Chuyên đề Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn Hải Phòng đến năm 2010

Chuyên đề: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng đến năm 2010” đề cập đến nội dung chủ yếu sau: - Hệ thống hoá và làm rõ những vẫn đề lý luận cơ bản vê kinh tế trang trại; như khái niệm, nhưng đặc trưng và tiêu chí nhận dạng trang trại, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế trang trại. - Khái quát tình hình phát triển trang trại ở Việt nam trong những năm qua. Từ nó nêu ra những mặt được và mặt hạn chế, tồn tại hiện nay đối với kinh tế trang trại nói chung. - Phân tích đặc điểm tự nhiên (Vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, thuỷ văn), đặc điểm kinh tế – xã hội (phát triển kinh tế của Hải Phòng, phong tục tập quán Hải Phòng) có ảnh hưởng tới phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn Hải Phòng đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ - 6757,4 48,1 4665,0 48,55 Nguồn: cục thống kê thành phố Hải Phòng Qua bản cơ cấu kinh tế của thành phố ta có thể thấy được giá trị công nghiệp – xây dựng và dịch vụ có giá trị lớn và tăng trưởng qua các năm, nó chiếm 1 tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinhtế của thành phố. Ngành nông – lâm – thuỷ sản: giá trị co tăng, nhưng tỷ trọng của nó trong toàn bộ ngành kinh tế lại giảm (nếu như năm 2005 chiếm 11,5% thì đến năm 2006 là 10,6%) Chỉ tiêu nông – lâm – thuỷ sản (2006) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 2006/2005 1. Nông nghiệp (tỷ đồng) + Giá trị trồng trọt 1446,5 1483 102,5% + Giá trị dịch vụ 765,90 812,0 106,0% + Giá trị dịch vụ 55,3 60,5 109,4% 2. Lâm nghiệp + Giá trị sản xuất (tỷ đồng) 25,9 24,0 92,7% 3. Thuỷ sản (tỷ đồng) 699,4 798,0 114,1% + GTSX nuôi trồng (tỷ đồng) 312,3 320,0 102,5% + Giá trị khai thác (tỷ đồng) 387,1 478,0 123,5% + Sản lượng thuỷ sản khai thác (tấn) 35279,0 34450 97,7% + Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng (tấn) 34.954,0 38,195,0 109,3% Nguồn: Cục thống kê thành phố Hải Phòng Trong ngành nông- lâm - thuỷ sản thì giá trịn nông nghiệp là cao nhất. Giá trị trồng trọt trong nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn về mặt giá trị (năm 2006 1483 tỷ đồng). Ngành lâm nghiệp có giá trị sản xuất nhỏ nhất (24tỷ đồng) đứng vị trí thứ 2 trong cơ cấu nông - lâm - thuỷ sản là: Ngành thủy sản, giá trị sản xuất thủy sản 798tỷ đồng (2006) với sản lượng khai thác là 34450tấn (giảm 0,23% so với năm 2005). Mặc dù giá trị mà nó đem lại cũng khá cao, song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của vùng, với nhiều bãi biển, sông ngòi, vực … 2.2. Phong tục tập quán và nhân văn ở Hải Phòng. - Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại. Người dân Hải Phòng nổi tiếng với tinh thần lao động hăng say và rất chịu khó học hỏi để không ngừng tiến bộ. Đặc biệt là những hộ nông dân, phần lớn họ đều gắn với đồng ruộng đều có ý chí làm giầu trên chính những mảnh đất quê nhà. Nhờ vậy, nhiều hộ đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu sản xuất áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư tiền vốn, lao động. Đây chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố. Nhiều mô hình trang trại đã không ngừng đạt hiệu quả cao trong kinh doanh mang lại thu nhập lớn và giải quyết việc làm cho người lao động. Các chủ trang trại ở Hải Phòng luôn có tinh thân học hỏi và trao đổi kinh nghiệm, tiếp thu kiến thức. Đây chính là điều kiện thuận lợi để hình thành mối liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm giữa các chủ trang trại với nhau. Bên cạnh mặt tích cực, các chủ trang trại còn bị giới hạn bởi tâm lý người sản xuất nhỏ, chưa mạnh dạn đầu tư vốn lớn. Các chủ trang trại chủ yếu là dựa vào phương châm: lấy ngắn nuôi dài , sản xuất chủ yếu dựa trên kinh nghiệm nên quy mô có bó hẹp. Nhiều chủ trang trại vẫn giữa lối canh tác truyền thống . Do vậy, hậu quả kinh tế chưa cao, chưa xứng với tiềm năng của vùng. II. Thực trạng phát triển kinh tế kinh tế trên địa bàn Hải Phòng 1. Về số lượng trang trại Theo tiêu chí quy định, toàn thành phố có 1418 trang trại (2006). Trong đó có 50 trang trại trồng trọt (3,5%); trang trại lâm nghiệp có 7 trang trại (0,5%); trang trại chăn nuôi có 584 trang trại (41,2%), trang trại nuôi trồng thuỷ sản là 605 trang trại (42,7%); trang trại kinh doanh tổng hợp là 172 trang trại (12,2%). Qua đó ta có thể thấy được mức phân hoá về cơ cấu giữa các trang trại: chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại hình trang trại: trang trại chăn nuôi và trang trại nuôi trồng thuỷ sản; thấp nhất là trang trại lâm nghiệp và trang trại trồng trọt. Bảng tổng hợp kinh tế trang trại Hải Phòng năm 2006 TT Huyện, quận, thị xã Trang trại trồng trọt Trang trại chăn nuôi Trang trại nuôi trồng thuỷ sản Trang trại kinh doanh tổng hợp Tổng cộng Trang trại lâm nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Vĩnh Bảo 15 58 19 19 112 1 2 Tiên Lãng 12 35 116 20 183 3 An Lão 4 15 11 10 40 4 Kiến Thuỵ 8 394 45 104 551 5 An Hải 77 77 6 Thuỷ Nguyên 24 57 3 84 7 Cát Hải 1 57 246 8 Đồ Sơn 245 1 9 Kiến An 5 1 11 36 6 10 Lê Chân 5 14 9 11 An Dương 5 53 4 5 79 Tổng số 50 584 16 172 1418 7 Tỷ lệ (%) 3,5% 41,2% 605 42,7% 12,2% 100% 0,3% Nguồn: sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hải Phòng 2. Quy mô sản xuất của trang trại Bảng 2: Bảng phân loại trang trại theo quy mô đất đai bình quân Diện tích bình quân/trang trại Số trang trại Tỷ lệ (%) <2 ha 624 44 2 – 4 ha 363 25,6 4 – 10 ha 170 12 Trên 10 ha 261 30,4 Tổng số 1418 100 Nguồn: Sở nông nghiệp – phát triển nôngthôn Hải Phòng (2006) a. Trang trại trồng trọt: Với tổng số 50 trang trại nhận thuê thầu bình quân 1 trang trại là 5,25 ha. 2.3. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản có 605 trang trại với tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 3903,05 ha (2006), bình quân một trang trại có 6,45 ha. Như vậy mặt nước bình quân mà trang trại thuỷ sản là không quá lớn ( so với năm 2002 là: 16,25 ha/ trang trại) điều đó cho thấy các trang trại đã và đang từng bước đi vào bán thâm canh và thâm canh trong sản xuất đ hiệu quả kinh tế sẽ được nâng cao hơn. 2.4. Trang trại chăn nuôi có 584 trang trại Trang trại chăn nuôi lợn sinh sản: bình quân 74 con nái/ 1 trang trại Trang trại có quy mô lớn nhất là 300 con. Trang trại chăn nuôi lợn thịt siêu nạc bình quân 1 trang trại 210 con. Trang trại gà công nghiệp, mỗi trang trại là 2150 con. Trang trại bò 50 con. Về số lượng: trang trại chăn nuôi có số trang trại đứng thứ 2 sau trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Điều đó cho thấy rằng: trang trại chăn nuôi ở Hải Phòng cũng khá là phát triển, nhưng chưa đa dạng hoá các loại hình chăn nuôi… hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao, chưa khai thác hết được tiềm năng lợi thế hiện có. 2.5. Trang trại khác Đều có điểm chung là sử dụng ít diện tích, nhưng có giá trị sản xuất hàng hoá và dịch vụ lớn. Quy mô diện tích sử dụng bình quân của một trang trại ằ 0,3 ha. VD: trang trại trồng cây cảnh, nuôi cá sấu… 3. Lao động của kinh tế trang trại - Lực lượng lao động của trang trại chủ yếu là lao động gia đình, các trang trại còn sử dụng một bộ phận lao động thuê thường xuyên và lao động thuê thời vụ; do quy mô sản xuất của mỗi trang trại nên mức độ thuê lao động có khác nhau. Đa số các trang trại có số lượng lao động thuê thường xuyên từ 3 - 5 người. - Trình độ tay nghề của lao động trong các trang trại chủ yếu là lao động phổ thông – giản đơn, chưa qua đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn. * Các chủ trang trại - Đa số các chủ trang trại xuất thân từ hộ nông dân. Một số chủ trang trại đã qua đào tạo sơ, trung cấp và một vài chủ trang trại có trình độ đại học, xong đều trái ngành, trái nghề. Biểu: Thành phần, trình độ văn hoá của chủ trang trại (2003) Chỉ tiêu Số lượng Cơ cấu (%) 1. Thành phần chủ trang trại 1418 100 - Lưu lượng viên chức đang nghỉ hưu 71 75 - Công nhân viên Nhà nước 29 2 - Hộ nông dân 1318 93 2. Trình độ văn hoá của chủ trang trại 1418 100 - Từ lớp 5 – 9 950 67 - Từ lớp 10/10 397 28 - Lớp 12/12 71 5 Đơn vị: trang trại Nguồn: Cục thống kê thành phố Hải Phòng - Thành phần của chủ trang trại: Chủ trang trại là người có ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Theo số liệu khảo sát thì chủ trang trại ở Hải Phòng đa số là hộ nông dân (chiếm tới 93%), Cán bộ lực lượng vũ trang đang nghỉ hưu là 5% và công nhân viên Nhà nước là 2%. Điều đó cho thấy sự phân tầng mạnh mẽ giữa các tầng lớp chủ trang trại trên địa bàn Hải Phòng. Có sự phân hoá giữa các tầng lớp giữa các chủ trang trại với nhau. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới cách quản lý, phương thức quản lý kinh doanh của trang trại. KTTT trong nông nghiệp đã chưa lôi kéo được nhiều thành phần kinh tế khác tham gia mà ở đây chủ yếu là xuất phát từ nông nghiệp. - Trình độ văn hoá, chuyên môn của chủ trang trại Chủ trang trại là những người có ảnh hưởng lớn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ trang trại. Trong đó, trình độ văn hoá là tiêu chí thể hiện rõ nhất trình độ quản lý…, hiệu quả của trang trại. Nó tỷ lệ thuận với hiệu quả của trang trại. Nhìn chung, trình độ văn hoá của các chủ trang trại trên địa bàn Hải Phòng còn thấp. Đa số, các chủ trang trại có trình độ từ lớp 5 – 7 (67%) trình độ cấp III (28%). Điều này ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu những kiến thức thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế và áp dụng công nghệ vào sản xuất. ở nhiều nước công nghiệp phát triển; chủ trang trại được Nhà nước công nhận về trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua học tập lao động sản xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Không chỉ có bằng tốt nghiệp về nông học mà cả có sự am hiểu về kỹ thuật, về kinh tế, về thị trường. Các chủ trang trại như vậy đủ đem lại hiệu quả rất lớn trong hoạt động sản xuất của trang trại. Theo các chủ trang trại trên Hải Phòng, hiện tại các trang trại chưa nhạn được đầy đủ các chính sách ưu tiên của nhà nước trong phát triển các trang trại tại địa phương. Cán bộ phụ trách khuyến nông và cán bộ phụ trách phát triển kinh tế còn hiểu quá ít về kinh tế trang trại. Nội dung tập huấn cho các chủ trang trại vẫn chung chung, chưa tập trung tháo gỡ khó khăn và định hướng phát triển cho trang trại. Vì vậy, thành phố cần quan tâm, khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện cho chủ tr phát triển mạnh cả vê số lượng và chất lượng. Các chủ trang trại chăn nuôi, trình độ kỹ thuật về chăm sóc. Các trang trại khác: trang trại kinh doanh tổng hợp, trang trại lâm nghiệp, trang trại trồng trọt; nên được các cán bộ quản lý chuyên môn cao hướng dẫn, hỗ trợ kinh phí trong việc phát triển KTTT hiện nay. 4. Vốn của kinh tế trang trại Các trang trại phần lớn có nguồn vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn tự có của gia đình, tích luỹ qua nhiều năm là chính. Ngoài ra một phần vay của ngân hàng. Theo số liệu năm 2006 tổng số vốn của trang trại là 430,056 triệu đồng, bình quân một trang trại là 303,283 triệu đồng.Như vậy ta có thể thấy được thực trạng nguồn vốn của các trang trại hiện nay, đó là :nguồn vốn thấp, kém tinh đa dang và không linh hoạt .điều đó đã lam hạn chế hoạt đông sản xuất và linh doanh của các trang trại hiên nay, nó đã làm giảm hiệu quả và kìm hãm sự phát triển của các trang trai trên địa bàn thành phố. 5. Cơ cấu, chỉ tiêu chủ yếu của trang trại Hải Phòng (2005) Bảng chỉ tiêu KTTT của Hải Phòng (2005) Chỉ tiêu Loại hình TT Trang trại trồng trọt Trang trại chăn nuôi Trang trại lâm nghiệp Trang trại NTTS Trang trại KDTH Số lượng trang trại (TR/trại) 78 277 6 584 98 Lao động hộ chủ TT 202 614 14 1101 253 Lao động thuê ngoài thường xuyên 161 141 2 1252 145 Lao động thuê ngoài thời vụ 563 90 8 1437 220 Diện tích sử dụng của trang trại (ha) 304,14 17,690 93,8 4407,88 311,72 Số lượng vật nuôi chính (trâu, bò, lợn, gà …) 2362 18265 9 12093 8155 Tổng vốn 12627 29816 180 188424 17565 Thu nhập (triệu) 4494 11435 70 56808 4485 Giá trị hàng hoá 54298 260 116453 15527 DV (triệu đồng) 9586 Lao động trang trại 926 845 24 3790 618 Nguồn: Sở nông nghiệp – phát triển nông thôn Hải Phòng 6. Sự phát triển KTTT trên địa bàn Hải Phòng Các trang trại trên địa bàn Hải Phòng đã và đang phát triển cả về số lượng và chất lượng: số lượng các trang trại nông nghiệp luôn tăng qua các năm. Đặc biệt trong các năm 2002, 2003, 2004. Năm 2002 là 367 trang trại, đến năm 2003 tăng hơn 2 lần = 805 trang trại và đến năm 2006 đã là: 1418 trang trại. Tăng mạnh nhất là trang trại thuỷ sản; nếu như 