Chuyên đề Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội

Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành. Việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thương mại còn gặp nhiều khó khăn vì việc tiếp cận các thông tin giúp cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng, dự án (các thông tin về triển vọng kinh doanh ngành, các chỉ số trung bình ngành về tỷ số tài chính, giá thành ) hiện vẫn còn nhiều hạn chế và hầu như là không có. Vì vậy, Chính phủ cần giao cho Tổng cục thống kê phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình của các ngành kinh tế. Đây là thông tin hết sức quan trọng trong việc xem xét, đánh giá khách hàng trên cơ sở so sánh với trung bình ngành, qua đó giúp cho các ngân hàng thương mại có những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh tín dụng, cấp vốn cho các dự án đầu tư. Tăng cường giám sát nội bộ và kiểm toán đối với doanh nghiệp và các dự án đầu tư. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập tài chính quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tài chính kế toán. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường vai trò và hoạt động kiểm toán và giám sát nội bộ. Các công ty kiểm toán không chỉ dừng lại ở việc cung cấp đơn thuần dịch vụ kiểm toán mà cần tư vấn cho các doanh nghiệp, dự án về tài chính, kế toán và giải pháp quản lý, góp phần lành mạnh hóa hoạt động của các doanh nghiệp, dự án. Nhà nước cũng cần sớm ban hành quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng có nguồn thông tin đáng tin cậy trong việc đưa ra quyết định cho vay hợp lý, an toàn.

doc110 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch hàng, xử lý nợ xấu... Đối với điểm yếu này, so với thông lệ quốc tế hiện tại, cần phải khắc phục để đảm bảo các nguyên tắc của một môi trường văn hóa tín dụng lành mạnh. Và theo thông lệ quốc tế hiện tại yêu cầu phải có sự tách bạch, phân định giữa các khâu: Đề xuất tín dụng – Phê duyệt tín dụng – Lưu hồ sơ tín dụng – Giải ngân. Do vậy, cơ cấu tổ chức của nghiệp vụ tín dụng cần phải được thiết kế lại để hỗ trợ cho nguyên tắc này. Nếu cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng được thiết kế tốt như vậy, chắc chắn giữa các bộ phận, các khâu sẽ tự kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau, và do đó sẽ làm hạn chế tốt nhất khả năng xảy ra rủi ro tín dụng nói chung, khả năng xảy ra rủi ro đối với các dự án đầu tư được cho vay nói riêng. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro, quy trình quản lý rủi ro các dự án đầu tư chưa hiệu quả. Quản lý rủi ro các dự án đầu tư được cho vay vốn là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng dự án, hạn chế rủi ro xảy ra trong hoạt động của dự án, giảm thiểu sự tổn thất không để ngân hàng không thu hồi được nợ. Nội dung chủ yếu của quản lý rủi ro các dự án đầu tư được vay vốn là phát hiện, phân loại, đánh giá rủi ro: nhận diện rủi ro qua các dấu hiệu cảnh báo và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, khắc phục và xử lý đối với các dự án có dấu hiệu rủi ro. Tuy nhiên, hiện nay Chi nhánh chưa có một tổ chức chuyên trách đứng ra chuyên quản lý rủi ro các dự án sau khi cho vay, cũng như có các quy trình quản lý rủi ro tín dụng chuẩn để thực hiện. Việc quản lý rủi ro đối với các dự án đầu tư vẫn do hai phòng khách hàng doang nghiệp và Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề cùng phối hợp thức hiện. Hai phòng này vừa là người xét duyệt cho các dự án đầu tư vay vốn, cũng vừa là người theo dõi, giám sát khoản vay của các dự án đó. Do vậy, ở đây chưa có sự tách bạch và chuyên môn hóa, hai phòng này vừa đá bóng, vừa thổi còi. Chính việc này sẽ tạo cơ hội cho những cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định bị suy thoái về đạo đức nghề nghiệp lợi dụng làm trái với quy định, gây ra những rủi ro. Hệ thống hỗ trợ đo lường rủi ro tín dụng còn yếu kém. Hiện nay, đối với các dự án đầu tư Chi nhánh đang áp dụng hai công cụ để đánh giá rủi ro chủ yếu là: đánh giá dựa vào phương pháp định tính và phương pháp cho điểm. Phương pháp đánh giá rủi ro định tính dựa trên sự phân tích của các Cán bộ tín dụng về hoạt động của dự án, khả năng sinh lời, khả năng trả nợ trong tương lai và lịch sử hoạt động, lịch