Hướng tới nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách là mục tiêu của các ngân hàng thương mại nói chung và của Eximbank Hà Nội nói riêng. Với vai trò là một ngân hàng xuất nhập khẩu, khách hàng mục tiêu của Eximbank là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Dù đã có nhiều hỗ trợ tích cực, song hoạt động tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội vẫn còn chưa đáp ứng được nhiều mặt nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, và cần thiết phải phát triển thêm nhiều dịch vụ mới. Xét thấy bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ mới với rất nhiều lợi ích, phù hợp với tính năng hoạt động của Eximbank, đề tài xin đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ này tại Eximbank Hà Nội:
Về giải pháp: Ngân hàng cần phải tích cực nâng cao năng lực thẩm định của mình; tiến hành đào tạo, bồi dưỡng thêm nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ; có những chiến lược Marketing cụ thể trong việc quảng bá cũng như đưa nghiệp vụ mới này vào thực hiện hiệu quả.
Về kiến nghị: Hội sở trung ương Eximbank Việt Nam cần có những nghiên cứu cụ thể để tiên phong thực hiện nghiệp vụ này, đồng thời có những bước chuẩn bị để ra nhập tổ chức bao thanh toán quốc tế; Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách liên quan đến bao thanh toán, tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng thực hiện; Chính phủ cũng nên sớm thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Với những giải pháp và kiến nghị trên, qua đề tài, hy vọng đề tài sẽ góp phần sớm đưa nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu vào thực hiện tại Eximbank Hà Nội, tạo ra một dịch vụ tiện ích hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
91 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thời kì cơ cấu lại và cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong việc xử lý những khoản nợ xấu. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ giảm dần qua các năm là một dấu hiệu đáng mừng.
Bảng 6: Dư nợ và nợ quá hạn cho vay xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Dư nợ
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
2003
73,740
8,775
11,9%
2004
109,662
9,212
8,4%
2005
172,513
3,088
1,79%
(Nguồn: Phòng tín dụng đầu tư – Eximbank Hà Nội)
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ từ rất cao ở mức 11,9% năm 2003 đã giảm xuống 1,79% năm 2005. Đây là sự chuyển biến tích cực, thể hiện hướng giải quyết nợ của Eximbank là đúng đắn và việc quản lý các khoản nợ của ngân hàng là hiệu quả. Sở dĩ đạt được kết quả như vậy là vì thời gian qua ngân hàng đã tích cực xử lý các tài sản đảm bảo của khách hàng, có những biện pháp xiết nợ hợp lý; đồng thời hạn chế cho vay thêm những khoản nợ quá rủi ro đối với ngân hàng, tăng cường đào tào thêm kĩ năng cho các cán bộ tín dụng. Hiện nay tỷ lệ này đã đạt mức an toàn theo quy định (dưới 5%) Tỷ lệ này giảm cũng góp phần làm tăng uy tín cho ngân hàng, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bền vững mới trong tương lai.
Qua phân tích tình hình tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội có thể thấy chi nhánh đã đạt được một số kết quả tốt thể hiện sự chuyển dịch đúng đắn trong xu hướng tài trợ thương mại của ngân hàng như: doanh số cho vay xuất khẩu tăng, tỷ trọng cho vay xuất khẩu ngày càng lớn với dư nợ đang có xu hướng giảm rõ rêt. Tuy nhiên, doanh số cho vay vẫn còn ở mức thấp so với nhu cầu của thị trường, thu từ hoạt động tài trợ xuất khẩu cũng còn hạn chế. Tỷ trọng tài trợ xuất khẩu tuy có tăng nhưng vẫn ở mức thấp. Việc tài trợ mới chỉ đơn thuần là cấp vốn cho doanh nghiệp, có kèm theo tư vấn cho khách hàng, ngoài ra các hỗ trợ khác của ngân hàng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là chưa đáng kể. Ngân hàng hầu như chưa có vai trò gì trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác cho hàng xuất khẩu và khai thác thị trường xuất khẩu tiềm năng, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng là do các hình thức tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội còn khá đơn điệu, mới chủ yếu là những hình thức truyền thống; các hình thức tài trợ chưa đáp ứng hết được các nhu cầu của doanh nghiệp. Đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu không chỉ đem lại nhiều doanh thu hơn, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng mà còn có những tác động tích cực tới các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy đa dạng hoá hình thức cho vay tài trợ xuất khẩu tại chi nhánh là rất cần thiết.
Tóm lại, sau khi xem xét tình hình của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam và hoạt động cho vay tài trợ xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội ta thấy nhu cầu về nhiều mặt của các nhà xuất khẩu Việt Nam là rất lớn, nhưng vẫn chưa được đáp ứng kịp thời bởi các tổ chức tín dụng cũng như Eximbank Hà Nội. Với tư cách là một ngân hàng xuất nhập khẩu, Eximbank phải làm gì? Việc phát triển và đưa vào áp dụng những hình thức tài trợ xuất khẩu mới là rất cần thiết. Nó không chỉ giúp cho các doanh nghiệp có thêm vốn hoạt động mà còn giúp ngân hàng có thể mở rộng hoạt động của mình. Trong các hình thức tài trợ đó, như phân tích ở phần lý thuyết, Bao thanh toán xuất khẩu là một hình thức hết sức phù hợp với rất nhiều ưu điểm. Với những chức năng và dịch vụ phong phú, ưu việt hơn hẳn các hình thức tài trợ xuất khẩu thông thường, sử dụng hình thức này, các doanh nghiệp không những có thể tăng vốn để hoạt động mà còn nâng cao được năng lực cạnh tranh, đảm bảo an toàn trong thanh toán, được hỗ trợ thông tin bạn hàng... Nghiệp vụ này được triển khai sẽ hỗ trợ không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đáp ứng được những nhu cầu còn bức thiết của họ. Ngân hàng sẽ thực hiện được mục tiêu đa dạng hoá, nâng cao doanh thu và hoàn thiện hơn trong việc đáp ứng nhu cầu hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về các dịch vụ tài chính cũng trở nên ngày càng đa dạng và phong phú, đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng mở rộng hoạt động của mình để có thể đáp ứng tốt nhất những nhu cầu đó. Nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam hiện nay định hình chưa rõ rệt nhưng thị trường tiềm năng cho dịch vụ này là rất lớn. Chính vì vậy sớm nghiên cứu, triển khai nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank là hợp lý và cần thiết. Tuy nhiên để nghiệp vụ này được thực hiện một cách hiệu quả thì cần phải có những điều kiện nhất định từ phía ngân hàng cũng như những điều kiện khác. Căn cứ vào tình hình các hoạt động chủ yếu của ngân hàng nói chung và hoạt động tài trợ xuất khẩu nói riêng, chúng ta sẽ tìm hiểu những điều kiện này tại Eximbank Hà Nội.
