi ro nếu xảy ra cứ nên xử lý theo hướng doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm vì chính doanh nghiệp mới biết rõ hành động của họ (trừ trường hợp do thiên tai gây ra).
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau:
- Khuyến khích thành lập các tổ chức dịch vụ tài chính hỗ trợ các DN thực hiện lành mạnh hóa tình hình tài chính tạo điều kiện cho họ phát triển, củng cố, đổi mới hệ thống tín dụng, phát triển các dịch vụ hỗ trợ thông tin tư vấn tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ,…
- Nhà nước tăng cường mở rộng các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khoá tập huấn về quản trị kinh doanh cho giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tận dụng tối đa nguồn tài trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế. Xu hướng chung của các nhà tài trợ hiện nay là tăng cường cho Chính phủ vay để bổ sung vốn tín dụng cho hệ thống NHTM nhằm tăng khả năng cấp tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần mở rộng quyền liên doanh, liên kết của doanh nghiệp vừa và nhỏ với các loại hình doanh nghiệp khác, với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước theo kiểu cùng bỏ vốn đầu tư và cùng chia lợi nhuận theo tỷ lệ đóng góp. Tận dụng tối đa sự giúp đỡ về vốn của các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế.
Nếu tất cả các biện pháp trên được thực hiện tốt thì việc đầu tư vào lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được mở rộng và tạo được một động lực phát triển cho nền kinh tế, đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, chú ý đến các ngành nghề truyền thống có quy mô nhỏ dễ quản lý, dễ đầu tư thay đổi thiết bị tạo thế cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
3.4.1.2. Kiến nghị với NHNN
NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính - tiền tệ, trực tiếp phụ trách chỉ đạo hoạt động cho vay của các NHTM. Để mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, NHNN cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình.
Trước hết, NHNN cần phải ban hành một cơ chế riêng, một quy trình cho vay riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mở rộng các điều kiện cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ như vấn đề về tài sản bảo đảm…
Cải cách hệ thống NHTM để các NHTM chủ động hơn nữa về hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, Ngân hàng có thể đưa ra những quy định về chính sách cho vay cũng như các biện pháp bảo đảm tiền vay cho phù hợp. Tạo điều kiện cho các NHTM thẩm định và định giá tài sản bảo đảm một cách khách quan và chính xác nhất.
Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro (CIC) của NHNN đã đi vào hoạt động được nhiều năm nhưng chưa thật sự hiệu quả, thông tin thu thập chưa nhanh nhạy, phong phú và chính xác. Do vậy các ngân hàng chưa khai thác được nhiều thông tin qua kênh trên. Để có thể phát huy được vai trò thông tin tín dụng, đề nghị Trung tâm CIC khai thác nhiều thông tin về các doanh nghiệp và thường xuyên cảnh báo đối với những khách hàng có vấn đề để ngân hàng được biết.
Tăng cường vai trò thanh tra giám sát của NHNN, hoàn thiện và đổi mới công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm chuyển biến về chất trong hoạt động thanh tra. Để từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro. Thông qua đó còn để nêu ra những kiến nghị và giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN cần thực hiện một số biện pháp hỗ trợ các NHTM về tài cấp vốn (tái chiết khấu), lãi suất, xử lý các khoản nợ xấu… Củng cố hệ thống tài chính bằng cách áp dụng những nguyên tắc kế toán và kiểm toán được quốc tế công nhận, thiết lập một hệ thống đăng ký toàn quốc về cầm cố, thế chấp và các phương thức giao dịch bảo đảm… nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp và giảm tỷ lệ nợ khó đòi trong các ngân hàng.