sử vay nợ của chủ đầu tư thực hiện dự án, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Thực tế, phương pháp này đã được thực hiện từ rất lâu tại Chi nhánh, đã được các Cán bộ tín dụng lâu năm tích lũy thành kinh nghiệm, tuy nhiên các kinh nghiệm đó tồn tại ở từng cá nhân, không được tổng kết, ghi chép lại thành bài học kinh nghiệm cho các thế hệ đi sau. Hơn nữa, trong quá trình đánh giá, Cán bộ tín dụng không nhất trí về cách xem xét các tiêu trí định tính như chất lượng quản lý, đặc điểm ngành nghề, khả năng cạnh tranh hay chính sách tài chính. Do đó, chất lượng của việc đánh giá rủi ro theo phương pháp định tính phụ thuộc vào trình độ, khả năng của Cán bộ tín dụng và rất khó xác định, thẩm tra. Phương pháp cho điểm dựa trên thực nghiệm: Chi nhánh đang áp dụng việc xếp loại khách hàng bằng cách cho điểm đối với từng tiêu chí lớn như: Nhóm các chỉ tiêu tài chính, nhóm các chỉ tiêu phi tài chính, điểm thưởng, điểm phạt. Tuy nhiên, các tiêu chí để đánh giá, phân loại khách hàng và dự án chưa thật đầy đủ, phù hợp…dẫn đến việc phân loại, đánh giá khách hàng, dự án chưa thật chính xác, trung thực. Chưa có khả năng đo lường một cách liên tục mức độ rủi ro theo yêu cầu quản lý. Không tồn tại một cách lượng hóa để xác định mức độ rủi ro. Hệ thống thông tin không đầy đủ, không kịp thời, không có tính hệ thống và thiếu chính xác. Việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý rủi ro các dự án đầu tư hiện nay tại Chi nhánh còn nhiều bất cập. Đó là chưa có quy định rõ ràng về việc khai thác, xử lý, sử dụng, lưu trữ thông tin. Việc tìm kiếm các thông tin phục vụ công tác tín dụng nói chung và phục vụ công tác hạn chế rủi ro đối với các dự án đầu tư nói riêng thực hiện còn mang tính chắp vá, không thường xuyên. Thể hiện ở một số điểm chính sau: Dữ liệu về các dự án mặc dù bước đầu đã được cập nhật thường xuyên, nhưng vẫn còn khó khăn trong công tác báo cáo phục vụ cho hạn chế rủi ro. Các báo cáo theo các tiêu chí khác nhau còn mất nhiều thời gian để thiết lập. Việc thiết lập hiện nay hiện nay chủ yếu bằng phương pháp thủ công, chưa khai thác được từ các cơ sở dữ liệu. Các thông tin liên quan đến dự án như tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, các thay đổi sở hữu…mặc dù được đánh giá hàng năm nhưng việc lưu trữ vẫn đơn lẻ, khó sử dụng cho các cán bộ khác khi cần tiếp cận. Đối với dự án xuất hiện các dấu hiệu rủi ro, việc thu thập thông tin cũng mang tính thiếu chuyên nghiệp. Mặc dù nhiều nguồn thông tin được hỗ trợ từ các cơ quan ban ngành khác như: Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Thanh tra… nhưng việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin còn dựa nhiều vào giác quan, kinh nghiệm của cán bộ. Như vậy, với hệ thống thông tin phục vụ việc quản lý rủi ro như hiện nay đã và đang gây ra nhất nhiều hạn chế cho công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư. Hiệu quả của hoạt động kiểm tra giám sát dự án và hiệu lực của hệ thống kiểm tra nội bộ chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn do tính độc lập của hệ thống này chưa được đảm bảo, hoạt động chưa thường xuyên. Cán bộ tín dụng, đặc biệt là cán bộ mới vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của hoạt động kiểm tra, giám sát sau khi cho các dự án vay vốn nên vẫn chưa chủ động trong việc lập kế hoạch cũng như tiến hành kiểm tra giám sát hoạt động của dự án vay vốn. Khi đi kiểm tra thực tế dự án, do thiếu kinh nghiệm nên nhiều Cán bộ tín dụng chưa có phương pháp kiểm tra hiệu quả để chứng minh được tính xác thực của thông tin cũng như phát hiện các dấu hiệu rủi ro nếu có. Bộ phận kiểm tra nội bộ có chức năng kiểm tra hoạt động tín dụng, phát hiện kịp thời các tồn tại, sai phạm, những nhân tố rủi ro, những khiếm khuyết trong quy trình nghiệp vụ và đề ra giải pháp xử lý. Vấn đề là cán bộ thuộc bộ phận kiểm tra nội bộ tại Chi nhánh, có quyền lợi lao động gắn liền với kết quả hoạt động của Chi nhánh nên công tác kiểm tra nội bộ đã phần nào mất đi tính độc lập. Trong khi đó, hoạt động kiểm tra nội bộ nghiệp vụ cho vay vẫn chưa áp dụng các kỹ thuật kiểm toán, các phương pháp kiểm toán thích hợp. Việc kiểm tra trên thực tế chỉ là việc kiểm tra các chứng từ riêng lẻ, các món cho vay đơn lẻ, gắn với trách nhiệm