2.3. Đánh giá các điều kiện thực hiện nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
2.3.1. Những điều kiện thuận lợi
Là một ngân hàng phục vụ xuất nhập khẩu, Eximbank Hà Nội có những thuận lợi lớn và có thể coi là điểm mạnh của ngân hàng về các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Điều này hỗ trợ không nhỏ cho ngân hàng khi triển khai nghiệp vụ mới như bao thanh toán xuất khẩu.
Thứ nhất, Eximbank Hà Nội có một đội ngũ cán bộ kinh doanh hoạt động ngân hàng đối ngoại với trình độ chuyên môn cao. Mục tiêu của Ngân hàng là hướng vào phục vụ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam, do vậy các cán bộ ngân hàng đã rất quen thuộc và thông thạo nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Các cán bộ am hiểu các thông lệ trong hoạt động ngoại thương, không những giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực này mà còn có những tư vấn hữu ích cho khách hàng. Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đồng thời nhiều hoạt động liên quan, không chỉ tín dụng mà cả thanh toán quốc tế... Đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng rất trẻ trung, năng động, nhiều cán bộ trẻ tuổi nhưng trình độ hiểu biết rất rộng, có thể thực hiện nghiệp vụ rất tự tin. Cán bộ thanh toán quốc tế được trang bị kiến thức về ngoại thương, ngân hàng quốc tế... thông thạo thông lệ quốc tế trong thanh toán như UCP 500, IBPS, Incortems... Các cán bộ đều có trình độ cao về ngoại ngữ và vi tính, thực hiện các nghiệp vụ hoàn toàn bằng máy. Với sự giúp đỡ của các cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, các cán bộ trẻ mới vào cũng nhanh chóng nắm bắt được những kỹ năng nghiệp vụ, trở thành đội ngũ kế cận vững chắc. Đội ngũ cán bộ này vẫn không những cố gắng trau dồi kĩ năng để ngày càng hoàn thiện hơn trong việc thực hiện các nghiệp vụ.
Thứ hai, với tư cách là một chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu, Eximbank Hà Nội đã xây dựng được một chu trình kinh doanh các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khép kín với đầy đủ những nghiệp vụ bổ sung hỗ trợ cho nhau, và sẽ rất đắc lực trong việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Bên cạnh việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu còn thực hiện thanh toán quốc tế và có thể cả kinh doanh ngoại tệ khi khách hàng cần thiết, nghiệp vụ quản lý sổ sách khách hàng... Khách hàng sẽ được ngân hàng đáp ứng tất cả các nhu cầu trong việc hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, giảm bớt gánh nặng cho khách hàng đồng thời hạn chế được những rủi ro và tăng cường nguồn thu cho ngân hàng. Với hoạt động khép kín, thông qua nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu, Ngân hàng hoàn toàn có thể cung cấp cho các khách hàng một dịch vụ trọn gói hoàn hảo, nhanh gọn, tiện lợi và chính xác.
Thứ ba, với thời gian hoạt động trên mười năm, Eximbank Hà Nội đã tạo dựng được một hệ thống Ngân hàng đại lý rộng khắp và uy tín trên nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mối quan hệ này thường xuyên được củng cố và phát triển về mặt số lượng cũng như chất lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các mảng nghiệp vụ khác phát triển. Năm 2004 Eximbank đã thiết lập thêm quan hệ đại lý với 21 ngân hàng nước ngoài gồm 9 hội sở và 12 chi nhánh tại 10 quốc gia. Tính đến 31/12/2004, Eximbank Hà Nội đã có quan hệ đại lý với 623 ngân hàng nước ngoài tại 61 quốc gia. Trong các ngân hàng này có rất nhiều ngân hàng đã thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu từ lâu và có kinh nghiệm như: Deutsche Bank Trust Company Americans, HSBC Bank, BNP Paribas SA, Fortis Bank Hongkong…Thêm vào đó, Ngân hàng cũng duy trì mạng lưới tài khoản tại các ngân hàng đại lý có tầm vóc lớn, dịch vụ thanh toán hàng đầu trên thế giới, kinh nghiệm lâu năm trong nhiều lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Eximbank đã có mối quan hệ lâu năm với các ngân hàng lớn như: Standard Chartered Bank, Wachovia Bank, United Overseas Bank, Union Bank of California, American Express Bank... Các ngân hàng này không chỉ có quan hệ giao dịch thông thường với chi nhánh mà còn là đơn vị hỗ trợ đắc lực và chia sẻ cho cán bộ ngân hàng những kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng thong qua các khoá tập huấn, hội thảo tổ chức trong và ngoài nước về các lĩnh vực trong hoạt động ngân hàng. Trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu, các ngân hàng đại lý – với tư cách là đơn vị bao thanh toán tại nước nhập khẩu có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu không có bộ phận này, sẽ rất khó khăn cho một ngân hàng thực hiện nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nói chung và bao thanh toán xuất khẩu nói riêng, ngay cả với một ngân hàng lớn. Với đội ngũ ngân hàng đại lý và mối quan hệ tốt đẹp với họ, nếu thực hiện nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu, Eximbank Hà Nội chắc chắn sẽ có cơ hội nâng cao nghiệp vụ và học hỏi nhiều với sự hỗ trợ của các ngân hàng đại lý này. Các ngân hàng đại lý này hầu hết đều đã thực hiện nghiệp vụ này từ nhiều năm và họ có rất nhiều kinh nghiệm. Họ sẽ giúp đỡ đắc lực cho Eximbak trong việc đánh giá khả năng tài chính cũng như hỗ trợ quản lý thu nợ từ các nhà nhập khẩu. Qua đó, Eximbank sẽ có thể giảm tối thiểu rủi ro khi bước đầu tham gia thực hiện nghiệp vụ này.
Thứ tư, ngân hàng cũng đã có được một hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, phục vụ hiệu quả cho hoạt động ngân hàng quốc tế. Trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu nói riêng và hoạt động ngân hàng quốc tế nói chung, việc giao dịch với đối tác nước ngoài thực hiện chủ yếu qua mạng máy tính, qua Fax, mạng SWIFT, Telex... Tất cả các vị trí trong ngân hàng đều được trang bị hệ thống máy tính hiện đại, nối mạng 100%. Ngân hàng cũng là một trong những ngân hàng đầu tiên nối mạng SWIFT từ năm 1995. Hệ thống máy Fax được sử dụng rộng rãi ở nhiều bộ phận: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ... Với những hệ thống máy móc hiện đại như vậy, Ngân hàng dễ dàng liên lạc được với các ngân hàng nước ngoài, với khách hàng nước ngoài cũng như trong nước. Các phương tiện này sẽ giúp rút ngắn thời gian của một giao dịch.
2.3.2. Những điều kiện còn hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Điều kiện hạn chế
Điều kiện chủ quan từ phía ngân hàng
Qua phân tích trên có thể thấy Eximbank Hà Nội đã hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn còn một số mặt hạn chế cần khắc phục để giúp ngân hàng vững vàng hơn khi thực hiện nghiệp vụ mới này.
