Để trụ vững trên thị trường thì phải tìm mọi cách xâm nhập thị trường, kể cả tận dụng thị trường nhỏ,thị trường ngách.Chính vì thế, dựa vào những thế mạnh của mình để đáp ứng nhu cầu thức ăn nhanh tại Hà Nội là một biện pháp hợp lý.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển sản phẩm thức ăn nhanh tại Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu cầu là việc hết sức quan trọng, nó quyết định đến thành bại của toàn bộ quá trình.Nếu sản phẩm mà không thích hợp thì sản phẩm sẽ không có chỗ đứng trên thị trường, khi thiết kế lại thì gây lãng phí nguồn lực, thậm chí gây mất uy tín cho doanh nghiệp.
Trước nhu cầu thực tế của khách hàng bây giờ thì bước đầu chúng ta chỉ nên tập trung vào hai đối tượng khách hàng tiềm năng là: đối tượng nhân viên các công ty và đối tượng học sinh,sinh viên.Đây là hai đối tượng chính sẽ tiêu thụ sản phẩm của Công ty, họ vì điều kiện thời gian nên họ đang rất cần những sản phẩm thức ăn nhanh,lượng tiêu thụ của hai đối tượng sẽ rất lớn vì thế cần tập trung điều tra hai đối tượng này.Sở dĩ phân loại thành hai đối tượng trên bởi vì đây là hai đối tượng có đặc điểm, điều kiện hết sức khác nhau:
-Nhân viên các Công ty là những người trong tuổi lao động, họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các công ty.Trên địa bàn Hà Nội đối tượng này có các đặc điểm sau:
+Đây là đội ngũ trí thức, có trình độ được đào tạo bài bản trong các trường đại học, cao đẳng.Họ làm việc trong các công ty Nhà nước, lẫn các công ty ngoài quốc doanh.Do tốc độ phát triển kinh tế đang tăng nhanh nên công việc của họ khá bận rộn, đa số là dành thời gian nhiều trên công sở.
+Đa số các nhân viên đều làm giờ hành chính theo quy định của Nhà nước lên họ thường làm 8h một ngày trong các ngày trong tuần trừ thứ7, Chủ nhật.Hàng ngày họ bắt đầu làm việc lúc 7h30’sáng đến 11h30 và nghỉ trưa đến 13h30 và làm việc đến 17hh30.Vì thế thời gian của họ cũng khá eo hẹp nên thời gian dành cho ăn nhanh của họ là từ 6h30 đến 7h15’ và buổi trưa từ 12h00’ đến 13h00’.Đây là khoảng thời gian chung của mọi nhân viên, tùy điều kiện cụ thể của từng người về công việc, điều kiện đi lại mà thời gian này bị thu hẹp xuống.Qua đây có thể thấy thời gian dành cho ăn uống của họ rất ít nên họ rất cần đến thức ăn nhanh.
+Về thu nhập thì đối tượng này có thu nhập tương đối cao, trung bình thường dao động từ 2-5triệu đồng.Một số đối tượng có thu nhập cao hơn hoặc thấp hơn nhưng số lượng không nhiều bởi các công ty áp dung mức lương cạnh tranh nên chênh lệch lương không nhiều.Nói chung đây là đối tượng có thu nhập khá ổn định mặc dù có sự thuyên chuyển các vị trí giữa các công ty.
+Do các đặc điểm về nghề nghiệp như trên nên đối tượng này có yêu cầu về thức ăn nhanh khá cao.Họ cần một loại thức ăn nhanh có đẳng cấp: có hương vị đặc biệt, giá trị dinh dưỡng cao, tiện lợi, đảm bảo tiêu chuẩn và chi phí không thấp quá.Đối tượng này cũng khá kỹ tính trong việc chọn lựa laọi thức ăn phù hợp với công việc, điều kiện và đẳng cấp nghề nghiệp.
-Đối tượng thứ hai là học sinh, sinh viên .Họ đang học tập trong các trường đại học,cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường trung học phổ thông.Theo số liệu điều tra đã nói ở trên thì với hơn 30 trường đại hoc, cao đẳng và 24 trường trung học phổ thông trên địa bàn thì đây cũng là một đối tượng khá đông đảo sẽ có nhu cầu lớn về thức ăn nhanh.Về đối tượng này thì có một số đặc điểm cơ bản sau:
+Bây giờ, do nhu cầu học tập ngày càng cao nên thời gian dành cho chăm sóc bản thân cũng rất hạn chế, đặt biệt là những đối tượng mà phải xa gia đình lên ở trọ tại Hà Nội.Ngoài thời gian học trên lớp họ còn rất tích cực học thêm ngoại ngữ tại các trung tâm và tham gia các hoạt động sôi động khác mà chỉ có ở sinh viên.Đồng thời, xu hướng của Bộ giáo dục đào tạo là chuyển giáo dục Đại học từ theo kiểu Niên chế sang kiểu Tín chỉ thì thời gian của sinh viên không còn cố định nữa.Nếu giáo dục theo kiểu Niên chế thì lịch học của sinh viên sẽ được cố định, nên họ có thể sắp xếp thời gian của mình theo lịch trình.Nhưng giáo dục theo kiểu Tín chỉ thì mỗi sinh viên có một lịch riêng của mình, và theo lớp môn học mở nên nhiều khi họ không có thời gian chăm sóc bữa ăn cho riêng mình.
+Hàng ngày giờ học của họ có thể thống kê như sau
Sáng: 6h45 đến 11h45
Chiều: 12h15 đến 17h20
Tối :18h00 đến 20h30
Ngoài ra chưa kể các lịch hoc thêm Ngoại ngữ , các lĩnh vực khác ngoài chương trình đào tạo chính quy nên thời gian của sinh viên cũng rất eo hẹp.Qua đây cung có thể nói thời gian dành cho ăn uống của họ cũng rất ít nên nhu cầu thức ăn nhanh cũng rất cao.
+Về tài chính thì học sinh, sinh viên có điều kiện tài chính khá thấp.Đại đa số này đều được chu cấp của gia đình theo một mức cố định hàng tháng từ 800000-1500000đ.Chi phí dành cho ăn uống của họ mỗi tháng khoảng 500000đ vì chi phí dành cho ăn sáng là từ 2000-5000đ. Qua điều tra thì nhiều sinh viên ăn uống rất sơ sài, không đủ lượng calo để phục vụ nhu cầu học tập, do vậy thể trạng của sinh viên thường gầy, điều này rất ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
+Về tâm lý tiêu dùng của đối tượng này thị họ không có những yêu cầu khắt khe với sản phẩm về hương vị.Do điều kiện tài chính nên họ mong muốn sản phẩm phải có giá thành thấp, tiện lợi và đảm bảo lượng calo.Nếu mà sản phẩm phù hợp với yêu cầu trên thì lượng tiêu thị sẽ rất lớn và có thể tiêu thụ bất cứ thời điểm nào trong ngày.
Quá trình điều tra nhằm mục đích để điều tra nhu cầu để thiết kế sản phẩm và để dự báo lượng cầu khi đi vào sản xuất đưa sản phẩm ra thị truờng.
Qua cách phân loại như trên nên cũng phải điều tra thành hai đối tượng, về mỗi đối tượng có cách điều tra như sau:
-Đối với đối tượng học sinh, sinh viên thì có những cách sau:
+Tiến hành điều tra sơ bộ tại các quán xá xung quanh trường đại học, ký túc xá, căng tin trường học về loại thức ăn hiện có, loại nào tiêu thụ mạnh
+Phỏng vấn trực tiếp
+Điều tra bằng các bảng hỏi
-Đối với những đối tượng là các nhân viên công ty thì tiến hành điều tra bằng quan sát và tham khảo ý kiến trực tiếp hoặc gián tiếp bằng gửi các bảng tham dò ý kiến.Có thể làm việc trực tiếp với cán bộ, lãnh đạo doanh nghiệp để có tiến hành điều tra nhu cầu.