của từng nhân viên cụ thể mà chưa phải là kiểm toán hệ thống để có cái nhìn tổng quát về quy trình thực hiện. Do đó, các báo cáo kiểm toán nội bộ vẫn chưa trở thành thông tin đáng tin cậy cho hoạt động quản lý rủi ro tại Chi nhánh. Nguyên nhân. a, Nguyên nhân từ phía dự án. Trong số các nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội thì nguyên nhân xuất phát từ chính dự án là quan trọng nhất. Nhiều dự án có hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, giá thành sản xuất cao, dự án kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên chi phí sử dụng vốn cao dẫn đến gặp rủi ro cao và kết quả là gây thiệt hại lớn cho vốn của ngân hàng. Dự án sử dụng vốn vay sai mục đích. Đây là một trong những hiện tượng khá phổ biến. Dự án vay tiền để thực hiện hạng mục A nhưng lại đem vốn vay để thực hiện đầu tư vào hạng mục B. Việc dự án cố ý sử dụng vốn vay sai mục đích có thể gây ra nhiều nguy cơ tổn thất cho ngân hàng. Tình hình tài chính của dự án và của chủ đầu tư không minh bạch gây ra khó khăn trong việc thẩm định, đánh giá tính khả thi của dự án cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp tiến hành dự án. Khi xét duyệt cho vay, việc phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp và tài chính dự án chưa phản ánh được thực chất tình hình tài chính của dự án và của doanh nghiệp do doanh nghiệp cung cấp các báo cáo tài chính và phương án tài chính của dự án không trung thực. Nhiều dự án khi vay người lập dự án đã cố vẽ ra những viễn cảnh và những con số đẹp để dự án có NPV>0, nhưng thực tế lại rất khác như vậy, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp tiến hành dự án khi gửi cho ngân hàng đều có kết quả kinh doanh lãi, tuy nhiên thực chất lại là lỗ. Hoạt động quản lý kinh doanh của nhiều dự án còn kém, những dự đoán ban đầu của dự án về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra không sát với thực tế. Khả năng điều hành dự án của chủ đầu tư không tốt dẫn đến những sai sót. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì với mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn dự án đầu tư là dự án có thể được ngân hàng xem xét cho vay, đồng thời nhận tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo. Với một tỷ lệ rất thấp như vậy nên đã nảy sinh tâm lý chủ quan, ỷ lại từ phía dự án. Nhiều dự án khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, chưa nỗ lực tìm biện pháp để tháo gỡ, mà thường trông chờ, ỷ lại vào ngân hàng. Bởi theo họ, với mức vốn tự có là 15% chiếm trong tổng giá trị dự án, một tỷ lệ rất nhỏ so với tỷ lệ vốn của ngân hàng đã tham gia vào nên nếu như dự án không hiệu quả thì trước hết, bên bị thiệt hại nhiều hơn là ngân hàng chứ không phải là họ. Đặc biệt đối với các dự án có giá trị lớn, thời gian thực hiện dài, việc theo, quản lý tài sản thường phức tạp nên mức độ rủi ro lại càng gia tăng. Có dự án kém hiệu quả gây ứ đọng vốn vài chục tỷ đồng. Nghiêm trọng hơn, một số, một số chủ đầu tư còn khai thác sự thông thoáng trên để lừa đảo. Thủ đoạn mà họ thường sử dụng là lợi dụng sơ hở của ngân hàng trong quản lý, giám sát tài sản hình thành từ vốn vay, nhất là đối với vật tư, hàng hóa tham gia vào dự án để nâng khống số lượng, giá trị vật tư, hàng hóa lên gấp nhiều lần so với thực tế với mục đích rút hết phần vốn của họ , thậm chí rút sang cả phần vốn của ngân hàng đã đầu tư ra khỏi dự án nhằm chiếm đoạt. Hậu quả là không những dự án kém chất lượng hoặc không hoàn thành, không phát huy tác dụng mà giá trị đích thực của chúng, tức tài sản hình thành từ vốn vay cũng giảm đi rất nhiều. Dự án dẫn đến thua lỗ, phá sản là điều tất yếu. b, Nguyên nhân từ phía Nhà nước. Có sự chồng chéo giữa cho vay thương mại và cho vay theo chỉ định của Nhà nước, kế hoạch Nhà nước, ưu đãi. Nguyên nhân này gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc hạn chế rủi ro các dự án đầu tư. Thực tế cho thấy, hiện nay ở hầu hết các ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung và Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội nói riêng vẫn còn hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ, kế hoạch nhà nước, ODA, ưu đãi. Không ít dự án không khả thi, mạo hiểm, phương diện tài chính yếu kém mà Chi nhánh vẫn phải chấp nhận cho vay. Chính sự