Thời gian qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với đô thị hóa đã diễn ra với tốc độ chóng mặt. Hiệu ứng do hiện tượng này gây ra có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Bên cạnh những đóng góp to lớn về tăng trưởng, phát triển kinh tế, đời sống người lao động được cải thiện thì vẫn tồn tại một bộ phận những công nhân còn đang gặp rắc rối trong vấn đề nhà ở. Họ là những lao động di cư từ những vùng ngoại thành, vùng nông thôn đến các trung tâm đô thị để tìm kiếm những cơ hội kiếm tiền mới. Do các chính sách đãi ngộ của Nhà nước và nơi làm việc chưa đề cập đến việc chăm lo nơi ăn, chốn ở cho những công nhân này nên phần lớn những công nhân này đang phải ở tạm bợ trong những ngôi nhà ổ chuột, không đảm bảo điều kiện không gian, vệ sinh và an toàn. Vấn đề này đang ngày trở nên bức xúc và cần phải giải quyết kịp thời.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới đều chỉ ra rằng, vấn đề nhà ở cho công nhân phải được đặt đồng thời song song với việc hình thành và phát triển các KCN, KCX. Ngoài ra thì vấn đề cải tạo hay xây dựng nhà ở cho công nhân là một điều kiện cần thiết để nâng cao năng suất lao động, tạo động lực và nó cũng chính là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển bền vững cho các KCN, KCX ở Việt Nam.
Các cơ chế chính sách đặt ra cho việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX đó là phải từ từ, từng bước và giải quyết một cách đồng bộ, tránh vội vàng hấp tấp. Từng bước vận dụng những cơ chế chính sách về đất đai, về tài chính, ưu đãi thuế để cho những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX được từng bước tháo gỡ từ thấp đến cao. Chẳng hạn như có thể từng bước vận dụng các cơ chế chính sách về đất đai để tạo nguồn quỹ đất cho vấn đề này; trước mắt là những vùng đất nằm trong quy hoạch của các hộ gia đình, sau đó dần nâng cao chất lượng mẫu nhà cho công nhân. Đồng thời cho phép đưa vào chi phí doanh nghiệp cũng như thuế ưu đãi nếu doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân.
69 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề hôn nhân và gia đình trở nên bức xúc nhưng chưa được các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể quan tâm thỏa đáng.
Hầu hết các luật, pháp lệnh quy định vấn đề liên quan đến di cư đều chỉ mới dừng lại ở các quy định có tính nguyên tắc chung, áp dụng cho tất cả tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi cả nước (kể cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam). Vì vậy, nội dung các quy định chủ yếu mang tính khái quát mà không đề cập đến các nhóm đối tượng áp dụng đặc thù như lao động di cư đến làm việc tại các khu công nghiệp. Mặc dù nội dung của Hiến pháp, Luật pháp và Pháp lệnh đều không có những quy định thể hiện sự phân biệt đối xử với lao động nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh của Chính phủ, bộ, ngành liên quan tới một số vấn đề cụ thể như hộ khẩu, hộ tịch, đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh, giáo dục (nhập học và tuyển sinh vào các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), vay vốn tạo việc làm và sản xuất kinh doanh của hộ gia đình, mua và trao đổi nhà ở thành phố, mắc điện, mắc nước… đã đưa ra một số điều kiện và thủ tục ràng buộc quá chặt chẽ (đặc biệt là yêu cầu phải có hộ khẩu thường trú hoặc có đăng ký tạm trú dài hạn), vì vậy, người dân, mà chủ yếu là người lao động nhập cư khó có thể thụ hưởng một cách toàn vẹn các quyền cơ bản của họ bao gồm: quyền tư do đi lại; quyền được chăm sóc y tế và bảo vệ sức khoẻ; quyền được học tập và phát triển trí tuệ; quyền có việc làm của người lao động; quyền có chỗ ở và sở hữu tài sản hợp pháp, của cải để dành; quyền thụ hưởng các dịch vụ kinh tế - xã hội.
Đối với người lao động nhập cư, vấn đề quan trọng là việc đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố, nhưng việc này rất khó khăn, nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người lao động nhập cư, gây trở ngại đối với họ trong việc hưởng các quyền cơ bản trong hiến pháp quy định của công dân, trong đó có quyền lợi về nhà ở.
Những nguyên nhân của các thực trạng về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam như trên.
Có thể nói thực trạng về nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX hiện nay đang có tình trạng cung không đáp ứng đủ cầu cả về số lượng và chất lượng. Cung về nhà ở thì có hạn mà cầu thì ngày càng gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển của các KCN, KCX. Có thể tựu chung lại thực trạng trên là do những nguyên nhân sau:
Các cơ chế chính sách của nhà nước còn chưa đồng bộ và chưa đầy đủ.
Xét ở tầm vĩ mô ta thấy, số lượng lao động trong các KCN, KCX tăng nhanh nhưng quy hoạch phát triển KCN chưa tính tới yêu cầu về chỗ ở của công nhân. Khi lập các dự án đầu tư xây dựng các KCN, KCX, các chủ dự án đầu tư hầu như không quan tâm đến việc xây dựng nhà ở cho công nhân. Cho đến khi tất cả đã xong xuôi, cơ sở hạ tầng đã hoàn thành thì vấn đề nhà ở cho công nhân mới trở nên bức xúc.
Thời gian qua chúng ta chưa có những chính sách đồng bộ về đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân nhất là trong cơ chế thị trường không thể chỉ dựa vào vấn đề đầu tư từ ngân sách Nhà nước như thời bao cấp nhưng cũng không thể thả nổi cho doanh nghiệp và người công nhân
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng đã có những tìm tòi, vận dụng nhưng hiện vẫn chưa có một cơ chế chính sách nào có thể vận dụng chung để giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề nhà ở cho công nhân các KCN, KCX từ khía cạnh doanh nghiệp.
Sự quan tâm của các địa phương tới vấn đề phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn chưa đúng mức.
Đứng trên quan điểm về quản lý nhà nước, việc đặt vấn đề xây dựng nhà cho lao động trong các KCN, KCX phải là nhiệm vụ của cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh. Việc quy hoạch, hình thành, xây dựng và phát triển các KCN, KCX là do nhu cầu và đề xuất của các chính quyền cấp tỉnh. Tuy nhiên đến nay các cấp chính quyền địa phương còn chưa có những động thái cụ thể trong vấn đề này. Hiện nay, chỉ có những tỉnh, thành phố có mật độ KCN, KCX với số lao động lớn mới có những động thái cụ thể. Đồng thời từ phía các cơ quan Trung ương cũng chưa có được những giải pháp, những cơ chế đủ để giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, khi trình phê duyệt các quy hoạch KCN, KCX, hầu như luôn kèm những phương án phát triển những khu tái định cư, khu nhà ở cho công nhân. Bên cạnh đó, khi KCN, KCX được phê duyệt thì động thái tiếp theo của chính quyền cấp tỉnh về phát triển khu nhà ở cho công nhân hầu như không được triển khai.
Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập.
Các KCN, KCX ở nước ta đã phát triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển của các đô thị. Việc đầu tư cho phát triển đô thị ít hơn phát triển công nghiệp, nhất là các hạ tầng khung cho đô thị có tiềm năng phát triển trong tương lai.
