Chuyên đề Quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Như vậy, dù mới chỉ được thành lập từ 20/7/2000 song thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được một số thành quả nhất định. Các chủ thể tham gia thị trường CK như TTGDCK, công ty niêm yết, công ty chứng khoán, các nhà quản lý, các nhà đầu tư. trải qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực hơn. Cho đến nay, thị trường chứng khoán đã dần dần trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế không thể tránh khỏi, nhất là khi nhận thức về chứng khoán của người dân còn chưa cao. Vì vậy, để xây dựng một thị trường chứng khoán hoàn hảo thì chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Vũ Văn Hân đã giúp em thực hiện bài viết. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô.

doc52 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá nghiệp vụ, và cũng không thể thực hiện tín dụng đầu tư một cách an toàn .Tín dụng ngân hàng phần lớn được thực hiện bằng cho vay thế chấp. Giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa có sự gắn bó chứng khoán cần thiết để cùng kinh doanhvà phát triển. Các ngân hàng cổ phần chưa có được những nhà quản tri, kinh doanh giỏi, chưa có được sự hiểu biết thấu đáo về hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường. Từ đó không tạo lập được lòng tin từ phía các doanh nghiệp, công chún và cả Ngân hàng Trung ương. Trên thực tế, khả năng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần cao hơn nhiều so với ngân hàng quốc doanh, nhưng về thiếu kiến thức về thị trường Vốn và chưa có một thị trường Vốn hiện hữu nên khả năng tăng vốn rất hạn chế. Tuy chúng ta đã có thị trường chứng khoán sơ cấp song thị trường chứng khoán sơ cấp này vẫn chưa tạo được hiệu quả rõ rệt trong việc huy đọng vốn.Phần lớn chứng khoán phát hành chưa đáp ứngđược các chuẩn mực của phát hành ra công chúng. Trái phiếu dài hạn và trung hạn lại có lãi suất thấp hơn lãi suất tiết kiệm và trái phiếu ngắn hạn. Do đó nó không thể là sự lựa chọn của người tiết kiệm, nó không thể đi vào lòng công chúng, , người mua chưa xuất phát từ lợi ích kinh tế và chưa thật sự tự nguyện . Gần đây, một số ngân hàng có phát hành loại trái phiếu chiết khấu và lãi suất thả nổi, được công chúng chấp nhận, nhưng các loại trái phiếu này cũng khó có thể đưa ra mua bán trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, Việt Nam chưa thực hiên được chính sách tự do hoá lãi suất, chưa có sự biến đông lãi suất tín dụng trên thị trường theo quan hệ cung- cầu vốn nên việc mua bán các trái phiếu rất hạn chế. Trên thị trường đã có một số loại cổ phiếu đáp ứng được tiêu chuẩn phát hành ra công chúng, có khả năng lưu thông trên thị trường thứ cấp như cổ phiếu của một số doanh nghiệp cổ phần hoá, của ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nói chung, số chứng khoán này vẫn chưa thực sự đi vào công chúng, còn mang tính nội bộ, tập trung ở một số nhóm các nhà doanh nghiệp. Số cổ phiếu , trái phiếu này không đồng nhất và có mệnh giá rất cao, không phù hợp với các nhà đầu tư nhỏ. Như vây, trong giai đoạn này, tuy Việt Nam đã có thị trường chứng khoán sơ cấp với hàng ngàn tỷ đồng giá trị các loại chứng khoán đã được phát hành, nhưng để có thị trường chứng khoán thứ cấp (Sở giao dịch chứng khoán ) - một yêu cầu cấp thiết trong huy động vốn thì chúng ta cần phải tạo lập được môi trường pháp lý, tâm lý, kỹ thuật ở mức tối thiểu cần thiết, đồng thời phải tạo lập được khối lượng hàng hoá chứng khoán đủ mạnh, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu có giá trị, có khả năng thu hút người mua. 2. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính Việt Nam. Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển. Chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới dựa trên nền tảng là quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Chúng ta đã đạt một số kết quả ban đầu đáng khích lệ nhưng so với khu vực và thế giới chúng ta vẫn là một nước chậm phát triển. Trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, vốn cho sản xuất là vô cùng cần thiết và không thể thiếu. Tiềm năng kinh tế của ta có, lực lượng lao động dồi dào đang ngày càng có tay nghề cao trong nhiều lĩnh vực, chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển nhanh hơn nữa. Vấn đề đặt ra là làm sao có vốn để đầu tư khai thác những tiềm năng sẵn có ấy phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước hiện nay. Hiện nay dễ nhận thấy có hai nguồn vốn cơ bản mà chúng ta đang tập trung khai thác đó là vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước. Vốn từ nước ngoài có nhiều ưu điểm .hơn nữa nó còn đi liền với công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến. Bên cạnh đó vốn từ nước ngoài cũng có những nhược điểm nhất định. Thứ nhất, chúng ta phải đối mặt với lạm phát gia tăng và nguy cơ khủng hoảng về tài chính giống như một số nước Đông Nam á trước đây. Thứ hai, các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có thể sẽ lấn át thành phần kinh tế nhà nước khiến chúng ta lệ thuộc về kinh tế từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị. Vốn đầu tư trong nước: Trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay Đảng ta đã xác định dựa vào nguồn lực trong nước là chính do vậy vốn đầu tư trong nước được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đây là nguồn vốn có giới hạn nhưng không nhỏ. Làm sao thu hút được nguồn vốn này vào đầu tư ? Thị trường chứng khoán sẽ thoả mãn tối đa nhu cầu vốn trung và dài hạncủa nền kinh tế. Chỉ có thị trường chứng khoán mới thực hiện được mục tiêu này. thị trường chứng khoán khi ra đời, sẽ là một kênh huy động vốn mới, cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và Chính phủ huy động tối đa các nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Bài học kinh nghiệm từ các nước phát triển trên thế giới cho thấy : không thể triển khai các dự án tiến bộ vao sản xuất nếu không tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong dân chúng thành nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng vào những mục tiêu trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán có vai trò to lớn đối với nền kinh tế, không có nền kinh tế nào có thể phát triển mà không có sự đóng góp to lớn của thị trường chứng khoán . 