Nước ta đang đứng trước những thách thức là tốc độ đô thị hóa tại khu vực và trên thế giới ngày càng tăng, thu nhập của nhân dân các nước cũng ngày càng tăng dẫn đến khẩu phần gạo trong bữa ăn giảm ( làm cho xuất khẩu lương thực không tăng mạnh như hiện nay). Trên thị trường, mặt hàng lương thực, thực phẩm chuyển vào các siêu thị sẽ tăng mạnh. Việc bày bán lương thực, thực phẩm tại các chợ nhỏ lẻ sẽ bị thu hẹp. Hệ thống sản xuất lương thực trên thế giới cũng không còn nhỏ lẻ. Điều này không phù hợp với tập quán sản xuất và hệ thống phân phối ở nước ta hiện nay là vẫn còn sản xuất manh mún.
Phần lớn các doanh nghiệp thích mua hàng trôi nổi, tìm nơi bán rẻ nhất thì mua. Nông dân thích bán hàng cho thương lái hơn là cho doanh nghiệp. Giữa nông dân và doanh nghiệp còn ít gắn bó, thậm chí mất lòng tin với nhau. Thị trường thế giới hiện nay cần hàng hóa chất lượng cao, đồng nhất, khối lượng lớn, giao hàng cùng một thời điểm với giá cả cạnh tranh. Đây là những yêu cầu mà ta chưa đáp ứng tốt. Trong quá trình hội nhập với thế giới, nhiều qui định và điều lệ mới về đăng ký gia nhập và kiểm soát sản phẩm sẽ được áp dụng trong khi nông dân ta chưa sẵn sàng. Ngoài ra, nông dân nước ta còn phải đối phó với qui định tự do mậu dịch.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hợp tác hóa trong nông nghiệp; thay đổi mạnh hơn hệ thống sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, thâm canh với qui mô ngày càng lớn hơn. Chính sách cần có là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nông dân, giúp nông dân tham gia vào hệ thống sản xuất lớn. Cái tối cần thiết hiện nay là hiện đại hóa nông nghiệp trong khuôn khổ phát triển nông thôn mới để nông dân đủ điều kiện sản xuất hàng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Nhà nước cần ban hành chính sách về an toàn thực phẩm; mở rộng sản xuất nông thủy sản sạch; mở rộng hợp tác trong khu vực để củng cố tính cạnh tranh của nông sản. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long cần phát huy thế mạnh các cây trồng đặc sản triển vọng như: xoài, bưởi, vú sữa, sầu riêng, cam. các loại cây gia vị, các loại tôm, cá nước ngọt, lợ, mặn. Nhà nước cần quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung gắn với tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, nhằm từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong thời gian tới.
82 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của các địa phương và thành phố ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Trung Quốc giảm từ 17% còn 9%, Malaysia từ 28% xuống còn 11%. Xu hướng này cũng diễn ra ở Thái Lan, mặc dù nước này có lợi thế cạnh tranh trong nông nghiệp khá cao. Tỷ lệ xuất khẩu nông sản so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan giảm từ 55% xuống còn 18% trong giai đoạn 1997-2006.
Lợi thế so sánh thương mại nông nghiệp ở một số nước Đông á có thể được đánh giá thông qua chỉ số cạnh tranh. Chỉ số này cho thấy tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam cao gấp 3 lần so với mức trung bình của thế giới. Chỉ số là 1,6 trong giai đoạn 1995-2005 và là 2,05 giai đoạn 1995-2005, tăng gần 3 lần so với cuối thập kỷ 90. Mặt khác, số liệu của các quốc gia khác trong khu vực cũng giảm, trong giai đoạn 1995-2005, tính cạnh tranh của Malaysia giảm từ 2,4 xuống còn 1,9; Thái Lan giảm từ 4 xuống 2 và của Trung Quốc giảm từ 1,46 xuống 1.
Biểu thay đổi cơ cấu xuất khẩu ở Việt Nam (%)
2003
2004
2005
2006
2007
Nông nghiệp
27,4
26
29,8
26,7
24,7
Công nghiệp
Dệt, may mặc và giầy
7,4
11,2
21,4
27
23,8
Nguồn: Niên giám thống kê 2003; 2007
Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2007.
Sau hơn một năm gia nhập WTO, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã tăng nhanh chóng. Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới và xuất khẩu gạo là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngành nông nghiệp của Việt Nam. Trong năm 2007, xuất khẩu gạo đạt trên một tỷ USD. Ngoài ra, giá trị xuất khẩu các ngành hàng khác cũng tăng nhanh, đặc biệt là cây công nghiệp có giá trị và cây lâu năm. Trong giai đoạn từ 1997-2007, xuất khẩu cà phê tăng từ 674 triệu USD đến 1.194 triệu USD, và Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ ba trên thế giới. Cũng trong giai đoạn này, xuất khẩu cao su và hạt điều tăng tương ứng từ 150 triệu USD đến 927 triệu USD và từ 126 triệu đến 1117 triệu USD.
So với các nước trong khu vực, năng suất lúa của Việt Nam thuộc loại cao. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng năng suất lúa của Việt Nam tăng nhanh. Trong giai đoạn 1997-2007, tốc độ tăng năng suất lúa của Việt Nam trung bình năm đạt 4,08%. Mặc dù giai đoạn 2005-2007, tốc độ tăng có giảm đôi chút xuống còn 3,36% song vẫn cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan (0,98%), Philippine (0,91%), Theo một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực Quốc tế thì Việt Nam là một trong những nước có chi phí sản xuất lúa thấp nhất và có lợi thế so sánh trong thương mại gạo quốc tế.
Trong số các hàng nông sản thì mặt hàng cà phê có lợi thế cạnh tranh khá mạnh và đóng góp rất lớn đến giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản. Trong giai đoạn 1997-2007 tốc độ năng suất cà phê Việt Nam tăng mạnh so với các nước trong khu vực. Không những thế về số tuyệt đối năng suất cà phê của Việt Nam cũng cao hơn rất nhiều nước trong vùng.
Biểu năng suất cà phê của một số nước Châu á.