chồng chéo này, chính từ việc cho vay ưu đãi với cơ chế xin cho đã tác động tới các chủ đầu tư. Khi họ được vay như vậy, tâm lý đa phần của các chủ đầu tư là của xin được, vay xong rồi thì không có trách nhiệm phải trả nợ, coi như Nhà nước đã cho. Điêù đó làm các chủ đâù tư không trách nhiệm với khoản nợ, không nỗ lực hết mình cho sự phát triển của dự án, để xảy ra những rủi ro cho dự án. Môi trường pháp lý chưa đầy đủ, chưa đồng bộ. Môi trường pháp lý chưa đồng bộ và đang trong quá trình hoàn thiện, đặc biệt là luật Các tổ chức tín dụng, các quy định về tài sản đảm bảo, đăng ký giao dịch đảm bảo,…còn khá nhiều bất cập, chồng chéo. Tại Việt Nam đang còn thiếu đang còn thiếu một cơ chế công bố thông tin đầy đủ đối với doanh nghiệp và khách hàng. Hệ thống kế toán, kiểm toán không theo chuẩn mực quốc tế cũng là một trở ngại lớn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra, giám sát. Ngân hàng nhà nước chậm trễ hình thành trung tâm thông tin phòng chống rủi ro (CIC), trao đổi kinh nghiệm phòng chống rủi ro. Với vai trò là cơ quan quản lý hoạt động ngân hàng, là cơ quan đầu mối trong việc xây dựng và phát triển hệ thống thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các nguồn thông tin trên toàn quốc và thậm chí trên toàn thế giới về các khách hàng tín dụng với tình hình quan hệ tín dụng với các ngân hàng, về tình hình tài chính, về tình hình pháp lý, tài sản đảm bảo, về các gian lận tín dụng, lừa đảo đã xảy ra, về cảnh báo rủi ro tín dụng… Tuy nhiên hệ thống thông tin tín dụng này cũng mới ở giai đoạn đầu, còn những khó khăn tồn tại, chất lượng thông tin chưa thực sự tốt, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhậy, kịp thời, chính xác nên vẫn chưa trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy cho hoạt động quản lý rủi ro của các ngân hàng. c, Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng. Những nguyên nhân làm kìm hãm hiệu quả của các biện pháp hạn chế rủi ro các dự án đầu tư xuất phát từ chính bản thân Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân là nguyên nhân rất quan trọng. Trong một thời gian dài Hội sở chính luôn giao mức độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cho các chi nhánh ở mức cao với tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao đã gây ra một áp lực lớn cho Chi nhánh dẫn đến việc các Chi nhánh đã chấp nhận những khoản tín dụng có chất lượng thấp để đạt chỉ tiêu. Một bộ phận cán bộ của Ngân hàng bị đồng tiền và cơ chế thị trường cám dỗ, mất đi đạo đức nghề nghiệp, móc ngoặc với con nợ, lợi dụng kẽ hở để làm giàu bất hợp pháp. Một thời gian dài cơ chế chính sách còn lỏng lẻo, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm. Trình độ và kinh nghiệm của cán bộ còn nhiều bất cập trong phân tích các thông tin kinh tế xã hội, phân tích đánh giá dự án cho vay, nhận diện gian lận. Cán bộ của Chi nhánh Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội có rất nhiều cán bộ còn quá trẻ, mặc dù có trình độ chuyên môn, nhiệt huyết với công việc nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên chưa thích ứng được với hoạt động ngân hàng phức tạp này. Đặc biệt là năng lực nhận diện gian lận của Cán bộ tín dụng khi phân tích khách hàng còn rất yếu. Vì đối với hoạt động tín dụng không chỉ đòi hỏi về trình độ học vấn đơn thuần mà rất cần kinh nghiệm, trải nghiệm thực tế, khả năng phân tích, tổng hợp thông tin trên nhiều lĩnh vực hoạt động từ đó mới đánh giá chính xác các thông tin khách hàng. _ Việc bám sát doanh nghiệp của các cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, không nắm sát được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, xảy ra rủi ro mới phát hiện. Việc hỗ trợ các dự án mới chỉ dừng ở việc hỗ trợ khi các dự án đã có những dấu hiệu của rủi ro như hỗ trợ dự án thu hồi nợ, gia hạn nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà chưa chú ý tới việc hỗ trợ dự án ngay từ khi các dự án đang hoạt động bình thường để tránh được những rủi ro ngay từ đầu. _ Chi nhánh đôi khi còn chủ quan chưa nhận thức đúng khó khăn diễn biến phức tạp của thị trường như: rủi ro về lãi suất, rủi ro tỷ giá ngoại hối, biến động về đồng nội tệ và ngoại tệ như năm 2008. Khi điều hành hoạt động kinh doanh chưa tuân thủ đúng chủ trương, chỉ đạo của ban lãnh đạo như cho vay vượt quá chỉ tiêu, cho vay vào lĩnh vực đã yêu cầu hạn chế, cho vay không có tài sản đảm bảo, không tận dụng thời cơ để cơ cấu lại khách hàng trong 6 tháng đầu năm. _ Công tác quản trị rủi ro tại chi nhánh còn nhiều hạn chế thiếu phân tích, dự báo nên bị động trong điều hành cũng tạo ra khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh. _ Chưa có công cụ kỹ thuật hỗ trợ phân tích đo lường lượng hóa cụ thể các loại rủi ro để có biện pháp cụ thể hạn chế bớt rủi ro nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu lợi nhuận. Một số cơ chế đã bộc lộ nhiều điểm chưa phù hợp với diễn biến phức tạp của thị trường như cơ chế điều hòa vốn một giá cũng hạn chế động lực cho chi nhánh chủ động điều hành thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG QUẢN LÝ RỦI RO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ VỚI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH THANH XUÂN HÀ NỘI. 3.1. Định hướng phát triển của ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Một số dự báo về môi trường kinh doanh. Tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tiếp tục kéo dai sang năm 2009. Nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục gánh chịu tác động xấu từ bên ngoài, thị trường xuất khẩu bị co hẹp, hoạt động sản xuất kinh doanh tiêu thụ hàng hóa của cá doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, đà tăng trưởng kinh tế giảm. Thị trường bất động sản khó có khả năng phục hồi sớm là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng, chất lượng tín dụng cũng như thu hồi nợ xấu. Sự có mặt của các ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài sẽ đẩy mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại mạnh mẽ hơn nhất là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ tài chính trọn gói tiên tiến. Định hướng hoạt động tín dụng trong thời gian tới. Kể từ khi đi vào thành lập và hoạt động cho tới nay chi nhánh đã luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh doanh do trung tâm giao cho, duy trì sự phát triển và tăng trưởng ổn định. Qua đó đóng góp một phần lớn vào sự phát triển của thủ đô và nền kinh tế nước nhà. Bước sang năm 2008 tình hình kinh tế trong và ngoài nước có sự biến động lớn ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và của chi nhánh nói riêng, đặt ra hàng loạt các vấn đề khó khăn và thách thức. Nhiệm vụ cấp bách của năm 2009 theo chủ trương của Đảng, Nhà nước,Chính phủ là: phát huy sức mạnh tổng hợp, nỗ lực phấn đấu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Do đó nhiệm vụ chính của Chi nhánh trong năm tới là phát triển toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh của chi nhánh từ công tác huy động vốn, tăng trưởng, dư nợ bền vững hiệu quả công tác thu phí dịch vụ. Đảm bảo đời sống, thu nhập cán bộ viên chức bằng và hơn năm 2008. Duy trì kỷ cương sinh hoạt và làm việc nghiêm túc,từng bước hoàn thiện phong cách chuyên nghiệp xây dựng NHCT Thanh Xuân “Văn minh - Hiện đại - Chuyên nghiệp”. Theo đó chi nhánh cần tập trung đẩy mạnh triển khai tốt 5 nhiệm vụ trọng tâm sau: - Tiếp tục thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ, hoàn thiện bộ máy cán bộ chủ chốt, thực hiện bố trí sắp xếp cán bộ khoa học, hiệu quả, làm tốt công tác tư tưởng cán bộ. Từng bước thực hiện 3 lợi ích một cách công khai, rõ nét. Coi trọng công tác phát triển nguồn nhân lực theo đó cần thực hiện tốt 2 nội dung: + Đào tạo đi đôi với đào tạo lại + Phát triển đi đôi với hoàn thiện để tiến tới một ngân hàng chuyên nghiệp cao. - Củng cố hoàn thiện hệ thống mạng lưới của chi nhánh - Tăng trưởng tín dụng bền vững, hiệu quả tập trung quan tâm mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay cá nhân. - Củng cố và nâng cao hiệu quả của dịch vụ thẻ và các dịch vụ ngân hàng điện tử. - Coi trọng công tác tăng cường công tác giám sát, đôn đốc kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ để đảm bảo an toàn tuyệt đối. - Trước mắt và hiện nay chúng ta cần tập trung triển khai ngay một số công việc như: Triển khai quán triệt, thực hiện nghiêm túc quy chế 126 “V/v Chi trả lương trong hệ thống NHCT Việt Nam”. Với quy chế 126, thực chất người lao động tự trả lương cho mình theo chức năng nhiệm vụ khả năng