3.2.Thiết kế sản phẩm
3.2.1.Quy trình thiết kế sản phẩm
- Việc thiết kế là khâu rất quan trọng, vì vậy khâu này phải làm hết sức cặn kẽ và có tổ chức. Sau khi có kết quả điều tra nhu cầu về loại, hương vị thức ăn thì việc thiết kế sản phẩm phải được thiết kế bởi các chuyên gia ẩm thực, những người có kinh nghiệm trong việc thiết kế các loại thức ăn, đặc biệt là các loại thức ăn nhanh.Với mỗi nhu cầu thì cần phải thiết kế đến 3-4 loại sản phẩm để có nhiều cơ sở đánh giá hơn.
-Với sản phẩm thức ăn nhanh thì hợp lý nhất là nên thiết kế theo kiểu loại bánh có nhân.Nó gồm hai phần:
+Phần nhân bánh: Đây là phần quyết định hương vị của sản phẩm mang lại nét đặc trưng cho sản phẩm.Phần nhân có thể được làm từ trứng, thịt, rau hoặc hỗn hợp,..v.Để tạo ra được sự độc đáo trong khẩu vị và ngon hơn thì nhân nên được chế biến là hỗn hợp của nhiều nguyên liệu.
+Phần vỏ bánh: Đây là phần bọc bên ngoài bao lấy nhân, được chế biến từ các loại bột mang giá trị năng lượng cao.Phần vỏ phải mềm nhưng không dễ bị rời ra để còn làm chức năng bảo vệ nhân và phải có mùi hấp dẫn.
-Việc thiết kế cụ thể vào sản phẩm phải giao cho các cán bộ công nhân viên có kinh nghiệm từng thiết kế sản phẩm cho công ty, đặc biệt là nhân viên Phòng kỹ thuật.Ngoài ra có thể thuê thêm các chuyên gia ẩm thực,những người có kỹ thuật chế biến các nguyên liệu để tạo ra hương vị phù hợp với nhu cầu.Việc thiết kế sản phẩm phải dựa trên các tiêu chí, các ràng buộc:
+Dây chuyền sản xuất, thiết bị mà công ty hiện có.Điều này sẽ tận dụng được những điều kiện hiện tại, tiết kiệm được chi phí mua sắm dây chuyền máy móc mới.
+Nguồn nguyên vật liệu có thể thu mua được các nhà cung ứng với chi phí hợp lý.
+Nhu cầu ẩm thực của người tiêu dùng.
-Kinh phí cho việc thiết kế sản phẩm thức ăn nhanh lấy từ kinh phí của Công ty dành cho phát triển sản phẩm mới hàng năm.
Để sản phẩm mang tính đại chúng hơn và đi sát với nhu cầu thực tế hơn thì có thể tổ chức các cuộc thi thiết kế các sản phẩm sâu rộng trong tầng lớp dân chúng. Sản phẩm nào có giá trị, có tính khả thi thì tiến hành trao các giải thưởng để khuyến khích. Điều này rất hữu ích vì chi phí không lớn lắm mà có thể mang lại được các sản phẩm thiết thực với nhu cầu của người tiêu dùng hơn.
Tuy nhiên nếu mà khó khăn trong việc tìm ra sản phẩm phù hợp thì có thể mua lại bản quyền của các hãng thức ăn nhanh nổi tiếng trên thế giới mà sản phẩm của họ chưa có điều kiện có mặt phổ biến tại Việt Nam. Đây là sản phẩm mà đã được chấp nhận trên nhiều nước thế giới, nhưng do mới đầu đi vào thị trường Việt Nam có những đặc thù khác về ẩm thực nên có thể đưa một số hương vị truyền thống vào trong sản phẩm.
3.2.2.Nguồn nguyên liệu
Thị trường nguyên vật liệu được phân thành hai thái cực rõ ràng. Thị trường trong nước thì phổ biến với những loại nguyên vật liệu thô, dễ kiếm nên công tác hậu cần được thực hiện một cách dễ dàng, còn đối với những nguyên vật liệu được tinh chế phức tạp, khan hiếm thì Công ty phải hướng ra thị trường ngoài nước. Công ty thường bị sức ép từ các nhà cung ứng này về giá cả hay quá trình vận chuyển nguyên vật liệu. Sự khác nhau đó đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt trong công tác hậu cần nguyên vật liệu. Về chủng loại nguyên vật liệu thì thị trường trong nước cung cấp cho Công ty khoảng 70%, còn lại là thị trường ngoài nước.
3.2.1.1.Lựa chọn nhà cung ứng
Ngay sau khi xác định được nhu cầu nguyên vật liệu cần mua, nhân viên phòng vật tư tiến hành nghiên cứu, lựa chọn nhà cung cấp. Đây là một công đoạn khó khăn, phức tạp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, đến chất lượng sản phẩm cũng như tính liên tục của quá trình sản xuất. Vì vậy mục đích của công tác hậu cần nói chung và việc lựa chọn nhà cung ứng nói riêng là phải đảm bảo nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng và thời hạn giao nhận.
Việc lựa chọn nhà cung ứng của Công ty được tiến hành qua bốn bước sau đây:
Sơ đồ 3: Các giai đoạn lựa chọn nhà cung ứng
GIAI ĐOẠN KHẢO SÁT
GIAI ĐOẠN LỰA CHỌN
GIAI ĐOẠN ĐÀM PHÁN Không đạt yêu cầu
GIAI ĐOẠN THỬ NGHIỆM
Đạt yêu cầu
QUAN HỆ LÂU DÀI
Giai đoạn khảo sát
Công ty tiến hành thu thập thông tin về các nhà cung ứng nguyên vật liệu. Đó là các thông tin về chất lượng, giá cả của nguyên vật liệu, thời gian vận chuyển cũng như khả năng sai lệch về thời gian. Công ty tiến hành thu thập thông tin qua báo, tạp chí, trên Internet, các trung tâm thông tin hoặc qua các cuộc điều tra. Mặt khác, Công ty cũng có thể tiến hành phỏng vấn trực tiếp các nhà cung ứng, hình thức này đặc biệt thường áp dụng đối với các nhà cung ứng mới. Đối với các nhà cung ứng cũ, đã có mối quan hệ lâu dài thì giai đoạn này đơn giản hơn vì thông tin được xem xét lại trong hồ sơ lưu trữ về các nhà cung ứng.
Hiện nay, Công ty có quan hệ với trên 30 nhà cung ứng trong và ngoài nước. Chỉ khi nguồn hàng trong nước khan hiếm hoặc không có thì Công ty mới lựa chọn nhà cung ứng ngoài nước. Đối với nhà cung ứng nước ngoài thì chất lượng luôn được đảm bảo nhưng lại khó khăn trong vận chuyển, ký kết hợp đồng; điều này làm nhiều chi phí phát sinh. Đối với từng loại nguyên vật liệu mà Công ty sẽ lựa chọn nhà cung ứng cho phù hợp, đáp ứng được mọi kế hoạch sản xuất đề ra.
Bảng 6: Một số nhà cung ứng của Công ty hiện nay
STT
Tên các nhà cung ứng NVL
NVL cung cấp
1
2
3
Công ty mía đường Lam Sơn
Nhà máy đường Quảng Ngãi
Công ty đường Bình Định
Đường, glucô
4
5
6
7
Công ty TNHH Ngọc Quang
Công ty cổ phần bột thực phẩm Tân Ký
Công ty cổ phần bột thực phẩm Vĩnh Thuận
Singapo
Bột mỳ
8
9
10
Công ty dầu thực vật Cái Lân
Công ty cổ phần dầu thực vật Tường An
Công ty Nestlé
Dầu tinh luyện
11
Nhà máy dầu Tân Bình
Shortening, margarine
12
Australia
Nước nho
13
Công ty TNHH Nhật Tân
Hương vani bột
14
15
Công ty sữa VN- Vinamilk
Công ty Elovi
Sữa bột, sữa đặc, bơ
16
Hà Lan, Pháp
Váng sữa, sữa bột
17
18
Thái Lan
Australia
Hương liệu, chất tạo nhũ
19
20
Công ty TNHH Kim Sơn
Công ty sản xuất và in bao bì
Bao bì, nhãn hàng hóa
21
22
23
Pháp
Inđônêxia
Singapo...