Quy hoạch đô thị và phát triển các KCN, KCX chưa nắm bắt kịp những xu thế mới của tiến trình đô thị hoá, CNH- HĐH và những lợi thế về mặt địa điểm đã dẫn đến những ý tưởng thiếu thực tế và vì vậy không đáp ứng được thực tiễn phát triển. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh quyết liệt trong thu hút đầu tư đã dẫn tới tình trạng thiếu phối hợp giữa các địa phương và giữa các cấp các ngành trong các chính sách phát triển kinh tế nói chung cũng như trong lĩnh vực công nghiệp và đô thị nói riêng.
Cơ sở hạ tầng yếu kém.
Phát triển công nghiệp thường kéo theo gia tăng dân số cơ học tại các đô thị. Thực tế đó cũng đặt ra bài toán đối với các địa phương về khả năng đáp ứng được về cơ sở hạ tầng. Hiện nay hệ thống hạ tầng kĩ thuật chủ yếu là tập trung tại nơi có mật độ dân cư cao, khu vực trung tâm và các đô thị hay bên trong các KCN trung tâm. Nếu như cơ sở hạ tầng được xây dựng để phục vụ cho các KCN, KCX và các vấn đề xã hội khác thì cũng gặp phải những vấn đề khó khăn về ngân sách, hạn chế về công tác đền bù, giải tỏa, việc xây dựng hàng rào bên trong và hàng rào bên ngoài dự án cũng chưa thể kịp để đáp ứng tiến độ của dự án. Có nhiều nơi mạng lưới giao thông bên ngoài các KCN, KCX cụm công nghiệp chưa phát triển mạnh gây nên tình trạng khó khăn trở ngại cho việc liên hệ giữa các đô thị với các KCN và các vùng lân cận khác.
Có một xu hướng chung là hệ thống giao thông công cộng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, ngay cả ở những thành phố lớn thì tỷ lệ này cũng không phải là cao. Điều này khiến cho tình trạng ách tắc giao thông rất phổ biến, mặt khác đất dành cho xây dựng hệ thống giao thông mới đạt được 5% đất đô thị. Từ đó làm cho sự tiếp cận giao lưu giữa các hoạt động vui chơi giải trí, sinh hoạt, nghỉ ngơi, kinh doanh, sản xuất trong các KCN, KCX bị hạn chế một cách nghiêm trọng.
Ngoài hệ thống giao thông, thì việc cung cấp điện nước cho các đô thị, các KCN, KCX cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của công nhân. Việc cung cấp điện nước cho các khu đô thị, KCN, KCX hiện nay chưa có quy hoạch và kế hoạch khai thác cân đối và hợp lý, quá trình thực hiện còn nhiều chậm trễ đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN, KCX cũng như khả năng thu hút đầu tư vào KCN nói chung và lĩnh vực nhà ở cho công nhân tại các KCX, KCX nói riêng.
Nguồn vốn và quỹ đất dành cho xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn thiếu thốn.
Vấn đề xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng khó khăn như trên không thể không nói đến một nguyên nhân rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư xây dựng đó là nguồn vốn và quỹ đất dành cho xây dựng.
Xuất phát từ việc không có đủ cơ chế, chính sách chỉ đạo triển khai là việc hiện quỹ đất để có thể hình thành và xây dựng các khu nhà cho lao động các KCN đang thiếu thốn nhiều. Để có thể tạo ra các quỹ này thì công tác giải phóng mặt bằng phải được triển khai đồng bộ. Tuy nhiên khi đó vấn đề đặt ra sẽ là chi phí giải phóng mặt bằng sẽ rất cao vì khi KCN đã và đang trong giai đoạn hình thành thì sẽ kéo theo giá đất xung quanh các KCN, KCX bị đẩy lên rất cao. Có thể lấy một ví dụ như KCN Sông Công, hiện rất khó có thể tạo được quỹ đất để phục vụ cho lao động trong KCN. Hoặc như KCN Tân Bình, đất xung quanh hiện đã là đất đô thị nên quỹ đất để có được là cả một vấn đề khó khăn.
Về phía nhà nước nói chung và các địa phương nói riêng thì cơ chế chính sách không công bằng giữa những nhà đầu tư cho KCN, KCX và những nhà đầu tư cho khu dân cư. Trong khi đầu tư cho KCN, KCX được ưu tiên giải phóng mặt bằng thì nhiều địa phương lại gần như bỏ mặc nhà đầu tư cho xây dựng khu dân cư khiến cho họ phải đối mặt với những thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng rất nhiêu khê, phiền toái. Bên cạnh đó, thiếu vốn cũng là một nguyên nhân làm cho vấn đề nhà ở cho công nhân gặp khá nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng cung cầu bất hợp lý như đã nêu trên. Thứ nhất, chúng ta chưa có chủ trương hình thành quỹ tài chính cho xây dựng nhà ở công nhân tại các KCN, KCX. Thứ hai, chúng ta vẫn coi như đặt chung vấn đề nhà ở cho lao động trong các KCN vào với vấn đề nhà ở xã hội, vì vậy không tạo được quỹ riêng cho vấn đề này. Thứ ba là chưa có một nguồn tài chính cơ sở nào từ những cơ quan hữu quan cho vấn đề này. Trong khi đó tất cả các chủ thể có liên quan đều cho rằng cần phải có một quỹ hỗ trợ cho vấn đề nhà ở công nhân này. Ba nguyên nhân trên chính là những nhân tố làm cho nguồn tài chính dành cho việc xây dựng nhà ở công nhân tại các KCN, KCX hiện nay rơi vào tình trạng thiếu thốn lớn.
Ông Võ Thanh Hùng, Trưởng BQL KCX-KCN Cần Thơ cho biết, khó khăn lớn nhất trong triển khai xây dựng nhà ở công nhân vẫn là mặt bằng. Bên cạnh đó, hiện chưa có chính sách ưu đãi đặt biệt cho dự án nhà ở công nhân, hỗ trợ công nhân mua nhà, nên khi kêu gọi đầu tư thì hầu như các nhà đầu tư đều bỏ chạy, vì dự án nhà ở công nhân kém sinh lợi và thu hồi vốn chậm.
Những cơ chế chính sách của nhà nước ta về việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX.
Các cơ chế chính sách đã được áp dụng.
Ở Việt Nam các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa chú trọng giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Đến thời điểm hiện nay thì Nhà nước ta chưa có chính sách ưu đãi rõ ràng cho công tác xây dựng nhà ở cho các đối tượng này. Có ba nghị định liên quan đến vấn đề trên đó là: Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ đã quy định “Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, có tính đến đầu mối kỹ thuật ngoài KCN, khu dân cư phục vụ công nhân, lao động làm việc tại các KCN; các trường học, cơ sở khám chữa bệnh phục vụ KCN; các giải pháp về nguồn vốn, cấp điện, cấp thoát nước, giao thông, thông tin, môi trường, lao động để đảm bảo tính khả thi của KCN”.
Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 đã được thay thế bằng nghị định 108/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư. Tuy nhiên còn nhiều nội dung liên quan đến nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 còn chưa được làm rõ, vì vậy thực hiện chỉ đạo của thủ tướng chính phủ tại công văn số 1422/VPCP-CN ngày 19/3/2007 của Văn phòng chính phủ về việc giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì , phối hợp với các Bộ, ngành liên quan dự thảo Nghị định của Chính phủ về quản lý nhà nước đối với các KCN, KCX, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Tuy nhiên hiện nghị định vẫn chưa được ban hành. Hơn nữa nội dung về nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX lại liên quan đến nhiều các nội dung bên ngoài hàng rào khu này, chính vì vậy mà Nghị định này nếu được ban hành cũng không đề cập được nhiều đến nội dung của vấn đề này.