Thứ nhất là thẩm định tín dụng của ngân hàng còn chưa hiệu quả. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần qua các năm, và đạt mức an toàn trong năm 2005, song các năm trước tỷ lệ này lại rất cao. Tỷ lệ này giảm nhiều vào năm 2005 chủ yếu là do ngân hàng đã có những biện pháp hiệu quả để xử lý các khoản nợ quá hạn. Tuy nhiên những biện pháp giảm thiểu rủi ro trước khi ra quyết định cho vay, đặc biệt là trong công tác thẩm định vẫn còn có những hạn chế. Đối với hoạt động bao thanh toán xuất khẩu, khi mà ngân hàng không chỉ phải thẩm định nhà xuất khẩu trong nước mà còn phải coi trọng hơn việc thẩm định nhà nhập khẩu nước ngoài, thì việc thẩm định còn trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Quá trình thẩm định phải được đặc biệt coi trọng. Thẩm đinh tín dụng vẫn là một vấn đề lớn mà ngân hàng cần phải không ngừng nâng cao.
Thứ hai, dù đã có sự một hệ thống ngân hàng quốc tế khép kín với đầy đủ những bộ phận chức năng cơ bản như: bộ phận tín dụng, bộ phận thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, kế toán… song giữa các bộ phận này vẫn chưa có được sự phối hợp thật chặt chẽ. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận chẳng những góp phần thúc đẩy tính thống nhất giữa các phòng ban mà còn thúc đẩy tính thống nhất giữa các phần chức năng của mỗi bộ phận. Hiện nay việc thực hiện nghiệp vụ chỉ tập trung chủ yếu ở những phòng chức năng riêng nhất định, sự phối hợp hạn chế. Sự kết hợp mới chỉ ở mức quan hệ sổ sách, thủ tục, cung cấp thông tin cơ bản như tỷ giá, cung cấp những thông tin tài khoản khách hàng… Khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu đòi hỏi sự liên kết này phải chặt chẽ hơn nữa, giúp cho giao dịch nhanh, tránh được rủi ro cho ngân hàng. Phòng thanh toán quốc tế sẽ phải phối hợp với phòng Tín dụng đầu tư, thực hiện việc liên lạc, trao đổi thông tin với đại lý nước ngoài, phối hợp thực hiện việc thu nợ.
Thứ ba là, sự hiểu biết của cán bộ ngân hàng về nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu còn hạn chế. Nhiều cán bộ ngân hàng còn chưa biết đến nghiệp vụ này. Do đó sẽ có những khó khăn nhất định trong việc triển khai nghiệp vụ này vì chỉ khi nắm bắt tốt nghiệp vụ mới có thể thực hiện được tốt.
Điều kiện khách quan
Một vấn đề còn hạn chế hiện nay là tín dụng thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa nhà xuất khẩu Việt Nam với các đối tác nước ngoài chưa thực sự phổ biến. Đối với nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu thì việc phát triển của tín dụng thương mại là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong hoạt động thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường chỉ chấp nhận phương thức thanh toán ngay như: L/C trả ngay, nhờ thu kèm chứng từ trả ngay D/P, hoặc chuyển tiền bằng điện T/T... Với các phương thức thanh toán trả ngay này, doanh nghiệp sẽ an tâm hơn khi bán hàng với những đối tác cách xa về địa lý, khác biệt về văn hoá, pháp luật... Nhà xuất khẩu do đó sẽ hạn chế được phần nào những rủi ro do khách hàng trả chậm. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam do vậy đã bị giảm nhiều. Các nhà nhập khẩu lớn trên thế giới ngày nay càng có xu hướng chỉ nhập hàng khi có điều kiện thanh toán trả chậm. Với hình thức này các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ gặp rủi ro bị chiếm dụng vốn trong một thời gian, và thời gian thanh toán kéo dài thì rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Ngay cả với các nhà nhập khẩu nước ngoài truyền thống, việc sử dụng tín dụng thương mại cũng rất hạn chế. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện bao thanh toán xuất khẩu vì “hàng hoá” cho hoạt động này bị hạn chế. Không có tín dụng thương mại sẽ không có các khoản phải thu, và vì thế không thực hiện được nghiệp vụ này.
Một yếu tố khác gây khó khăn cho Eximbank Hà Nội cũng như các NHTM khác trong việc thực hiện bao thanh toán xuất khẩu - một nghiệp vụ mới là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, sẽ rất khó khăn khi thay đổi thói quen sử dụng một nghiệp vụ cũ bằng một nghiệp vụ mới như Bao thanh toán xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chỉ quen với những hình thức tín dụng truyền thống và có tâm lý ngại thay đổi. Trên thực tế, một số ngân hàng Việt Nam đã tiến hành triển khai nghiệp vụ bao thanh toán từ năm 2005, song đến nay số khách hàng không đáng kể và cũng mới chỉ triển khai bao thanh toán trong nước. Các doanh nghiệp ban đầu tỏ ra hết sức ngần ngại. Đến nay tuy đã có khách hàng sử dụng dịch vụ ở Việt Nam nhưng hết sức nhỏ bé và không đáng kể, như: ACB có 20 hợp đồng, Citibank có 1 hợp đồng… Doanh số thực hiện của các ngân hàng đến nay vẫn chưa được tổng kết nhưng có thể thấy để triển khai nghiệp vụ này với các doanh nghiệp Việt Nam không phải dễ dàng.
2.3.2.2.Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, gây khó khăn cho việc thực hiện bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội. Các nguyên nhân đó có thể kể đến như sau:
Những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
Thứ nhất mặc dù công tác thẩm định tài chính đã được quan tâm hơn, song thẩm định tài chính mới chỉ mang nặng tính thủ tục, chưa hiệu quả. Việc thẩm định hầu hết chỉ căn cứ vào tài sản đảm bảo, chưa có sự tìm hiểu sâu về thị trường các ngành nên khi tính toán hiệu quả của dự án đầu tư không tính được cân đối nguồn và thời hạn trả nợ, ảnh hưởng của tỷ giá… do đó đầu tư của ngân hàng không hiệu quả, dẫn đến nợ quá hạn và khó đòi.
Thứ hai, việc thẩm định có hiệu quả không cao một phần là do thiếu những thông tin cần thiết từ khách hàng. Ngân hàng hiện nay vẫn chưa có hệ thống thu thập thông tin thống nhất về các khách hàng cũng như tình hình của nền kinh tế nói chung để có thể đưa ra những quyết định chính xác, đầy đủ. Thực tế cho thấy khó khăn lớn nhất trong vấn đề thẩm định không phải là vấn đề kĩ thuật tính toán mà chính là ở các khâu thu thập và xử lý dữ liệu đầu vào. Công tác thẩm định cần phải đảm bảo thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác. Các thông số đầu vào không chính xác, các yếu tố phân tích độ nhạy biến thiên ngoài sự kiến đêu là những nguyên nhân dẫn đến sai lệch trong kết quả thẩm định. Bộ phận cung cấp thông tin là vô cùng quan trọng. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen kiểm toán các báo cáo tài chính, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi xem xét thẩm định.