Các loại tinh dầu
...
.....
....
Nguồn: Phòng vật tư
Những thông tin thu thập được có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn nhà cung ứng nên thông tin đòi hỏi phải chính xác, kịp thời.
Giai đoạn lựa chọn nhà cung ứng
Đối với các doanh nghiệp nói chung và Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà nói riêng thì một nhà cung cấp tốt thật sự là một tài nguyên vô giá, bởi chính họ sẽ góp phần trực tiếp vào thành công của Công ty. Nhà cung cấp tốt không chỉ giao hàng đúng chất lượng, đủ số lượng, kịp thời gian, với giá cả hợp lý, với thái độ phục vụ tận tâm, luôn đảm bảo đầu vào cho sản xuất thông suốt, mà còn hỗ trợ khách hàng của mình phát triển sản phẩm, phân tích giá trị, sẵn sàng hợp tác trong các chương trình giảm chi phí, áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến… giúp người mua đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy, lựa chọn được nhà cung ứng tốt và quản lý được họ là điều kiện tiên quyết giúp Công ty sản xuất được sản phẩm có chất lượng đúng như mong muốn, theo tiến độ quy định, với giá cả hợp lý, đủ sức cạnh tranh trên thương trường. Bên cạnh đó còn luôn nhận được sự hỗ trợ của nhà cung cấp, để đạt được thành tích cao hơn. Công ty luôn chú trọng lựa chọn các nhà cung ứng có uy tín, chất lượng ổn định, giá cả hợp lý, thanh toán giao nhận thuận lợi.
Trên cơ sở những thông tin thu thập được, phòng vật tư tiến hành xử lý, phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm của từng nhà cung cấp để lựa chọn những nhà cung cấp phù hợp. Tiếp đó, so sánh với các tiêu chuẩn đặt ra trên cơ sở đó lập danh sách những nhà cung ứng đạt yêu cầu. Việc đánh giá này được thực hiện theo phương thức cho điểm.
Để lựa chọn được nhà cung cấp tốt, Công ty tiến hành lập bảng so sánh các nhà cung ứng cùng cung cấp một loại nguyên vật liệu.
Ví dụ, bảng so sánh lựa chọn nhà cung ứng đường như sau:
Bảng 7: So sánh các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn nhà cung cấp
STT
Các nhân tố
Điểm tối đa (mức độ ảnh hưởng)
Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn
Nhà máy đường Quảng Ngãi
Công ty đường Bình Định
1
Hiểu vấn đê
10
9
9
8
2
Phương pháp công nghệ
20
19
17
17
3
Trang thiết bị
5
4
5
3
4
Tay nghề công nhân
3
2
3
2
5
Yêu cầu bảo đảm chất lượng NVL
2
2
2
2
6
Khả năng đáp ứng lịch giao hàng
20
20
15
16
7
Giá cả
20
16
20
15
8
Năng lực quản trị, tài chính
10
10
7
7
9
Quy trình kiểm soát chất lượng
10
9
8
9
Tổng số điểm
100
91
86
79
Nguồn: Phòng vật tư
Trên cơ sở đó, lựa chọn những nhà cung cấp có tổng số điểm từ cao xuống thấp. Các nhà cung ứng này phải đảm bảo các yêu cầu về số lượng, chất lượng của từng chủng loại nguyên vật liệu, đảm bảo về thời gian giao hàng. Như vậy mới đáp ứng tiến độ sản xuất kịp thời, tránh được rủi ro trong sản xuất như đình trệ sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, điều này làm giảm năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất, làm tăng giá thành và giá bán sản phẩm, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Công ty chỉ thiết lập mối quan hệ làm ăn với các nhà cung cấp đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Công ty đặt ra.
Hiện nay, Công ty có chính sách đặt hàng với nhiều nhà cung cấp cho cùng một chủng loại nguyên vật liệu. Như chúng ta đã biết, trên thị trường cạnh tranh có rất nhiều nhà cung ứng khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau cùng bán một loại sản phẩm. Ví như đường có thể được cung cấp bởi hàng chục hãng khác nhau, đó là Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn, Nhà máy đường Quảng Ngãi, Công ty đường Bình Định…Nếu chỉ chọn một nhà cung ứng cho một loại sản phẩm thì dễ dẫn tới tình trạng độc quyền, ép giá. Khi lựa chọn hình thức mua của nhiều hãng sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa những người bán, Công ty sẽ được hưởng những thuận lợi về giá cả, điều kiện thanh toán, vận chuyển…; không những vậy, Công ty còn giảm thiểu được rủi ro từ phía nhà cung ứng về chất lượng nguyên vật liệu, độ sai lệch thời gian; cũng từ đây Công ty có cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế - xã hội.
Giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng
Sau khi lựa chọn được các nhà cung ứng chính thức thì Công ty tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu
Nếu là nhà cung ứng cũ thì công việc này rất nhanh, đơn giản vì Công ty đã xây dựng được mối quan hệ bạn hàng tốt, lâu dài. Việc ký kết được thực hiện qua chuyển fax, tiền hàng được thanh toán qua ngân hàng.
Nếu là nhà cung ứng mới thì công việc này phức tạp hơn nhiều. Công ty phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng rồi tiến hành tiếp xúc đàm phán trực tiếp với nhà cung ứng. Cuộc đàm phán thành công thì tiến hành ký kết.
Giai đoạn thử nghiệm
Sau khi hợp đồng cung ứng được ký kết, Công ty vẫn phải dõi sát xao quá trình thực hiện hợp đồng nhằm đánh giá chính xác hơn nhà cung cấp. Sự đánh giá này dựa trên các chỉ tiêu chính là chất lượng, số lượng nguyên vật liệu, thời gian cung ứng có chính xác không. Nếu đạt yêu cầu thì Công ty quan hệ lâu dài, ngược lại thì phải lựa chọn nhà cung cấp khác.
3.2.2.2.Lựa chọn phương tiện vận chuyển
Các nhà cung cấp có trách nhiệm đưa nguyên vật liệu đến trước kho của Công ty nên phương tiện vận chuyển do họ quyết định sao cho đảm bảo mọi điều kiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, Công ty vẫn phải căn cứ vào một số tiêu chuẩn sau để lựa chọn phương tiện vận chuyển:
Thứ nhất, giá cả vận chuyển
Thứ hai, thời gian vận chuyển và khả năng sai lệch thời gian
Thứ ba, tổn thất và thiệt hại
Trong từng trường hợp cụ thể mà Công ty sẽ chọn chỉ tiêu ưu tiên khi lựa chọn phương tiện vận chuyển. Khi nguyên vật liệu trong kho còn nhiều, muốn nhập lượng nguyên vật liệu tiếp theo thì Công ty sẽ ưu tiên tiên tiêu chí về giá cả nhất khi lựa chọn phương tiện vận chuyển nhằm tối thiểu hoá chi phí. Ngược lại, khi lượng nguyên vật liệu trong kho còn ít thì để lựa chọn phương tiện vận chuyển sẽ ưu tiên tiêu chí về thời gian vận chuyển và khả năng sai lệch thời gian; như vậy sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục.
Các phương tiện vận chuyển chủ yếu là:
Với nhà cung cấp trong nước thì phương tiện vận chuyển chủ yếu là tàu hỏa và xe tải
Với nhà cung cấp ngoài nước thì vận chuyển nguyên vật liệu bằng đường biển đến cảng Việt Nam, sau đó vận chuyển bằng đường bộ về kho Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà.