2.1 Thị trường chứng khoán là một công cụ tài chính hữu hiệu nhằm khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho phát triển kinh tế . Đối với một doanh nghiệp, để huy động nguồn vốn đầu tư cho phát triển từ bên ngoài có hiệu quả, họ phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng (đầu tư gián tiếp qua ngân hàng ) và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp ). Thị trường chứng khoán sẽ đưa cho dân chúng những công cụ mới đa dạng, phong phú phù hợp với từng loại đói tượng có tâm lý và suy nghĩ riêng. Cả một hệ thống gồm hàng loạt các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau của nhiều ngành kinh tế, người có vốn có thể tự mình lựa chọn, hoặc thông qua những nhà tài chính chuyên môn lựa chọn những hình thức thích hợp nhất. Mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường chứng khoán lợi nhuận thu được hàng năm chỉ là một phần của lợi ích. Phần quan trọng hơn là mệnh giá cổ phiếu gia tăng do công ty tự tích luỹ, và giá chứng khoán trên thị trường cao hơn mệnh giá do uy tín của công ty phát hành. Bên cạnh đó còn là việc người có vốn có thể thực hiên quyền kiểm soát công ty khi họ nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết... Đó chính là những tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm trong dân chúng. Ngoài ra trong hoạt động của xã hội của cả nước ta, luôn có những loại quỹ có vốn bằng tiền như bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể, và các loại quỹ tương trợ khác. Một phần vốn của quỹ này được gửi vào ngân hàngdưới hình thức tiền tiết kiệm đẻ láy lãi. Số còn lại quan trọng hơn nhiều, những nhà quản lý quỹ luôn tìm cách làm cho số vốn của họ được sinh lợi nhiều nhất nhưng lại phaỉ an toàn và phải có tính tạm thời, họ có thể rút ra để đáp ứng các khoản chi chứng khoánần thiết của các quỹ... thị trường chứng khoán có khả năng giải quyết các yêu cầu đó. Mỗi người trong xã hội chỉ có một lượng tiền nhỏ, nhưng kết hợp lại sẽ thành một lượng lớn khổng lồ. Số tiền này được tập trung qua thị trường chứng khoán để đưa vào công cuộc đầu tư có tính sản xuất. Nhờ thị trường chứng khoán, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ phiếu quỹ đầu tư, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia được vào công cuộc đầu tư bằng số vốn ít ỏi của mình và do đó sẽ tạo ra một số tiền rất lớn phục vụ đầu tư sản xuất. Hoạt động của thị trường chứng khoán và khả năng mang lại lợi nhuận của nó đã khiến người ta thấy nắm giữ tiền mặt và những tài sản khác là rất vô lý. 2.2 Thị trường chứng khoán là một công cụ giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế -xã hội Nhà nước ta phải chi tiêu từ ngân sách. Ngân sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ thành công. Nguồn vốn cho cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn chính sách thuế của nước ta. Thuế tuy là biện pháp quan trọng nhất để tạo nên ngân sách nhà nước nhưng chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuân chiều với các chính sách kinh tế và nếu quá lạm dụng nó thì có thể sinh ra rất nhiều tác hại . Bên cạnh đó, tiền thu từ thuế cũng không đủ cho chi tiêu, Nhà nước ta đã phát hành các ảái phiếu ngắn và dài hạn như trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình... và gần đây là công trái giáo dục. Đây là một hình thức vay tạm thời từ nhân dân. Nhưng điều cần nói ở đây là, phần lớn trái phiếu mà Nhà nước ta phát hành là trái phiếu ngắn hạn nhằm đáp ứng các khoản chi tiêu ngân sách trong năm tài khoá . Còn đối với các trái phiếu dài hạn thì rất khó phát hành vì không có thị trường chuyển nhượng cho các trái phiếu. Như vậy sự xuất hiện của thị trường chứng khoán trong thời điểm này là vô cùng cần thiết. Khi thị trường chứng khoán ra đời , nó tạo ra tính thanh khoản (dễ chuyển thành tiền mặt) và tính khả mại (dễ dàng mua bán) của các chứng khoán , bên cạnh đó, nó còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác ... 2.3 Thị trường chứng khoán là công cụ để Nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta là nước đang phát triển, điều mà chúng ta rất cần hiện nay là nguồn vốn để đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng, để nhập các công nghệ từ nước ngoài .Bên canh nguồn vốn nội lực, nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với chúng ta. Các nhà đầu tư nước ngoài trước khi đầu tư, thường xem xét tới môi trường đầu tư , khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi cần thiết. Nếu có thị trường chứng khoán , nơi luôn tạo sự chuyển dịch với các luồng vốn đầu tư, họ sẽ cảm thấy tự tin hơn. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán hoạt động trên nguyên tắc công khai nghĩa là mọi đối tượng tham gia phải công khai hoá và cập nhật toàn bộ những thông tin có liên quan đến giá trị chứng khoán và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực cho cả hai phía. Về khả năng kiểm soát vốn đầu tư vốn nước ngoài của thị trường chứng khoán . Đầu tư thông qua thị trường chứng khoán tức là đầu tư mua bán trên thị trường có tổ chức. Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần được bán cho người nước ngoài. Chẳng hạn khống chế một tỷ lệ nhất định mà cá nhân tổ chức có thể mua nhằm chống sự tham gia quản lý và kiểm soát công ty. Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán . 2.4 Thị trường Chứng khoán giúp lưu động hoá các nguồn vốn trong nước. Các nhà đầu tư cho dù bỏ vốn vào một ngành sản xuất mà họ nghĩ là sẽ sinh lợi, có lúc họ vẫn muốn đầu tư vào một ngành khác vì ngành đó có lợi hơn hơn hoặc để phòng khi ngành sản xuất mà họ đang đầu tư không phát triển nữa hoặc phát triển chậm. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mọi người mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá . Người có vốn không sợ vốn của mình bị bất động trên thị trường vì khi cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu của họ và mua các loại cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác. Sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành,ở nước ta, số các doanh nghiệp mới tăng lên rất nhanh. Giả dụ như nếu có một doanh nghiệp mới thành lập, giá bán cổ phiếu thường thấp và ít người dám mạnh dạn mua, nhưng các nhà đầu có kinh nghiệm có khả năng phân tích, phán đoán được hiệu quả tương lai của doanh nghiệp sau này và họ sẽ bỏ vốn vàođể sau này họ có thể bán lại chứng khoán của mình với giá cao hơn.Do đó, vốn luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu tư khác nhau. Qua đó nó làm cho mọi nguồn vốn trở nên lưu động hơn. Điều này sẽ góp một phần thúc đẩy sự ra đời các doanh nghiệp ở nước ta . 