Thứ ba, cán bộ ngân hàng chưa hiểu rõ về nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này bên cạnh lý do nghiệp vụ này quá mới mẻ đối với Việt Nam còn vì ngân hàng cũng chưa quan tâm đến việc tập huấn, giới thiệu cho nhân viên những nghiệp vụ mới. Các ngân hàng khác dù chưa đưa vào triển khai nhưng cũng đã có những buổi giới thiệu cho cán bộ, song ở Eximbank Hà Nội vấn đề này vẫn chưa được thực hiện. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn và tốn kém thời gian khi ngân hàng tiến hành nghiệp vụ này.
Thứ tư là các văn bản hướng dẫn của ngân hàng mới chỉ đề cập đến quan hệ giữa các phòng ban mà vẫn chưa xây dựng được một quy trình cụ thể, chặt chẽ để liên kết, phối hợp các bộ phận trong hoạt động kinh doanh đối ngoại như: tín dụng xuất khẩu, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ… Điều này khiến các phòng sẽ khó khăn, lúng túng khi xử lý vấn đề có liên quan đến bộ phận khác.
Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là vấn đề pháp lý tuy đã được cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng vẫn còn có nhiều bất cập. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng vẫn còn chưa có đầy đủ các phương tiện cần thiết cho tín dụng thương mại phát triển. Dù đã ban hành pháp lệnh Thương phiếu song công cụ này vẫn chưa được sử dụng tại Việt Nam gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Thương phiếu là chứng chỉ ghi nhận sự cam kết thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Cùng với sự phát triển của thương mại, thương phiếu đã trở thành một công cụ đặc biệt quan trọng. Thông qua công cụ này, các tổ chức tín dụng có thể thực hiện tín dụng tài trợ cho xuất khẩu dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu cũng như tạo cơ sở thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Rất tiếc là thương phiếu chưa được sử dụng ở Việt Nam, mặc dù Luật Thương mại cũng như Luật các Tổ chức tín dụng đều nhấn mạnh công cụ này. Nước ta đã có Pháp lệnh thương phiếu, và hiện đang xem xét dự thảo Luật hối phiếu. Tuy nhiên thương phiếu vẫn chưa thực sự có mặt tại Việt Nam. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế, khó khăn khi xảy ra tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế.
Nghiệp vụ bao thanh toán hiện mới chỉ mới có một văn bản trực tiếp điều chỉnh là Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 6/9/2004. Văn bản này mới chỉ mang tính chất giới thiệu, chưa có những hướng dẫn cụ thể gây khó khăn cho tổ chức thực hiện nghiệp vụ này. Văn bản chưa có những quy định cụ thể về vấn đề hạn mức bao thanh toán, gia hạn, chuyển nợ quá hạn, các hình thức xử lý vi phạm và những vấn đề hậu bao thanh toán…
Hoạt động bao thanh toán quốc tế liên quan mật thiết tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Môi trường quốc tế cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng nhìn chung đã được xây dựng tương đối đồng bộ. Tuy nhiên do các quy định nằm trong các văn bản pháp luật khác nhau, chưa có luật hoặc văn bản riêng về thanh toán quốc tế nên các quy định pháp lý về hoạt động này chưa thống nhất và chặt chẽ. Vì vậy trong một số trường hợp khi xảy ra tranh chấp giữa các bên liên quan, phía Việt Nam với phía nước ngoài cũng như phía Việt Nam với nhau, rất khó có căn cứ để xử lý chính xác. Điều này dẫn đến sự lúng túng cho các chủ thể tham gia mà trước hết là các ngân hàng thương mại.
Thứ hai là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn chưa có sự hiểu biết về nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, nên họ rất e ngại khi quyết định thay đổi hình thức tài trợ và thanh toán đã sử dụng trước đó, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn chưa hề biết đến nghiệp vụ này. Họ không biết được những ưu điểm vượt trội của nghiệp vụ này so với các nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu truyền thống, mà những ưu điểm này sẽ giúp họ không nhỏ trong việc giải quyết vấn đề vốn, giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên một nguyên nhân nữa khiến các doanh nghiệp xuất khẩu chưa thực sự muốn sử dụng dịch vụ này là vì chi phí cho dịch vụ này khá tốn kém đối với nhà xuất khẩu. Chi phí này gồm lãi và phí dịch vụ. Lãi suất này thường cao hơn lãi suất thông thường 1,5% đến 3%. Phí dịch vụ khoảng từ 0,75% đến 2,5% tuỳ thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân của mỗi hoá đơn, thời hạn thanh toán, uy tín của nhà nhập khẩu… Tuy nhiên nhà xuất khẩu cũng cần phải hiểu rằng vì đây là một dịch vụ trọn gói nên phí phát sinh từ rất nhiều hoạt động khác như: thu nợ, tìm hiểu nhà nhập khẩu của tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu… Nếu phải tự thực hiện các vấn đề trên, chi phí đối với nhà xuất khẩu có lẽ sẽ còn cao hơn thế.
Thứ ba là các doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ trên thị trường xuất khẩu, thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu. Các doanh nghiệp hầu hết không am hiểu sâu sắc về thị trường quốc tế và các đối tác nước ngoài. Khả năng nắm bắt thông tin đối tác của các doanh nghiệp thấp, chủ yếu thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, lẻ tẻ qua các hội chợ… Việc có thông tin qua những phương tiện hiện đại là hạn chế. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không dám mạo hiểm cho khách hàng “mua chịu” theo phương thức thanh toán trả chậm. Đây là tâm lý chung của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Thậm chí ngay cả khi bán hàng với những điều kiện thanh toán vẫn được xem là an toàn như mở L/C thì đối tác nước ngoài vẫn có thể có những hành vi lừa đảo, lợi dụng… gây rủi ro cho nhà xuất khẩu. Sự thiếu then thông tin thị trường và đối tác là mối lo chính của nhà xuất khẩu khi quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm.