Tiếp theo là Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật nhà ở, tại mục 3 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. tuy nhiên các nội dung quy định tại Nghị định này bao gồm một diện khá rộng người được hưởng thụ, vì thế mà công nhân trong các KCN, KCX chỉ là một nhóm đối tượng. Do đó mà chưa thể có chính sách cụ thể, trực tiếp đối với những công nhân trong các KCN, KCX..
Thứ ba là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Do mới ban hành cho nên Nghị định này chưa thể có tác dụng ngay.
Ngoài ra một số địa phương và doanh nghiệp lớn cũng thực hiện một số trào lưu, mô hình, chính sách đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, người lao động tại các KCN, KCX chẳng hạn như một số địa phương sau: TP HCM có Quyết định 322/2003/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng nhà ở xã hội , trong đó có nhà lưu trú cho công nhân. Thành phố cũng đã có Quyết định 75 về quy định quy chế nhà cho thuê.
Về phía các nhà doanh nghiệp ở TP HCM, để nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất và phát triển doanh nghiệp của mình, các doanh nghiệp cũng đưa ra một loạt các biện pháp nhà ở để “ giữ chân” công nhân và người lao động. Điều này làm hình thành bốn mô hình phát triển nhà điển hình: thứ nhất là loại nhà lưu trú cho công nhân được xây dựng trên phạm vi đất KCN, KCX; thứ hai là loại nhà lưu trú do doanh nghiệp thuê đất trong KCX và bỏ tiền ra xây, nhưng doanh nghiệp lại muốn được hạch toán chi phí này vào chi phí sản xuất dưới hình thức khấu hao TSCĐ, nên không được Bộ Tài Chính chấp nhận; thứ ba là loại hình nhà ở do doanh nghiệp kinh doanh nhà thuê đất bên ngoài KCN, KCX để xây cho công nhân thuê; thứ tư là loại nhà ở do doanh nghiệp cho các hộ dân xung quanh KCN vay tiền theo lãi suất ngân hàng để xây nhà rồi cho công ty thuê lại làm nhà ở cho công nhân.
Tại Bà Rịa Vũng Tàu, cũng có quyết định số 76/2004/QĐ-TTg ngày 6/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt hướng phát triển nhà ở đến năm 2020.
Ngoài ra các tỉnh như: Thái Nguyên, Hải Dương, Bắc Ninh, Đà Nẵng cũng có những cơ chế chính sách về việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các hộ dân xây dựng nhà ở cho công nhân thuê.
Ngoài những cơ chế chính sách về việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ dân trong vấn đề xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX thì Nhà nước ta còn ban hành chính sách về quản lý hộ khẩu lao động nhập cư tới các đô thị, KCN, KCX. Chính sách này nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong cư trú và đi lại. Nhà nước đã nhiều lần đổi mới chính sách về đăng ký hộ khẩu theo hướng mở rộng phục vụ quản lý xã hội và đảm bảo quyền lợi cư trú của công dân. Một trong những chính sách đó là những quy định tại NĐ 51/CP về đăng ký quản lý hộ khẩu của Chính phủ ngày 10/5/1997 đã cơ bản phù hợp với tình hình hiện nay, tuy nhiên với mục tiêu mở rộng điều kiện phạm vi đối tượng đăng ký hộ khẩu vào thành phố, thị xã, giảm thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ trong ĐKHK, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ XHCN. Đối với những người lao động tại các KCN, KCX thì đây cũng là một chính sách để quyền lợi của họ được đảm bảo.
Qua những thống kê trên có thể thấy tại Việt Nam chưa có một cơ chế, chính sách chung nào để cho các doanh nghiệp có thể vận dụng và triển khai xây dựng nhà ở cho lao động trong KCN mà mới chỉ xuất phát từ nhu cầu bức xúc và thực hiện tự phát. Vì thế rất khó để doanh nghiệp có thể tìm được một giải pháp khả thi cho mình.
Những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại.
Việc ban hành những cơ chế chính sách liên quan đến vấn đề giải quyết nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian qua đã tạo ra những kết quả có ảnh hưởng rất tích cực đến quá trình giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân. Thực hiện chủ trương của Nhà nước nhiều KCN đã có những chính sách về vấn đề nhà ở cho công nhân. Đặc biệt là ở một số KCN tỉnh Bắc Ninh, những công nhân ở xa đã được ở miễn phí hoặc chỉ phải trả một phần phí cho việc ở trọ tại nơi làm việc. Việc sắp xếp chỗ ở cho công nhân ở một số KCN có sự ưu tiên cho các đối tượng thuộc diện ưu tiên theo quy định hiện hành của Nhà nước như con thương binh, liệt sĩ, hộ nghèo, người lao động vùng sâu vùng xa. Những chính sách này tuy không giải quyết được triệt để vấn đề nhà ở cho công nhân nhưng nó cũng góp phần khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân thuê. Thực tế cho thấy tại Thái Nguyên, doanh nghiệp may thuộc KCN Sông Công đã chịu trách nhiệm trả tiền thuê nhà cho những công nhân của mình, đồng thời một doanh nghiệp cán thép cũng đặt vấn đề với UBND thị xã sông Công để xin đất làm nhà cho công nhân. Tại Hải Dương, đã có một doanh nghiệp thử nghiệm phát triển khu nhà ở cho lao động tại các KCN Hải Dương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả kể trên thì các chính sách về vấn để nhà ở cho công nhân vẫn còn nhiều bất cập đòi hỏi các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương phải giải quyết. Trước hết, đó là việc Nhà nước ta chưa có những chính sách ưu đãi rõ ràng cho công tác xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Bên cạnh đó, những văn bản đã ban hành như Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật nhà ở, tại mục 3 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội lại bao gồm một diện khá rộng người được thụ hưởng, cho nên công nhân trong các KCN, KCX chưa thực sự là đối tượng trực tiếp và cụ thể của Nghị định này. Vì vậy mà Nghị đình này chưa phát huy được tác dụng trong quá trình triển khai và thực hiện tại các cơ sở.
Tại một số địa phương, tuy cũng ban hành những cơ chế chính sách để hướng dẫn các đối tượng tham gia vào quá trình xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX, nhưng hầu hết nó vẫn mang những đặc trưng riêng cho từng vùng, từng địa phương, hoặc những cơ chế chính sách ban hành kèm theo không rõ rệt. Vì vậy mà doanh nghiệp hoặc các các hộ muốn xây dựng nhà ở cho công nhân thuê đều mất phương hướng trong việc giải quyết triệt vấn đề nơi ăn, chốn ở cho người lao động tại đây.
Những kết luận rút ra từ việc xây dựng cơ chế chính sách.
Việc đưa ra những chính sách để giải quyết nhà ở cho công nhân không phải là một vấn đề đơn giản, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cần phải có những thay đổi lớn về nhận thức khi xây dựng cơ chế chính sách cho vấn đề này, đó là: Không thể giải quyết bằng con đường tiếp cận từ một phía hay một mệnh lệnh hành chính nào, vì nếu như thế thì cần phải có một lượng tài chính đáng kể để tạo ra quỹ đất và chi phí xây dựng; Bên cạnh đó, các khu tập thể cho công nhân với sự quản lý không rõ, không đầy đủ trách nhiệm như hiện này cũng không mang lại kết quả. Do vậy, trong thời gian tới, phải tiếp cận theo cách dựa vào các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân thuê, các hộ dân xung quanh khu vực tập trung nhiều công nhân, nâng cao dần chất lượng nhà ở cho công nhân thuê bằng cách có những cơ chế chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, về chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, về thuế thu nhập của doanh nghiệp, thuế VAT của doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà, về giá chi phí đầu vào (nước, điện…), đồng thời với việc rà soát quy hoạch là việc bổ sung quỹ đất cho doanh nghiệp phát triển nhà ở cho công nhân của mình.