2002 mới có 269 trang trại thì đến năm 2006 là 603 trang trại ( ằ 2,5 lần) Điều đó cho thấy được: trang trại nông nghiệp ở Hải Phòng đã từng bước phát triển; nó được chú ý đầu tư và được khai thác hiệu quả tương đối cao. KTTT đang là hình thức kinh tế phát triển trong nông thôn ở Hải Phòng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bảng tổng hợp số lượng KTTT (2002 – 2006) (Nguồn: Sở NN-PTNT Hải Phòng) (Cục Thống kê Hải Phòng) Bảng tổng hợp Kinh tế trang trại (2002 – 2006) TRANG TRạI Loại trang trại 2002 2003 2004 2005 2006 Đơn vị 1 Trang trại trồng trọt 49 71 76 78 20 T/trại - Cây hàng năm +45 +65 +64 +63 +44 T/trại - Cây lâu năm +4 +6 +12 +15 +6 T/trại - Cây ăn quả 5 6 5 6 7 T/trại 2 Trang trại lân nghiệp 20 182 228 227 T/trại 3 Trang trại chăn nuôi 584 T/trại -Trâu, bò T/trại - Lợn T/trại - Gia cầm T/trại 4 Trang trại nuôi trồng thuỷ sản 269 446 493 584 605 T/trại - Cá +353 T/trại - Tôm +202 T/trại 5 Trang trại kinh tế tổng hợp 24 100 87 98 172 T/trại Tổng các trang trại 367 805 889 1043 1418 Các trang trại nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng không những tăng về mặt lượng mà cả về mặt chất lượng, hiệu quả của nó cũng không ngừng tăng qua các năm. Các trang trại đó đã dần đi vào phát triển chiều sâu: giảm dần quy mô, hình thức quảng canh, thay vào đó là tăng dần hiệu quả thông qua hình thức sản xuất – kinh doanh tiên tiến như bán thâm canh và thâm canh, luân phiên, kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi, đa dạng hoá các hình thức sản xuất trong trang trại, tập trung sản xuất các loại sản phẩm hàng hoá chất lượng, có giá trị kinh tế cao như cây cảnh, nuôi trồng tôm hùm,… Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trang trại nông nghiệp ở Hải Phòng đã tăng trưởng không ngừng qua các năm: thu nhập trang trại của năm 2002 là 30285,9 triệu thì đến năm 2006 là 75500 triệu tuy nhiên mức tăng đó lại tăng chậm dần qua các năm. Diện tích đất đai sử dụng trong các trang trại có tăng trong các năm từ 2002 đến 2005; nhưng lại giảm vào năm 2006; số lao động cũng vậy. Nếu như năm 2002 số lao động thườn xuyên/ 1 trang trại ằ 10 người thì đến năm 2006 chỉ còn 4 người/ 1 trang trại. Điều đó cho thấy: các trang trại đã từng bước đi vào chiều sâu giảm quy mô,áp dụng tiến bộ sản xuất, nâng cao hiệu quả trang trại, tăng dần về chất lượng, thâm canh sản xuất do vậy vẫn đảm bảo tăng về hiệu quả của trang trại. Bảng tổng kết KTTT trên địa bàn Hải Phòng qua các năm Bảng tổng kết kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng qua các năm (2002 – 2006) chỉ tiêu năm 2002 2003 2004 2005 2006 ồ số trang trại 367 805 899 1043 1418 ồ lao động trong trang trại 3593 5439 5942 6203 4403 Lao động thường xuyên/ TT (người) ằ10 ằ7 7 6 4 S đất đai sử dụng của trang trại (ha) 4314,857 5599,1 5538,68 5172,96 4438,63 S nuôi trồng thuỷ sản (ha) 3818,358 5062,16 1990,87 4576,71 3403,63 ồ số vốn của trang trại (triệu đồng) 134004,0 228257 220893,3 248606 430056 Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ (triệu đồng) 209725 188465 190126 241697 Thu nhập của trang trại (triệu đồn) 32085,9 75092,6 64296,5 77292 75500 Số trang trại thuỷ sản 269 446 493 589 605 Nguồn: Cục thống kê thành phố Hải Phòng III. đánh giá chung về KTTT trên địa bàn thành phố Hải Phòng 1. Những mặt được - KTTT trở thành nhân tố mới của kinh tế hộ trong nông nghiệp nông thôn. Bước đầu kinh tế hộ gia đình đã vượt qua mục tiêu sản xuất tự cấp, tự túc bước sang sản xuất nông sản hàng hoá với quy mô lớn, góp phần hình thành các vùng nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến và cho du lịch – dịch vụ, đời sống những vùng ven đô hiện nay đang hình thành những trang trại chăn nuôi (lợn sinh sản, lợn thịt siêu nạc, gà siêu trứng, siêu thịt…) quy mô lớn không phải sử dụng nhiều diện tích canh tác (An Hải, Kiến Thuỵ); vùng nuôi trồng thuỷ sản (An Hải, Cát Hải, Thuỷ Nguyên); sản phẩm phục vụ xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch là chính và phục vụ đô thị. - KTTT phát triển, đang từng bước trở thành những mô hình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (cây trồng, vật nuôi) theo hướng tăng nhanh tỷ trọng thực phẩm và có sản phẩm hàng hoá giá trị kinh tế cao, chủ yếu là đặc sản như cá chim trắng, cua biển, tôm sú, lợn siêu nạc,… đang là nhu cầu và thị hiếu trên thị trường thành phố nhất là cho xuất khẩu, du lịch và dịch vụ khách sạn cao cấp. KTTT trên địa ban Hải Phòng đang có xu thế phát triển mạnh mẽ về số lượng quy mô và hiệu quả kinh tế. Qua điểu tra cho thấy: trang trại NTTS và trồng trọt đã sử dụng diện tích đất hoang hoá và coi như hoang hoá chiếm 10,5% diện tích đất canh tác toàn thành phố. Đồng thời trang trại chăn nuôi và trang trại đặc thù (trồng hoa, cây cảnh, nuôi …..) sử dụng ít diện tích canh tác song giá trị hàng hoá và dịch vụ đạt khá cao, đi vào sản xuất thâm canh. Sản phẩm hướng vào xuất khẩu và dịch vụ đô thị. Hiện nay nhiều hộ gia đình nuôi trồng thuỷ sản có diện tích từ 3 ha trở lên đang chuyển từ sản xuất quảng canh sang quảng canh cải tiến hoặc cao hơn và nhiều hộ gia đinh có diện tích từ 1 ha đến xấp xỉ 2 ha đang muốn chuyển sang bán thâm canh và thâm canh trở thành chủ trang trại. Như vậy kinh tế trang trại ngày càng phát triển về số lượng, góp phần thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn. - Hiệu quả xã hội của kinh tế trang trại: tăng thu nhập quốc dân tận dụng đất hoang hoá, tái tạo tài nguyên đất đai, cải thiện môi trường sinh thái, hiệu quả lao động, tính ảnh hưởng của KTTT tới cộng đồng khu dân cư. Các trang trại đã và đang sử dụng có hiệu quả về đất đai, tiền vốn, lao động cho sản xuất nông nghiệp. Trang trại trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản sử dụng tổng diện tích: 5679,55 ha, chủ yếu là đất trống, đất mặt nước, đầm trũng, đồi núi trọc, đất hoang hoá ven sông, ven biển do chính quyền địa phương quản lý, nhưng chưa sử dụng, hoặc sử dụng kém hiệu quả: đã thu hút trên 1000 tỷ đồng vốn đầu tư, giải quyết công ăn việc làm cho trên 4000 lao động nông nhàn hàng năm; tạo ra nguồn thu nhập có giá trị hàng hoá và dịch vụ hơn 70 tỷ đồng, góp phần xoá đói giảm nghèo. - Các trang trại là những đơn vị chú trọng ứng dụng công nghệ mới thực hiện cơ giới hoá trong sản xuất, áp dụng các quy trình kỹ thuật thâm canh