Thứ tư là các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu những cơ sở đảm bảo rủi ro trong thương mại quốc tế. Các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại vẫn chưa bảo đảm rủi ro cho nhà xuất khẩu ở mức cao. Các nghiệp vụ tài trợ chủ yếu là cung ứng vốn thông thường còn rủi ro vẫn do nhà xuất khẩu gánh chịu. Hoạt động chiết khấu mới thực hiện, nhưng cũng mới chỉ ở mức chiết khấu có truy đòi. Mặt khác ở nước ta chưa có tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cũng như các ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất khẩu. Điều này khiến các chủ thể trên e dè khi thực hiện các hoạt động như bán hàng trả chậm, chiết khấu miễn truy đòi và gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện bao thanh toán xuất khẩu. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thương trường quốc tế khi các nhà xuất khẩu khác sẵn sàng cho khách hàng của mình mua chịu. Sức ép tăng thời gian mua chịu không chỉ liên quan đến doanh số bán hàng mà thường liên quan đến khoản tín dụng trung, dài hạn cũng như ngắn hạn. Người mua muốn thanh toán sau 30,60 thậm chí là 180 ngày. Bởi vậy, với một nhà cung cấp hàng hoá cùng chủng loại, chất lượng, giá cả… tín dụng thương mại sẽ là một điểm khuyến khích đáng kể so với thanh toán ngay. Các nước nhập khẩu yêu cầu tín dụng thương mại không chỉ với những hàng hoá truyền thống mà với cả những mặt hàng như chè, nguyên liệu, cao su, dệt may là những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển như Việt Nam. Như vậy bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một công cụ cạnh tranh mang tính quốc gia. Việc bồi thường các loại rủi ro khác nhau sẽ khuyến khích nhà sản xuất và nhà xuất khẩu tự tin khi khai thác thị trường mới. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có tên trên bản đồ các tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thậm chí chưa có bảo hiểm tín dụng trong nước, trong khi các quốc gia khác đã có các tổ chức này kể cả các quốc gia đang phát triển như nước ta. Điều này làm hạn chế và gây khó khăn cho không những nhà xuất khẩu mà còn cả các ngân hàng thương mại thực hiện tài trợ xuất khẩu và thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của thị trường. Có thể nói bao thanh toán xuất khẩu là một nghiệp vụ đầy triển vọng đối với các NHTM Việt Nam đặc biệt là Eximbank - một ngân hàng xuất nhập khẩu. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng phải hội tụ được những điều kiện nhất định. Eximbank Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như những khó khăn. Vấn đề là ngân hàng cần phải có những giải pháp phù hợp, cụ thể để phát huy tốt những thế mạnh và khắc phục những mặt còn hạn chế, thực hiện thành công và hiệu quả nghiệp vụ mới mẻ này.
Chương III: phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
3.1.Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội thời gian tới
3.1.1.Định hướng xuất khẩu nói chung của Việt Nam giai đoạn 2005-2010
Xuất khẩu và khuyến khích xuất khẩu là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Trước xu thế của nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hội nhập với thương mại toàn cầu và khu vực, Việt Nam cần phải xác định được một chiến lược phát triên kinh tế tổng thể, trong đó có chiến lược phát triển các hoạt động xuất nhập khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế, nước ta đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu. Trong phát triển hoạt động xuất khẩu, một mặt phải đặt toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước vào mục tiêu xuất khẩu ngày càng tăng, đồng thời tận lực khai thác với hiệu quả cao những lợi thế và nguồn lực sẵn có của đất nước mình nhằm tiến tới công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh như nông – lâm – thuỷ sản và sản phẩm công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ… Đa dạng các hình thức xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu kết hợp với củng cố thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, phát triển nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng xuất khẩu có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Phát triển nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước”.
3.1.2. Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội giai đoạn
2006-2010
Trong các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam được đánh giá là một trong những ngân hàng hàng đầu trong cung cấp các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Về chiến lược, kế hoạch của Eximbank Việt Nam và chi nhánh Eximbank Hà Nội nói chung là xây dựng Eximbank thành một ngân hàng hiện đại, vừa bán lẻ, vừa bán buôn, đa năng, không ngừng cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới kết hợp với tài trợ xuất nhập khẩu. Với phương châm “ Bán sản phẩm thị trường cần, không phải bán sản phẩm mà Eximbank đang có”, trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng đang tiếp tục chuyển hướng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung của Việt Nam. Từ kinh nghiệm những thành công cũng như thất bại của mình, Eximbank chủ trương quản trị và kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn, theo sát từng khoản vay, hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay.
Trong giai đoạn 2006-2010, căn cứ vào tình hình diễn biến củ nền kinh tế xã hội Việt Nam, mục tiêu của Eximbank đến năm 2010 là:
- Xây dựng Eximbank trở thành một ngân hàng hiện đại ở mức trung bình tiên tiến trong khu vực Đông Nam á, có một nền tài chính lành mạnh, vững chắc, áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến.
- Là ngân hàng có phương thức quản trị điều hành tốt với hệ thống các công cụ phòng chống rủi ro một cách hiệu quả.
- Là ngân hàng có một nguồn nhân lực dồi dào, chuyên môn nghiệp vụ cao.
- Là ngân hàng có chất lượng kinh doanh sản phẩm dịch vụ tốt.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được như sau:
- Về nguồn vốn: Tăng trưởng hàng năm 20%, đến năm 2010 tổng nguồn vốn đạt trên 1500 tỷ đồng.
- Về tổng dư nợ cho vay: Tăng trưởng hàng năm 15%, đến năm 2010 đạt 1300 tỷ đồng.
- Dư nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ.
- Quan hệ với khách hàng: Số lượng khách hàng mở tài khoản tăng hàng năm 15%.
- Về thanh toán quốc tế: Thanh toán xuất nhập khẩu tăng 15%/năm.
- Kết quả kinh doanh: Lợi nhuận bình quân tăng 10%/năm, đến năm 2010 đạt 35 tỷ đồng ( sau khi trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro).
Từ những định hướng trên, ta thấy, phát triển sản phẩm dịch vụ mới là một trong những mục tiêu chiến lược của Eximbank. Với vai trò là một ngân hàng xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào thực hiện một nghiệp vụ tài trợ xuất khẩu rất tiện ích như Bao thanh toán xuất khẩu là một điều cần thiết, cần sớm được triển khai.
3.2. Phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
Để thực hiện tốt nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu, trước tiên chúng ta hãy xem xét xu hướng vận động và phát triển của dịch vụ này trên thế giới để từ đó có những định hướng cũng như có những bước đi đúng đắn nhất.
3.2.1. Xu hướng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu trên thế giới
Bao thanh toán là một dịch vụ tài chính khá phổ biến trên thế giới suốt 30 năm qua, bắt nguồn từ Mỹ, sau đó lan đến Châu âu và Châu á. Dịch vụ này đang phát triển rất mạnh với doanh số bao thanh toán ngày càng tăng trong hoạt động thương mại cả trong nước và quốc tế.