Khi xây dựng các cơ chế chính sách cần tính tới nhiều yếu tố liên quan trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi cơ bản của công nhân, người lao động như bảo đảm an toàn vệ sinh, phục vụ đời sống tinh thần cho từng đối tượng, tham gia vào các hoạt động mang tính chất cộng đồng, các chính sách về tiền lương, các ưu đãi khác…
Ngoài ra cần phải có những văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết việc thi hành các cơ chế chính sách đã được đưa ra để các đối tượng có liên quan lấy làm căn cứ thực hiện tốt mục tiêu và kế hoạch của mình, tránh tình trạng lúng túng, mất phương hướng khi đi tìm một giải pháp tối ưu.
CHƯƠNG 3
NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX.
Một số nhận định về việc phát triển các KCN, KCX trong thời gian tới (2015 và tầm nhìn 2020).
Các KCN nước ta phân bổ ở 55 tỉnh, thành phố trong cả nước tuy nhiên nó tập trung chủ yếu ở cả 3 vùng kinh tế trọng điểm là miền Bắc, Trung và Nam với tổng số KCN là 110 trên tổng diện tích đất tự nhiên là trên 25.900 ha, chiếm khoảng gần 80% diện tích các KCN trong cả nước (bảng).
Bảng: phân bổ KCN theo vùng đến tháng 10/2007
Vùng
Số lượng KCN
Diện tích KCN (ha)
Số lượng công nhân thu hút (người)
Đồng bằng sông Hồng
30
6.205
719.780
Đông Bắc và Tây Bắc Bộ
12
1.970
131.990
Bắc Trung Bộ
7
675
52.650
Duyên hải Nam Trung Bộ
12
2.596
238.832
Tây Nguyên
5
645
30.960
Đông Nam Bộ
66
16.842
1.818.936
Đồng bằng Sông Cửu Long
22
3.875
240.250
Cả nước
154
32.808
3.233.398
Nguồn: Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam – Bộ Kế hoạch và Đầu tư; tính toán của nhóm tác giả theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê tháng 12 năm 2007.
Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng chính phủ, trong năm 2007 số KCN được mở rộng và thành lập mới tăng so với năm 2006. Dự kiến năm 2007, cả nước sẽ có 18 KCN được thành lập mới và mở rộng với tổng diện tích khoảng 3000 ha, nâng tổng số KCN được thành lập lên 159 KCN trên cả nước tính đến cuối năm 2007 và với tổng diện tích dự kiến là khoảng gần 33.500 ha.
Theo xu thế phát triển đó thì đến năm 2015 dự kiến có thêm 109 KCN mới được thành lập với tổng diện tích đất quy hoạch là 29.326 ha và 30 KCN mở rộng với tổng diện tích đất mở rộng là 6.174 ha. Đến năm 2020 cả nước sẽ có thêm 79 KCN được thành lập mới với tổng diện tích quy hoạch lên đến 22.560 ha và mở rộng các KCN đa năng và KCN khác với diện tích là 15.000 ha. Như vậy thì theo sự tính toán và dự báo đến năm 2015 sự phát triển của KCN sẽ làm cho số lượng KCN ở nước ta tăng lên đến con số là 268 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên được khai thác là 69.000 ha, và đến năm 2020 có 347 KCN vận hành với tổng diện tích khai thác là 106.560 ha.
Xu hướng phát triển nhà ở trong thời gian tới.
Cùng với sự phát triển của các KCN, KCX như đã nói trên thì cũng kéo theo sự phát triển nhà ở trong thời gian tới. Nhận định xu hướng phát triển nhà ở trong thời gian tới là gia tăng mạnh. Với nhu cầu nhà ở chưa được giải quyết hiện nay, cùng với số lượng các KCN, KCX cứ gia tăng mạnh như thế thì tất yếu nhu cầu nhà ở cho người lao động càng ngày càng gia tăng mạnh. Theo thực tế hoạt động tại các KCN, KCX cho thấy, cứ 100 công nhân làm việc tại đây thì trong đó có khoảng 80 người là đến từ các tỉnh khác, con số này chiếm khoảng 80%, trong số này thì số phải lưu trú ở lại lên đến 90%. Và như vậy thì nhu cầu nhà ở cho công nhân là rất lớn. Riêng năm 2007 nhu cầu nhà ở cho công nhân tối thiểu vào khoảng 300.000 phòng cho từ 2-5 người. Thực tế hiện nay, nhà ở công nhân chỉ chiếm khoảng 24,83% tức là vào khoảng 74.500 phòng. Vì vậy những chỗ ở tạm bợ, những căn phòng quá tải, không đảm bảo điều kiện sinh hoạt ở quanh KCN đang là vấn đề nan giải hiện nay.
Cứ theo sự phát triển và mở rộng của những KCN thì đến năm 2015 và 2020 thì tình trạng thiếu hụt nhà ở ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Sự gia tăng của những ngôi nhà do nhân dân xung quanh khu vực lân cận KCN, KCX sẽ gia tăng nhiều, tuy nhiên cũng không thể đáp ứng được cho nhu cầu rất lớn này của người lao động. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự vận hành của các nhà máy, ảnh hưởng tới năng suất lao động và sự bất ổn trong các KCN, KCX là không thể tránh khỏi.
Quan điểm định hướng giải quyết nhà ở cho công nhân trong KCN, KCX.
Vấn đề nhà ở cho công nhân, người lao động tại các KCN, KCX hiện nay cần phải tập trung giải quyết những bức xúc chủ yếu sau:
Chất lượng nhà ở cho thuê quá thấp không đảm bảo môi trường sinh hoạt, môi trường sống và điều kiện sức khỏe cho người lao động.
Nhu cầu nhà ở ngày càng gia tăng nhưng các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở trong cơ chế thị trường chưa tích cực tham gia do hiệu quả đầu tư chưa hấp dẫn;
Mức thu nhập của người lao động tại các KCN, KCX hiện nay còn thấp, không đủ để cho người lao động thuê nhà ở đạt tiêu chuẩn tối thiểu buộc lòng họ phải chấp nhận ở trong những ngôi nhà thiếu thốn điều kiện sinh hoạt như trên.
Các doanh nghiệp sử dụng lao động tại đa phần các KCN, KCX chưa thực sự tích cực trong vấn đề giải quyết nhà ở cho người lao động, cho công nhân của doanh nghiệp mình.
Những bức xúc trên đây đòi hỏi phải có cơ chế chính sách để giải quyết nhằm góp phần cải thiện chỗ ở cho người lao động, duy trì và phát triển lực lượng lao động tại các KCN, KCX phục vụ cho mục tiêu CNH – HĐH đất nước.