để nâng cao năng suất, chất lượng – hiệu quả sản xuất, dần trở thành những mô hinh sản xuất có quy mô lớn. Nhiều cơ sở có điều kiện hợp tác – liên doanh – liên kết với đối tác trong và ngoài nước để sản xuất hàng nông sản chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu. - Một số trang trại phát triển sản xuất theo mô hình VAC, kinh tế tổng hợp (vườn – ao – chuồng) và kết hợp phương thức lấy ngắn nuôi dài tạo ra hiệu quả kinh tế cao. 2. Những khó khăn và tồn tại cơ bản của KTTT - Thành phố chưa có quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế trang trại do đó, hầu hết diện tích đất đai của chủ trương trang trại hiện nay thuê hoặc thầu cũng không ổn định. Tình trạng này khiến các chủ trang trại chưa thực sự yên tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị kỹ thuật, đầu tư thâm canh, mà nặng về ư tưởng tận dụng khai thác để có thu nhập ngay là chủ yếu. - Các hộ gia đình và cá nhân đã đạt tiêu chí KTTT theo thông tư 69. Song chưa được cấp giấy công nhận kinh tế trang trại, nên các chủ trang trại chưa được thừa nhận về mặt pháp lý và chưa có tư cách pháp nhan. - Mặc dù các trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trồng cây hàng năm đã đầu tư cải tạo, biến vùng đất từ bao đời trước không có thu nhập hoặc có thu nhập thấp và bấp bênh thành vùng thu nhập cao và ổn định. Song giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích còn quá thấp so với tiềm năng của nó, bởi các trang trại thực hiện sản xuất quảng canh hoặc quảng canh cải tiến là phổ biến, như nuôi trồng thuỷ sản 80% diện tích đất đai sử dụng quảng canh; 20,5% quảng canh cải tiến, 0,57% bán thâm canh và 0,02% thâm canh. Về trang trại trồng cây hàng năm có 72% quảng canh (lúa – ngư lợi tự nhiên). Bình quân thu nhập của một trang trại hàng năm đạt khá do nhiều diện tích cộng lại. Song bình quân thu nhập hỗn hợp trên một đơn vị diện tích thì quá thấp, như nuôi trồng thuỷ sản và trồng cây hàng năm loại quảng canh chỉ > 3,4 triệu đồng/ ha/ năm. Như vậy, giá trị sản xuất và thu nhập hỗn hợp trên một đơn vị diện tích thấp thì hiệu quả kinh tế cũng thấp tương ứng. - Hầu hết các trang trại đều nằm trên vùng đất bãi bồi ven sông, ven biển đồi núi… xa dân cư, xa đường giao thông, xa đường điện và nguồn nước sinh hoạt, nên cơ sở hạ tầng còn rất nhiều khó khăn. Đồng thời trên diện tích thuê thầu đang sử dụng không được cấp đất làm nhà ở hoặc xây dựng công trình phục vụ sản xuất chế biến, nên việc ăn ở sinh hoạt hoặc trông coi bảo vệ sản phẩm và sản xuất chế biến còn nhiều khó khăn đối với các chủ trang trại. - Về thị trường: Sản phẩm của các trang trại sản xuất ra chưa tinh chế mà mới dừng lại ở dạng sơ chế hoặc tươi sống để phục vụ xuất khẩu thông qua đường tiểu ngạch là chính và thị trường nội địa, nên việc bảo quản và giá cả sản phẩm còn hạn chế. Mặt khác phải thông qua tư thương, nên thường bị ép cấp, ép giá, nhất là thời điểm thu hoạch chính vụ làm các trang trại thua thiệt. - Do tốc độ phát triển của các khu công nghiệp và khu đô thị nhanh, việc xử lý nước thải chưa được khoa học; làm cho nguồn nước nông, nước ven biển bị ô nhiễm, dẫn tới ngư lợi giảm mạnh và phát triển dịch bệnh ở một số vùng nuôi trồng thuỷ sản. Việc sử dụng một số dụng cụ đánh bắt tôm cá có tính huỷ diệt, đã có lệnh nghiêm cấm như: kích điện, chất nổ… vẫn còn sử dụng nhiều; những tình trạng trên đang làm cạn kiệt nguồn ngư lợi và ảnh hưởng không nhỏ tới sản lượng, giá trị và hiệu quả về việc phát triển kinh tế trang trại của thành phố. - Do khả năng đầu tư, trình độ thâm canh và quản lý kinh tế của các chủ trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trang trại trồng cây hàng năm có quy mô sản xuất từ 5 ha canh tác trở lên thì hiệu quả kinh tế và giá trị sản lượng hàng hoá - dịch vụ trên 1 đơn vị diện tích đều thấp hơn những trang trại có diẹn tích từ 2 - 4 ha. - Hầu hết các chủ trang trại có trình độ văn hoá thấp, chưa qua đào tạo chuyên ngành, kiến thức quản lý kinh tế, năng lực điều hành và tổ chức sản xuất – kinh doanh còn yếu. - Lao động của trang trại chủ yếu là lao động thủ công, chưa qua tập huấn và đào tạo nên rất hạn chế về chuyên môn. - nhiều trang trại chăn nuôi(gà, lợn) còn nằm xen trong khu dân cư nên ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh hoạt trong nông thôn, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. - Một số trang trại ven sông ven biển chưa đảm bảo hành lang đê điều theo quy định. * Kết luận: - Kinh tế trang trại Hải Phòng còn mang tính tự phát, sản xuất nhỏ, đơn điệu, trình độ kỹ thuật thấp, mức sản xuất hàng hoá thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao, thị trường tiêu thụ còn hạn chế(chủ yếu là thi trường nội địa) do vậy thực tế tác động thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp – nông thôn Hải Phòng còn hạn chế. Chương iii Phương hướng, giải pháp phát triển kttt trên địa bàn Hải Phòng trong những năm tới (đến năm 2010). i. phương hướng 1. Định hướng phát triển trang trại trong bối cảnh hội nhập - Hội nhập KTQT sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức lớn cho phát triển kinh tế trang trại. Một mặt, nó là cơ hội để các trang trại tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại vào sản xuất, mở rộng và đa dạng thị trường tiêu thụ… Mặt khác, nó cũng đặt ra những thách thức trong việc cạnh tranh với hàng nông sản chất lượng cao, giả bán rẻ của các nước nói chung cũng như thành phố Hải Phòng nói riêng đã tạo ra sản lượng hàng hoá lớn cung cấp cho thị trường, với năng lực sản xuất vượt trội so với kinh tế hộ nông dân. Trước sự biến đổi, môi trường phát triển, các trang trại trên địa bàn Hải Phòng cần được phát triển trên cơ sở định hướng đúng đắn để phù hợp với yêu cầu mới. Cụ thể là: - Các trang trại phát triển trên cơ sở đầu tư vào những cây trồng vật nuôi giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện hiện có của từng địa bàn, của bản thân trang trại và phải phù hợp với nhu cầu thị trường. - Thâm canh tăng năng suất, sản lượng là một xu thế phổ biến của các trang trại hiện nay. Quỹ đất nông nghiệp của tỉnh Hải Phòng còn lại không nhiều và có xu hướng ngày càng giảm do chuyển sang mục đích sử dụng khác. Việc mở rộng quy mô cho sản xuất trang trại sẽ gặp khó khăn. Do vậy, các chủ trang trại cần tiến hành ứng dụng những