hoàn thành công việc, lãnh đạo phòng chịu trách nhiệm sắp xếp công việc của từng cán bộ dự trên năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm đồng thời căn cứ trên kết quả đạt được của từng cán bộ trong phòng và chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về chi trả tiền lương. Các phòng cũng như mỗi cán bộ cần triển khai ngay những kế hoạch hành động cụ thể để thi đua phấn đấu đạt được những thành tích cao nhất góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2009 và đóng góp vào thắng lợi chung của toàn hệ thống. Triển khai bổ sung, chỉnh sửa và thực hiện ngay thỏa ước lao động tập thể. Một số chỉ kế hoạch tiêu chụ thể: (1) Tổng nguồn vốn thực hiện đến ngày 31/12/2009: 6.500 tỷ đồng (2) Dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2009: 1.900 tỷ đồng (3) Nợ xấu đến 31/12/2009: 0 đồng (4) Tỷ lệ nợ cho vay KCTSBĐ: Tối đa 20% (5) Tỷ lệ % cho vay DNNN: Tối đa 70% (6) Nợ nhóm 2: Tối đa 20 tỷ đồng (7) Chỉ tiêu phát hành thẻ ATM: 20.000 thẻ (8) Chỉ tiêu phát hành mới thẻ TDQT: 100 thẻ (9) Phát triển mới CSCNT: 13 điểm (10) Thu dịch vụ ngân hàng: Đạt trên 6,5 tỷ đồng (11) Lợi nhuận thuần đã trích DPRR: Đạt trên 87 tỷ đồng - Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh: Đạt trên 50 tỷ đồng - Lợi nhuận từ thu ngoại bảng: Đạt trên 37 tỷ đồng Mục tiêu năm 2009 đặt ra là rất nặng nề, mọi hoạt động ngân hàng đang bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập nền kinh tế và sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Để đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi Ngân hàng phải phát huy hết sức mạnh, tăng cường lãnh đại của Đảng, của chính quyền, phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, để chi nhánh trở thành đơn vị kinh doanh xuất sắc trong hệ thống NHCT Việt Nam. Giải pháp tăng cường khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của Ủy ban Basel thuộc Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và tuân thủ các thông lệ quốc tế, bộ máy tổ chức hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng phải được tách bạch. Chức năng quản lý rủi ro các dự án đầu tư sẽ được giao cho một bộ phận độc lập với các đơn vị hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân và sẽ không tham gia vào hoạt động cho các dự án vay vốn. Thay vào đó, bộ phận này sẽ quản lý và giám sát rủi ro toàn bộ các dự án đã được cho vay trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Để hạn chế tối đa rủi ro cần thiết có sự độc lập giữa các chức năng mà một Cán bộ tín dụng hiện đang được thực hiện, phải tiến hành tách các bộ phận: chức năng tiếp xúc khách hàng, chức năng phân tích hồ sơ dự án (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá dự án…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát dự án, thu nợ…) Thực hiện phân tán rủi ro. Rủi ro là khả năng xảy ra sự khác biệt giữa kết quả thực tế và kết quả theo kế hoạch. Để hạn chế bớt thiệt hại cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra, cán bộ ngân hàng cần tìm cách phân tán rủi ro. Phân tán rủi ro là chia nhỏ rủi ro có thể xảy ra cho các đối tượng chủ thể khác nhau như cho chủ đầu tư, cho nhà thầu… Nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng, coi trọng cả phẩm đạo đức lẫn nghiệp vụ. Trong các yếu tố thì yếu tố con người luôn là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất chi phối mọi hoạt động. Các biện pháp đề ra thực hiện có hiệu quả hay không đều phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức của cán bộ ngân hàng. Chính vì vậy công tác tổ chức và đào tạo phải được hết sức chú trọng, và tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, đòi hỏi sự đầu tư cả về vật lực cũng như trí lực. Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn giỏi sẽ có khả năng đánh giá mức độ rủi ro của các dự án một cách đầy đủ, chuẩn xác, đồng thời cũng có phương pháp quản lý, theo dõi khoa học, hiệu quả hơn. Khi có vấn đề xảy ra với dự án, cán bộ có chuyên môn cao sẽ có những phương án xử lý khéo léo, giảm được thiệt hại một cách tối đa. Để đào tạo được những cán bộ này, ngân hàng phải có kế hoạch tập huấn thường xuyên cho các Cán bộ tín dụng, tổ chức các buổi hội thảo để cùng nhau bàn luận, trao đổi, cập nhật những kinh nghiệm, những diễn biến thường xuyên của nền kinh tế…, đưa các Cán bộ tín dụng đi tham quan học hỏi kinh nghiệm ở các ngân hàng bạn, thậm chí là ở cả một số nước tiên tiến để có cơ hội mở mang kiến thức, học tập phương pháp làm việc của họ. Đây sẽ là đội ngũ cán bộ nòng cốt, kế cận lớp cán bộ lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm đến tuổi về hưu. Đối với Cán bộ tín dụng, phải thường xuyên tự đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, trau dồi trình độ chuyên môn tín dụng. Ngoài ra, Cán bộ tín dụng cần phải nâng cao trình độ vi tính, ngoại ngữ, đồng thời nâng cao khả năng giao tiếp, ứng xử để nắm bắt được tâm lý khách hàng, thái độ phản ứng của chủ đầu tư, khả năng thương lượng với khách hàng. Một Cán bộ tín dụng giỏi không phải chỉ là một người có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghiệp vụ tốt mà còn phải là người có đạo đức nghề nghiệp bởi môi trường làm việc của họ là một môi trường nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến tiền. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp phải là chủ đề được bàn luận trong các buổi hội thảo và là một tiêu chí cần được chú trọng trong công tác tuyển dụng. Nguồn nhân lực của ngân hàng chủ yếu được lấy từ kênh tuyển dụng bởi vậy mà chính sách tuyển dụng của ngân hàng là rất quan trọng, kế hoạch tuyển chọn phải được chuẩn bị kỹ càng, các tiêu chí đưa ra phải đảm bảo tính hợp lý, bám sát thị trường nhân lực, phải chú trọng về chất lượng thật sự chứ không nên chỉ dựa vào bằng cấp. Việc tổ chức cán bộ, chuyên môn hóa từng vị trí, sắp xếp công việc cho hợp lý là tối quan trọng đối với mỗi một ngân hàng. Mỗi cá nhân có một ưu điểm riêng, có một sở trường riêng nên việc tận dụng được điểm mạnh của mỗi cá nhân sẽ tạo ra một sức mạnh về nguồn lực rất lớn. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội cần phải xem xét phân công cán bộ theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể để tạo điều kiện cho Cán bộ tín dụng có cơ hội, thời gian tìm hiểu sâu về lĩnh vực mà họ phụ trách như: nông nghiệp, xây dựng, cơ khí, bất động sản… Như vậy, sự hiểu biết của cán bộ mới ngày càng được chuyên sâu, việc tìm hiểu thông tin về khách hàng, dự án cũng thuận lợi hơn, tiết kiệm chi phí, thời gian; bên cạnh đó họ có thể đưa ra những lời khuyên bổ ích cho dự án, giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, đối với các dự án lớn, phức tạp thì ngân hàng cần mời chuyên ra trong lĩnh vực đó về ngân hàng cộng tác. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này, ngân hàng cũng cần chú ý tới công tác bảo mật thông tin bằng cách gắn lợi ích của đội ngũ chuyên gia với trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể, điều này sẽ giúp ngân hàng vừa tận dụng được hết kiến thức chuyên môn của họ lại vừa chủ động hơn trong việc ngăn ngừa việc tiết lộ thông tin. Chế độ đãi ngộ nhân viên hiện nay đang là một trong những tiêu chí được rất nhiều ứng viên xem xét kỹ lưỡng trước khi thi tuyển vào một ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, để có cơ hội tuyển dụng được những nhân viên mới có năng lực và giữ chân được những nhân viên cũ giàu kinh nghiệm, gắn bó, cống hiến cho ngân hàng thì Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội cần có những chính sách đãi ngộ nhân viên thật hấp dẫn, hợp lý như: động viên, khen thưởng kịp thời những cá nhân, bộ phận có những đóng góp lớn, có những sáng kiến hay trong quá trình làm việc. Cùng với việc tuyên dương trước tập thể cần có các phần thưởng thực sự có chất lượng như tăng lương, tặng phần thưởng có giá trị… Bên cạnh đó, cũng nghiêm khắc kỷ luật các Cán bộ tín dụng có hành vi xấu, không trung thực trong công việc. Nếu có sự sai phạm cần điều tra kỹ lưỡng, nếu là lần đầu và lý do là khách quan thì có thể nhắc nhở, động viên để họ khắc phục khuyết điểm. Ngoài ra, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ có năng lực có cơ hội thăng tiến xứng đáng. Thưởng phạt công bằng sẽ là động lực khuyến khích nhân viên gắn bó với ngân hàng, tích cực, chủ động tìm kiếm các dự án khả thi, hiệu quả để mở rộng quy mô tín dụng, hoàn thành tốt công việc của mình không chỉ bằng trách nhiệm mà còn bằng lòng yêu nghề. Tăng cường mối quan hệ tương tác giữa khách hàng và ngân hàng Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, các