Theo quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006, thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Theo đó đến năm 2015 dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích tăng thêm hơn 30.000 ha, vì vậy mà vấn đề chỗ ở cho công nhân trong các KCN, KCX đã, đang và sẽ ngày càng trở nên bức xúc. Để giải quyết vấn đề này thì cần phải thực hiện một số quan điểm sau đây:
Phát triển các khu đô thị, khu nhà lưu trú cho công nhân ngay gần các KCN, KCX.
Các nước đi trước đã có kinh nghiệm rằng đất đai dành cho xây dựng các KCN, KCX thường chiếm từ 30% -60% đất xây dựng đô thị, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến không gian, cảnh quan, số lượng lớn dân cư đô thị. Thứ nhất là các lao động trực tiếp tại các KCN được chuyển dịch từ những vùng nông thôn đến. Tiếp theo là lực lượng dân cư nông nghiệp địa phương sau khi rời bỏ quê hương, rời bỏ mảnh đất nông nghiệp để ra nhập vào đội ngũ dân cư phi nông nghiệp và sống bằng nghề dịch vụ công nghiệp kết hợp với buôn bán nhỏ lẻ để kiếm sống.
Ta có thể xem xét trường hợp tại những nước làng giềng trong khu vực như Thái Lan, Singapore. Tại Thái Lan trong các KCN, KCX luôn có các công trình ăn ở, sinh hoạt khép kín và đảm bảo phục vụ cho đời sống của công nhân và người lao động làm việc tại đó. Nếu tính đồng bộ một KCN, KCX cùng với các công trình công cộng thì nếu như KCN chiếm diện tích lớn đến 300-500 ha thì tổng diện tích này phải lên tới hàng ngàn ha. Còn với Singapore thì các KCN lại được xây liền kề với khu ở tạo nên một đô thị bền vững, hài hòa cùng với các yếu tố công nghiệp – môi trường – đô thị - du lịch.
Với những khu công nghiệp kỹ thuật cao như các công viên khoa học, làng khoa học xây dựng thì các khu nhà ở thường được xây dựng liền kề hoặc rất gần với những công trình dịch vụ thương mại, những văn phòng cho thuê hay các khu nghỉ ngơi, cây xanh, các khu công nghệ sinh thái. Hay ở những KCN không độc hại hoặc đa phần là lao động nữ làm việc thì những khu sản xuất lại được xây dựng liền kề với khu nhà ở của công nhân, người lao động. Đó là những trường hợp cá biệt.
Khoảng cách giữa các KCN, KCX với khu nhà ở phụ thuộc nhiều vào tính chất độc hại và mức độ ồn của mỗi xí nghiệp công nghiệp. Thông thường khoảng cách này vào tầm 50-1000 mét. Bên cạnh đó thì khả năng sử dụng các phương tiện đi lại của công nhân từ nơi ở đến chỗ làm việc cũng là một vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt là đối với nhóm lao động ngoại tỉnh. Giải pháp hợp lý cho khoảng cách này là bố trí các khu nhà ở công nhân cách khoảng 30 phút đi lại cho công nhân, người lao động từ chỗ ở đến chỗ làm.
Trong điều kiện nước ta hiện nay cũng như vài chục năm tới đây, việc xây dựng các KCN, KCX sẽ phát triển và việc xây dựng các khu nhà ở, lưu trú cho công nhân gần kề với các KCN, KCX này là điều không thể tránh khỏi. Để quy hoạch kiến trúc, tổ chức môi trường hợp lý ở trong các KCN trước tiên phải quan tâm đến việc bố trí tương quan hợp lý với các KCN như trên: về khoảng cách, thời gian đi lại, môi trường sinh hoạt độc hại, tiếng ồn…
Việc tổ chức các cụm công nghiệp liên hợp sẽ thuận lợi để phát triển khu nhà ở cho công nhân, đặc biệt điều này sẽ tiện cho việc tổ chức có hiệu quả hệ thống dịch vụ công cộng. KCN tập trung còn giúp cho liên hợp các xí nghiệp tiết kiệm được các công trình phụ trợ cũng như các hệ thống hạ tầng xã hội khác là các nhà ở và công trình xã hội, công cộng. Khu dân cư này phải nằm trong tổng thể quy hoạch của đô thị nói chung và giữa khu dân cư của khu công nghệ và đô thị phải có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau.
Vai trò chủ đạo trong vấn đề huy động nguồn lực xã hội vào phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX thuộc về nhà nước.
Trong việc huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX thì nhà nước cần phải giữ vai trò chủ đạo. Cần phải quán triệt quan điểm nêu trên vì một số lý do như sau:
Thứ nhất, trong việc phát triển bền vững vấn đề nhà ở cho lao động tại các KCN, KCX là một yêu cầu phục vụ cho vấn đề tăng trưởng và phát triển xã hội. Việc hình thành nhà và phát triển nhà ở cho công nhân sẽ đem lại lợi ích từ suất sinh lợi của doanh nghiệp, không nhằm mục đích kinh doanh nhà. Nâng cao điều kiện sống cho công nhân không những là mục tiêu chính trị của Đảng và Nhà nước ta mà đây còn là công việc góp phần làm cho sản xuất phát triển. Nó còn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh CNH – HĐH của nước ta.
Thứ hai,chính sách huy động nguồn lực xã hội để giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX là một chính sách nằm trong những mục tiêu công ích. Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX là một loại nhà ở phúc lợi xã hội kết hợp với kinh doanh lãi suất thấp, điều này có nghĩa là sử dụng quỹ phúc lợi công cộng của doanh nghiệp cùng với tiền thuê nhà của công nhân khi họ sử dụng để chi trả. Nhiều chính sách xã hội cần được nghiên cứu hoàn thiện và trong một chừng mực nhất định nào đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước là không thể thiếu.
Thứ ba, hiện nay các KCN được hình thành ngày càng nhiều lên, theo đó mà sự dịch chuyển lao động ngày càng lớn nhất là đối với hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Nam Bộ. Vì thế mà đối với những vùng công nghiệp lớn cần có những khu đô thị bên cạnh các KCN tập trung. Riêng đối với những KCN nhỏ cần phải có những ký túc xá. Những khu nhà ở cho công nhân, người lao động trong các KCN như thế cần tồn tại song hành cùng với các KCN. Với vai trò của nhà nước là quy hoạch và huy động vốn,…thì các khu đô thị hay ký túc xá được hình thành này sẽ là tổng thể các khu nhà ở, và sẽ hình thành những khu đô thị do các doanh nghiệp tự chủ.
Thứ tư, xây dựng nhà ở cho lao động tại các KCN, KCX không chỉ là trách nhiệm của phía doanh nghiệp mà còn là trách nhiệm của phía Nhà nước. Tuy nhiên Nhà nước cần phải có chính sách để huy động các nguồn lực của các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Nguồn vốn này một phần sẽ được hình thành từ các cơ chế chính sách của Nhà nước về đất đai, tài chính, tín dụng, đầu tư…Ngoài ra thì cũng cần phải huy động từ những nguồn vốn khác như vốn doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở, vốn tín dụng, vốn của chính người công nhân và vốn của những doanh nghiệp có sử dụng công nhân. Khi đó nguồn vốn dành cho việc xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN này sẽ gia tăng và làm cho vấn đề được từng bước giải quyết, lại giảm được gánh nặng cho cả hai bên.
Thứ năm, chính quyền nhà nước các cấp cần phải tập trung nhanh chóng chỉ đạo kiên quyết để hình thành các khu nhà ở cho người lao động tại các KCN, KCX khi đã có đầy đủ chính sách.