Bảng 7: Doanh số bao thanh toán của thế giới
Đơn vị: Triệu EUR
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Châu Âu
352.214
414.383
468.326
522.851
546.935
612.504
Châu Mỹ
115.134
126.517
127.157
115.301
104.542
110.094
Châu Phi
5.470
5.655
5.801
6.203
5.840
7.586
Châu á
78.775
69.865
76.078
69.850
89.096
111.614
Châu úc
5.284
7.420
8.320
9.992
13.979
18.417
Tổng số
556.877
623.840
685.682
724.197
760.392
860.215
(Nguồn: Tổ chức Bao thanh toán quốc tế)
Nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của Bao thanh toán trong việc phát triển thương mại quốc tế, công ước Unidroit ngày 28/5/1988 và công ước Uncitral tháng 12/2001 về Bao thanh toán quốc tế đã được ký kết. Các quốc gia thành viên của các công ước này đã thống nhất một khung pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho Bao thanh toán quốc tế phát triển, trong khi vẫn đảm bảo quyền lợi hợp lý giữa các bên tham gia. Bao thanh toán đã được thực hiện không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả những nước đang phát triển. ở nhiều quốc gia Châu á, tăng trưởng hoạt động bao thanh toán là rất nhanh trong khi ở Châu Mỹ Latinh, các tổ chức tài chính cũng đang tích cực tham gia vào hoạt động này. Tốc độ tăng trưởng cũng khá cao ở khu vực Châu Âu, vùng Bantic và Trung Đông. Dù chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng khối lượng bao thanh toán trên thế giới, tuy nhiên khu vực Châu á Thái Bình Dương đang được coi là một khu vực đầy tiềm năng ở những thập kỷ tới trên về hoạt động thương mại. Chính vì vậy, các quốc gia trong khu vực này tất yếu sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hoạt động bao thanh toán, trong đó có Việt Nam. Trong hoạt động bao thanh toán thì bao thanh toán quốc tế đang ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, mở ra một nghiệp vụ mới cho các doanh nghiệp xuất khẩu và các tổ chức tài chính, và các ngân hàng thương mại Việt Nam nên nắm bắt xu hướng và cơ hội này.
3.2.2. Giải pháp và kiến nghị
3.2.2.1. Giải pháp
Thứ nhất là nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu. Để có thể thẩm định khách hàng một cách chính xác và hiệu quả, điều quan trọng là những thông tin thu thập được phải chính xác, trung thực. Trên cơ sở các số liệu và thông tin phân tích, ngân hàng phải xây dựng được các chỉ số an toàn phù hợp. Ngân hàng cần phải kiểm tra cẩn thận các khoản phải thu trên các hợp đồng và các sổ phụ, trên các hoá đơn chứng từ và tại tài khoản ở tổ chức tín dụng.Việc thẩm định phải phối hợp mật thiết với tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu, phân tích rõ tình hình tại nước nhập khẩu. Cần phải chọn đối tác uy tín, lâu năm để đảm bảo tránh được rủi ro. Ngân hàng phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn, xây dựng hệ thống thông tin khách hàng để cập nhất tốt nhất tình hình hoạt động của khách hàng nhằm có những kiểm soát chặt chẽ hơn nữa. Tăng cường sự ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia bằng các hình thức bảo đảm. Có rất nhiều hình thức có thể áp dụng. Có thể buộc bên nhập khẩu hoặc xuất khẩu phải có bảo lãnh hoặc tài sản thế chấp.
Ngân hàng phải tăng cường kiểm soát thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện những nguy cơ rủi ro. Việc giám sát tính chân thực các giao dịch xuất nhập khẩu là rất quan trọng vì người xuất khẩu và người nhập khẩu có thể thông đồng để tăng giá trị hợp đồng gây thiệt hại cho ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải trực tiếp kiểm tra nắm bắt tình hình sản xuất, các mặt hàng, định giá trị… để xác định chính xác nhất giá trị của hợp đồng bao thanh toán mà ngân hàng quyết định thực hiện.
Hoạt động bao thanh toán xuất khẩu còn khá mới mẻ với cán bộ ngân hàng, vì vậy việc xây dựng quy trình thực hiện cho phù hợp, chặt chẽ, đồng bộ là khá quan trọng. Ngân hàng cần căn cứ quy trình chung của hoạt động bao thanh toán và tình hình các hoạt động liên quan mật thiết như tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ… để có được quy trình thống nhất. Ngân hàng nên tham khảo một số quy trình của các tổ chức uy tín đã thực hiện và thành công. Việc xây dựng quy trình cần gắn kết các hoạt động sao cho chặt chẽ, tiết kiệm thời gian một giao dịch, nhanh chóng cung ứng những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
Thứ hai là giải pháp nâng cao trình độ năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Là một nghiệp vụ tương đối mới ở Việt Nam, trong thời kì đầu hoạt động, kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng là chưa có hoặc ít. Vì vậy ngân hàng cần phải coi trọng công tác đào tạo để kịp thời bổ sung kiến thức cho cán bộ. Trước hết cần phải phổ biến, tập huấn cho cán bộ ngân hàng về nghiệp vụ này. Việc đào tạo có thể thông qua tổ chức các lớp nói chuyện chuyên đề, mời các chuyên gia sang tập huấn. Cần tận dụng triệt để mối quan hệ ngân hàng đại lý tốt đẹp với một số ngân hàng lớn đã thực hiện nghiệp vụ này thành công, mời chuyên gia của họ sang đào tạo, giới thiệu nghiệp vụ. Ngân hàng cũng cần nắm bắt, tham gia những cuộc hội thảo về hoạt động bao thanh toán tổ chức ở Việt Nam để mở rộng thêm hiểu biết về nghiệp vụ. Chi phí cho việc đào tạo ban đầu sẽ tương đối cao, nhưng hiệu quả của nó lại rất lớn. Từ sự hiểu biết nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng sẽ có thể thực hiện tốt nhất, đồng thời có thể cho khách hàng những lời tư vấn bổ ích, giúp khách hàng có những lựa chọn hợp lý cho tài trợ xuất khẩu của mình, đưa nghiệp vụ này dần trở nên gần gũi với khách hàng.
Ngoài việc đào tạo trực tiếp, lãnh đạo và cán bộ ngân hàng cũng cần tìm hiểu, tra cứu thêm thông tin nghiệp vụ bao thanh toán nói chung và bao thanh toán xuất khẩu nói riêng để nâng cao kiến thức, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm. Có rất nhiều kênh thông tin để tham khảo như qua báo chí, qua sách báo nước ngoài và đặc biệt là những thông tin bổ ích qua mạng Internet. Một số trang Web hữu ích có thể xem xét như:
www.factors-chain.com ( Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế FCI)
- www.factorscan.com
www.businesslink.gov.uk
www.ifgroup.com (International Factors Group)
và nhiều trang bổ ích khác nữa. Qua các thông tin này, ngân hàng có thể nắm bắt những kinh nghiệm về hoạt động này của các ngân hàng nổi tiếng cũng như có những lời tư vấn quý giá khi mới bước vào thực hiện nghiệp vụ.