2.5 Thị trường Chứng khoán là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá. Nhà nước ta đang kêu gọi các doanh nghiệp thực hiên quá trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá là quá trình chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, quá trình đó đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán bởi lẽ công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là như hình với bóng. Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán sẽ tạo tiền đề cho quá tình cổ phần hoá đi đúng hướng và tuân thủ theo luật pháp.Giá cả cổ phiếu của doanh nghiệp được hình thành một cách khách quan trên cơ sở định giá tài sản khi thực hiện cổ phần hoá, phản ánh giá trị hiện tại đích thực của doanh nghiệp . Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác với mục tiêu chủ yếu là thu hút những nguồn vốn trong tay quần chúng vào đầu tư. 2.6 Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp tuân thủ luật pháp và quan tâm tới hiệu quả. Nhờ có thị trường chứng khoán mà các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành cổ phiếu trái phiếu của họ. Ban quản lý thị trường chứng khoán chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của các công ty đủ tiêu chuẩn: Kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, kinh doanh có lợi và người ta cũng chỉ mua cổ phiếu của công ty thành đạt và có uy tín. Hơn nữa TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công khai các bản báo cáo cân đối tài chính do đó công chúng có thể đánh giá hoạt động của doanh nghiệp . Như vậy để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán đối với công chúng, các doanh nghiệp phải tính toán để quản lý có hiệu quả, không ngừng phát huy tính sáng tạo của doanh nghiệp và phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật. Thị trường chứng khoán chính là tấm gương phản chiếu chất lượng của hoạt động kinh doanh vì giá cổ phiếu phản ánh tình hình hoạt động của công ty. Sự tăng nhu cầu vào một loại chứng khoán nào chứng tỏ công ty đó đang hoạt động tốt. 3. Quá trình ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Để tiến hành công cuộc công nghiệp hoá nền kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền phải cần đến một khối lượng lớn vốn đầu tư dài hạn mà thị trường vốn ngắn hạn không thể đáp ứng được. Do vậy, khi công cuộc đổi mới đạt được những thành quả quan trọng bước đầu, Chính phủ Việt Nam đã có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với việc xây dựng và vận hành thị trường chứng khoán ở Việt Nam nhằm tạo thêm một kênh mới quan trọng huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế, đồng thời tạo thêm các khả năng lựa chọn về tiết kiệm và đầu tư cho nhân dân. Năm 1992, các tổ nghiên cứu thuộc Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước bắt đầu nghiên cứu đề án hình thành và phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Năm 1993, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập “Ban nghiên cứu xây dựng thị trường vốn" là đơn vị chuyên nghiên cứu về lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Năm 1995, trên cơ sở đề án của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, và Ban Kinh tế Trung ương, Chính phủ đã quyết định thành lập Ban chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán. Ngày 28/11/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 75/CP thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ quản lý các hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam.Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự khác biệt so với các quốc gia khác ở chỗ: UBCKNNVN ra đời trước khi có thị trường chứng khoán và là một bộ phận quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam; TTGDCK là một bộ phận trực thuộc của UBCKNN, hoạt động trước khi có thị trường chứng khoán.Ngay sau khi chính thức đi vào hoạt động (4/1997), mặc dù kinh tế đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu á, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng khuôn khổ pháp lý, tạo hàng hoá, các tổ chức tài chính trung gian cũng như các điều kiện khác cho sự ra đời của thị trường chứng khoán. Ngày 11/07/1998 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai Trung tâm Giao dịch Chứng khoán ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được chính thức ban hành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng banđầu để Chính phủ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan xây dựng các văn bản thực thi tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho việc hình thành và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 20/07/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương và đi vào hoạt động. Sau hơn một năm hoạt động, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã đạt được một số thành công đáng kể, thể hiện sự tập trung, nỗ lực của Đảng, Chính phủ và toàn thể cán bộ nhân viên ngành chứng khoán. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đã tạo ra một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế và đã xây dựng cho Việt Nam một chỉ số kinh tế mới, tuy chưa phản ánh đầy đủ thực trạng nền kinh tế nhưng cũng đã thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. II. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau gần ba năm hoạt động (tính tới thời điểm tháng 4/2003) 1. Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam: 1.