Vấn đề đầu tiên được đặt ra đối với việc này là phải có những ngôi nhà ở với giá thành thấp. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta đồng ý với việc xây dựng các khu nhà ở cấp bốn tạm bợ, thiếu thốn điều kiện sinh hoạt nhằm giải quyết mục tiêu trước mắt là có chỗ ở cho người lao động. Điều này không những chỉ là đối sách trong tình huống trước mắt mà nó còn không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong trường hợp này thì giải pháp hợp lý nhất đó là xây dựng loại nhà ở chung cư, căn hộ nhiều tầng (5 tầng). Để hạ giá thành thì chúng ta nên sử dụng giải pháp công nghệ đó là sử dụng biện pháp xây dựng theo CNH – HĐH, kết hợp lắp ghép mở và xây dựng thủ công cùng vật liệu xây dựng.
Giải quyết nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX phải được tiến hành từng bước.
Thực tế cho thấy rằng khi giải quyết nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX không nên quá nôn nóng mà phải được tiến hành từng bước để đảm bảo vững chắc. Có thể thấy chỉ cần chia ra hai giai đoạn để giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân như sau:
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khắc phục tình trạng thiếu thốn cả về lượng và chất như hiện nay. Và giai đoạn thứ hai là giai đoạn bắt đầu phát triển, đó là sau khi đã khắc phục được tình trạng như giai đoạn một đã nêu lên.
Trước hết ta xét giai đoạn thứ nhất, giai đoạn khắc phục tình trạng hiện nay. Trong khoảng 10 năm tới đây, việc tổ chức môi trường ở các KCN cần được xem xét đến yếu tố xã hội, văn hóa, nhân khẩu gia đình, nguyện vọng…của người dân ở đây là người công nhân làm việc và sinh sống trực tiếp trong các KCN, KCX. Đối với những người công nhân này, đa số họ là những nữ công nhân độ tuổi từ 18 đến 35 (67% nữ), họ đều còn rất trẻ, trong đó phần lớn họ đều chưa có gia đình (khoảng 86.5% chưa có gia đình). Họ lại có nhu cầu gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, đặc biệt là đối tượng lao động nữ. Chính vì thế mà sự thay đổi trong cơ cấu gia đình là điều đương nhiên và trở thành nét đặc trưng trong các khu ở mới.
Phần lớn công nhân tại các KCN, KCX là có thu nhập thấp (chiếm khoảng 70% tổng số lao động). Họ đều xuất phát là nông dân, từ nông thôn với sự tích lũy ban đầu về vốn là rất thấp. Do đó mà họ không thể đòi hỏi ngay mô hình nhà ở có chất lượng cao. Với họ việc có được chỗ ở thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về ở với tiêu chuẩn tiện nghi hạn chế nhưng được tổ chức trong điều kiện môi trường ở đơn giản, sạch sẽ, vệ sinh, chắc chắn, bền vững, an toàn và an ninh đảm bảo là điều cần thiết nhất. Ở giai đoạn thứ nhất này, nhà ở cho lao động trong các KCN đa phần là những loại căn hộ một phòng có diện tích tối thiểu và tiện nghi đơn giản. Những nhà ở loại này đầu tiên có thể bố trí cho 2 đến 4 người ở cùng nhau với hệ thống giường tầng hay gác xép để ở tùy theo nhu cầu của người công nhân và nó được thiết kế độc lập, có công trình phụ riêng biệt phù hợp với những người sống độc thân cũng như với những gia đình ít người.
Về hình thức sở hữu, vì với điều kiện đồng lương ít ỏi và đời sống như hiện nay thì trong giai đoạn đầu tiên này, người công nhân sử dụng phương thức chính là thuê nhà để ở.
Về mặt chủ thể đầu tư, ở giai đoạn này các hộ gia đình có đất quanh các vùng có KCN, KCX đang đầu tư mạnh, vì vậy họ là chủ thể đầu tư chính. Còn về phía doanh nghiệp, chỉ khi họ thực sự có nhu cầu giữ chân công nhân lại với họ, họ muốn có sự gắn bó lâu dài của người công nhân với doanh nghiệp mình, thì khi ấy họ trở thành những chủ thể đầu tư tiếp theo. Phía Nhà nước chỉ hỗ trợ về mặt cơ chế và chính sách.
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển. Sau giai đoạn đầu khoảng 5-10 năm, khi nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển hơn thì việc đầu tư cho xây dựng nhà ở và các tiện nghi trong ngôi nhà cho công nhân tại các KCN, KCX mới bắt đầu được nâng lên. Thứ nhất là đầu tư về trang trí nội thất cho căn nhà, tạo không gian kiến trúc cho căn hộ để công nhân yên tâm với chỗ ăn ở hiện tại, chỗ ở văn minh hiện đại khi ấy lại là một điều thực sự cần thiết. Thứ hai là việc tổ chức các công trình công cộng, không gian công cộng phục vụ cho đời sống sinh hoạt của công nhân. Tùy thuộc vào vị trí của từng KCN, KCX mà mỗi nơi cần có các cơ sở hạ tầng xã hội chung của đô thị. Việc tổ chức các không gian bán công cộng, không gian công cộng cũng cần phải xét đến nhu cầu của công nhân có nguồn gốc xuất thân từ các làng quê truyền thống cũng như những đặc điểm về tuổi tác để có những thay đổi phù hợp cho từng giai đoạn.
Hiện nay với sự đầu tư vốn chưa được nhiều thì chỉ cần thiết kế những không gian ngoài trời đơn giản, sử dụng được nhiều việc, đa năng như hội hè, hội chợ, ăn uống, giải khát, các câu lạc bộ giải trí… phù hợp với nhu cầu tâm lý của từng lứa tuổi. Những thời gian sau thì các khu vực công cộng này sẽ hoàn thiện dần dần, đa dạng hơn về loại hình dịch vụ tùy thuộc vào sự phát triển của từng KCN và tùy vào đặc điểm của từng địa phương.
Về hình thức sở hữu, ở giai đoạn phát triển này thì có thể có những loại hình sở hữu như thuê nhà, mua nhà trả góp, hay mua nhà trả một lần.
Về chủ thể đầu tư, ở giai đoạn này chủ thể đầu tư chính là các doanh nghiệp.
Kiến nghị và giải pháp cho việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX tại Việt Nam.
Để có thể giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX thì cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân địa phương. Tuy nhiên cũng cần thống nhất quan điểm về giải quyết nhà ở cho người lao động tại các KCN. Đó là khuyến khích xã hội hóa về nhà ở đồng thời thực hiện chính sách tạo điều kiện, khắc phục tư tưởng thả nổi cho thị trường tự điều tiết; cần huy động tham gia của nhiều thành phần, sự nỗ lực của bản thân người lao động, trách nhiệm của người sử dụng lao động, sự tạo điều kiện của Nhà nước và sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội; giải quyết vấn đề nhà ở phải đồng thời với việc cải thiện chế độ tiền lương và thu nhập của người lao động. Trước hết cần tiến hành một loạt các giải pháp đối với từng chủ thể liên quan đến vấn đề này như sau:
Về phía các chủ doanh nghiệp tại các KCN, KCX và các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở.