Thứ ba là nhóm giải pháp Marketing sản phẩm bao thanh toán xuất khẩu của Eximbank Hà Nội. Eximbank cần đẩy mạnh và nâng cao việc tổ chức Marketing trong lĩnh vực bao thanh toán bằng các biện pháp như có chiến lược sản phẩm, có các hình thức quảng cáo, tiếp thị… hợp lý. Đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, bao thanh toán xuất khẩu là quá mới mẻ, họ vẫn quen với những hình thức tài trợ xuất khẩu truyền thống và cũng thường có những tâm lý ngại thay đổi. Việc giới thiệu sản phẩm mới này có thể thông qua các buổi hội thảo, gặp mặt khách hàng, thông qua phương tiện thông tin đại chúng và qua mạng Internet…Trước hết ngân hàng nên hướng vào các khách hàng truyền thống, những người đã có thời gian quan hệ lâu dài với Eximbank Hà Nội, và cũng đã tạo được những uy tín nhất định với ngân hàng. Với đối tượng này, ngân hàng sẽ giảm được nhiều gánh nặng trong thẩm định, hạn chế được những rủi ro. Một đối tượng khách hàng nữa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tham gia hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Đối tượng này đang tạo ra một thị trường rất tiềm năng cho nghiệp vụ này, và đây cũng là đối tượng mà trong những năm gần đây Eximbank Hà Nội đang chủ trương hướng tới. Nghiệp vụ này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tiềm lực đang nhỏ bé, nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên đối với khách hàng này, Ngân hàng cần xem xét kĩ đối tác, nhà nhập khẩu nước ngoài, thị trường nước nhập khẩu. Ngân hàng sẽ tập trung tài trợ cho những mặt hàng có khả năng mở rộng thị trường, thị trường ổn định, ít biến động.
3.2.2.2. Kiến nghị
Kiến nghị Hội sở Trung ương Eximbank Việt Nam
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu, trước hết cần phải có sự đi tiên phong của Hội sở Trung ương. Hội sở cần phải thực trước, rút kinh nghiệm để các chi nhánh thực hiện có hiệu quả hơn. Eximbank cần tăng cường củng cố ngày thêm chặt chẽ mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, không ngừng mở rộng thêm mạng lưới này. Trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu, các ngân hàng đại lý sẽ là người trực tiếp thay mặt Eximbank thẩm định tình hình của nhà nhập khẩu, xem xét khả năng thanh toán cũng như tình hình nước nhập khẩu để có được những quyết định đúng đắn trong việc tài trợ. Để có sự giúp đỡ và hỗ trợ Eximbank nên tham gia vào tổ chức bao thanh toán quốc tế (FCI) mà Hội sở sẽ là đại diện thành viên của tổ chức này. Khi tham gia vào tổ chức này, Eximbank sẽ có những lợi ích nhất định như: được truyền đạt những kinh nghiệm, sự hiểu biết không những về nghiệp vụ mà còn về thị trường thế giới; có được sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng đại lý trong tổ chức ở 59 quốc gia; có cơ hội được đào tạo cho cả cán bộ quản lý và nhân viên; được chuẩn hoá về quy trình nghiệp vụ; có được trung gian giải quyết khi có những xung đột giữa các ngân hàng đại lý với nhau… Tuy nhiên việc tham gia vào tổ chức này cũng đòi hỏi ở ngân hàng một số điều kiện nhất định như: phải có vốn tối thiểu 2 triệu USD, có chất lượng quản lý tốt, các thành viên mới phải chứng tỏ sự nhiệt tình của mình thông qua việc tham gia tất cả các sự kiện của FCI, các chương trình đào tạo… phải nộp phí thành viên… Nhìn chung thì Eximbank đều có thể đạt được những điều kiện trên và nếu thành công trong việc gia nhập tổ chức này, việc phát triển bao thanh toán xuất khẩu của Eximbank sẽ được hỗ trợ rất nhiều, đạt được hiệu quả tốt.
Căn cứ vào những quy định của Nhà nước, Hội sở Trung ương cần có những nghiên cứu chi tiết để đưa ra những văn bản hướng dẫn cho các chi nhánh thực hiện. Các văn bản nên tập trung vào hướng dẫn xây dựng quy trình cũng như các vấn đề liên quan đến đảm bảo an toàn trong hoạt động này.
Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại, ngân hàng, tài chính, tín dụng… tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thực hiện tốt hơn các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu nói riêng. Để triển khai nghiệp vụ này hiệu quả, các tổ chức tín dụng mong muốn Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các hướng dẫn về các quy định trong hoạt động bao thanh toán như: quy định về hạn mức bao thanh toán, gia hạn, chuyển nợ quá hạn, các trường hợp xử lý vi phạm và hậu bao thanh toán, hợp đồng bao thanh toán giữa các bên, cũng như nghĩa vụ cụ thể của các bên khi tham gia nghiệp vụ này. Đồng thời cũng cần quy định rõ ràng hơn sự liên quan giữa các tiêu chuẩn trong quy chế bao thanh toán với các quy chế trong hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Hơn nữa Ngân hàng Nhà nước cần sớm có những quy định riêng cho lĩnh vực thanh toán quốc tế và sớm ban hành Luật hối phiếu để thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng trong việc xử lý các vấn đề phát sinh.
Kiến nghị Chính phủ thành lập Tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có một vai trò rất lớn trong việc khuyến khích các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Nếu được triển khai, đây sẽ là một công cụ hiệu quả giúp giảm bớt gánh nặng rủi ro cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu. Việc thành lập tổ chức này phải được nghiên cứu kĩ càng và thực hiện theo những bước đi nhất định. Trước hết, cần phải đánh giá được nhu cầu và triển vọng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là phải tìm hiểu, phân loại và phân tích cơ cấu thị trường bảo hiểm, hình thức thanh toán, cơ cấu nguồn vốn, khả năng sẵn sàng nguồn vốn của nền kinh tế cũng như các ngân hàng cho hoạt động xuất khẩu. Đồng thời cũng phải nắm rõ chiến lược xuất khẩu hàng hoá trong từng thời kì. Có như vậy mới đánh giá đúng triển vọng phát triển của Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu, Nhà nước nên lựa chọn một loại hình công ty, tổ chức đủ điều kiện để triển khai nghiệp vụ này, không nên vì mục tiêu lợi nhuận. Với tổ chức này, Nhà nước nên cấp vốn và tái bảo hiểm. Về các hình thức bảo hiểm, với mục tiêu trước mắt đẩy mạnh xuất khẩu, trong thời gian đầu, Việt Nam nên thực hiện hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu đối với rủi ro chính trị và rủi ro thương mại; bảo hiểm cho ngân hàng thương mại khi thực hiện tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Với đặc thù bảo hiểm tín dụng liên quan chặt chẽ đến nhà nhập khẩu và nước nhập khẩu nên thông tin về các đối tượng trên là vô cùng quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro, quyết định phí bảo hiểm. Dần dần từng bước chúng ta phải tổ chức được các kênh thu thập và xử lý thông tin, sẵn sàng khi tiến hành bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Kiến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên chủ động tìm hiểu để nắm bắt được một dịch vụ mới và tiện ích như Bao thanh toán xuất khẩu, không nên ngần ngại vì chi phí của dịch vụ này quá cao. Thực chất đây là một dịch vụ trọn gói rất tiện ích với nhà xuất khẩu. Chi phí cao bởi nó gồm chi phí của nhiều dịch vụ tổng hợp. Các doanh nghiệp cũng nên tạo uy tín với ngân hàng bằng việc vay trả đúng và đủ. Có như vậy ngân hàng mới sẵn sàng cung ứng vốn và những dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tìm hiểu thêm những thị trường mới, tiềm năng, ổn định, có hiệu quả với những phương án xuất khẩu chất lượng cao. Khi đó, dịch vụ bao thanh toán sẽ có điều kiện để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều nhất.