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán : 1.1.1. Hoạt động phát hành và niêm yết và công bố thông tin: +Tiêu chuẩn phát hành, niêm yết: Tổ chức phát hành muốn phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép, trừ việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Tổ chức phát hành, niêm yết cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng phải thảo mãn các điều kiện sau: - Có mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam; - Hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục gần nhất; - Thành viên hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh; - Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn có từ đợt phát hành cổ phiếu; - Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành; - Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trong trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cỏ phần của tổ chức phát hành (đối với cổ phiếu); - Cổ đông sáng lập phải giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể tư ngày kết thúc đợt phát hành; - Tối thiểu 20% tổng giá trị trái phiếu phát hành phải được bán cho hơn 100 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp tổng giá trị trái phiếu phát hành trên 100 tỷ đồng thì tỷ lệ này tối thiểu 15% (đối với trái phiếu). + Công bố thông tin: - Tổ chức Phát hành chứng khoán, Công ty quản lý Quỹ: trong thời gian 5 ngày, kể từ ngày nhận được giấy phép phát hành, có nghĩa vụ công bố thông tin trên 5 số liên tiếp của một tờ báo Trung ương và một tờ báo địa phương, là những thông tin trong hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận để phát hành; - Tổ chức Phát hành chứng khoán, Công ty quản lý Quỹ: Có nghĩa vụ công bố thông tin tức thời và công bố thông tin theo yêu cầu của TTGDCK và UBCKNN tuân theo Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán ban hành theo Quyết định 04/1999/QĐ-UBCK1 ngày 27/3/1999 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Tính đến tháng 7 năm 2002 số tàì khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng được mở tại các C.ty CK là gần 12.000, trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay đã có 17 loại cổ phiếu và 27 loại trái phiếu được niêm yết – một con số chưa phải là nhiều nhưng đã cho thấy xu thế ngày càng phát triển của thị trường. Theo báo cáo tài chính, các công ty niêm yết đều hoạt động tốt có lãi, doanh thu tăng từ 25 đến 30% một năm, lợi nhuận tăng 20 đến 60% một năm. TTGDCK TP Hồ Chí Minh đã thực hiện được 322 phiên giao dịch, tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là 41 triệu cổ phiếu và 841.000 trái phiếu, Tổng giá trị giao dịch đạt gần 1.700 tỷ đồng. Bình quân giá trị trong một phiên giao dịch đạt 5 tỷ đồng. 1.1.2 . Hoạt động của các công ty chứng khoán : Số công ty chứng khoán được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã cấp phép hoạt động hiện nay ngày càng gia tăng: Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt; Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư& Phát triển; Công ty Cổ phần Chứng khoán khách sạn Sài Gòn; Công ty Cổ phần Chứng khoán Đệ Nhất; Công ty TNHH Chứng khoán Thăng Long; Công ty TNHH Chứng khoán ACB; Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam; Công ty Cổ phần TNHH Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam... Trong số các công ty chứng khoán này có Công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Thăng Long xin cấp phép thực hiện 3 nghiệp vụ: môi giới, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư; Công ty cổ phần chứng khoán khách sạn Sài Gòn xin cấp phép thực hiện 2 nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư. Các công ty còn lại đã được cấp giấy phép thức hiện kinh doanh cả 5 loại hình nghiệp vụ: Nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư. Ngoài việc cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước còn hướng dẫn các công ty chứng khoán mở các chi nhánh và đại lý ở các tỉnh để thu hút nhiều nhà đầu tư từ các tỉnh tham gia vào thị trường. 1.1.3 . Hoạt động của trung tâm Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh: Hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. HCM quy mô hoạt động còn nhỏ (cho khoảng 40-50 chứng khoán). Hoạt động giao dịch được thực hiện tại Sàn giao dịch. Khách hàng muốn giao dịch phải mở tài khoản tại công ty chứng khoán. Các lệnh mua- bán chứng khoán được tập hợp tại trụ sở chính hoặc tại chi nhánh của công ty chứng khoán, sau đó được chuyển tới đại diện của công ty chứng khoán tại Sàn giao dịch để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm. Sau khi khớp lệnh kết quả giao dịch sẽ được thông báo cho đại diện của công ty chứng khoán tại Sàn giao dịch đề công ty chứng khoán xác nhận cho khách hàng. Kết quả giao dịch cũng được chuyển qua hệ thống thanh toán, bù trừ để thực hiện thanh toán và chuyển giao chứng khoán. Việc chuyển giao chứng khoán được thực hiện thông qua tài khoản của công ty chứng khoán mở tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và việc chuyển giao tiền được thực hiện thông qua tài khoản của công ty mở tại Ngân hàng chỉ địng thanh toán. Toàn bộ hoạt động thanh toán được thực hiện dưới hình thức ghi sổ thông qua hệ thống tài khoản, không có bất kỳ hoạt động chuyển giao chứng chỉ vật chất nào. Ngày 1 tháng 3 năm 2002, thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu áp dụng chính thức thời gian biểu giao dịch 5 phiên một tuần. Thời gian giao dịch trong các phiên từ 9h đên 10h vào các buổi sáng từ thứ 2 đến thứ 6, điều này đã góp phần tạo nên sự liên tục trong quá trình hoạt động của thị trường, đồng thời góp phần làm tăng quy mô giao dịch của thị trường. Giám Đốc mô hình tổ chức của trung tâm giAo dịch chứng khoán tp. Hồ chí minh Các Phó Giám đốc Phòng NC và T.tin thị trường Phòng Giao dịch Phòng Giám sát thị trường Phòng Đăng ký, Thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán Phòng Quản lý Niêm yết Phòng Quản lý Thành Viên Phòng Hành Chính nhân sự Phòng Kế toán Phòng Công nghệ tin học 1.2 Thị trường chứng khoán Việt Nam hợp tác quôc tế 1.2.1. Hợp tác song phương Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới trong việc đào tạo cán bộ cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, các tổ chức cá nhân tham gia thị trường chứng khoán; kinh nghiệm xây dựng khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đề án xây dựng Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán; cung cấp các thiết bị máy móc kỹ thuật, phần cứng, phần mềm cho hệ thống giao dịch, bảng điện tử cho Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và các Công ty Chứng khoán. Mở rộng quan hệ quốc tế qua các Dự án để hỗ trợ cho việc nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ, quản lý giám sát của cán bộ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và điều hành hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; tiếp thu những kinh nghiệm quản lý điều hành trên thị trường chứng khoán. 