Quốc gia
1997
2007
Tốc độ tăng bình quân năm (1997-2007)
Năng suất
Sản lượng
Năng suất
Sản lượng
Năng suất
(kg/ha)
(1000 tấn)
(kg/ha)
(1000 tấn)
Trung Quốc
1100
36
2017
55
3.9
Ấn Độ
765
292
32
341
1.5
Indonesia
369
489
175
410
-1.9
Philippine
678
240
983
256
-0.7
Việt Nam
1186
37
1532
500
4.0
Thế giới
593
5694
518
5385
-0.2
Nguồn: FAO.2007. Tổng hợp số liệu lương thực và phát triển nông nghiệp Châu á Thái Bình Dương, 1997-2007 .
Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu, Việt Nam có lợi thế tiềm năng đối với một số nông sản như lợn, sản phẩm gỗ, rau quả.. Vấn đề là nguồn đầu tư nên tập trung vào công nghiệp chế biến nông sản.
Đối với trường hợp của mía đường, do thiếu vốn đầu tư vào nghiên cứu và áp dụng giống mới nên năng suất mía của Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực và mức trung bình của thế giới. Thêm vào đó, chất lượng mía của Việt Nam theo đánh giá là thấp so với các nước khác.
Biểu năng suất mía của một số nước 1997-2007 (tấn/ha).
Quốc gia
1997
1999
2005
2006
2007
Tăng trưởng bình quân năm 1997-2007
Thailan
47
47
55
58
56
1,2
Philippine
65
70
69
69
69
-2
Trung Quốc
57
59
59
57
76
1,7
Indonesia
78
78
72
74
79
-0,2
Ấn Độ
60
67
71
68
71
1,7
Việt Nam
26
45
48
48
38
2,9
Thế giới
60
62
63
62
63
0,5
Nguồn: Tổng hợp số liệu lương thực và phát triển nông nghiệp Châu á Thái Bình Dương, 1997-2007
Bên cạnh những thành công đã đạt được, ngành nông nghiệp của các địa phương cần phải có những biện pháp giải quyết tốt hơn để tránh tình trạng nông sản của chúng ta bị ép giá trên các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... Lâu nay, EU được đánh giá là thị trường tiêu thụ lớn nhất của hàng nông sản Việt Nam. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam được đối tác bạn đánh giá có chất lượng tốt nhất. Song có một nghịch lý là giá nông sản Việt Nam còn thấp hơn mức giá thị trường, bởi nông sản Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu và chất lượng không ổn định.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và thị trường các nước Liên minh Châu Âu (EU) đạt 8,5 tỷ USD, tăng 0,6 tỷ USD so với năm 2006.Trong các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường khu vực EU, hàng nông sản chiếm lượng rất lớn. Hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản đều có vị trí quan trọng trong tỉ trọng xuất khẩu vào thị trường các nước trong khối EU.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ đạt trên 10 tỷ USD, trong đó các mặt hàng về nông-lâm-thủy sản cũng sẽ tăng mạnh về sản lượng và giá trị. Thủy sản ước sẽ đạt khoảng 1,15 tỷ USD, cà phê là hơn 800 triệu USD, đồ gỗ là 780 triệu USD. Với 27 quốc gia thành viên, EU là một thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những thị trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chặt chẽ được lập ra áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu. Đối với mỗi một mặt hàng, thị trường châu Âu đều có những tiêu chuẩn áp dụng riêng, chẳng hạn như: mặt hàng rau quả tươi yêu cầu đạt chứng chỉ chất lượng GAP, mặt hàng thủy sản phải đạt chứng nhận chất lượng của Cục Quản lý an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQUAVED) cấp, mặt hàng lâm sản, đồ gỗ khi xuất vào thị trường châu Âu phải có chứng chỉ rừng FSC (Forest Stewardship Council - Hội đồng Quản lí rừng Quốc tế).
Tham gia thị trường các nước châu Âu, doanh nghiệp không chỉ phải đối mặt với những tiêu chuẩn chung, mà còn phải thỏa mãn những quy định riêng của từng nhà nhập khẩu hàng hóa, bởi lẽ các nhà nhập khẩu vẫn có thể đưa ra những quy định riêng cho hàng hóa trong hệ thống phân phối của mình.
Để tiếp cận được thị trường EU, hàng hóa cần vượt qua những rào cản về tiêu chuẩn. Hai vấn đề lớn nhất đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU là an toàn thực phẩm và chất lượng. Mặt hàng nông sản của chúng ta còn nhiều điều hạn chế, đặc biệt là vấn đề chất lượng. Bởi lẽ chất lượng chưa đạt theo yêu cầu của thị trường, nên thời gian qua, dù hàng nông sản xuất vào EU nhiều, nhưng bán giá chưa cao. Riêng đối với mặt hàng cà phê , nếu sản phẩm cà phê của khu vực Tây Nguyên đáp ứng đủ tiêu chuẩn thị trường nhập khẩu thì mỗi năm có thể thu về thêm vài trăm triệu USD. Hiện mặt hàng cà phê xuất khẩu của các tỉnh như Đắc Lắc, Kon Tum... vẫn còn theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Tiêu chuẩn này không xếp hạng theo hàm lượng ẩm, tỉ lệ hạt vỡ và tạp chất trong cà phê.
Tiêu chuẩn TCVN 4193:2005, áp dụng cho cà phê xuất khẩu theo tiêu chuẩn chất lượng thế giới, chưa được thực hiện; dự kiến từ niên vụ cà phê 2009 sẽ áp dụng bắt buộc. Để chất lượng hàng nông sản nâng lên, đòi hỏi mọi hoạt động sản xuất, chế biến và kinh doanh nông sản trong nước cần đổi mới, từ khâu trồng trọt, chăn nuôi đến tiêu thụ.
Châu Âu là một thị trường có sức tiêu thụ lớn nhưng người tiêu dùng lại rất khó tính. Để thu hút được người tiêu dùng hàng hóa không chỉ có chất lượng “ngon” mà còn phải “bổ” cả mắt. Bởi thế các doanh nghiệp cần chăm sóc sản phẩm từ khâu in ấn đến màu sắc của nhãn mác trên bao bì.
Đặc biệt là mặt hàng thực phẩm, doanh nghiệp phải cung cấp đầy đủ thông tin về nguồn gốc, thành phần, hàm lượng dinh dưỡng cũng như hướng dẫn sử dụng. Còn đối với những mặt hàng đồ dùng thì việc công bố các chỉ tiêu về các nguyên liệu sử dụng trong sản xuất và mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng là không thể thiếu.