Các doanh nghiệp nên kết hợp với Nhà nước về vấn đề nhà ở cho công nhân nói chung và nhà ở cho người lao động ngoại tỉnh nói riêng. Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp nhận thấy rằng tình trạng không giải quyết được vấn đề nhà ở thì công nhân sẽ không gắn bó làm việc lâu dài tại nhà máy và trong tương lai các nhà máy trong KCN, KCX sẽ thiếu hụt lao động. Nhìn chung, năng lực tự bản thân của doanh nghiệp để xây dựng nhà ở cho công nhân đều không có khả năng, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy, doanh nghiệp cần thiết phải xem xét khả năng tài chính của mình và đưa ra những đề nghị hợp lý thì mới có thể thuyết phục được Nhà nước trong việc hỗ trợ cho việc xây dựng nhà ở cho công nhân của doanh nghiệp mình.
Đối với những doanh nghiệp đang trong quá trình triển khai dự án hoặc mở rộng KCN, KCX, trong quá trình quy hoạch đất đai phục vụ cho việc xây dựng KCN, KCX cần thiết phải xem xét đến kế hoạch đất đai phục vụ cho việc xây dựng nhà ở cho người lao động một cách đồng bộ cả khu nhà ở và hạ tầng văn hóa xã hội.
Trong quá trình tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp nên ưu tiên đối với những lao động đang sinh sống trên địa bàn nơi xây dựng KCN, KCX của doanh nghiệp. Khi đó sự gia tăng lao động sẽ không kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nhà ở vì những lao động này đã có chỗ ở cố định. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần phải tạo mối quan hệ với những hộ dân sinh sống quanh địa bàn hoạt động của KCN, KCX để họ có thể hỗ trợ trong việc tìm kiếm nhà ở cho công nhân của mình và quản lý một bộ phận công nhân đang sinh sống trong khu dân cư.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên có những chính sách hỗ trợ về tiền lương để tạo điều kiện cho lao động của mình trong quá trình tìm kiếm nơi ăn, chốn ở, đặc biệt là đối với những lao động nữ, lao động ở địa phương xa.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở, không nên thay đổi mục đích sử dụng đất, lợi dụng chênh lệch giá đất đai trước và sau quy hoạch để thu lợi nhuận trước mắt. Các doanh nghiệp này phải thực hiện việc xây dựng nhà ở cho công nhân thuê đúng như mục đích ban đầu.
Về phía nhà nước.
Cần phải quán triệt quan điểm xuyên suôt của Đảng trong quá trình CNH-HĐH là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” và để từng bước giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân ở các KCN, KCX.
Thứ nhất, phải thực hiện phát triển KCN theo hướng đô thị hóa, hình thành các khu đô thị, đồng thời bổ sung quy hoạch các khu dân cư gắn với các KCN hiện có và bảo đảm các điều kiện cần thiết để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật- xã hội các khu dân cư này, trước mắt là cần ưu tiên phát triển nhà ở cho công nhân lao động. Đây là giải pháp có ý nghĩa kinh tế, chính trị và xã hội sâu sắc, thể hiện đầy đủ quan điểm phát triển của Đảng được khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 -2010 mà đại hội IX của Đảng đã thông qua.
Thứ hai, để hạn chế việc di dân từ nông thôn ra thành thị và KCN, nên hạn chế đến mức thấp nhất việc lấy đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa để phát triển KCN. Đối với những địa phương không còn quỹ đất nào khác ngoài đất nông nghiệp thì phải có kế hoạch phát triển nhanh hạ tầng KCN và quan trọng hơn là thu hút đầu tư tăng nhanh tỷ lệ huy động đất công nghiệp tạo điều kiện cung cấp việc làm cho người dân và con em họ. Đồng thời chính quyền địa phương cũng phải có những chính sách để phối hợp với doanh nghiệp trong việc tuyển dụng ưu tiên và đào tạo tay nghề cho lao động thuộc khu vực bị lấy đất làm KCN, đảm bảo thực hiện việc “ly nông bất ly hương”.
Thứ ba, là nhà nước cần nghiên cứu chính sách nhà ở thống nhất áp dụng cho người làm công ăn lương trong xã hội, trước hết là những người công nhân lao động tại các KCN, KCX. Phải coi chính sách nhà ở là chính sách an ninh xã hội. Nhà nước có cơ chế chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng để khuyến khích các nhà đầu tư phát triển quỹ nhà chung cư cho thuê ngắn hạn hoặc dài hạn theo nhu cầu của người lao động với giá do Nhà nước quy định cho từng loại hình và đối tượng đầu tư. Cần ưu tiên cho khu vực kinh tế tư nhân xây dựng các công trình xây dựng nhà ở cho công nhân của các KCN, có bảo đảm của nhà nước về việc giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai và các chính sách tài chính, ngân hàng, thu hồi vốn, lợi nhuận… bảo đảm cho các nhà đầu tư, có các biện pháp ưu tiên, ưu đãi phù hợp với từng thời kỳ, từng địa bàn đầu tư đối với khu vực kinh tế tư nhân đầu tư vào công trình nhà ở cho công nhân KCN.
Thứ tư, Nhà nước nên hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách để huy động vốn phát triển nhà cho KCN, có thể huy động vốn ứng trước của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, sau đó trừ lùi vào các khỏan thuế phải nộp của doanh nghiệp; sử dụng một phần tiền phát hành trái phiếu đô thị; thực hiện việc người dân có đất nằm trong quy hoạch khu dân cư được góp vốn bằng đất và tài sản của họ nằm trên đất thay vì nhận tiền đền bù. Thực hiện chức năng này Nhà nước dành ngân sách trong kế hoạch hàng năm cho đầu tư xây dựng nhà ở cho quỹ nhà ở xã hội nói chung và người lao động ngoại tỉnh nói riêng dưới hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuât; miễn giảm thuế đền bù, giải phóng mặt bằng; trực tiếp đầu tư xây dựng nhà cho thuê thông qua công ty công ích quản lý loại nhà này.
Thứ năm, có những biện pháp thiết thực để hạn chế đầu cơ đất như một mặt chấm dứt việc chính quyền địa phương để các doanh nghiệp kinh doanh nhà đất thương lượng với dân lấy đất nông nghiệp để xây dựng khu dân cư trong khu đô thị đã được quy hoạch. Việc chuyển mục đích sử dụng đất là quyền của Nhà nước, không thể để doanh nghiệp tự làm. Mặt khác không cho phép các doanh nghiệp đã được thuê đất làm khu dân cư bán nền nhà mà chỉ bán nhà đã được xây dựng.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhà cho thuế đối với cán bộ, công nhân lao động ngoại tỉnh như: miễn thuế xây dựng, thuế thu nhập từ tiền cho thuê nhà, cho vay vốn ưu đãi…
Ngoài ra, Nhà nước phải có chính sách ưu đãi thích hợp đối với doanh nghiệp sử dụng lao động tự bỏ vốn ra xây nhà cho người lao động của doanh nghiệp mình như giao đất không thu tiền, giao đất đã có cơ sở hạ tầng, miễn các khoản thuế…
Trong quá trình đầu tư xây dựng nhà ở cho người ngoại tỉnh thuê Nhà nước nên ban hành tiêu chuẩn nhà ở tối thiểu chẳng hạn 6 đến 10 m2 sàn trên người. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, miễn thuế nhưng vẫn đảm bảo kinh doanh, thu hồi vốn đầu tư đối với doanh nghiệp sử dụng lao động tự đầu tư nhà ở cho công nhân và đảm bảo duy tu, bảo trì thu hồi vốn theo cấp nhà là vấn đề cần thiết và cần được quan tâm.
Những điều kiện để đảm bảo các giải pháp được thực hiện.