1.2.2 Hợp tác đa phương Ngoài việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước còn tích cực mở rộng chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế lớn như: Tổ chức quốc tế các Uỷ ban Chứng khoán Quốc gia - ISOCO, Ngân hàng Phát triển Châu á - ADB, AUSAID của Australia, Công ty tài chính quốc tế- IFC, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng thế giới - WB... trong việc trợ giúp kỹ thuật về kiểm toán Chuẩn đoán Doanh nghiệp Nhà nớc chuẩn bị hồ sơ niêm yết trên thị trờng chứng khoán và vấn đề Quản trị công ty... 2. Thành tựu và hạn chế. 2.1 Thành tựu. Cho đến nay, thị trường chứng khoán đã dần dần trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. UBCKNN đã cấp phép phát hành tăng vốn và đăng ký niêm yết cổ phiếu của 17 công ty cổ phần với số vốn điều lệ là 878 tỷ đồng. Các công ty niêm yết là các doanh ngiệp có uy tín và hiện nay hoạt động kinh doanh đều có lãi. 9 công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép hoạt động trong đó có 3 công ty cổ phần và 6 công ty TNHH. Mặc dù là lần đầu tiên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thị trường chứng khoán song các công ty chứng khoán đã hoạt động ổn định, tuân thủ các quy định pháp luật của UBCKNN. Hầu hết các công ty CK đều có lãi sớm hơn so với dự kiến. Các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính cho thấy, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2002 các công ty chứng khoán có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo. Từ đầu năm 2002, sau nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường của UBCKNN và TTGDCK, giá các cổ phiếu đã đi vào ổn định. Trải qua thời gian, hoạt động quản lý, vận hành của UBCKNN, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng sâu sát và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệmtừ hoạt động thực tiễn trong quá trình quản lý thị trường chứng khoán đầy mới mẻ và phức tạp này UBCKNN đã đề ra những biện pháp, chính sách thích hợp, kịp thời nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả, không xảy ra những bất ổn đáng tiếc. Các chủ thể tham gia thị trường CK như TTGDCK, công ty niêm yết, công ty chứng khoán, các nhà quản lý, các nhà đầu tư... trải qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực hơn. Các công ty niêm yết đã bắt đầu có chuyển biến trong việc tiếp cận và sử dụng thị trường chứng khoán để huy động và lưu thông vốn, hiểu được sự cần thiết và lợi thế của việc công khai thông tin công ty và quản trị công ty theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao chất lượng và uy tín. 2.2 Hạn chế. Cho đến nay, TTCK Việt Nam vẫn chưa thực sự trở thành một trong những phương thức điều tiết, huy động vốn và là “hàn thử biểu” của nền kinh tế. Chưa thực sự thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước... Dung lượng của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ: tổng giá trị giao dịch khớp lệnh của từng phiên giao dịch tại TTGDCK TP Hồ Chí Minh chỉ từ 2 đến 10 tỷ đồng. Thêm vào đó, mặc dù còn đang ở vào giai đoạn phát triển ban đầu, nhưng những hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường... đã có dấu hiệu manh nha xuất hiện, chúng gây khó khăn không ít cho hoạt động quản lý và điều hành thị trường, đồng thời do tổng mệnh giá các chứng khoán đang niêm yết còn quá nhỏ, cho nên sự thay đổi giá cả của chúng chưa phản ánh được động thái của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, chỉ số chứng khoán đã không những không phát huy được tác dụng mà còn phản ánh không đúng thực trạng tài chính của nền kinh tế: trong những năm qua nền kinh tế quốc dân Việt Nam luôn tăng trưởng với tốc đội cao (6.5 – 7% một năm) trong khi đó chỉ số chứng khoán thì liên tục biến thiên: Vào nửa đầu năm 2001 giá cả các chứng khoán tăng không ngừng (có những cổ phiếu tăng hơn 10 lần so với mệnh giá). Ngược lại từ cuối năm 2001 đến giữa năm 2002 thì giá cả chỉ số chứng khoán lại vận động theo hướng đối lập – giá trị trao đổi của tất cả các cổ phiếu chỉ còn lại ở mức 20 –25% vào thời kì cao điểm. Chương III Định hướng phát triển cho thị trường chứng khoán Việt nam I. Hướng tới một thị trường chứng khoán Việt Nam hoàn chỉnh Mục tiêu phát triển của thị trường trong mấy năm tới là: Tiếp tục củng cố, ổn định hoạt động thị trường, nâng cấp, hiện đại hoá thị trường; hoàn thiện việc quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ người đầu tư có hiệu quả; góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; tạo kênh huy động vốn dài hạn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đề ra là: Củng cố nâng cấp, hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp HCM, tiến tới thành lập Sở giao dịch chứng khoán . Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Đa dạng hoá chủng loại hàng hoá: ngoài cổ phiếu phổ thông, sẽ đưa thêm các loại cổ phiếu, trái phiếu. Phấn đấu cổ phiếu của các công ty niêm yết đều được lưu ký, thanh toán tập chung. Thực hiện nhiệm vụ lưu ký cho các công ty chưa niêm yết. Nâng cao chất lượng chứng khoán niêm yết Khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng. Củng cố và phát triển các công ty chứng khoán. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán, hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán và người đầu tư. Xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động . Tiến tới thành lập hiệp hội chứng khoán Việt Nam hoạt động như một tổ chức tự quản, có vai trò và chức năng tự quản, tự giám sát đảm bảo hoạt động ổn định của các công ty chứng khoán, phát triển thị trường, thúc đẩy sự phát triển của các công ty chứng khoán. II. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán. 1. Hiện đại hoá các hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTGDCK Tp Hồ Chí Minh. - Nâng cấp hệ thống giao dịch tiến tới khớp lệnh liên tục, hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán. - Nâng cấp hệ thống công bố thông tin, đảm bảo có hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy nhập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. - Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ bao gồm thông tin giao dịch trên thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thông tin về các tổ chức trung gian thị trường và thông tin quản lý thị trường... - Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Phấn đầu cổ phiếu của các công ty niêm yết đều được lưu ký, thanh toán tập chung. Thực hiện nhiệm vụ lưu ký cho các công ty chưa niêm yết, tiến tới thành lập trung tâm lưu ký độc lập. 2. Đa dạng các chủng loại hàng hoá, tăng cung cho thị trường chứng khoán . Hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chủng loại chứng khoán rất đơn điệu. Do đó, cần phải thực hiện một số giải pháp sau: - Cần nghiên cứu ban hành quy định về phát hành và niêm yết chứng khoán thực hiện thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tổ chức của nhà nước. Gắn chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp NN, chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với việc đưa các doanh nghiệp này tham gia phát hành, niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thực hiện chính sách bình đẳng đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, hạn chế cơ bản các chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp NN. - Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu của ngân hàng thương mại, cổ phiếu của các công ty lớn, cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp, chuyển đổi chứng chỉ quỹ đầu tư vào niêm yết Cần củng cố và tăng cường việc phát hành các chứng khoán chính phủ: cho đến nay ở Việt Nam mới chỉ thí điểm phát hành các trái phiếu chính phủ (trung ương), việc phát hành chứng khoán của các cấp chính quyền địa phương hầu như chưa được quan tâm. Kinh nghiệm thế giới cho thấy: trong các thị trường chứng khoán phát triển, tỷ lệ giữa chứng khoán công ty và chứng khoán chính phủ thường là 1/1 (dung lượng của hệ thống chứng khoán chính phủ chiếm khoảng 50% toàn bộ dung lượng thị trường chứng khoán). Trong khi đó, các nhà đầu tư mới chỉ quan tâm đến việc giao dịch và đầu tư cổ phiếu còn các chứng khoán chính phủ – loại hình chứng khoán có mức độ rủi ro nhỏ nhất lại ít được quan tâm nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Do đó, cần phát hành các loại hình trái phiếu có thời hạn khác nhau, với lãi suất thay đổi (căn cứ vào tình hình thực tế của thị trường tài chính) trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người đầu tư; đối với các chứng khoán công ty, không chỉ thuần tuý phát hành cổ phiếu như hiện nay, mà còn phải tổ chức phát hành các loại hình trái phiếu: trái phiếu chuyển đổi (có thể chuyển thành nhiều loại cổ phiếu khác nhau), trái phiếu có kỳ hạn và lãi suất thay đổi, trái phiếu công trình, trái phiếu được đảm bảo bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh... - Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng chứng khoán niêm yết thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường, hỗ trợ áp dụng các biện pháp quản trị doanh nghiệp hiện đại, chế độ kế toán, kiểm toán và thúc đẩy giám sát chặt chẽ việc công bố thông tin. 3. Đẩy mạnh cầu chứng khoán - Nghiên cứu ban hành các chính sách kích cầu như: phát triển chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp, nới lỏng các quy định hạn chế các tổ chức tín dụng tham gia thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ; nới lỏng hạn chế đầu tư của người nước ngoài, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế.. - Tăng cường kiến thức cho các nhà đầu tư thông qua các chiến dịch đào tạo và phổ biến kiến thức cho công chúng. - Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường bằng việc tăng cường công tác công bố thông tin, nâng cao chất lượng kiểm toán, đồng thời thông qua sự trợ giúp quốc tế từng bước phổ biến và áp dụng những thông lệ về quản trị công ty tốt trên thế giới vào các doanh nghiệp Việt Nam. - Giảm chi phí giao dịch và thời gian cho các nhà đầu tư, đồng thời đa dạng hoá các phương thức giao dịch trên thị trường giúp các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường bất kể thời gian và không gian. - Khuyến khích sự ra đời của các nhà đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư cá nhân và tập thể, quỹ hưu trí và sự tham gia của các công ty bảo hiểm nhằm tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn, khắc phục xu hướng đầu tư ngắn hạn nhằm mục đích đầu cơ. 4. Xây dựng thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Cần xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán ban đầu cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động với chức năng tổ chức, quản lý và vận hành thị trường giao dịch các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên. 5. Phát triển các công ty chứng khoán Phát triển số lượng công ty chứng khoán nhằm tạo ra sự cạnh tranh, cho phép các công ty chứng khoán chuyển nhượng vốn cho các đối tác nước ngoài, lập công ty chứng khoán liên doanh và thực hiện niêm yết cổ phiếu của công ty chứng khoán. Nâng vốn điều lệ tối thiểu của các công ty chứng khoán để nâng cao tiềm lực tài chính của các công ty này, khuyến khích các công ty mở rộng phạm vi kinh doanh và phát triển tất cả các loại hình kinh doanh chứng khoán khác như tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư. Trong giai đoạn tiếp theo, phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình đa doanh và chuyên doanh. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh ở các khu đông dân cư, những khu vực chưa có điều kiện mở chi nhánh nhằm thu hút thêm các nhà đầu tư. Khuyến khích các ngân hàng thương mại được làm tổ chức lưu ký, đại lý nhận lệnh. Mở rộng các hình thức nhận lệnh từ xa. Khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng. Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lý nhận lệnh của các công ty chứng khoán. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán, hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán và người đầu tư. Công ty chứng khoán cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về giao dịch, về công ty niêm yết cho các nhà đầu tư ngay tại trụ sở, chi nhánh đại lý nhận lệnh. - Phát triển hệ thống tác nghiệp tập trung cho các công ty chứng khoán để hiện đại hoá hệ thống tác nghiệp trên cơ sở tiết kiệm chi phí, dễ dàng chia sẻ thông tin giúp cho việc quản lý được thuận tiện, nâng cao chất lượng xử lý giao dịch và dễ dàng nâng cấp trong tương lai. 6. Khuyến khích việc thành lập các công ty tư vấn, công ty quản lý quỹ, công ty niêm yết, quỹ đầu tư chứng khoán. Để phát triển thị trường chứng khoán một cách đồng bộ thì không thể thiếu được sự hiện diện và tham gia trực tiếp của các công ty tư vấn, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán. ở những thị trường chứng khoán phát triển, sự tham gia của công chúng và các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào tình hình phát triển của các công ty này (chúng giúp các nhà đầu tư xây dựng các danh mục đầu tư, hạn chế tối đa những rủi ro, nhận uỷ thác đầu tư chứng khoán cho công chúng và các nhà đầu tư khác...) Mặc dù các công ty chứng khoán ở Việt Nam là những pháp nhân thực hiện nhiệm vụ tư vấn đầu tư, đại lý phát hành, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, nhưng hầu như những công ty này vẫn chưa giúp được các nhà đầu tư phân tích tình hình, dự đoán diễn biến thị trường, chưa giúp được các nhà đầu tư xây dựng chiến lược đầu tư - kinh doanh... do đó, chưa chiếm được lòng tin của công chúng và các nhà đầu tư. Ngược lại, trên thực tế, nhiều nhà đầu tư đã và đang bị cuốn hút vào quá trình đầu cơ - một trong những nguyên nhân gây ra sự mất ổn định trên thị trường chứng khoán kể từ khi thành lập đến nay. Sự thành lập các công ty tư vấn, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán đang ngày càng trở nên cấp bách và tất yếu để thực hiện nhiệm vụ củng cố và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. - Khuyến khích các công ty quản lý quỹ tăng vốn và mở rộng hoạt động; khuyến khích thành lập công ty liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực quản lý quỹ. Ban hành chính sách ưu đãi hợp lý đối với các công ty niêm yết, các quỹ đầu tư, đặc biệt là ưu đãi về thuế. Ban hành các chính sách khuyến khích sự ra đời của các công tư đầu tư mạo hiểm. - Hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc áp dụng quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tê. - Phát triển hệ thống qũy đầu tư chứng khoán, đặc biệt các quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng; Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam; ban hành chính sách ưu đãi thuế để đảm bảo việcđầu tư vào thị trường chứng khoán qua quỹ đầu tư không chịu thuế cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. 7. Công nghệ mua bán chứng khoán cần được cải tiến và thực hiện theo sơ đồ sau: Các nhà đầu tư, các nhà môi giới, bên bán Các nhà đầu tư, các nhà môi giới, bên mua đầu giá đấu giá chứng khoán Các nhà đầu tư, các nhà môi giới, bên mua Các nhà đầu tư, các nhà môi giới, bên bán chứng khoán Đấu giá giữa hai bên Các hợp đồng mua - bán chứng khoán Các bộ phận nghiệp vụ khác: - Đăng ký – chuyển khoản – lưu ký – thanh toán bù trừ... 8. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước - Bộ máy UBCKNN phải được tổ chức là cơ quan quản lý trong lĩnh vực , ngành hoạt động độc lập, đáp ứng yêu cầu quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán . - Đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp lý bao gồm việc sửa đổi, bổ sung và nâng cấp hệ thống văn bản pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán và các văn bản luật chuyên ngành khác. Trong thời gian trước mắt, Chính phủ cho phép tiến hành thí điểm đưa một số doanh nghiệp liên doanh và ngân hàng thương mại cổ phần ra niêm yết. Việc thí điểm này có ưu điểm là rút ngắn được thời gian thực hiện, đồng thời cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm để việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp lý sau này được chính xác và hợp lý hơn. - Việc đào tạo nguồn nhân lực phải có sự phối hợp giữa UBCKNN và các cơ quan hữu quan, với các định chế hoạt động trên thị trường, trong đó, bao gồm đào tạo các nhà quản lý, nhân viên tác nghiệp và công chúng đầu tư, xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu quản lý, tác nghiệp trên thị trường chứng khoán. 9. Bảo vệ lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư Vấn đề bảo vệ lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư là một trong những nguyên tắc tối cao của mọi thị trường chứng khoán, là động lực thúc đẩy sự tham gia của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Sự chao đảo của thị trường chứng khoán Việt Nam đã khiến cho nhiều nhà đầu tư phải xa lánh thị trường. Vì vậy, cần phải xây dựng được bộ luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán – cơ sở pháp lý của tất cả các hoạt động liên quan đến phát hành và lưu thông chứng khoán, đồng thời bảo vệ lợi ích của công chúng và các nhà đầu tư - động lực thúc đẩy sự tham gia trên thị trường chứng khoán. 10. Đảm bảo được lực lượng con người cần thiết, có chuyên môn về chứng khoán để tham gia vào thị trường. Các đơn vị nhỏ nhất cấu thành TTCK chính là con người, mọi hoạt động nào trên TTCK cũng do con người thực hiện. Để xây dựng thành công TTCK, chúng ta phải có đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, đội ngũ những người kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đội ngũ cán bộ quản lý tài chính công ... đồng thời phải thu hút được một bộ phận đông đảo các nhà đầu tư có hiểu biết về chứng khoán, sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tham gia vào thị trường. - Cần tăng cường công tác đào tạo và phổ biến kiến thức, bởi chỉ khi nào thực sự có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp mới có đủ sự tự tin và quyết tâm cần thiết để tham gia thị trương. Và cũng chỉ khi nào có kiến thức về thị trường chứng khoán thì việc tham gia thị trường mới có thể thực sự mang lại lợi ích kinh tế cho từng doanh nghiệp và cho cả nền kinh tê. 11.Củng cố, phát triển hệ thống thanh tra, giám sát hiện đại, tự động hoá. - Cùng với các bộ luật được ban hành, việc tăng cường các hoạt động giám sát thị trường là vô cùng cần thiết. Từ đó, thông qua việc tăng cường tổ chức các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành các chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nhằm làm cho thị trường chứng khoán hoạt động ngày càng hiệu quả. 12. Xúc tiến thành lập hiệp hội các nhà đầu tư - kinh doanh chứng khoán Việt Nam. - Để khắc phục những hiện tượng tiên cực như sự cạnh tranh không lành mạnh, thao túng, lũng đoạn... trên thị trường, và nhằm mục tiêu làm giảm các chi phí giao dịch, tăng cường sự liên minh, liên doanh, liên kết trong quá trình đầu tư - kinh doanh chứng khoán - đặc biệt là do khuynh hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường OTC, việc thành lập các tổ chức tự quản, phi chính phủ của các nhà đầu tư - kinh doanh chứng khoán là tất yếu khách quan và là hiện thực ở hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới. UBCKNN