Tiếp đó, ngôn ngữ cũng đóng vai trò quan trọng trong sự thành-bại của doanh nghiệp. Việc sử dụng ngôn ngữ địa phương để truyền đạt thông tin sẽ gây được ấn tượng sâu sắc và tạo niềm tin với người tiêu dùng.
Hàng nông sản Việt Nam không chỉ mới xuất khẩu dạng thô vào thị trường châu Âu mà thương hiệu cũng rất ít được biết đến. Người tiêu dùng chỉ biết tên tuổi của nhà làm ra sản phẩm chứ không quan tâm đến những thứ trong sản phẩm ấy xuất xứ từ đâu. Vì vậy, nếu chỉ mãi xuất khẩu sản phẩm thô sẽ không thể có được thương hiệu. Khi quyết định làm ăn tại thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xác định về năng lực kinh doanh của mình, chịu bỏ sức thực hiện hoạt động quảng bá tiếp cận thị trường và đổi mới hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, vì một khi thương hiệu đã có thì giá trị hàng hóa sẽ được nâng lên cao hơn.
CHƯƠNG III:PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÀ THÀNH PHỐ Ở NƯỚC TA
1. Phương hướng và mục tiêu xuất khẩu nông sản phẩm Việt Nam trong những năm tới
Nông sản xuất khẩu đặt mục tiêu 15 tỷ USD
Mục tiêu đến năm 2010 đạt 15 tỷ USD giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm - thủy sản. Đồng thời ngành cũng phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị nông nghiệp từ 4-4,5%/năm, GDP nông nghiệp tăng từ 3,3-3,5%/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn 7,5-8%/năm.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, với vị thế là một trong những nước xuất khẩu nhiều loại nông sản giá trị cao, bước sang giai đoạn hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, đây chính là thời cơ vàng đối với nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đầu gia nhập WTO. Bằng cách tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các thách thức, tác động tiêu cực, ngành nông nghiệp đặt ra mục tiêu tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh và bền vững.
Để đạt được mục tiêu đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của ngành nông nghiệp và đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa nông thôn.
Trong đó quan trọng là phải thay đổi nhận thức của nông dân về sản xuất sản phẩm an toàn và đáp ứng nhu cầu thị trường. Triển khai xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa lớn áp dụng IPM và GAP (cơ chế thực hành sản xuất tốt) đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Hoàn thiện quy trình kiểm soát chất lượng, vệ sinh hàng nông, thủy sản theo mô hình từ trang trại đến bàn ăn.
Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ ban hành các cơ chế chính sách nhằm đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư và hình thức đầu tư trong nước và nước ngoài; xây dựng Chương trình thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển và trực tiếp (ODA, FDI) để phục vụ xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nông nghiệp, nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất chất lượng cao phù hợp với các vùng sinh thái mang đặc tính riêng của Việt Nam, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng hàm lượng công nghệ trong sản xuất, chế biến, phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Theo thống kê, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong 5 năm qua đạt khoảng 113.000 tỷ đồng, song con số này mới chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu, chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư cả nước. Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 2,46% trong tổng vốn FDI của cả nước.
1.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của Nông sản phẩm của các địa phương và Thành phố
Trong những năm tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các địa phương và Thành phố đã đề ra phương hướng: “Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp, coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất; áp dụng công nghệ sinh học...”. Chính vì vậy, với ưu thế về khí hậu, nguồn tài nguyên đất đai, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, sản xuất nông sản đã trở thành tập quan canh tác của nông dân Việt Nam, và ngày càng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong sản xuất nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu. Mặc dù có nhiều ưu thế và đạt được những thành quả cao, nhưng thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu của nước ta nhiều năm qua cho thấy qui mô chưa lớn, vẫn mang tính chất của một nền sản xuất nhỏ, thị trường xuất khẩu chưa vững chắc. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu nông sản phẩm là hoàn toàn mang tính chất cấp thiết với nhiều lý do về chính trị - xã hội, văn hoá, kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế.
1. Nâng cao năng lực cạnh tranh - phát triển sản xuất và xuất khẩu nông sản góp phần cải biến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất theo hướng CNH- HĐH. Trước hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng xuất khẩu sẽ tạo ra một khu vực sản xuất ổn định, góp phần xoá đói giảm nghèo cho dân tộc miền núi và trung du (các vùng sâu vùng xa).
Thứ hai, khi năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản xuất khẩu được nâng cao lên sẽ làm hiệu quả kinh tế ngày càng cao, kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn, góp phần vào tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đảm bảo nguồn thu ngoại tệ ổn định cho nhập khẩu, phục CNH, HĐH đất nước. Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh còn là một vấn đề cần thiết nhằm cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Một đặc điểm đáng chú ý là muốn có được sản phẩm nông sản xuất khẩu hoàn hảo, phải cần đến nhiều công nghệ của những ngành khác liên quan như: Công nghệ sinh học, hoá học, cơ khí, thiết kế mỹ thuật... Chính vì vậy, khi năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu cao cũng là lúc đòi hỏi phải có sự đổi mới về công nghệ, về quản trị sản xuất và kinh doanh của những ngành khác.
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh – phát triển sản xuất và xuất khẩu nông sản chính là một cơ sở quan trọng để mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện được định hướng chiến lược về xuất khẩu nông sản, chúng ta cần có một hệ thống các giải pháp đồng bộ trên cả 3 phương diện: Nhà nước – Các địa phương ( Thành phố )– Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản.
1.Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước bằng việc: hoàn chỉnh hệ thống chính sách tổ chức sản xuất và quản lý xuất khẩu nông sản, đồng thời tạo cơ chế thuận lợi, phù hợp với các định chế quốc tế nhằm hỗ trợ về tài chính công nghiệp các doanh nghiệp.
Xây dựng và chú trọng bảo hộ thương hiệu quốc gia đối với nông sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên phương diện toàn quốc gia. Gắn chính sách lưu thông nội địa và hoạt động ngoại thương với sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá gắn liền với việc củng cố các thị trường đã có và xây dựng các thị trường mới. Thực hiện chủ trương hội nhập, tham gia vào cộng đồng quốc tế.