giống, cây con vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao; đồng thời phải tăng cường và sử dụng có hiệu quả các yếu tố vốn, lao động, đất… nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. - Các trang trại phát triển theo hướng CNH và HĐH để tăng nguồn thu và sử dụng hiệu quả hơn các yếu tố nguồn lực. - Phát triển KTTT không thể chỉ dựa vào bản thân từng trang trại đơn lẻ. Mô hình liên kết “4 nhà” ngày càng trở nên phổ biến. Điều đó không những giúp các chủ trang trại có thể học kinh nghiệm sản xuất mà còn chủ động hơn trong việc tiêu thụ, bảo quản, chế biến sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất. - Nhu cầu thị trường nông sản đang có xu hướng đòi hỏi các sản phẩm phải có chất lượng tốt, đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao sức khoẻ, tuổi thọ cho người tiêu dùng. Đặc biệt, ở một số nước công nghiệp phát triển, các yêu cầu đó là khắt khe. Trước xu hướng này, các trang trại ở Hải Phòng phải phát triển theo hướng bền vững, tăng trưởng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường. Các nông sản hàng hoá phải đảm bảo sạch, an toàn; giá trị dinh dưỡng cao, giá cả phù hợp với người tiêu dùng trong và ngoài nước. Mục tiêu phát triển KTTT ở Hải Phòng trong những năm tới là: khai thác triệt để tiềm năng đất đai, tiền vốn, lao động, tăng sản lượng nông sản hàng hoá có giá trị kinh tế cao và nông sản hàng hoá đặc sản để nâng cao hiệu quả kinh tế. Ngày càng có nhiều trang trại điển hình về quản lý ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, chế biến, theo hướng CNH, HĐH để dẫn dắt kinh tế hộ phát triển. Góp phần đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn. 2. Mục tiêu phát triển KTTT trên địa bàn Hải Phòng (đến năm 2010) - Khuyến khích các trang trại phát triển sản xuất sản phẩm hàng hoá theo hướng bán thâm canh (công nghiệp). Các loại sản phẩm hàng hoá phải hướng về xuất khẩu và phục vụ đô thị. Lấy giá trị sản xuất và thu nhập hỗn hợp trên một đơn vị diện tích làm thước đo hiệu quả kinh tế trang trại, xác định quy mô đất đai cho phù hợp với mỗi loại trang trại. Hình thành các vùng sản xuất có sản phẩm hàng hoá tập trung, gắn với chế biến và tiêu thụ như sau: - Vùng ven đô: phát triển các trang trại sử dụng ít diện tích canh tác, có giá trị sản lượng hàng hoá - dịch vụ cao, như cây cảnh, trồng hoa, chăn nuôi lợn sinh sản, lợn thịt siêu nạc, gà siêu thịt – siêu trứng, bò sữa… theo hướng công nghiệp, phục vụ xuất khẩu. - Vùng đồi núi: tập trung phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Vùng núi đá vôi (Cát Bà, Thuỷ Nguyên) phát triển chăn nuôi dê sinh sản và dê thịt, xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với du lịch, dịch vụ… - Vùng bãi bồi ven sông, ven biển, đầm trũng: phát triển trang trại thuỷ hải sản, theo phương thức bán thâm canh hoặc thâm canh, nuôi trồng các giống chất lượng cao như: tôm sú, cua biển, cá chim… kết hợp với khai thác nguồn ngư lợi tự nhiên và phát triển chăn nuôi ngan, vịt để tăng thu nhập. - Vùng đồng bằng (xa đô thị): khuyến khích việc tích tụ, tập trung ruộng đất trong nông thôn, hình thành trang trại sản xuất lúa đặc sản, với quy mô diện tích 2 – 3 ha; sản xuất giống lúa có phẩm chất và giá trị kinh tế cao, các loại rau màu an toàn chất lượng cao phục vụ cho du lịch và xuất khẩu. Khuyến khích phát triển trang trại ở các vùng, hình thành và phát triển trang trại liên doanh có quy mô lớn; đủ sức cạnh tranh với thị trường trong nước và xuất khẩu, đủ sức gắn sản xuất với chế biến, khắc phục hậu quả khi bị rủi ro thiên tai, dịch bệnh, thị trường và giá cả, nhất là các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản - đặc sản. . Nhóm giải pháp cho sự phát triển KTTT trên địa bàn Hải Phòng 1. Quy hoạch 1.1. Mục đích yêu cầu của quy hoạch trang trại - Đưa kinh tế trang trại phát triển phù hợo với quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn của địa phương, khắc phục tình trạng tự phát, hiệu quả thấp và kém bền vững. - Khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai, nước, sinh vật, lao động, vốn và các tiềm năng kinh tế khác để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng và giá trị cao, tạo việc làm và nâng cao thu nhập của nông dân. - Hình thành các vùng sản xuất tập trung các loại cây trồng, vật nuôi là thế mạnh của mỗi vùng, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. - Xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ cho việc phát triển kinh tế trang trại theo hướng thâm canh, đạt hiệu quả cao. - Phát triển kinh tế trang trại bảm đảm yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái và sản xuất bền vững. 1.2. Nội dung quy hoạch sử dụng đất đai 1.2.1. Quy hoạch sử dụng đất đai - Tiến hành kiểm tra, nắm vững quỹ đất hiện đang sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp. Quỹ đất trống đồi núi trọc; bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước có khả năng khai thác đưa vào sử dụng trong nông – lâm – ngư nghiệp theo phương thức trang trại. Thể hiện rõ quỹ đất trồng cây công nghiệp, đồng cỏ, đất phát triển các loại rừng, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất dành cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. - Bố trí các vùng đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi ven sông, đất hoang hoá để giao cho các tổ chức, cá nhân có khả năng phát triển KTTT dưới hình thức giao, cho thuê hoặc đấu thầu sử dụng. - Những nội dung trên phải thể hiện trên bản đồ tỷ lệ lớn. ở những nơi chưa có thì tạm thời dùng các sơ đồ để thể hiện. 1.2.2. Quy hoạch sản xuất nông – lâm nghiệp và chế biến – tiêu thụ nông sản - Căn cứ vào điều kiện thị trường, đất đai, nguồn nước, khí hậu kinh nghiệm truyền thống…. để bố trí các loại cây trồng, vật nuôi chính trong vùng phát triển trang trại để làm cơ sở hướng dẫn cho các chủ trang trại. Đối với vùng còn nhiều đất đai, phát triển sản xuất trồng trọt kết hợp với chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản để làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Đối với vùng đất ít, người đông thì phát triển các ngành nghề sử dụng ít đất nhưng có hiệu quả cao như làm giống; trồng hoa, cây cảnh; chăn nuôi gia súc và thủy đặc sản, kết hợp với các hoạt động dịch vụ, ngành nghề để sử dụng được nhiều lao động và đạt hiệu quả kinh tế cao. - Xác định làm phần ổn định của các loại rừng trong vùng phát triển trang trại để làm cơ sở giao hoặc khoán bảo vệ rừng cho chủ trang trại theo nghị định số 163/1999/UĐ-CP. - Xác định hướng phát triển chế biến: lựa chọn chế biến phù hợp với tiềm năng vùng để hướng dẫn cho trang trại áp dụng, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, áp dụng công nghệ, thiết bị hiện đại kết hợp với phương pháp truyền thống được cải tiến. - Bố trí các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện, điện thoại… phục vụ cho phát triển trang trại ở các vùng tập trung; nhất là các vùng đất mới. Xác định rõ nguồn vốn đầu tư. - Khuyến khích liên doanh liên kết giữa các trang trại với doanh nghiệp Nhà nước và thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố, để sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm . 1.2.3. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực - Xác định nhu cầu và hướng hỗ trợ các chủ trang trại đào tạo, bồi dường nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật, quản lý, nhất là kiến thức tiếp thị, hạch toán kinh tế thông qua các lớp ngắn hạn và các khoá đào tạo dài hạn. - Tăng cường trao đổi kinh nghiệm quản lý và ứng dụng khoa học công nghệ giữa các trang trại. 1.3. Phương pháp tiến hành - Điều tra tình hình kinh tế trang trại đã có trên địa bàn về số lượng quy mô, kết quả sản xuất và thu nhập của trang trại. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn của phát triển kinh tế trang trại ở địa phương. - Kế thừa, tham khảo các tài liệu quy hoạch hiện có của địa phương về phát triển nông nghiệp, nông thôn và quy hoạch sử dụng dất, kết hợp khảo sát bổ sung để đánh giá những lợi thế và hạn chế của từng vùng. - Nắm bắt các thông tin và dự báo về thị trường, về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ làm cơ sở quy hoạch sản xuất của trang trại. - Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch phải tổ chức bàn bạc với nông dân về phương hướng sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm của trang trại; phối hợp các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ. Đáp ứng nhu cầu phát triển của trang trại và hộ nông dân trên địa bàn thành phố. 1.4. Tổ chức thực hiện - Sở nông nghiệp – phát triển nông thôn Hải Phòng chủ trì phối hợp với các ngành liên quan tổ chức và chỉ đạo việc lập quy hoặc phát triển trang trại của địa phương trình UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện 2. Chính sách cho phát triển của các trang trại trên địa bàn Hải Phòng (đến năm 2010) 2.1. Chính sách về đất đai - Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản sống tại các địa phương và có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được UBND xã xét cho thuê đất để phát triển trang trại. - Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được UBND xã cho thuê đất để làm trang trại. - khuyến khích các hộ dân thực hiện quyền chuyển đổi, quyền nhượng đất để tích tụ ruộng đất hình thành trang trại. - UBND thành phố có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. 2.2. Chính sách thuế - Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhất là các vùng đất trống, đồi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại. - Cần xây dựng các chính sách hỗ trợ thuế; giảm thấp nhất mức thu thuế suất. - Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. 2.3. Chính sách về đầu tư, tín dụng - Căn cứ vào quy hoạch phát triển nông lâm, ngư nghiệp trên các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, thông tin, cơ sở chế biến để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển sản xuất nông lâm, ngư nghiệp. - Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn cần phải điều chỉnh lại thủ tục sao cho đơn giản, nhanh chóng; cấp giấy quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại để tạo điều kiện làm tài sản thế chấp khi các chủ trang trại vay với số lượng tiền lớn cho phát triển kinh doanh của trang trại. 2.4. Chính sách lao động - Cần ưu tiên các lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất để sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. - Cần có kế hoạch xây dựng các chính sách đãi ngộ, sử dụng lao động, các lao động có tay nghề, kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp; có chương trình đào tạo cho lao động như cử đi học hoặc mở các lớp học ngắn hạn về kỹ năng sản xuất nông nghiệp… từ đó những lao động có thể giao lưu học hỏi kinh nghiệm đ nâng cao năng suất lao động đ hiệu quả sản xuất – kinh doanh của trang trại và ngày được nâng cao. - Đối với địa bàn đặc biệt khó khăn trong thành phố: chủ tr cần được ưu tiên vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm xoá đói giảm nghèo. - Nhà nước cần có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong trang trại bằng nhiều hình thức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn. 2.5. Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với thành phố cần có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các công trình thuỷ lợi tạo nguồn nước cho phát triển sản xuất. Các chủ trang trại xây dựng các công trình thuỷ lợi sử dụng nước mặt, nước ngầm trong phạm vi trang trại theo quy định không phải nộp thuế tài nguyên nước. - Bộ NN&PTNT cùng với thành phố quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để đảm bảo đủ giống tốt; giống có chất lượng cao cung cấp cho các trang trại và cho hộ nông dân trong vùng. - Khuyến khích chủ trang trại góp vốn vào quỹ phát triển khoa học liên kết với cơ sở khoa học, đào tạo chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trang trại. 3. Thị trường 3.1. Thị trường đầu vào - Cung cấp tốt thông tin thị trường, khuyến cáo khoa học kỹ thuật, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. - Nền sản xuất của kinh tế trang trại là nền sản xuất có quy mô tương đối lớn do vậy khi cung ứng các yếu tố đầu vào thường cũng cung ứng thức ăn có vai trò lớn tăng năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Cần đa dạng các thị trường đầu vào và ổn định; đảm bảo chất lượng giá cả phù hợp. - Cần có các chương trình chuyển giao vật tư, giống cây trồng, xây dựng khu cung ứng vật tư, thiết bị sản xuất. Có chính sách hỗ trợ giá và bán với giá ưu đãi cho các hộ nông dân, bán trả góp, trả sau. 3.2. Thị trường đầu ra - KTTT là kinh tế sản xuất hàng hoá: sản phẩm nông sản làm ra là để cung ứng vào thị trường. Do vậy thị trường đầu ra có một vai trò và là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển các trang trại. - Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiêu thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên địa bàn thành phố. - Nhà nước khuyến khích phát triển chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác, hỗ trợ trong nước và ngoài nước. - Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến tiêu thụ nông sản thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà nước với HTX, chủ trang trại, hộ nông dân. Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình và sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập khẩu vật tư nông nghiệp. 4. Vốn 4.1. Tạo cơ chế thuận lợi, ưu đãi khi cho vay vốn phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố - Trang trại là hình thức sản xuất kinh doanh vừa và lớn do vậy cần một lượng vốn khá lớn; vốn là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại; trong đó có trang trại nông nghiệp. Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trang trại nhằm từng bước hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, nâng cao đời sống và ổn định việc làm cho người lao động. Cần xây dựng các chính sách về vốn; tạo cơ chế thuận lợi cho phát triển KTTT trên địa bàn thành phố. Cần xây dựng lượng vốn phù hợp và đủ khi thực hiện quá trình sản xuất – kinh doanh của trang trại. a. Ưu đãi về vốn - Các chủ trang trại khi sử dụng đất trống đồi trọc, đất hoang hoá và diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo thuộc quy hoạch phát triển trang trại do UBND thành phố xác định, cần miễn giảm thuế sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp cho họ nhằm khai thác tối đa diện tích hoang phí trong vùng đ đem lại hiệu quả kinh tế của vùng. b. Ưu đãi về vốn đầu tư - Cần giảm thiếu tối đa thủ tục hành chính rườm rà; tạo cơ chế thuận lợi cho các chủ trang trại khi vay vốn. - Có các biện pháp huy động vốn cần thiết và đủ lớn nhằm mở rộng quy mô sản xuất của trang trại, đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh từ đó sẽ phát huy được hiệu quả, đem lại năng suất cao; tạo ra sự phát triển bền vững cho các trang trại trên địa bàn. - Hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng về xây dựng mới các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh phát triển trang trại. 5. Khoa học công nghệ Khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng, được coi là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Theo chủ trương và trình của Việt nam, ngành nông nghiệp đang cùng các bộ, ngành liên quan tổ chức rà soát các chính sách hiện hành, kiến nghị với Chính phủ điều chỉnh các chính sách theo hướng phù hợp hỗ trợ nông nghiệp thông qua nhóm chính sách hộp danh (đâu tư cơ sở hạ tầng, nghiên cứu, giống, khoa học công nghệ, đào tạo, khuyến nông…) Như vậy việc nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất là phù hợp với quy định WTO. Trong bối cảnh này, các giải pháp khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế trang trại thành phố Hải Phòng cần tập trung vào một số vấn đề sau: - Đầu tư nguồn vốn ngân sách cho phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng vật nuôi có phẩm chất tốt, có chất lượng sản phẩm cao, tìm và áp dụng công nghệ mới trong canh tác, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, trước hết là các loại rau quả sản xuất trên các vùng chuyên canh. - Khuyến cáo cho các trang trại có thể bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng và phù hợp với quy hoạch các vùng sản xuất chuyên canh của huyện. Điều đó giúp các chủ trang trại lựa chọn đúng phương hướng sản xuất kinh doanh ngay từ đầu. - Phát huy vai trò của các tổ chức hợp tác, các hiệp hội trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp. Đây là con đường ngắn nhất để nhân rộng tiến bộ khoa học công nghệ mới mà không cần có sự đầu tư lớn của Nhà nước. - Huyện cử cán bộ có trình độ về quy hoạch giúp các trang trại quy hoạch xây dựng các mô hình kinh tế, đồng thời tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các chủ trang trại với các cán bộ Phòng kinh tế Kế hoạch và Phát triển nông thôn, trạm thú y, khuyến nông huyện, đảm bảo xử lý kịp thời những bất trắc trong sản xuất kinh doanh. - Có quy hoạch các khu chăn nuôi và quy định cụ thể về vệ sinh môi trường đồng thời hướng dẫn các trang trại kết hợp phát triển kinh doanh với việc thực hiện các quy định bảo vệ môi trường sinh thái, nhất là các vùng đông dân cư. Điều này giúp các trang trại có thể tăng trưởng sản xuất gắn với phát triển bền vững. Ngoài ra, các sản phẩm của trang trại sẽ đảm bảo tốt hơn độ an toàn vệ sinh thực phẩm, có khả năng cạnh tranh tốt hơn khi hội nhập. 6. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng cũng là yếu tố được khuyến khích đầu tư trong chính sách hỗ trợ nông nghiệp hộp xanh khi gia nhập WTO. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ vùng gò đồi. Các yếu tố hạ tầng quan trọng hàng đầu là hệ thống giao thông, điện, thuỷ lợi và chợ nông thôn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện cần được giải quyết theo các hướng sau: - Về điện: cần có kế hoạch ưu tiên xây dựng lắp mới đưa điện tới chân công trình cho các nhà máy bằng nguồn điện từ trạm biến áp 221/100kv. Hiện tại công suất điện còn thấp, chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt một vài dịch vụ xay xát, làm bánh chứ chưa đủ đáp ứng cho công nghiệp chế biến phát triển. - Về giao thông: sau khi quy hoạch cho xây dựng phát triển các khu trang trại để thu hút vốn từ các hộ nội thành lên đầu tư. Ngoài ra cần động viên các trang trại đóng góp nhiều hơn cho quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạt ầng nông thôn theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Hiện nay có những trang trại đầu tư hàng trăm triệu đồng mở đường rộng rãi vào trang trại, tiến tới phát triển sản xuất với du lịch sinh thái. Đối với việc bê tông hoá đường giao thông nông thôn cần giám sát chặt chẽ việc thi công, tránh thất thoát đầu tư, đảm bảo thực hiện đúng quy trình kỹ thuật để nâng cao chất lượng công trình. - Về thuỷ lợi: Do địa hình phức tạp, gồm nhiều sông ngòi lại giáp biển. Do vậy thuỷ lợi