Phần III. Kết luận
Hướng tới nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách là mục tiêu của các ngân hàng thương mại nói chung và của Eximbank Hà Nội nói riêng. Với vai trò là một ngân hàng xuất nhập khẩu, khách hàng mục tiêu của Eximbank là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Dù đã có nhiều hỗ trợ tích cực, song hoạt động tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội vẫn còn chưa đáp ứng được nhiều mặt nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, và cần thiết phải phát triển thêm nhiều dịch vụ mới. Xét thấy bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ mới với rất nhiều lợi ích, phù hợp với tính năng hoạt động của Eximbank, đề tài xin đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ này tại Eximbank Hà Nội:
Về giải pháp: Ngân hàng cần phải tích cực nâng cao năng lực thẩm định của mình; tiến hành đào tạo, bồi dưỡng thêm nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ; có những chiến lược Marketing cụ thể trong việc quảng bá cũng như đưa nghiệp vụ mới này vào thực hiện hiệu quả.
Về kiến nghị: Hội sở trung ương Eximbank Việt Nam cần có những nghiên cứu cụ thể để tiên phong thực hiện nghiệp vụ này, đồng thời có những bước chuẩn bị để ra nhập tổ chức bao thanh toán quốc tế; Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách liên quan đến bao thanh toán, tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng thực hiện; Chính phủ cũng nên sớm thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Với những giải pháp và kiến nghị trên, qua đề tài, hy vọng đề tài sẽ góp phần sớm đưa nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu vào thực hiện tại Eximbank Hà Nội, tạo ra một dịch vụ tiện ích hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách tham khảo:
1. Bùi Xuân Lưu, 1997, Giáo trình kinh tế ngoại thương, NXB Giáo dục.
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, 2005, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương,, NXB Thống kê.
3. TS. Lê Văn Tề, 1994, Nhà quản lý giỏi nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế, NXB Tài chính.
4. GS.TS. Lê Văn Tư,2005, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Các tạp chí:
1. Đào Thị Quỳnh Anh, 2005, Hệ thống Bảo hiểm tín dụng Nhật Bản -Một số kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 4.
2. Lê Thị Vân Anh, 2006, Xuất khẩu năm 2005: Thành tích rực rỡ nhưng khó khăn còn nhiều, Tạp chí Tài chính, số 1+2.
3. Vũ Đình ánh, 1999, Khúc mắc về tín dụng nhằm thúc đẩy xuất khẩu, Tạp chí Tài chính, số 10.
4. Đào Văn Chung - Nguyễn Thu Hằng, 2005, Bàn về khả năng áp dụng nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu đối với các tổ chức tín dụng, Thị trường tài chính tiền tệ, số 1+2.
5. Đào Văn Chung, 2005, Rủi ro trong hoạt động bao thanh toán và biện pháp phòng ngừa, Thị trường tài chính tiền tệ, số 14.
6. TS. Nguyễn Văn Hà,2004, Phát triển nghiệp vụ Factoring nhằm đa dạng hoá hoạt động của Ngân hàng Việt Nam, Phát triển kinh tế, số 166.
7. Đỗ Quốc Hưng, 2005, Có cần thiết thành lập một tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hay không, Tạp chí ngân hàng, số 3.
8. Trần Trung Tường, 2005, Nghiệp vụ Bao thanh toán hay nghiệp vụ tín dụng thương mại tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, Thị trường tài chính tiền tệ, số 13.
9. Ths. Quách Tường Vy, 2004, Bao thanh toán - Một kênh hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, Thị trường tài chính tiền tệ, số 10.
8. Văn bản luật:
Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004.
Các trang Web:
1. www.kiemtoan.com.vn
2. www.eximbank.com.vn
3. www.factors-chain.com
4. www.ifgroup.com.
5. www.businesslink.gov.uk.
6. www.factorscan.com.
Phần i: Lời mở đầu 1
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 1
Phần ii: Nội dung 2
Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 2
1.1. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 2
1.1.1. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế 2
1.1.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 5
1.2. Nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu 9
1.2.1. Nghiệp vụ bao thanh toán 9
1.2.2. Vai trò, chức năng và quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 13
1.2.2.1. Vai trò của bao thanh toán xuất khẩu 13
1.2.2.2. Chức năng của Bao thanh toán xuất khẩu 15
1.2.2.3.Quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 19
1.2.3. Những lợi ích của Bao thanh toán xuất khẩu 22
Lợi ích đối với nhà nhập khẩu 24
1.2.4. Rủi ro trong hoạt động Bao thanh toán xuất khẩu 25
1.2.5. Điều kiện để ngân hàng thương mại thực hiện Bao thanh toán xuất khẩu 28
1.2.6. Hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam thời gian qua 32
Chương ii: khả năng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 35
2.1. Tổng quan về Eximbank Hà Nội 35
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội 35
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu thời gian qua 39
2.1.3. Đánh giá chung về Eximbank Hà Nội 45
2.2. Nhu cầu phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 48
2.2.1. Nhu cầu hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu 48
2.2.1.1. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua 48
2.2.1.2. Nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam 49
2.2.2. Tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội 54
2.2.2.1. Các hình thức tín dụng xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 54
2.2.2.2. Thực trạng tín dụng xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 57
2.3. Đánh giá các điều kiện thực hiện nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 64
2.3.1. Những điều kiện thuận lợi 64
2.3.2. Những điều kiện còn hạn chế và nguyên nhân 67
2.3.2.1. Điều kiện hạn chế 67
2.3.2.2.Nguyên nhân 70
Chương III: phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 76
3.1.Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội thời gian tới 76
3.1.1.Định hướng xuất khẩu nói chung của Việt Nam giai đoạn 2005-2010 76
3.1.2. Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội giai đoạn 77
3.2. Phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 78
3.2.1. Xu hướng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu trên thế giới 78
3.2.2. Giải pháp và kiến nghị 80
3.2.2.1. Giải pháp 80
3.2.2.2. Kiến nghị 83
Phần III. Kết luận 87
Danh mục tài liệu tham khảo 88
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36486.doc