2. Đối với các địa phương và Thành phố, cần làm tốt công tác quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu, tổ chức phân công lại lao động, xây dựng chiến lược sản phẩm, chiến lược marketing, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, quản lý chặt chẽ chất lượng nông sản phẩm đồng thời tổ chức bảo vệ và quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam.
3. Đối với từng doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản, cần chú trọng đến sự ổn định của nguyên liệu đầu vào, cải tổ lại bộ máy quản lý doanh nghiệp, hệ thống thu mua, phân phối, dịch vụ sau bán hàng, đổi mới công nghệ, đa dạng sản phẩm, bao bì đóng gói đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng.
Chắc chắn rằng, các giải pháp trên sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Nâng cao tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và nâng cao đời sống của nhân dân trong những năm đầu thế kỷ mới.
Nhằm khắc phục từng bước những vấn đề còn đang tồn tại trong năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra nhóm nhiệm vụ cấp bách cần tập trung chỉ đạo trong năm 2008 để đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 13,5 tỷ USD. Theo đó, diện tích đất nông nghiệp trồng cây lương thực (lúa, ngô) sẽ tiếp tục giảm do chuyển đổi mục đích sử dụng nên công tác giống, chống sâu bệnh được đặt lên hàng đầu để sản lượng của 7,25 triệu ha lúa đạt 36-36,5 triệu tấn, sản lượng ngô đạt 5 triệu tấn. Các loại cây công nghiệp chủ lực (cà phê, cao su, chè, mía...) duy trì diện tích hiện tại, chỉ phát triển mới ở những khu vực có điều kiện thuận lợi, tập trung chủ yếu vào cải tạo, đưa các giống mới để cải thiện đáng kể năng suất, chất lượng. Diện tích các loại cây ăn quả đặc sản sẽ được mở rộng theo hướng xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, thực hiện quy trình sản xuất GAP với diện tích dự kiến khoảng 800.000ha.
Trên cơ sở nhận diện những thuận lợi và hạn chế sau một năm gia nhập WTO, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định tiếp tục xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có năng suất, chất lượng, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao gắn với hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu
Phương hướng chung trong chiến lược xuất khẩu của nông sản Việt Nam đến năm 2010 là đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững; khai thác cao nhất tiềm năng, lợi thế về nguyên liệu sẵn có; đầu tư, đổi mới công nghệ chế biến hiện đại; mở rộng khả năng tiếp thị, hội nhập và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu bình quân hơn 21%/năm ; giá trị kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt khoảng 15 tỷ USD. Tất nhiên, các mặt hàng hải sản và các nông sản lợi thế của các địa phương và Thành phố vẫn giữ vai trò chủ lực.
Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng. Quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu nông sản của các thị trường xuất khẩu chủ lực. Từ đó có những cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể để phát triển, điều chỉnh cơ cấu chủng loại nông sản xuất khẩu. Xây dựng và phát triển một số trung tâm thương mại, trung tâm thông tin, trung tâm kiểm tra chất lượng để cung cấp các thông tin về: kỹ thuật sản xuất, chế biến, bảo quản, đối tác thương mại và đầu tư, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm và chính họ cũng là đầu mối tiến hành các thương vụ buôn bán thuỷ sản trong nước cũng như xuất khẩu.
Xây dựng và phát triển hệ thống phân phối nông sản, tạo sự gắn bó giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước.Khảo sát, đánh giá và phân loại khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp xuất khẩu và quy hoạch lại hệ thống cơ sở sản xuất, bảo quản... Tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh nông sản, gắn sản xuất với thị trường, bên cạnh các cơ sở sản xuất có các xí nghiệp cung ứng, dịch vụ.
1.3. Chuyển hướng xuất khẩu theo cam kết WTO
Gia nhập WTO tạo ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, ông Trương Đình Tuyển - Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại đã nói, cơ hội là có thực nhưng không phải cứ vào WTO là có thể phát triển ngay. Vấn đề là làm sao phải biến cơ hội thành lực lượng mà điều đó phục thuộc rất nhiều vào chính chúng ta.
Đối với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản vốn là thế mạnh của Việt Nam thì việc chuyển đổi cơ cấu chủ yếu là nâng cao hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Muốn thế, cần có chính sách để quy hoạch lại nuôi trồng với quy mô lớn và năng suất cao, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất. Đầu tư chế biến hợp tiêu chuẩn và tạo mối liên kết giữa sản xuất - chế biến và xuất khẩu trên cả 3 nhóm nông - lâm và thủy sản.
1.4. Ba yêu cầu cho sản xuất và xuất khâu nông sản năm 2008
Trong sản xuất và xuất khẩu nông sản cần phải chú ý đáp ứng 3 yêu cầu:
+Góp phần quan trọng để ổn định mặt bằng giá lương thực đồng thời đảm bảo nông dân vẫn có lãi;
+Đảm bảo giữ vững an ninh lương thực cho đất nước trong mọi tình huống, không để xảy ra tình trạng mất cân đối cục bộ;
+Phải có biện pháp tiêu thụ được hết lúa hàng hóa của nông dân, không để nông dân bị thiệt thòi do rớt giá.
Đồng thời nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong năm 2008, chỉ xuất khẩu tối đa 3,5 - 4 triệu tấn gạo. Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu chưa ký thêm các hợp đồng mới và chỉ ký hợp đồng theo từng quý (quý III và quý IV), đồng thời cần nghiên cứu kỹ dự báo thị trường trước khi ký hợp đồng, tránh những bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu và đảm bảo có lợi cho nông dân.
Thủy sản- lĩnh vực được nhận định còn nhiều tiềm năng phát triển và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Do đó cần tháo gỡ những vướng mắc để phát triển sản xuất và xuất khẩu. Cụ thể, hướng dẫn các địa phương phát triển sản xuất thủy sản theo đúng quy hoạch để phát triển bền vững; tập trung sản xuất các loại giống có chất lượng tốt, đủ cung cấp cho người nuôi trên tất cả các loại hình mặt nước, yêu cầu tổng cục Hải quan tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, trước hết là cải tiến các thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục tạm nhập tái xuất nguyên liệu chế biến thủy sản.