3.2.2.3. Tiếp nhận nguyên vật liệu
Sau khi ký kết hợp đồng thành công Công ty tổ chức tiếp nhận nguyên vật liệu từ nhà cung cấp. Khoảng thời gian từ khi ký kết đến khi nhận được hàng là 7-15 ngày đối với nguồn trong nước, 60-120 ngày đối với nguồn nhập khẩu. Đây là thời gian khá dài để Công ty chuẩn bị mọi vấn đề cho việc lưu kho vật liệu như chuẩn bị mặt bằng, chuẩn bị nhân lực và phương tiện vận chuyển… vì nguyên vật liệu được mua theo nguyên tắc hàng về đến cửa kho, nghĩa là nhà cung cấp sẽ chịu trách nhiệm đưa hàng về đến cửa kho, công việc từ đây là do Công ty phụ trách. Trước khi nhập nguyên vật liệu thì kho phải được vệ sinh sạch sẽ, diện tích đủ lớn để chứa hàng, các vật liệu cũ được bố trí tại những không gian riêng thuận tiện cho công tác xuất, nhập kiểm kê và vận chuyển.
Nhập kho
Khi nguyên vật liệu được đưa tới nơi, nhà cung ứng sẽ thông báo cho Công ty biết, từ đó phòng vật tư cùng với phòng KCS và thủ kho tiến hành tiếp nhận nguyên vật liệu tại kho. Theo quy định của Công ty thì tất cả nguyên vật liệu trước khi nhập kho đều phải tiến hành kiểm tra xem đã đạt yêu cầu chưa. Mục đích của công việc này là nhằm kiểm tra số lượng, chất lượng của nguyên vật liệu nhập kho cũng như xác định rõ tính trung thực của nhà cung ứng, phục vụ cho việc ký kết những đơn hàng lần sau.
Đạt
NVL
Kiểm tra
Thảo luận, trả lại nhà cung ứng
Không đạt
Với nguyên vật liệu đủ tiêu chuẩn (số lượng và chất lượng) sẽ tiến hành nhập kho và lập phiếu nhập cho từng chủng loại nguyên vật liệu, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
3.2.2.4. Quản lý nguyên vật liệu
Vì chất lượng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bánh kẹo nên bảo quản, quản lý nguyên vật liệu luôn được Công ty chú trọng.
Việc lưu kho được phân biệt rõ ràng giữa nguyên vật liệu và thành phẩm. Công ty phân chia hệ thống kho tàng thành nhiều kho nhỏ, mỗi kho được phân chia nhiệm vụ và có chế độ bảo quản riêng. Hiện tại, Công ty có 4 kho nguyên vật liệu gần phân xưởng sản xuất, tên mỗi kho được đặt theo tên của thủ kho, được bố trí hợp lý thuận tiện đi lại và kiểm tra. Các kho của Công ty có quy mô phù hợp, trang bị đầy đủ các phương tiện bảo quản, thiết bị đo lường, sổ sách ghi chép.
Hệ thống kho của Công ty được bố trí theo nguyên tắc phân tán, thuận lợi cho việc xuất nguyên vật liệu, phục vụ cho sản xuất. Bao gồm:
KHO XUÂN ANH
- Diện tích: 90m2
- Tên NVL: Bìa carton, hộp bánh, nhãn bánh, bột mỳ, bơ
- Bảo quản: Khô ráo, thoáng mát, tránh tiếp đất. Đối với nhãn, không được kê quá 5 kiêu vì rất nặng
KHO THẤT
- Diện tích: 100m2
- Tên NVL: Đường, bột mỳ, sữa bột, ca cao, bột café, các loại tinh dầu, các phẩm màu (gần 40 loại), váng sữa
- Bảo quản: bảo quản mát đối với tinh dầu. Các loại nguyên vật liệu khác được bảo quản khô ráo, cách đất.
KHO THU
- Diện tích: 80m2
- Tên NVL: Hộp kẹo, nhãn kẹo, khí ga, dầu mazut, chất tạo nhũ, hương liệu tổng hợp.
- Bảo quản: Khô ráo, thoáng mát, tránh nhiệt độ cao. Có thiết bị phòng cháy chữa cháy
KHO CHI
- Diện tích: 150m2
- Gồm 2 kho nhỏ:
Kho1: Đường, gluco,mạch nha, bột mỳ, chất bảo quản, bột soda
Kho 2: Váng sữa, sữa, margarine, shortening, nước nho.
Bảo quản: Thoáng mát, tránh độ ẩm
Chất lượng của nguyên vật liệu trong kho được đảm bảo bằng công tác kiểm tra, kiểm soát thường xuyên của nhân viên trong kho. Cụ thể, hàng tuần thủ kho phải kiểm tra lượng nguyên vật liệu nhập, xuất, tồn kho, từ đó thông báo cho phòng vật tư chuẩn bị kế hoạch mua sắm. Việc vệ sinh kho được tiến hành thường xuyên, mẫu theo dõi vệ sinh như sau:
MẪU THEO DÕI VỆ SINH ĐỊNH KỲ NVL
Ngày/ tháng
Tần suất
Nội dung vệ sinh
Người thực hiện
Kết quả kiểm tra
Người nghiệm thu
Ghi chú
02/3
2 ngày 1 lần
Quét dọn nền nhà, tường
Xuyến
Đạt
…
…
…
…
…
…
…
Việc tổ chức quản lý nguyên vật liệu trong quá trình lưu kho như trên luôn được đảm bảo, đáp ứng tốt nhu cầu của các phân xưởng sản xuất.
3.3.Bố trí sản xuất sản phẩm
Về dây chuyền sản xuất sản phẩm thức ăn nhanh có thể được sản xuất theo dây chuyền sau:
Nguyên vật liệu + Hương phụ liệu
Xử lý,làm chín
Tạo hình
Làm nguội
Vỏ bánh
Đóng thành phẩm
Về cơ bản có thể chia làm hai quá trình làm nhân và làm vỏ.Hai quá trình này mới đầu tách rời nhau, sau đó kết hợp ở quá trình đóng thành phẩm:
-Quy trình làm nhân:Nguyên vật liệu sau khi được chế biến , xử lý ban đầu đảm bảo vệ sinh sẽ được kết hợp với nhau bởi các mẻ trộn và pha thêm hương liệu.Tiếp đến chúng sẽ được xử lý để người tiêu dùng có thể ăn được thông qua các nồi nấu hoặc nồi hấp.Sau khi được làm nguội sẽ được tạo hình theo mẫu để phù hợp với vỏ bánh.
-Quy trình làm vỏ bánh: Bột khi được xử lý đảm baot tiêu chuẩn sẽ được nhào trộn đạt độ dẻo yêu cầu rồi được làm chín ở nồi hấp và tạo mẫu theo khuôn.
Sau khi đã thiết kế xong sản phẩm thì trước khi đưa sản phẩm ra thị trường thì phải qua một giai đoạn, đó là đưa sản phẩm ra thử nghiệm tại thực tế. Việc đưa lượng sản phẩm ra thử nghiệm phải được xác định theo số địa điểm đưa sản phẩm thử nghiệm. Những địa điểm được lựa chọn là những điểm phổ biến, có khả năng tiêu thụ sản phẩm mạnh trong tương lai. Quá trình thử nghiệm đồng thời phải đi kèm một khâu rất quan trọng là tham khảo ý kiến khách hàng về sản phẩm. Xem họ có ưng ý với sản phẩm không?Sản phẩm nếu được tiếp nhận từ khách hàng thì cần bổ sung những gi?
Khi đã có một mẫu sản phẩm ứng ý thì có thể sản xuất hàng loạt để tung sản phẩm ra thị trường tiêu thụ với số lượng lớn. Sản xuất sản phẩm có thể tiến hành qua các bước:
Thống kê lượng cầu về sản phẩm trong ngày
Bố trí dây chuyền sản xuất
Bố trí công nhân sản xuất sản phẩm
Dựa vào lượng sản phẩm sản xuất để đưa ra lượng cầu về nguyên vật liệu
Vận chuyển nguyên vật liệu về kho,bảo quản
Xử lý nguyên vật liệu và tiến hành sản xuất hàng loạt theo dây chuyền sản suất
3.4.Chính sách giá sản phẩm
Giá cả là một trong 4 tham số marketing Mix mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được. Để xây dựng giá bán các sản phẩm, tuỳ theo loại sản phẩm nhà máy sử dụng các chính sách giá phù hợp trên cơ sở các chính sách giá chủ yếu:
+ Chính sách giá theo chi phí vận chuyển. Do đặc điểm thị trường của nhà máy rộng lớn, hơn nữa mặt hàng thực phẩm chi phí vận chuyển chiếm một tỷ trọng nhất định trong giá, do đó giá bán sản phẩm của công ty ở các vùng khác nhau có sự chênh lệch nhất định. Nhưng công ty cố gắng để cho độ chênh lệch giá giữa các vùng ở mức tối thiểu.