cần giúp đỡ các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam thành lập tổ chức phi lợi nhuận dưới hình thức các câu lạc bộ, hiệp hội của các nhà đầu tư - kinh doanh chứng khoán; sau đó từng bước phát triển thành các trung tâm của thị trường chứng khoán OTC ở Việt Nam. Tiến tới thành lập hiệp hội chứng khoán Việt Nam hoạt động như một tổ chức tự quản, có vai trò và chức năng tự quản, tự giám sát đảm bảo hoạt động ổn định của các công ty chứng khoán, phát triển thị trường, thúc đẩy sự phát triển của các công ty chứng khoán. ******************************************** C. PHần kết luận Như vậy, dù mới chỉ được thành lập từ 20/7/2000 song thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được một số thành quả nhất định. Các chủ thể tham gia thị trường CK như TTGDCK, công ty niêm yết, công ty chứng khoán, các nhà quản lý, các nhà đầu tư... trải qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực hơn. Cho đến nay, thị trường chứng khoán đã dần dần trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế không thể tránh khỏi, nhất là khi nhận thức về chứng khoán của người dân còn chưa cao. Vì vậy, để xây dựng một thị trường chứng khoán hoàn hảo thì chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Vũ Văn Hân đã giúp em thực hiện bài viết. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô. Hà Nội ngày 20/5/2003. Sinh viên thực hiện Nguyễn Bạch Dương. Nội dung chính Chương I Lý luận chung về thị trường chứng khoán 3 I. Một số hiểu biết về chứng khoán. 3 1. Khái niệm chứng khoán 3 2. Đặc trưng của chứng khoán 4 3. Phân loại chứng khoán 5 II. Thị trường chứng khoán 7 1. Khái niệm 7 2. Cơ cấu thị trường chứng khoán 8 3. Chức năng của thị trường chứng khoán 9 3.1. Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 9 3.2 Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán 9 3.3 Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế 10 3.4 Chức năng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô 10 4. Các nguyên tắc hoạt động của thị trương chứng khoán 10 4.1 Nguyên tắc cạnh tranh tự do 10 4.2 Nguyên tăc giao dịch công bằng 11 4.3 Nguyên tắc công khai 11 4.4 Nguyên tắc trung gian mua bán 11 5. Các tổ chức và cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán 12 5.1 Nhà phát hành 12 5.2 Nhà đầu tư 12 5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 12 5.3.1 Công ty chứng khoán 12 5.3.2 Các Ngân hành thương mại 13 5.3.3 Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán 13 5.3.4 Công ty quản lỹ quỹ đầu tư chứng khoán 13 5.4 Các tổ chức có liên quan trên thị trường chứng khoán 14 5.4.1 Cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán 14 5.4.2 Sở giao dịch chứng khoán 14 5.4.3 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 14 5.4.4 Tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh toán 14 5.4.5 Các tổ chức tài trợ chứng khoán 14 5.4.6 Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm 15 Chương II Quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam 16 I. Sự hình thành thị trường chứng khoán ở việt nam 16 1. Đặc điểm thị trường tài chính nước ta trước khi có thị trường chứng khoán 16 2. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính Việt Nam 21 2.1 Thị trường chứng khoán là một công cụ tài chính hữu hiệu nhằm khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho phát triển kinh tế 22 2.2 Thị trường chứng khoán là một công cụ giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội 23 2.3 Thị trường chứng khoán là công cụ để Nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 24 2.4 Thị trường Chứng khoán giúp lưu động hoá các nguồn vốn trong nước. 25 2.5 Thị trường Chứng khoán là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá. 25 2.6 Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp tuân thủ luật pháp và quan tâm tới hiệu quả 26 3. Quá trình ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam 26 II. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau gần ba năm hoạt động (tính tới thời điểm tháng 4/2003) 28 1. Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 28 1.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán 28 1.1.1. Hoạt động phát hành và niêm yết và công bố thông tin 28 1.1.2 . Hoạt động của các công ty chứng khoán 30 1.1.3 . Hoạt động của trung tâm Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh 31 1.2 Thị trường chứng khoán Việt Nam hợp tác quôc tế 33 1.2.1. Hợp tác song phương 33 1.2.2 Hợp tác đa phương 33 2. Thành tựu và hạn chế. 33 2.1.Thành tựu .33 2.2. Hạn chế 35 Chương III Định hướng phát triển cho thị trường chứng khoán Việt nam 36 I. Hướng tới một thị trường chứng khoán Việt Nam hoàn chỉnh 36 II. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán 37 1. Hiện đại hoá các hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTGDCK Tp Hồ Chí Minh 37 2. Đa dạng các chủng loại hàng hoá, tăng cung cho thị trường chứng khoán 38 3. Đẩy mạnh cầu chứng khoán 39 4. Xây dựng thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 40 5. Phát triển các công ty chứng khoán 40 6. Khuyến khích việc thành lập các công ty tư vấn, công ty quản lý quỹ, công ty niêm yết, quỹ đầu tư chứng khoán 41 7. Công nghệ mua bán chứng khoán cần được cải tiến 42 8. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước 43 9. Bảo vệ lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư 44 10. Đảm bảo được lực lượng con người cần thiết, có chuyên môn về chứng khoán để tham gia vào thị trường 44 11.Củng cố, phát triển hệ thống thanh tra, giám sát hiện đại, tự động hoá 45 12. Xúc tiến thành lập hiệp hội các nhà đầu tư - kinh doanh chứng khoán Việt Nam 45 Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thị trường chứng khoán - Học viện Tài chính. 2. Giáo trình thị trường chứng khoán - Trường Đại học Ngoại thương 3. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 4. Chứng khoán và đầu tư chứng khoán - T.S Lý Vinh Quang. 5. Việt Nam với thị trường chứng khoán - Tác giả Bùi Nguyên Hoàn. 6. Thị trường chứng khoán - phương thức hoạt động và kinh doanh - Tác giả Nguyễn Trần Quế 7. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 07 năm 2002. số 12 năm 2002. số 01 năm 2003. số 02 năm 2003. số 04 năm 2003. 8. Tạp chí Đầu tư Chứng khoán các số ra hàng tuần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36983.doc
Tài liệu liên quan