2. Định hướng phát triển xuất khẩu Nông sản phẩm của các địa phương và Thành phố
Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, rau quả và cây công nghiệp đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Liên tục trong nhiều năm, nông nghiệp đạt mức tăng trưởng trên 4,5%/năm. Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thị trường nội địa, xuất khẩu nông sản cũng tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch. Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khách hàng tiêu thụ truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Tuy nhiên, trong cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hoá, tỷ trọng trị giá hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm vị trí khiêm tốn và có xu hướng giảm. Điều đáng quan tâm là sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp kém, do vậy hiệu quả xuất khẩu chưa cao, chưa tạo được thế đứng vững chắn trên thị trường quốc tế.
Lâu nay, xuất khẩu nông sản của các địa phương và thành phố chủ yếu phát triển theo số lượng trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng hơn mặt chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho xuất khẩu nông sản của chúng ta tương xứng cới tiềm năng vốn có, chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khác nhau, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Việc hình thành một chiến lược phát triển có luận cứ khoa học được coi là điều kiện tiền đề để áp dụng các thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chiến lược phát triển xuất khẩu nông sản trong điều kiện kinh tế thị trường phải xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí. Điều này hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến lược: dựa vào cơ sở khả năng để hoạch định phương hướng sản xuất. Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng công tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo từng khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường và củng cố vị thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển xuất khẩu nông sản phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược này phải được sử dụng như một trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước định hướng phát triển sinh học và xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định hướng đó.
Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ. Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp trong những năm qua có phần đóng góp quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển xuất khẩu nông sản phẩm , trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái cừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản, đảm bảo đưa đến người tiêu dùnng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Phát triển công nghiệp chế biến là cách nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô, đồng thời tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là:
- Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu. Từ đó tập trung tập trung đầu tư thâm canh, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu.
- Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song 2 hướng: đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại.
- Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất nguyên liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện điều đã cam kết. Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu
- Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông sản. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có đầy đủ thông tin hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường thì họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất của mình theo yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt yếu của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn hiện nay. Do vậy, họ dễ bị điều tiết một cách tự phát bởi các quan hệ thị trường, dễ bị thua thiệt trong hành xử trên thị trường. Công tác khuyến nông, khuyến thương cần đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức cơ bản về thị trường và nâng cao năng lực thị trường của các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
- Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng hoá, trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng. Đây vừa là cách thức thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của ngưới sản xuất trong cạnh tranh quốc tế.
- Tạo điều kiện công nghiệp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp hành động giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác nhau trên cùng một thị trường và cùng một loại hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nông sản thông qua việc tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, quảng bá hàng hoá và doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch nông sản ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung…
Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản. So với một số nước Đông Nam Á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi thế hơn chúng ta ở trình độ khoa học công nghệ và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả của xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao;
- Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế;
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn.
- Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong thực hiện hoạt động xuất khẩu nông sản;
- Hình thành các hiệp hội theo ngành hàng để phối hợp hành động trên thị trường quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong công tác định hướng phát triển xuất khẩu nông sản bằng chương trình xuất khẩu “ Hướng tới xuất khẩu nông sản phẩm ứng dụng công nghệ khoa hoc kỹ thuật, có hiệu quả kinh tế cao”.Theo đó,các mặt hàng nông - lâm - thủy sản được xem là trọng tâm xuất khẩu gồm: thủy hải sản, cà phê, gạo, rau quả, cao su, tiêu, chè, hạt điều, thực phẩm chế biến..., việc xuất khẩu hiện có xu hướng giảm dần do hạn chế về nguồn nguyên liệu, thị trường đòi hỏi chất lượng cao, vì vậy cần gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.
Về mặt hàng chế biến thuỷ sản, dự kiến đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 759 triệu USD (năm 2007 đạt 576,37 triệu USD). Hiện nay, do không còn lợi thế về nguồn cung cấp nguyên liệu và khó khăn trong vấn đề xử lý môi trường, đối với mặt hàng chế biến thuỷ sản,vì thế nên thành phố khuyến khích DN đầu tư phát triển theo chiều sâu bằng thiết bị và công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, chú trọng sản xuất những sản phẩm tinh chế có giá trị gia tăng cao. Từ nay đến năm 2010, Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Phi, Trung Quốc và Nam Mỹ vẫn là những thị trường nhập khẩu chính mặt hàng này.
3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Nông sản phẩm của các địa phương và Thành phố trong những năm tới
3.1. Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo của các cán bộ địa phương, nhằm quản lý có hiệu quả các chương trình và dự án của Nhà nước
Ðẩy mạnh quá trình chuyển đổi, tích tụ ruộng đất, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX và kinh tế trang trại để tạo điều kiện thích hợp cho việc đẩy mạnh CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục thực hiện các chương trình nâng cao năng suất đất đai, sử dụng hợp lý nguồn nước, áp dụng các mô hình sản xuất kết hợp nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái của từng vùng nhằm sử dụng tổng hợp và có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn đầu tư và lao động như: chương trình an ninh lương thực, thực phẩm, chương trình lúa chất lượng cao, chương trình ba giảm, ba tăng, chương trình khuyến nông... Mở rộng sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp sạch, chú trọng khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm tạo niềm tin cho người tiêu dùng vào mức độ vệ sinh, an toàn của nông sản, thực phẩm khi sử dụng. Phối hợp, đề xuất với các ngành chức năng trong việc thúc đẩy công nghiệp chế biến các sản phẩm chăn nuôi và các sản phẩm rau quả để thúc đẩy ngành chăn nuôi và ngành sản xuất rau quả phát triển nhanh, bền vững. Ða dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn nhằm tạo thêm việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập, phân công lại lao động nông thôn và tạo điều kiện cho việc định canh ổn định, giảm bớt sức ép di dân từ nông thôn ra thành thị. Nghiên cứu để hình thành mạng lưới làm công tác tư vấn, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển ngành nghề và các làng nghề truyền thống ở nông thôn, hạn chế khả năng gây ô nhiễm. Hỗ trợ nhân dân trồng và bảo vệ rừng, sử dụng có hiệu quả đất rừng được giao khoán. Khuyến khích cải thiện đời sống thông qua sử dụng bền vững rừng và quản lý theo các nhóm cộng đồng dân cư. Trao các hợp đồng bảo vệ rừng cho các cá nhân, hộ gia đình, các nhóm cộng đồng dân cư để bảo đảm công tác bảo vệ và quản lý phù hợp các khu rừng phòng hộ ven biển; tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững các khu rừng đặc dụng do Nhà nước quản lý và các vườn chim tư nhân để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học.
Áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp (nông học, hóa học, cơ học...) và đầu tư thâm canh sử dụng đất theo chiều sâu. Phổ cập các mô hình canh tác hợp lý (lúa - màu; lúa - cá, tôm; rừng - tôm; tôm - rừng...) để thực hiện tuần hoàn hữu cơ trong đất; thực hiện quản lý tốt lưu vực để bảo vệ đất và nước, phát triển hệ thống thủy lợi, giữ cân bằng sinh thái và điều hòa các tác động lẫn nhau giữa ba tiểu vùng sinh thái trong tỉnh và các tỉnh trong khu vực bán đảo Cà Mau. Nghiên cứu và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học về giống mới có năng suất, chất lượng và sức chống chịu sâu bệnh cao, không bị thoái hóa, không làm tổn hại đến tính đa dạng sinh học. Mở rộng việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ, thực hiện phổ cập quy trình phòng trừ tổng hợp (IPM) trong sản xuất lúa, rau màu, cây ăn trái... và quy trình ba giảm, ba tăng trong sản xuất lúa. Khuyến khích nông dân sử dụng phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, phân bón phân giải chậm phục vụ phát triển nền nông nghiệp sinh thái. Bảo tồn nguồn gien giống cây trồng, vật nuôi của địa phương. Ðẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến để bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản. Nghiên cứu, áp dụng các giải pháp kỹ thuật phòng và chống cháy rừng và các thảm họa môi trường liên quan việc mất rừng (xói lở bờ biển, triều cường, xâm nhập mặn...); khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng các tri thức bản địa trong việc sử dụng và bảo tồn đa dạng sinh học; thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững trong nông nghiệp, nông thôn.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nông sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của Nông sản các tỉnh và Thành phố
Nước ta đang đứng trước những thách thức là tốc độ đô thị hóa tại khu vực và trên thế giới ngày càng tăng, thu nhập của nhân dân các nước cũng ngày càng tăng dẫn đến khẩu phần gạo trong bữa ăn giảm ( làm cho xuất khẩu lương thực không tăng mạnh như hiện nay). Trên thị trường, mặt hàng lương thực, thực phẩm chuyển vào các siêu thị sẽ tăng mạnh. Việc bày bán lương thực, thực phẩm tại các chợ nhỏ lẻ sẽ bị thu hẹp. Hệ thống sản xuất lương thực trên thế giới cũng không còn nhỏ lẻ. Điều này không phù hợp với tập quán sản xuất và hệ thống phân phối ở nước ta hiện nay là vẫn còn sản xuất manh mún.
Phần lớn các doanh nghiệp thích mua hàng trôi nổi, tìm nơi bán rẻ nhất thì mua. Nông dân thích bán hàng cho thương lái hơn là cho doanh nghiệp. Giữa nông dân và doanh nghiệp còn ít gắn bó, thậm chí mất lòng tin với nhau. Thị trường thế giới hiện nay cần hàng hóa chất lượng cao, đồng nhất, khối lượng lớn, giao hàng cùng một thời điểm với giá cả cạnh tranh. Đây là những yêu cầu mà ta chưa đáp ứng tốt. Trong quá trình hội nhập với thế giới, nhiều qui định và điều lệ mới về đăng ký gia nhập và kiểm soát sản phẩm sẽ được áp dụng trong khi nông dân ta chưa sẵn sàng. Ngoài ra, nông dân nước ta còn phải đối phó với qui định tự do mậu dịch...
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hợp tác hóa trong nông nghiệp; thay đổi mạnh hơn hệ thống sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, thâm canh với qui mô ngày càng lớn hơn. Chính sách cần có là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nông dân, giúp nông dân tham gia vào hệ thống sản xuất lớn. Cái tối cần thiết hiện nay là hiện đại hóa nông nghiệp trong khuôn khổ phát triển nông thôn mới để nông dân đủ điều kiện sản xuất hàng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Nhà nước cần ban hành chính sách về an toàn thực phẩm; mở rộng sản xuất nông thủy sản sạch; mở rộng hợp tác trong khu vực để củng cố tính cạnh tranh của nông sản. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long cần phát huy thế mạnh các cây trồng đặc sản triển vọng như: xoài, bưởi, vú sữa, sầu riêng, cam... các loại cây gia vị, các loại tôm, cá nước ngọt, lợ, mặn. Nhà nước cần quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung gắn với tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, nhằm từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong thời gian tới.
3.2.1. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Đắc Lắc
Ðắc Lắc đã đề ra các giải pháp xuất khẩu tập trung vào những mặt hàng thế mạnh của địa phương, đẩy mạnh quảng bá những sản phẩm có giá trị cao thông qua các hội chợ. Mặt hàng cà-phê chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, năm nay dự kiến xuất 300 nghìn tấn sang các thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Singapore... và các nước khác. Mật ong, mặt hàng cũng đang dần có uy tín với thế giới, Ðắc Lắc xuất khẩu 5.000 tấn, chủ yếu sang thị trường Mỹ, Ðức, Hồng Công. Cao-su trong năm qua đã mang lại kim ngạch xuất khẩu đứng vào hàng thứ hai của tỉnh; năm nay, dự kiến xuất khẩu từ 16 đến 18 nghìn tấn. Thời gian qua, các ngành chức năng trong tỉnh đã tổ chức, tham gia nhiều cuộc hội trợ, triển lãm trong và ngoài nước nhằm quảng bá sản phẩm trong tỉnh. Những hoạt động này giúp Ðắc Lắc có nhiều bạn hàng, đẩy nhanh xuất khẩu. Ngoài ra UBND tỉnh còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hợp tác kinh tế quốc tế, xúc tiến thương mại và động viên, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu. Ðắc Lắc tiếp tục sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao tính kinh doanh trong các mặt hàng xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp đủ mạnh để nâng cao chất lượng mặt hàng, đủ vốn để mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại với các đối tác nước ngoài. Củng cố hệ thống thu mua, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo của mình trong lĩnh vực xuất khẩu. Tổ chức triển khai chương trình phát triển xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nay đến năm 2010, Ðắc Lắc tiến hành khảo sát, đánh giá khả năng cạnh tranh của các nhóm mặt hàng có lợi thế nhằm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hỗ trợ xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu để các doanh nghiệp này đủ sức vươn lên, tập trung vào những mặt hàng cà-phê, hồ tiêu, tinh bột sắn, gỗ... chú trọng xây dựng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa. Ðắc Lắc quan tâm đào tạo một đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ trong xuất khẩu, trước hết là tập huấn cho các doanh nghiệp về giao dịch, khảo sát thị trường, để đẩy nhanh công tác xúc tiến thương mại. Với những giải pháp cụ thể, hàng hóa nông sản ở Ðắc Lắc sẽ có mặt ngày càng nhiều trên thị trường thế giới.