+ Chính sách hạ giá và chiếu cố giá. Đây là chính sách giá được nhà máy sử dụng nhiều trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm bởi vì hình thức bán buôn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của nhà máy. Hơn nữa đây là hình thức nhằm mục tiêu khuyến khích các trung gian phân phối trong hệ thống kênh tiêu thụ của nhà máy mua nhiều sản phẩm của nhà máy hơn. Trong hình thức này, nhà máy sử dụng chính sách hạ giá theo khối lượng để các trung gian phân phối mua nhiều sản phẩm hơn và do đó họ sẽ hưởng tỷ lệ giảm giá cao hơn khi họ mua nhiều sản phẩm hơn. Tỷ lệ hạ giá này còn được gọi là tỷ lệ chiết giá.
Trong những năm gần đây, mỗi năm nhà máy có những tỷ lệ chiết giá cho khách hàng khác nhau.Tỷ lệ chiết chiết giá trung bình từ năm 2002 đến năm 2005 đều thay đổi đồng thời mang lại những kết quả nhất định. Năm 2002, tỷ lệ chiết giá cao nhất cho khách hàng mua với khối lượng lớn với sản phẩm bánh kẹo là: 10%. Đến năm 2003, nhà máy đã tăng tỷ lệ chiết giá đối với khách hàng mua khối lượng lớn sản phẩm như sau: tỷ lệ chiết giá cao nhất đối với bánh kẹo là: 11%. Năm 2004, nhà máy tiếp tục tăng tỷ lệ chiết giá lên cao hơn nhẵm tăng khối lượng tiêu thụ và thu hút thêm một số khách hàng trung gian khác tiêu thụ sản phẩm cho nhà máy, tỷ lệ chiết giá đối với các loại sản phẩm như sau: bánh kẹo là:12%, và tỷ lệ chiết giá này vẫn được nhà máy duy trì cho đến hiện nay. Tuy nhiên trong những thời điểm nhất định, nhà máy có sự điều chỉnh nhất định tỷ lệ chiết giá đối với từng mức khối lượng phù hợp với những mục tiêu thụ sản phẩm nhất định.
Nhìn chung, từ năm 2003 trở lại đâynhà máy đã không ngừng tăng tỷ lệ chiết giá trong chính sách giá của nhà máy nhằm tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn, tỷ lệ chiết giá này đều được tăng ở tất cả các mức khối lượng mua của khách hàng. Từ đó, nhà máy đã đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm qua các năm gần đây đều tăng lên đồng thời nhà máy đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển thêm hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, kết nạp thêm được nhiều đại lý, nhà trung gian phân phối vào các kênh tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể, năm 2002 về trước tỷ lệ chiết giá cho khách hàng của nhà máy mới thu hút được một số đại lý, nhà trung gian phân phối nhất định do đó doanh thu từ hoạt động tiêu thụ mới đạt được 23478 triệu đồng vào năm2002 nhưng đến năm2003 đạt 40502 triệu đồng gấp 1,72 lần so với năm 2002. Qua đây, ta nhận thấy chính sách giá của nhà máy đã đem lại những kết quả hoạt động tiêu thụ năm 2003 cao hơn năm 2002. Những năm sau, nhà máy tiếp tục tăng tỷ lệ chiết giá phù hợp giúp cho nhà máy giữ được mức tiêu thụ năm sau cao hơn năm trước.
Trên cơ sở chính sách giá cho các sản phẩm nhà máy vận dụng các phương pháp định giá chủ yếu. Định giá theo chi phí, định giá hướng vào cạnh tranh.
Hiện nay, công ty đã thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Cho đến nay, Công ty đã và đang tiếp tục áp dụng chính sách giá linh hoạt đối với từng thị trường, từng đối tượng khách hàng và đối với từng thời điểm trong năm. Ngoài ra, Công ty còn áp dụng các chính sách trợ giá, chính sách hoa hồng thích hợp cho các đại lý ở các khu vực khác nhau, bảo đảm cho các đại lý bán sản phẩm của Công ty với cùng một giá. Các đại lý khi tham gia vào việc tiêu thụ sản phẩm cho Công ty thường được khoán doanh số bán có hỗ trợ % doanh số thực hiện. VD như một đại lý phải đạt doanh số tiêu thụ ở mức là 80 triệu đồng đối với thị trường đồng bằng và 40 triệu đông đối với thị miền núi sẽ được hưởng 2% doanh số thực hiện. Đây là hình thức khuyến khích cho các đại lý, để họ có thể nhiệt tình hơn trong công việc trung chuyển sản phẩm của công ty đến tay khách hàng
Một số chính sách giá mà công ty hiện nay đang áp dụng
-Công ty định giá FOB với mọi khách hàng
-Chính sách giá áp dụng cho các đại lý lớn, hình thành trên cơ sở chiết khấu lợi nhuận từ giá bán lẻ
-Áp dụng đối với khách hàng không thường xuyên, mua một lần phải thanh toán ngay
Với những chính sách giá đang áp dụng thì nên vận nhựng vào sản phẩm thức ăn nhanh khi sản phẩm đã đứng vững được trên thị trường. Còn khi mới tung sản phẩm vào trong thị trường thì nên thực hiện chính sách giá thoáng hơn. Đó là thực hiện chính sách giá rẻ trong một thờ gian đầu để sản phẩm đến với người tiêu dùng, sau khi đã được thị trường chấp nhận thì bắt đầu nâng giá. Với nguồn vốn của Công ty thì chính sách trợ giá ban đầu là hoàn toàn chấp nhận được. Ngoài ra có thể tổ chức các đợt khuyến mại vào dịp cuối tuần vì lượng cầu vào những ngày cuối tuần thường thấp.
3.5.Hệ thống phân phối sản phẩm
Trong những năm qua công tác xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được nhà máy chú trọng là một công tác giúp cho nhà máy phấn đấu để đạt được mục tiêu tiêu thụ cụ thể trong từng năm. Do đặc điểm của sản phẩm nhà máy đưa vào tiêu thụ có thời gian bảo quản ngắn do thời hạn sử dụng cho từng sản phẩm ngắn nên nhà máy phải xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho sản phẩm này.
Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng năm được nhà máy xác định cụ thể về số lượng cho mỗi quý, mỗi tháng cụ thể cho từng mặt hàng cụ thể từ đó có các kế hoạch sản xuất, dự trữ, kế hoạch cho phương tiện vận tải cụ thể đảm bảo giảm chi phí trong hoạt động tiêu thụ và có các kế hoạch xúc tiến yểm trợ như quảng cáo, khuyến mại, tham gia hội chợ triển lãm..
3.5.1. Lựa chọn kênh phân phối
Với đặc điểm như trên nhà máy đã vận dụng và sử dụng cả hai loại kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
-Kênh phân phối trực tiếp:
Hiện Công ty có hai của hàng giới thiệu sản phẩm ngay tại cổng nhà máy 25Trương Định-Hai Bà Trưng.Đây vừa là nơi giới thiệu sản phẩm vừa bán sản phẩm trực tiếp cho khách hàng với số lượng nhỏ.Vì vậy nên có thể đưa thức ăn nhanh bán trực tiếp tại đây. Đối với những công ty đặt hàng cố định hàng ngày cho nhân viên của mình sử dụng thì có thể sử dụng nhân viên của Công ty trực tiếp đến tận nơi theo giờ nhận hàng.