3.4.1.3. Kiến nghị với các Bộ, ngành có liên quan.
Để thúc đẩy các phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và đầu tư cần khẩn trương tích cực hoàn thành xây dựng và triển khai thực hiện chương trình trợ giúp thông tin; hình thành cơ chế phối hợp đầu mối ở các Bộ, ngành và địa phương đảm bảo nguồn cung cấp thông tin trợ giúp doanh nghiệp; Chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; xây dựng kế hoạch và biện pháp củng cố và nâng cao năng lực quản lý cho hệ thống xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn cả nước, nhất là cần quan tâm đối với các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; Bộ Tài chính chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, thông thoáng và minh bạch nhằm tạo điều kiện giải phóng, phát triển sức sản xuất của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế…
Ngoài ra, Cơ quan cấp giấy phép thành lập cần kiểm tra kỹ hồ sơ xin phép thành lập, thẩm định nắm chắc nhân thân, tình hình thực tế của người xin thành lập. Đặc biệt là cấp giấy phép thành lập rồi thì còn phải kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh theo giấy phép, theo chức năng ngành nghề. Các cơ quan chức năng cần có biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện đúng Pháp lệnh Kế toán thống kê, thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, khoa học, tiến hành hạch toán rõ ràng và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật khác về thuế, quản lý thị trường…
3.4.2 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để thực hiện tốt việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, ngành ngân hàng, NHTM cổ phần Quân đội và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, rất cần đến sự hợp tác và cố gắng từ bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể như sau:
- Để tháo gỡ rào cản về bảo đảm tiền vay hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ từng bước tạo dựng uy tín đối với ngân hàng bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Để làm tốt việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới từ nhận thức đến những việc làm cụ thể như: nâng cao năng lực quản trị và điều hành doanh nghiệp; thực hiện nghiêm chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính công khai, minh bạch; kinh doanh theo đúng pháp luật. Phải khẳng định tạo dựng uy tín trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng là việc phải làm, nó không chỉ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có lộ trình bổ sung vốn chủ sở hữu bằng nhiều hình thức. Chủ động trong việc xây dựng dự án đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý trong điều kiện hội nhập. Chủ động tiếp cận và tìm hiều các dịch vụ ngân hàng nói chung và các doanh nghiệp tín dụng nói riêng, tận dụng cơ hội tranh thủ sự giúp đỡ của các Bộ, ngành nhằm nâng cao năng lực sử dụng vốn, chú trong phương án lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing.
- Đào tạo nguồn nhân lực. Thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xem nhẹ yếu tố con người trong kinh doanh. Người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chưa được đào tạo bài bản theo những kiến thức và kỹ năng mà thị trường yêu cầu. Do đó, bên cạnh việc Chính phủ có các chương trình đào tạo, cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chủ động đào tạo đội ngũ nhân viên, coi đầu tư vào nguồn nhân lực là một khoản đầu tư không thể thiếu trong kinh doanh. Trong đó, các chủ doanh nghiệp phải là người đi đầu để nâng cao năng lực quản lý và điều hành đặc biệt là khả năng lập kế hoặch kinh doanh theo chuẩn mực; lập các phương án, dự án sản xuất kinh doanh có hiệu qủa…. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được vốn ngân hàng bởi từ đó các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể lập được những báo cáo nghiên cứu khả thi hoàn chỉnh để thuyết phục ngân hàng cho vay vốn.
KẾT LUẬN
Trong thời gian thực tập, dựa trên cơ sở lý luận thực tiễn và các kiến thức đã tiếp thu được em đã hoàn thành chuyên đề với đề tài : “Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM cổ phần Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm”.
Những nội dung được trinh bày mới chỉ là một khía cạnh, chưa thể hiện được hết toàn bộ hoạt động tín dụng của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các phướng hướng để thực hiện được mục tiêu phát triển tín dụng. Với thời gian thực tập có hạn, cũng như với kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của thầy, cô giáo cũng như các cô chú, anh chị trong ngân hàng để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số liệu về hoạt động của NHTM cổ phần Quân đội trong những năm qua
Giáo trình kinh tế phát triển ĐHKTQD
Giáo trình Ngân hàng thương mại ĐHKTQD
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐHKTQD
Giáo trình tín dụng ngân hàng – Học Viện Ngân Hàng
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHTM cổ phần Quân đội các năm 2005 - 2007.
Quy trình thẩm định dự án trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
Quyết định 1267 về quy chế cho vay của thống đốc Ngân hàng Nhà Nước.
Luật Ngân hàng Nhà Nước và Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
Luật Doanh Nghiệp Nhà Nước Việt Nam
Thúc đẩy phát triển Danh nghiệp vừa và nhỏ- Tạp chí kinh tế và dự báo
Các thông tin tài liệu tham khảo về tín dụng ngân hàng
Thông tin trên mạng INTERNET
Và các nguồn tin khác về nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NHNN : Ngân hàng Nhà nước.
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước.
Môc lôc
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng tổng vốn huy động 46
Bảng 2.1: Sự tăng trưởng vốn huy động qua các năm 46
Bảng 2.2 : Sự tăng trưởng hoạt động cho vay 47
Biểu đồ 2.2 : Lợi nhuận trước thuế 50
Bảng 2.3. Doanh số cho vay theo loại hình doanh nghiệp giai đoạn 2005-2007 51
Bảng 2.4. Doanh số cho vay DNV&N theo thời hạn 2005-2007 53
Bảng 2.5 : Tổng dư nợ của NHTM cổ phần Quân Đội năm 2005-2007 54
Bảng 2.6. Dư nợ cho vay DNV&N theo thời gian giai đoạn 2005-2007 55
Bảng 2.7. Dư nợ cho vay DNV&N theo đối tượng DN 2005-2007 57
Bảng 2.8. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn giai đoạn 2005 - 2007 58
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33161.doc