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nông sản thông qua xây dựng các chỉ dẫn địa lý, nhằm nâng cao giá trị kinh tế cho sản phẩm gạo Tám Nam Định
VN là một nước nông nghiệp truyền thống, và nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản VN đang là vấn đề vướng mắc chưa tìm được giải pháp tháo gỡ. Việc bảo hộ và khai thác chỉ dẫn địa lý cho nông sản được coi là một hướng đi hiệu quả nhằm nâng cao cạnh tranh cho sản phẩm, nâng cao giá trị kinh tế - xã hôi, đồng thời giúp phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn vùng sản xuất sản phẩm. Tại VN, trong thời gian qua, một số địa phương, tổ chức cũng đã triển khai các hoạt động xây dựng, quản lý chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm và đã thu được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ dẫn địa lý như một công cụ bình ổn chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản VN còn nhiều hạn chế.
Hiệu quả từ xây dựng chỉ dẫn địa lý
Huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là nơi nổi tiếng từ lâu với sản phẩm gạo Tám xoan. Gạo Tám được trồng ở vùng này có hạt trắng, cơm dẻo, mùi thơm và luôn được người tiêu dùng trên cả nước ưa chuộng. Mặc dù đặc sản Tám xoan đã đưa Hải Hậu trở thành địa danh nổi tiếng, nhưng thời gian qua, người dân địa phương lại không mặn mà và tâm huyết với việc trồng và kinh doanh sản phẩm này, diện tích trồng lúa Tám xoan chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng diện tích lúa của cả huyện. Nguyên nhân chủ yếu là người nông dân sản xuất đặc sản này không có lãi bằng các giống lúa mới cho năng suất cao như Tám tiêu, Tám ngố và cả Bắc hương của Trung Quốc.
Đứng trước đòi hỏi cần phải bảo tồn, phát triển giống lúa Tám xoan, phát triển kinh tế - xã hội thông qua cây trồng này, hàng loạt biện pháp nhằm bình ổn và nâng cao chất lượng cho sản phẩm, hỗ trợ nông dân về kỹ thuật, giống, vốn, tiêu thụ sản phẩm, góp phần bảo tồn, phát triển giống lúa Tám xoan cổ truyền đã được triển khai. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định đã phối hợp với Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp VN xây dựng, chuẩn hóa và hỗ trợ bà con áp dụng mô hình quản lý sản phẩm cho tất cả các giai đoạn từ gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch cho đến các hoạt động thu mua, chế biến, đóng gói, tiếp thị, tiêu thụ.
Song song với việc xây dựng hệ thống quản lý canh tác và thương mại cho sản phẩm, ngày 8/6/2006, Hiệp hội Gạo Tám xoan Hải Hậu đã có đơn gửi Cục SHTT đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ''Hải Hậu'' cho sản phẩm gạo Tám xoan. Ngày 31/5/2007 vừa qua, chỉ dẫn địa lý ''Hải Hậu'' cho sản phẩm gạo Tám xoan đã chính thức được Cục SHTT công nhận bảo hộ.
Với việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý, giá trị kinh tế của sản phẩm gạo Tám xoan mang chỉ dẫn địa lý ''Hải Hậu'' đã được nâng lên đáng kể: những hộ nông dân trước đây canh tác lúa tám quy mô nhỏ đã gia nhập vào Hiệp hội, cùng tiến hành việc canh tác, chế biến lúa tám theo 1 quy trình chuẩn. Người dân được hỗ trợ, hướng dẫn về kỹ thuật; sản phẩm được tiêu thụ theo kênh thị trường riêng, do đó, giá bán gạo cao hơn giá bán theo kênh phân phối tự do từ 800 - 1.000 đ/kg... Nhờ đó, các giống lúa tám truyền thống được bảo tồn và phát triển. Hiện nay, chỉ có duy nhất sản phẩm gạo Tám xoan mang chỉ dẫn địa lý ''Hải Hậu'' của Hiệp hội là tuân thủ các quy định của tên gọi xuất xứ. Có thể nói gạo Tám xoan là sản phẩm đầu tiên của nông nghiệp VN thực hiện xây dựng tên gọi xuất xứ theo thể thức mới, đặc biệt là xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất, chế biến và thương mại.
3.3. Giải pháp về thị trường xuất khẩu
Khi Việt Nam hòa nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì việc xuất khẩu hàng nông sản sẽ không giản đơn như lâu nay chúng ta vẫn làm. Xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động lớn của các cuộc thương lượng mậu dịch mang tầm quốc tế. Việc nông sản Việt Nam phải cạnh tranh với các sản phẩm nông nghiệp của các nước thành viên của WTO cả ở thị trường trong và ngoài nước là điều không phải bàn cãi. Sản xuất nông nghiệp vẫn lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao và nhất là sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến sẽ là những thách thức rất lớn của nông sản Việt Nam. Theo cam kết gia nhập WTO, mức thuế nông nghiệp bình quân của Việt Nam sẽ là 21% và lộ trình cắt giảm từ 3 - 7 năm (tùy từng nhóm hàng). Điều đáng chú ý là trong quá trình sản xuất, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam phải có chứng chỉ an toàn để chứng minh mặt hàng này luôn đảm bảo an toàn vệ sinh, chẳng hạn như chứng chỉ xác định nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không thuộc loại cây biến đổi gen), chứng chỉ báo cáo chất lượng (hàm lượng protein, chống oxy hóa...).Cách tiếp cận thị trường nước ngoài của hàng nông sản Việt Nam từ trước đến nay vẫn theo kiểu truyền thống là chủ yếu, chưa có được những quy trình kiểm định nghiêm ngặt. Tuy nhiên, xét trên bình diện bền vững thì chính những thách thức hôm nay, là cơ hội cho chúng ta khẳng định mình trong tương lai. Những người có trách nhiệm liên quan đến việc sản xuất, chế biến cũng như xuất khẩu ngành hàng này sẽ phải vận hành công việc của mình bằng tư duy của thời hội nhập.