-Kênh phân phối gián tiếp:
Công ty có thể thông qua các cửa hàng đang tiêu thụ sản phẩm của Công ty để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.Đặc biệt là phân phối qua các siêu thị lớn như: Metro, Big C…và các Căngtin trường học.
3.5.2. Lựa chọn các phần tử trong kênh phân phối
-Với kênh phân phối trực tiếp thì các phần tử trong kênh là:
+Nhân viên bán hàng của Công ty bán ngay tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
+Nhân viên vận chuyển của Công ty đưa sản phẩm đến các nơi có nhu cầu theo đơn đặt hàng sẵn.
-Với kênh phân phối gián tiếp:
Công ty có lực lượng bán hàng ngoài doanh nghiệp nhưng trên điạ bàn Hà Nội không cần dùng nhiều đến lực lượng này máy mà chỉ dùng tại các hội chợ triển lãm.Ở đây chủ yếu sử dụng lực lượng trung gian là chủ các cửa hàng nhỏ bán thức ăn nhanh, quản lý các căngtin trường học.Họ sẽ được hưởng hoa hồng theo số lượng và được hưởng chiết giá.Riêng các trung gian lớn là các siêu thị mà lượng tiêu thụ ở đây cũng khá lớn thì phải ký hợp đồng với họ và có chính sách phù hợp.
3.5.3. Lựa chọn phương tiện vận chuyển
-Tùy theo lượng nhu cầu mà Công ty có thể bố trí bao nhiêu xe chuyên chở cho phù hợp.Do nội thành Hà Nội diện tích đường xá chật hẹp không thể bố trí các phương tiện vận tải cỡ lớn nên phải sử dụng các loại xe ô tô cỡ nhỏ như xe của Daewoo hoặc xe Huyndai để vận chuyển trong thành phố.Mới đầu có thể bố trí mỗi xe phụ trách một quận.Có 9 quận trong nội thành nên có thể bố trí 9xe ô tô tải nhẹ.Mỗi xe gồm một lái xe và hai nhân viên bốc dỡ , giao hàng.Nhân viên giao nhận phải có sổ theo dõi ghi thông tin khi xuất kho và giao hàng.
-Đối với lượng đặt hàng nhỏ, địa điểm gần thì có thể sử dụng phương tiện xe máy.Đây là phương tiện linh hoạt, tốc độ cao trong thành phố.Đối với phương tin loại này thì nên thuê nhân viên bên ngoài làm việc cho với phương tiện của họ.
3.6.Hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
Trong những năm gần đây, xác định xúc tiến yểm trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động quan trọng để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhà máy đã quan tâm đầu tư cho hoạt động xúc tiến. Kết quả đã mang lại cho nhà máy đảm bảo chỗ đứng của sản phẩm trên thị trường bằng doanh số bán sản phẩm của nhà máy đã được nhiều người biết đến. Đối với sản phẩm mới là thức ăn nhanh thì hoạt động hỗ trợ tiêu thị sản phẩm hết sức quan trọng. Nó gồm tập hợp các hoạt động nhỏ:
3.6.1. Về quảng cáo
Những năm qua, nhà máy đã đầu tư một số dây chuyền công nghệ mới, đồng thời đưa vào tiêu thụ các sản phẩm mới do các dây chuyền trên sản xuất. Thời gian đầu của sản phẩm của nhà máy chưa được mọi người biết đến. Đánh giá được tầm quan trọng của việc quảng cáo sản phẩm. Nhà máy đã không ngừng đầu tư ngân sách cho hoạt động quảng cáo.
Đối với các phương tiện quảng cáo bên trong doanh nghiệp nhà máy kết hợp nhiều hình thức quảng cáo bao gồm quảng cáo trên bao bì sản phẩm, biển đề tên nhà máy quảng cáo bằng tủ kính, quảng cáo qua nhân viên bán hàng.
Nhà máy đã vận dụng để quảng cáo ngay trên bao bì sản phẩm của mình với những hình ảnh biểu tượng màu sắc hấp dẫn và đầy đủ về lý mà nhãn hiệu sản phẩm các thông tin về chất lượng, thời hạn sử dụng, thông tin về nhà máy, các địa điểm giao dịch thuận tiện.... sự hấp dẫn của bao bì đã tạo ra thiện cảm ngay từ ban đầu với sản phẩm của nhà máy.
Sản phẩm thực phẩm là những sản phẩm luôn luôn “nhạy cảm” với khách hàng về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Sự trưng bày các sản phẩm của nhà máy trong các tủ kính một cách khoa học ngăn nắp tại các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm tạo cho khách hàng yên tâm trong việc sử dụng sản phẩm. Đồng thời nhà máy cũng có đội ngũ nhân viên bán hàng được đào tạo và có chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng lôi kéo, thu hút giao tiếp với khách hàng trong quá trình mua bán, giao dịch.
Quảng cáo bên ngoài doanh nghiệp của nhà máy được nhà máy sử dụng triệt để. Mặc dù quảng cáo trên vô tuyến truyền hình chi phí rất cao, nhưng để giới thiệu sản phẩm thì cũng có thể áp dụng nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Vì thì trường mới đầu chỉ bó gọn trong địa bàn Hà Nội nên có thể quảng cáo trên truyền hình Hà Nội.
Radio là một phương tiện truyền thông có đối tượng nhận tin rộng hơn nữa ở nước ta hiện nay Radio đã được phủ sóng ở hầu hết mọi nơi. Chi phí cho quảng cáo trên báo, tạp chí cho quảng cáo trên Radio lại thấp hơn quảng cáo trên truyền hình do đó nó cũng nên vận dụng quảng cáo trên Radio.
-Hình thức thứ ba là quảng cáo trên báo chí. Trên Hà Nội có rất nhiều loại báo có thể đăng tải quang cáo mà lượng báo chí phát hành cũng bó gọn trong khu nội thành như báo : Bóng đá, Thể thao, Hà Nội mới, ..
-Đặc biệt là với sản phẩm thức ăn nhanh thì có thể tiến hành quảng cáo dưới hình thức là các băng rôn, áp phích tại các trường học, điểm dừng xe buyt, ..
Hiện tại quảng cáo trên truyền hình của nhà máy chiếm chi phí rất cao so với quảng cáo trên Radio, trên báo, tạp chí và quảng cáo bằng các hình thức khác. Nguyên nhân là do giá phải trả cho quảng cáo trên tivi cao hơn rất nhiều so với quảng cáo khác. Tuy nhiên với mức chi phí cho quảng cáo trên tivi như trên thời lượng quảng cáo chỉ mới đạt ở mức nhất định và không thể đảm bảo cho nhà máy có thể quảng cáo liên tục. Quảng cáo trên Radio cũng được nhà máy quan tâm do đó chi phí cho quảng cáo trên Radio cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí dành cho quảng cáo. Mặc dù giá quảng cáo trên Ra dio thấp hơn quảng cáo trên tivi song trong điều kiện ở nước ta hiện nay quảng cáo trên Radio có thể truyền thông tin quảng cáo tới lượng đối tượng nhận thông tin nhiều hơn. Các hình thức quảng cáo khác bao gồm: quảng cáo trên bao bì của sản phẩm, pa nô - áp phích, tủ kính...
3.6.2. Về khuyến mại
Khuyến mại cũng là một công cụ xúc tiến có ảnh hưởng lớn kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của nhà máy. Song do ngân sách dành cho khuyến mại còn hạn chế. Hình thức khuyến mại chủ yếu của nhà máy sử dụng là:
- Chiết giá: Đây là hình thức khuyến mãi được nhà máy sử dụng chủ yếu để kích thích các trung gian phân phối đại lý, người bán lẻ mua nhiều sản phẩm hơn. Nhà máy sẽ giảm giá bán và được trừ ngay vào hóa đơn cho khách hàng mua với khối lượng nhất định. Chiết giá được Công ty sử dụng trong mỗi đợt khuyến mại cũng khác nhau đối với khối lượng mua khác nhau.