có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế của trang trại. Xây dựng nhiều bãi đập, hồ chứa nước, kè ngăn nước mặtn tràn vào đất liền. Xây dựng nhiều hành lang phục vụ tưới tiêu và thoát nước nhất là các vùng xa và thiếu nước. Đặt nhiều máy bơm công suất lớn ở các nơi thường xảy ra bão lụt. Nhất là các vùng tập trung trang trại thuỷ sản như Đồ Sơn, Kiến Thuỵ… thì vấn đề thuỷ lợi càng quan trọng và được quan tâm hơn lúc nào hết. iii. tổ chức thực hiện 1. Thành phố xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế trang trại 2002 – 2010 theo nội dung thông tư số 61/2000/TT-BNN/KH ngày 6/6/2000 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn về hướng dẫn lập quy hoạch phát triển KTTT. 2. Về vốn đầu tư phát triển KTTT Ngoài vốn tự có và coi như tự có, các trang trại không những thực hiện vay theo hạn mức tín dụng như thời gian qua mà còn phải xây dựng các dự án phát triển KTTT để vay theo dự án đầu tư, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay từng lần hoặc các phương thức vay khác theo quy định của pháp luật. 3. Đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, nước, điện và hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp mở rộng hoặc xã hội mới các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung chuyên canh phát triển KTTT. 4. Căn cứ và thực trạng KTTT và điều kiện tiềm năng đất đai của từng huyện, quận và thị xã các cấp chính quyền cơ sở chỉ đạo: những trang trại trồng cây hàng năm, hiệu quả kinh tế thấp; chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây ăn quả, hay trang trại tổng hợp VAC. Những trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trang trại trồng cây hàng năm có quy mô từ 5 ha trở lên cần điều chỉnh lại quy mô cho hợp lý hơn. Cụ thể là: Những nơi chưa có điều kiện thì thực hiện quảng canh cải tiến với quy mô đất đai từ 2 ha đ 4 ha/trang trại. Còn nơi có điều kiện thâm canh thì quy mô là 1 ha/trang trại, vì khi quy mô sản xuất hợp lý thì mỗi trang trại mới có điều kiện thực hiện phương thức thâm canh ứng dụng công nghệ sinh học, khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá. 5. UBND các huyện, xã, quận, thị xã căn cứ vào luật đất đai bản hướng dẫn về đất đai đối với KTT; để xác định lại thời gian mức khoán hợp lý; chỉ đạo xử lý việc thanh lý thu hồi đất thuê thầu, sắp xếp quy mô diện tích đất đai cho các loại trang trại ở từng cơ sở. 6. Các huyện, quận, thị xã cần tổ chức câu lạc bộ trang trại, xây dựng nội dung ô hoạt động; nhằm tạo điều kiện cho chủ trang trại trao đổi học tập kinh nghiệm về quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh dịch vụ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. 7. Tăng cường chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là các trang trại sản xuất giống, nuôi trồng thuỷ sản, nuôi trồng thâm canh. Tập trung xây dựng, phát triển một số mô hình trang trại ở mỗi lĩnh vực, làm cơ sở hỗ trợ khuyến cáo, truyền đạt và nhân diện rộng. 8. Hàng năm thành phố đầu tư kinh phí sự nghiệp, giao cho sở NN&PTNT bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, tay nghề trình độ quản lý cho chủ trang trại và người lao động. Cần phải được ưu tiên khuyến khích bằng những hình thức thích hợp như: cử người đi học ở các lớp ngắn, dài hạn, thông tin tuyên truyền. Chương IV Một số kiến nghị về ở kinh tế trang trại trên địa bàn 1. Đối với thành phố. - UBND các huyện, quận, thị xã đã xét duyệt những hộ gia đình và cá nhân đã đạt tiêu chí kinh tế trang trại theo thông tư liên tịch thì cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, để các trang trại được hưởng quyền lợi về những chứng sách ưu đãi phát triển kinh tế trang trại. Đồng thời cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những hộ đủ tiêu chí kinh tế trang trại. Cấu tạo cơ sở pháp lý sử dụng đất đai, tạo ưu đãi thuê đất lâu dài cho các chủ trang trại để họ được yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh. - Hàng năm sở nông nghiệp – phát triển nông thôn mở hộ nghị tiếp xúc giữa các doanh nghiệp làm nhiệm vụ chế biến – xuất khẩu nông sản với các chủ trang trại theo từng chuyên đề, tạo điều kiện cho hai bên ký kết hợp đồng, giảm bớt cầu trung gian trong tiêu thụ sản phẩm để các trang trại đỡ bị ép cấp, ép giá, tăng thu nhập. Đồng thời các cấp, các ngành có liên quan tạo điều kiện hành lang pháp lý theo luật định để các tổ chức, cá nhân nước ngoài tiếp cập, trực tiếp kết kết hợp đồng chế biến, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của trang trại. 2. Đối với trung ương - Chính phủ nên chỉ đạo các Bộ, Ngành liên quan ban hành văn bản hướng dẫn việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại theo tinh thần nghị quyết 03 của chính phủ về chính sách đất đai, chính sách khoa học công nghệ môi trường, chính sách thị trường, chính sách bảo hộ tài sản. - Đề nghi Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các ngành liên quan nghiên cứu ban hành tiêu chí xác định kinh tế trang trại cho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay trong các hộ nông dân. kết luận Chuyên đề: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng đến năm 2010” đề cập đến nội dung chủ yếu sau: - Hệ thống hoá và làm rõ những vẫn đề lý luận cơ bản vê kinh tế trang trại; như khái niệm, nhưng đặc trưng và tiêu chí nhận dạng trang trại, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế trang trại. - Khái quát tình hình phát triển trang trại ở Việt nam trong những năm qua. Từ nó nêu ra những mặt được và mặt hạn chế, tồn tại hiện nay đối với kinh tế trang trại nói chung. - Phân tích đặc điểm tự nhiên (Vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, thuỷ văn), đặc điểm kinh tế – xã hội (phát triển kinh tế của Hải Phòng, phong tục tập quán Hải Phòng) có ảnh hưởng tới phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đánh giá thực trạng phát triển trang trại ở Hải Phòng những năm gần đây (2002 - 2006). Từ đó rút ra ưu điểm, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển trang trại ở Hải Phòng. Đề xuất phương hướng và giải pháp chính nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Hải Phòng. Một số kiến nghị về phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hải Phòng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32097.doc
Tài liệu liên quan