Để đảm bảo cho các giải pháp trên đây được thực hiện thì cần có một số điều kiện đảm bảo như sau:
Thứ nhất, phải có sự thống nhất về mặt nhận thức rằng, giải quyết nhà ở cho công nhân, người lao động tại các KCN, KCX hiện nay đã và đang là việc làm cần thiết và bức bách. Tuy nhiên không thể vì thế mà có những việc làm vội vã, những bước đi nôn nóng, không phù hợp.
Thứ hai, tất cả các cơ quan phải đảm bảo phối hợp đồng bộ với nhau, thống nhất từ trung ương đến địa phương, trước hết là sự thống nhất của 4 ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, xây dựng, trong việc quy hoạch, kế hoạch và bố trí ngân sách cho vấn đề hình thành và phát triển nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, chương trình phát triển nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX phải trở thành chương trình xuyên suốt từ trung ương xuống địa phương. Nên có một cơ quan theo dõi ở Trung ương và địa phương để đảm bảo cho chương trình được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Thứ tư, trong việc cân đối các điều kiện để thực hiện chương trình xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam, về nguồn vốn, ngân sách, về đất đai, xây dựng cho các ngành, các cấp, cần có nội dung về phát triển nhà ở cho lao động tại các KCN, KCX.
Thứ năm, Nhà nước phải hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Chất lượng nhà ở cho công nhân cũng phải được kiểm soát cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Bên cạnh đó, điều quan trọng đó là vấn đề giải phóng mặt bằng phải được quy trách nhiệm cho một cơ quan cụ thể để tránh thất thoát, lạm dụng lại tiết kiệm thời gian và chi phí khi doanh nghiệp muốn giải phóng mặt bằng.
KẾT LUẬN
Thời gian qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với đô thị hóa đã diễn ra với tốc độ chóng mặt. Hiệu ứng do hiện tượng này gây ra có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Bên cạnh những đóng góp to lớn về tăng trưởng, phát triển kinh tế, đời sống người lao động được cải thiện thì vẫn tồn tại một bộ phận những công nhân còn đang gặp rắc rối trong vấn đề nhà ở. Họ là những lao động di cư từ những vùng ngoại thành, vùng nông thôn đến các trung tâm đô thị để tìm kiếm những cơ hội kiếm tiền mới. Do các chính sách đãi ngộ của Nhà nước và nơi làm việc chưa đề cập đến việc chăm lo nơi ăn, chốn ở cho những công nhân này nên phần lớn những công nhân này đang phải ở tạm bợ trong những ngôi nhà ổ chuột, không đảm bảo điều kiện không gian, vệ sinh và an toàn. Vấn đề này đang ngày trở nên bức xúc và cần phải giải quyết kịp thời.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới đều chỉ ra rằng, vấn đề nhà ở cho công nhân phải được đặt đồng thời song song với việc hình thành và phát triển các KCN, KCX. Ngoài ra thì vấn đề cải tạo hay xây dựng nhà ở cho công nhân là một điều kiện cần thiết để nâng cao năng suất lao động, tạo động lực và nó cũng chính là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển bền vững cho các KCN, KCX ở Việt Nam.
Các cơ chế chính sách đặt ra cho việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX đó là phải từ từ, từng bước và giải quyết một cách đồng bộ, tránh vội vàng hấp tấp. Từng bước vận dụng những cơ chế chính sách về đất đai, về tài chính, ưu đãi thuế… để cho những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX được từng bước tháo gỡ từ thấp đến cao. Chẳng hạn như có thể từng bước vận dụng các cơ chế chính sách về đất đai để tạo nguồn quỹ đất cho vấn đề này; trước mắt là những vùng đất nằm trong quy hoạch của các hộ gia đình, sau đó dần nâng cao chất lượng mẫu nhà cho công nhân. Đồng thời cho phép đưa vào chi phí doanh nghiệp cũng như thuế ưu đãi nếu doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân.
Hiện nay có nhiều bất cập trong công tác giải quyết nhà ở cho công nhân, về đất đai, nguồn vốn cho xây dựng, các cơ chế chính sách còn chưa tương thích, thậm chí là có thể mâu thuẫn với nhau, xung khắc với những biến động khó dự báo của đời sống thực tế. Nhà ở cho công nhân hiện nay vẫn là sự tận dụng của các gia đình quanh vùng có KCN, KCX. Số lượng nhà ở công nhân do doanh nghiệp và nhà nước đầu tư xây dựng vẫn rất thấp. Mục tiêu sắp tới của ta là phải làm cho nhà ở công nhân trong các KCN, KCX ngày càng nâng cao chất lượng, tiện nghi đầy đủ phục vụ đời sống sinh hoạt không chỉ của riêng mà phải đảm bảo cả không gian cho sinh hoạt cộng đồng. Nhưng nhìn chung đây là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có nghiên cứu sâu và hợp tác của các Bộ và các cơ quan có liên quan tham gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trịnh Duy Luận, Michael leaf (1996): Vấn đề nhà ở đô thị trong nền kinh tế thị trường của thế giới thứ ba, NXB Khoa học xã hội.
Nguyễn Mạnh Hùng (2004): Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, chương trình ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã hôi Việt Nam đến 2010 và định hướng 2020 và hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện, NXB Thống kê.
Tổng cục thống kê, quỹ dân số Liên hợp quốc (11/2006): Điều tra di cư Việt Nam 2004. Chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt Nam.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2007): Cơ chế chính sách thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế vào lĩnh vực xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX-Đề tài cấp Bộ.
Tạp chí:
5.1. Xây dựng nhà ở, công trình công cộng phục vụ cho công nhân các KCN tập trung (trang 38), tạp chí xây dựng số 416 ra tháng 10/2002.
5.2. Nhà ở cho công nhân, các KCN tập trung (trang 15), tạp chí xây dựng số 454 ra tháng 12/2005.
5.3. Quy đinh tạm thời về điều kiện tối thiểu của nhà ở cho người lao động thuê để ở, tạp chí bất động sản số 45 ra ngày 5/10/2007.
5.4. PGS. TS Trần Xuân Cầu: Sức ép của người lao động nhập cư trong các KCN và chính sách đối với họ, tạp chí kinh tế và phát triển số 119 ra tháng 5/2007.
5.5. Th.S Nguyễn Thanh Bình: Giải quyết nhà ở cho công nhân các KCN ở Hà Nội (trang 19), tạp chí kinh tế và phát triển số 122 ra tháng 8/2007, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Hà Nội.
5.6. Tạp chí KCN Việt Nam số 52(88) ra tháng 1/2005.
5.7. Tạp chí KCN Việt Nam số 55(91) ra tháng 4/2005.
5.8. Tạp chí KCN Việt Nam số 62 (98) ra tháng 11/2005.
5.9. Tạp chí KCN Việt Nam số 64 (100) ra tháng 1/2006.
5.10. Tạp chí KCN Việt Nam số 68 (104) ra tháng 5/2006.
5.11. Tạp chí KCN Việt Nam số 70 (106) ra tháng 7/2006.
6. Website:
6.1. Nỗi khổ lao động tại các KCN, KCX. Cập nhật: 13/11/2006 09:16:48 (GMT +7).
6.2. &cat_name=11&id=2f33b3e68ef58f. Nhà ở cho công nhân: Giải pháp nào?
6.3. ktdt.com.vn
6.4. laodong.com.vn
6.5. tuoitre.com.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10588.doc