Hình thức chiết giá trên thực chất là một hình thức giảm giá cho khách hàng kích thích khách hàng mua với số lượng lớn hơn và do đó khách hàng trung gian sẽ tìm cách tiêu thụ nhiều hơn để hưởng mức chiết giá cao hơn. Bên cạnh đó nhà máy cũng chiết giá cho các khách hàng trung gian khi họ thanh toán sớm hơn quy định với những tỉ lệ nhất định.
Phần thưởng cho khách hàng thường xuyên: Để giữ các khách hàng thường xuyên, các trung gian phân phối nhà máy giảm giá cho khách hàng thường xuyên một tỷ lệ giá nhất định.
Như vậy các hình thức khuyến mại của nhà máy đã kích thích khách hàng mua nhiều hơn bởi họ sẽ được hưởng một khoản chênh lệch về khuyến mại. Hơn nữa khách hàng hưởng giá trị phần khuyến mại nhanh gọn không phải qua các thủ tục rườm rà.
3.6.3. Tham gia hội chợ triển lãm
Tham gia hội chợ triển lãm là dịp để nhà máy giao tiếp, giới thiệu với khách hàng về sản phẩm của nhà máy. Đồng thời có dịp để cho khách hàng so sánh, nhận biết sản phẩm của nhà máy với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Thông qua tham gia hội trợ triển lãm nhà máy trực tiếp giao tiếp với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách hàng về sản phẩm từ đó nhà máy có kế hoạch, chiến lược phát triển sản phẩm mới, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phù hợp.
Trong những kỳ tham dự hội chợ triển lãm vừa qua sản phẩm của nhà máy đã đạt huy chương vàng tại hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao năm 1999, 2000, Hội chợ EXPO 2000. Hội chợ quốc tế hàng tiêu dùng 2000... sau gần năm năm đi vào hoạt động, sản phẩm của nhà máy đã bước đầu có chỗ đứng trên thị trường tuy có những lúc vẫn còn bất ổn trong sản xuất do tồn kho nhiều nguyên nhân trong thời gian đầu sản phẩm của nhà máy phải trải qua đoạn xâm nhập thị trường khá cao. Do có những kinh nghiệm làm hội chợ đồng thời dựa vào những uy tín của mình trên thị trường thì đưa sản phẩm thức ăn nhanh là một trong những biện pháp xúc tiến tương đối tốt. Sản phẩm nên đưa vào hội chợ triển lãm ngay trong giai đoạn đầu sản xuất để cóp thể trưng cầu được ý kiến của người tiêu dùng. Tham gia hội chợ triển lãm đã giúp cho nhà máy khẳng định được sản phẩm của mình với sản phẩm của các doanh nghiệp khác tạo điều kiện cho nhà máy có thể cạnh tranh trên thị trường, vì thế nên đưa sản phẩm thức ăn nhanh vào thị truờng thông qua cách đưa vào hội chợ chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả tốt.
3.6.4. Bán hàng trực tiếp
Bán hàng trực tiếp là một hoạt động xúc tiến yểm trợ quan trọng. Thông qua bán hàng nhà máy nắm bắt được nhu cầu của khách hàng về sản phẩm của nhà máy. Bán hàng trực tiếp là hoạt động cơ bản liên quan mật thiết với khách hàng, ảnh hưởng tới niềm tin, uy tín và sự tái tạo hành vi mua hàng của khách.
Trong bán hàng trực tiếp nhà máy sử dụng nhiều hình thức bán hàng bao gồm: bán hàng ở cấp nhà máy , bán hàng qua sử dụng, bán hàng theo tổ đội.
Bán hàng ở cấp nhà máy được thực hiện thông qua phòng kế hoạch, phòng kinh doanh, Ban giám đốc với các hợp đồng, các đơn đặt hàng có khối lượng lớn. Các khách hàng này chủ yếu là các trung gian phân phối, các đại lý.
Bán hàng qua cửa hàng cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, nhà máy có nhiều trạm kinh doanh, chi nhánh, cửa hàng do đó bán hàng qua các đơn vị này được nhà máy hết sức quan tâm do việc bán hàng ở cấp nhà máy chỉ thực hiện với những hợp đồng, đơn đặt hàng lớn hơn nữa, nhiệm vụ của các phòng ban của nhà máy rất lớn không thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm. Hiện tại nhà máy có hai cửa hàng vừa bán hàng vừa mang tính chất giới thiệu sản phẩm ở ngay hai cửa công ty. Vì thế bán hàng trực tiếp thức ăn nhanh tại hai cửa hàng này sẽ rất tác dụng kích cầu.Thông qua khách hàng đến mua các sản phẩm quen thuộc của nhà máy có thể tìm hiểu,và được tư vấn thêm về sản phẩm thức ăn nhanh.
Bán hàng theo tổ đội dưới nhà máy tổ chức thành đội thị trường gồm hơn 10 người thuộc phòng kế hoạch của nhà máy chuyên làm các nhiệm vụ chào hàng, giới thiệu sản phẩm, thực hiện các nghiệp vụ bán hàng. Thông qua các nghiệp vụ bán hàng của đội, khối lượng hàng hóa được tiêu thụ nhiều hơn, thị trường của nhà máy được phát triển.
Bên cạnh đó, để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, nhà máy luôn khuyến khích đội ngũ cán bộ, nhân viên trong nhà máy tạo thêm mối tiêu thụ và nhà máy sẽ trích một tỷ lệ chiết khấu cho nhân viên đó nếu nhà máy tiêu thụ được sản phẩm. Công việc này đã tạo thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên ngoài nguồn thu nhập chính.
3.6.5. Phát triển các dịch vụ khách hàng trước, trong và sau khi bán hàng
Trong hoạt động tiêu thụ, nghiệp vụ thu tiền là rất quan trọng. Trong trường hợp mặc dù hàng hoá đã được phân phối hết hoặc đã giao xong cho người mua song vẫn chưa thu được tiền thì hoạt động tiêu thụ chưa kết thúc. Trong trường hợp đã thu được tiền song sản xuất sản phẩm vãn chưa đến tay người tiêu dùng thì hoạt động tiêu thụ mới kết thúc. Do vậy, trong suốt quá trình trước, trong và sau khi tiêu thụ, nhà máy luôn phải có các dịch vụ phục vụ khách để lôi kéo khách hàng về phía nhà máy.
Hơn nữa trong cạnh tranh khốc liệt trên thị trường hiện nay, vũ khí cạnh tranh không chỉ là giá cả, chất lượng sản phẩm mà dịch vụ bổ sung đã trở thành vũ khí hết sức lợi hại của các doanh nghiệp.
Do vậy nhà máy phải đa dạng các dịch vụ bổ sung để lôi kéo được nhiều khách hàng hơn nữa. Các dịch vụ này có thể bao gồm:
-Dịch vụ giới thiệu sản phẩm, giới thiệu cách sử dụng, bảo quản, nhận biết các sản phẩm giả, sản phẩm hỏng, quá hạn sử dụng sẽ tăng cường uy tín cho nhà máy, khách hàng sẽ yên tâm khi mua sản phẩm của nhà máy, không mua nhầm sản phẩm giả chất lượng kém . Như vậy nhà máy vừa xây dựng được uy tín trong con mắt khách hàng, vừa tăng được khối lượng tiêu thụ, chống tệ nạn hàng giả, hàng kém chất lượng..
-Dịch vụ vận chuyển: đối với khách hàng không có điều kiện vận chuyển, họ phải đi thuê sẽ mất nhiều thời gian, chi phí cao do đó dịch vụ vận chuyển của nhà máy với khách hàngvới giá cả hợp lý sẽ tiết kiệm thời gian của khách hàng, chi phí và bảo đảm an toàn về sản phẩm cho khách hàng.