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm qua đã được mở rộng đáng kể. Ngoài các thị trường truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga, các nước Đông Âu, hàng hóa nông sản Việt Nam bước đầu đã thâm nhập vào những thị trường đầy tiềm năng và cũng rất khó tính như EU, Mỹ... Các chuyên gia kinh tế nhận định, nếu chúng ta biết khẳng định thương hiệu trên thị trường truyền thống và “đột phá vùng đất mới”, thì xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ gặt hái được những thành công đáng kể.
Theo dự báo, trong những năm tới, các thị trường nhập khẩu nông sản của Việt Nam đều có khả năng tăng kim ngạch nhập khẩu. Theo đó, đối với thị trường Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ tăng từ 400 - 500 triệu USD/năm hiện nay lên 700 - 800 triệu USD/năm, gồm các mặt hàng chủ yếu là cao su, hạt điều, tinh bột sắn. Đối với thị trường Mỹ, hiện nay, kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm sản của chúng ta mới chiếm khoảng 0,4 -0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu nông, lâm sản của nước này. Đây thực sự là một con số khiêm tốn so với tiềm năng hiện có của ngành nông sản Việt Nam cũng như nhu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Sỡ dĩ khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của hàng nông sản Việt Nam còn hạn chế, chính là do năng lực cạnh tranh kém, vấn đề này cần được nhanh chóng giải quyết nếu không, hàng nông sản của chúng ta không thể thâm nhập vào những thị trường lớn mất đi những hợp đồng lớn. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các nước thuộc khối ASEAN vẫn luôn phập phù, dao động từ 400 - 900 triệu USD/năm với mặt hàng chủ yếu là gạo. Theo dự báo, Hiệp định AFTA sẽ tạo cơ hội để nước ta xuất khẩu cà phê, vật tư, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến sang khu vực này.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cả một quá trình lâu dài, ở đó cơ hội và thách thức luôn song hành với nhau. Không có con đường nào khác, nếu muốn thâm nhập thị trường quốc tế, hàng nông sản Việt Nam phải khẳng định được khả năng cạnh tranh của mình. Trách nhiệm đó không chỉ phó thác cho những nhà sản xuất, nhà chế biến, mà còn cả những cơ quan hoạch định chiến lược quốc gia.
Để cùng cả nước hướng tới mục tiêu 7-8 tỷ USD xuất khẩu nông sản, Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu Nông sản như:
- Đẩy mạnh việc triển khai các chương trình giống, công nghệ sinh học, cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới thiết bị, công nghệ sau thu hoạch tăng tỷ lệ nông sản chế biến và giá trị gia tăng.
- Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại nông sản: đường giao thông, hệ thống chợ bán buôn, trung tâm giới thiệu hàng hoá...
- Phát triển hệ thống thông tin thị trường nông sản.
- Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại: tổ chức các triển lãm, hội chợ trong nước và ngoài nước, các cuộc thi sản phẩm vv... Hướng dẫn các doanh nghiệp về thương mại điện tử, xây dựng các trang web về nông sản.
- Lập Hiệp hội ngành hàng .
- Mở rộng hợp tác song phương, đa phương, đàm phán mở thị trường cho các hoạt động xuất nhập khẩu.
3.4. Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học vào thực tiễn, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp trình độ cao
Xây dựng các đề án phát triển nông nghiệp trình độ cao, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao chất lượng Nông sản phẩm, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản, thực phẩm:
- Công nghệ sơ chế: Đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng công nghệ trong sơ chế, phân loại, làm sạch, đóng gói với những loại bao bì thích hợp, màng thông minh nhằm tạo ra các nông phẩm chất lượng cao, ổn định và đồng nhất phục vụ xuất khẩu và nhu cầu trong nước. Tập trung giải quyết các công nghệ có quy mô nhỏ và vừa phục vụ yêu cầu sơ chế tại chỗ của các hộ, nhóm hộ, nhằm cung cấp nguyên liệu có chất lượng tốt cho các cơ sở chế biến tập trung.
- Công nghệ bảo quản: Chú trọng phổ cập các công nghệ làm khô lúa và hoa màu sau thu hoạch. Tiếp thu và phổ cập các công nghệ bảo quản lạnh, công nghệ an toàn thực phẩm để bảo quản rau, hoa, quả tươi, các mặt hàng thủy sản, các sản phẩm chăn nuôi phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Nghiên cứu sử dụng chất bảo quản sinh học, chất bảo quản có nguồn gốc tự nhiên, từng bước thay thế chất bảo quản hóa học có tính độc cao.
- Công nghệ chế biến: Tận dụng mọi khả năng để tiếp cận các công nghệ chế biến tiên tiến phù hợp để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong, ngoài nước. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cấp, hiện đại hóa công nghệ chế biến đối với một số sản phẩm có lợi thế và có triển vọng xuất khẩu của nước ta như: gạo, thủy sản, cà phê, chè, điều, cao su, sản phẩm thịt, sữa, rau, quả, nước quả, dầu thực vật v.v...
- Hiện đại hóa hệ thống kiểm tra chất lượng nông sản, thực phẩm chế biến theo công nghệ tương hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng hàng xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước.
Những công nghệ nêu trên có thể được nâng cấp theo các phương thức sau:
- Đối với dây chuyền công nghệ tương đối phức tạp, vượt quá khả năng tự tạo trong nước, cần làm tốt khâu lựa chọn, tiếp nhận và làm chủ công nghệ nhập từ ngoài.
- Đối với những công nghệ không quá phức tạp, có nhu cầu lớn trong nước, cần liên kết lực lượng trong nước, tập trung giải quyết đồng bộ từ nghiên cứu đến phát triển để có công nghệ ổn định, giá cả hợp lý, có thể sớm phổ biến và nhân rộng trong thực tiễn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10032.doc