-Đổi những sản phẩm bị hư hỏng, sản phẩm quá thời hạn sử dụng cho những khách hàng nhất định...đây là dịch vụ nhằm đảm bảo cho khách hàng yên tâm sẽ không bị thiệt hại trong những chừng mực nhất định nhà máy chấp nhận được. Dịch vụ này không những giúp cho nhà máy giữ được khách hàng mà còn đảm bảo những nhà trung gian phân phối không lợi dụng sự thiếu hiểu biết của khách hàng cuối cùng cố tình bán những sản phẩm này cho họ sẽ gián tiếp làm giảm uy tín của nhà máy. Để thực hiện được công việc này phải có những quy định rõ ràng, sản phẩm đổi phải được phân loại để tái chế như làm thức ăn cho gia súc..
-Dịch vụ bao gói sản phẩm giúp cho khách hàng bảo quản được sản phẩm, dễ dàng trong việc vận chuyển, xếp dỡ, hình thức đẹp sẽ thuận tiện trong quá trình giao dịch mua bán...
Bên cạnh đó nhà máy phải có những dịch vụ bổ sung cho từng đối tượng khách hàng phù hợp .
3.6.6. Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên tiêu thụ sản phẩm
Trong cơ chế thị trường ngày nay, tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên khó khăn hơn. Mặc dù có sản phẩm tốt, giá rẻ song cũng cần phải có những người bán hàng giỏi, biết lôi kéo khách hàng về phía mình, năng động, sáng tạo trong giao tiếp, xử lý tình huống. Do dó nhà máy phải luôn luôn nâng cao chất lượng trong tuyển mộ, tuyển chọn đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên làm việc trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời cũng phải có những chính sách khuyến khích vật chất cho người lao động.
Để đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên có thể sử dụng các biện pháp sau:
-Cử cán bộ đi học tại các trường đào tạo. Công việc này đòi hỏi phải giành thời gian, vật chất cho cán bộ được cử đi học song sẽ đem lại hiệu quả cao.
-Tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên đi học tự túc hoặc có hỗ trợ một phần. Đây cũng là một cơ hội cho cán bộ nhân viên tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ tạo cơ hội thăng tiến cho họ đồng thời tạo động lực cho họ phấn đấu trong công việc.
-Đào tạo huấn luyện tại nhà máy: dùng cán bộ có kinh nghiệm để kèm cặp hướng dẫn những người cần được đào tạo. Cách đào tạo này chi phí thấp người được đào tạo có thể làm việc trực tiếp theo sự hướng dẫn của cán bộ có kinh nghiệm. Người được đào tạo nắm bắt được những kiến thức trong thực tế công việc.
Bên cạnh đó để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, phải bố trí thay thế nguồn nhân lực hợp lý. Không những thế công ty còn phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ, công nhân toàn công ty do đó sẽ tăng năng suất lao động và do đó sẽ giảm được giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm giảm sẽ giúp cho nhà máy có thể cạnh tranh về giá và doanh nghiệp có khả năng tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn. Tuy nhiên, công việc này phải được nhà máy hoạch định thành chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài.
Để đạt hiệu quả đạt cao trong cong tác đào tạo, hàng năm nhà máy phải thường xuyên tổ chức đào tạo huấn luyện tại nhà máy hoặc cử đi học tại các trường các đơn vị đào tạo khác. Để thực hiện được công tác này nhà máy phải có nguồn ngân sách nhất định để trợ cấp cho cán bộ công nhân được đào tạo hoặc những người tham gia huấn luyện đào tạo. Đồng thời có chính sách khuyến khích người lao động như tăng lương, thưởng cho người lao động sau khi họ được đào tạo thông qua việc thi nâng bậc...
Trên đây là một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở nhà máy bánh kẹo Hải Hà song để thực hiện có hiệu quả, yêu cầu phải có điều kiện thực hiện cụ thể.
3.6.7. Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác
Quan hệ công chúng và các hoạt động khuếch trương khác là hoạt động xúc tiến cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhà máy. Nhà máy nên dành nguồn quỹ nhất định để ủng hộ các các đối tượng có điều kiện khó khăn, đặc biệt khuyến khích các đối tượng là học sinh, sinh viên tại các nơi mà sản phẩm thức ăn nhanh có khả năng tiêu thụ. Đồng thời công ty cũng tham gia các hội nghị khách hàng, hiệp hội kinh doanh do bộ Thương mại, chính phủ tổ chức..
Lời kết luận
Để trụ vững trên thị trường thì phải tìm mọi cách xâm nhập thị trường, kể cả tận dụng thị trường nhỏ,thị trường ngách.Chính vì thế, dựa vào những thế mạnh của mình để đáp ứng nhu cầu thức ăn nhanh tại Hà Nội là một biện pháp hợp lý.
Qua việc nghiên cứu chuyên đề trên giúp tôi càng thấy rõ vai trò của việc mở rộng thị trường, phát triển sản phẩm.Do trình độ hiểu biết còn hạn chế, sự tìm hiểu chưa thấu đáo nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nên tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo,các anh chị trong Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà đặc biệt Ths. Nguyễn Thị Hoài Dung để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Ths. Nguyễn Thị Hoài Dung và Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Ngày 28 tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn văn Diễn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Lê Công Hoa
Giáo trình Quản trị hậu cần kinh doanh
GS.TS. Nguyễn Thành Độ - TS. Nguyễn Ngọc Huyền.
Giáo trình Quản trị kinh doanh. Nxb Lao Động – Xã hội
TS. Trương Đoàn Thể
Giáo trình Quản trị sản xuất và tác nghiệp. Nxb Lao Động – Xã hội, năm 2004
Các tài liệu của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Trang web: www.haihaco.com.vn
Một số luận văn của các khóa trên
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu ……………………………………………………………..1
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ……………………………………………………………......2
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà …………………………………………………………….....2
1.1.1.Giới thiệuchung...........................................................................................2
1.1.2.Các giai đoạn phát triển..............................................................................3
1.2.3.Chức năng nhiệm vụ của công ty…………………………………….......5
1.2.Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty …………………………………...5
1.2.1.Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty……………………………....5
1.2.2.Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận…………………………………6
1.3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty…………………………….8
1.3.1.Đặc điểm sản phẩm……………………………………………………….8
1.3.2.Đặc điểm về thị trường tiêu thụ.................................................................9
1.3.3.Nguồn vốn kinh doanh…………………………………………………..10
1.3.4.Nhân tố lao động…………………………………………………………11
1.3.5.Nguồn nguyên vật liệu…………………………………………………...12
1.3.6.Máy móc, thiết bị………………………………………………………...13
1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty những năm gần đây……………………………………………………………….......15
1.4.1.Một số chỉ tiêu đánh gia kết quả của công ty ……………………….....15
1.4.2.Nhận xét chung…………………………………………………………..16
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG VỀ NHU CẦU THỨC ĂN NHANH TẠI HÀ NỘI………………………………………………19
2.1. Nhu cầu………………………………………………………………...19
2.2. Thực trạng đáp ứng……………………………………………….....20
2.2.1.Các sản phẩm thức ăn nhanh hiện đang tồn tại trên thị trường
Hà Nội…………………………………………………………………….......20
2.2.2.Đánh giá………………………………………………………………...21
2.3.Khả năng đáp ứng của công ty……………………………………….21
2.3.1.Điểm mạnh……………………………………………………………. 21
2.3.2.Điểm yếu…………………………………………………………….. ...23
2.3.3.Khả năng thỏa mãn nhu cầu thức ăn nhanh của Công ty tại Hà Nội …………………………………………………………………………..24
CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM THỨC ĂN NHANH CỦA CÔNG TY TẠI HÀ NỘI…………………..26
3.1.Điều tra nhu cầu thức ăn nhanh trên thị trường Hà Nội…………26
3.2.Thiết kế sản phẩm…………………………………………………........29
3.2.1.Thiết kế………………………………………………………………….29
3.2.2.Nguồn nguyên liệu……………………………………………………...30
3.3.Bố trí sản xuất sản phẩm…………………………………………........38
3.4.Chính sách giá sản phẩm………………………………………………39
3.5.Hệ thống phân phối sản phẩm………………………………………...42
3.6.Hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm………………………………....43
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31914.doc