chủ đầu tư là một mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Mối quan hệ này được củng cố sẽ giúp cho đôi bên cùng có lợi, đặc biệt tạo nhiều thuận lợi cho ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng thì khi khách hàng đó cần vay vốn cho những dự án đầu tư của minh sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Vì nếu khách hàng đã vay vốn ở ngân hàng, thì ngân hàng đã có những ghi chép về việc thanh toán tiền vay vì vậy mà sự hiểu biết về khách hàng cũng nhiều hơn, đặc biệt ngân hàng đã có những phương thức giám sát khoản vay do vậy mà các chi phí để giám sát những khách hàng lâu dài thường thấp hơn các chi phí đối với những khách hàng mới. Do vậy, ngân hàng sẽ luôn dành cho người vay những ưu tiên nhất định như: lãi suất thấp hơn, thời gian sử dụng vốn dài hơn… những ưu tiên này sẽ giúp cho dự án tiết kiệm được chi phí, nguồn vốn ổn định hơn nên nguy cơ gặp rủi ro cũng sẽ bớt đi. Ngoài ra, mối quan hệ lâu dài cũng giúp cho ngân hàng hạn chế được những bất ngờ ngoài mong muốn mà ngân hàng không thể lường trước được. Bởi một khách hàng đã có mối quan hệ tốt với ngân hàng thì luôn mong muốn giữ gìn được mối quan hệ đó để có thể được hưởng những ưu đãi trong tương lai. Do đó, họ luôn cẩn trọng trong các động thái của mình nhằm không làm mất lòng tin của ngân hàng. Do vậy mà quan hệ lâu dài với khách hàng có thể giúp ngân hàng đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả ngân hàng cũng không thể lường trước được ở lúc ban đầu. Để có được mối quan hệ tốt đẹp này, ngân hàng cần có những khóa huấn luyện với các chuyên gia để tập huấn cho nhân viên ngân hàng về phong cách phục vụ, kỹ năng giao tiếp, nâng cao khả năng xử lý tình huống, quán triệt chủ trương “khách hàng là thượng đế”. Một công cụ rất tốt nữa giúp ngân hàng có thể có được những mối quan hệ bền vững với những khách hàng của mình đó là những ưu tiên trong chính sách cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, đó có thể là lãi suất, tài sản đảm bảo hay thời hạn vay… Đặc biệt, ngân hàng cần phải cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Ngân hàng là một trung gian tài chính, có quan hệ với rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh tế khác nhau, vì vậy mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều thông tin mà khách hàng khó tự tiếp cận được. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra những lời khuyên cho dự án về bạn hàng, về lĩnh vực hiện đang đầu tư có hiệu quả, về công nghệ, về các văn bản pháp luật có liên quan để khách hàng định hướng cho hoạt động kinh doanh của mình, giảm thiểu rủi ro cho dự án và cũng là giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Hơn nữa sự tư vấn này hoàn toàn nên áp dụng trong cả quá trình khách hàng sử dụng vốn. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng vừa nắm được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án, vừa giúp đỡ dự án có được những phương án kinh doanh tốt nhất. Khi khách hàng nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ khách hàng thì sẽ càng gắn bó với ngân hàng, sẽ muốn tiếp tục vay vốn ở ngân hàng những lần sau. Hoàn thiện hệ thống thông tin khách hàng và dự án đầu tư. Thông tin khách hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư vay vốn. Nhờ có thông tin đầy đủ về khách hàng, về dự án mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến khoản vay của dự án cũng như theo dõi và quản lý chúng. Thông tin bao gồm hai loại: thông tin nội bộ và thông tin từ bên ngoài. Thông tin nội bộ: Nguồn thông tin nội bộ giúp cung cấp thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và chủ đầu tư. Báo cáo, thông tin từ các phòng ban, bộ phận khác nhau, các chi nhánh khác đều là những cơ sở quan trọng, cung cấp những thông tin đã được sàng lọc, có chất lượng, liên quan đến chủ đầu tư giúp cán bộ tín dụng đưa ra những nhận xét, đánh giá, quyết định đúng đắn đối với chủ đầu tư và dự án. Để nguồn thông tin này có được hiệu quả cao nhất, ngân hàng cần thiết phải lưu trữ mọi hồ sơ của khách hàng một cách cẩn thận, có hệ thống, khoa học, phân loại theo các ngành nghề một cách rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi trong khâu tìm kiếm thông tin. Việc lưu trữ này cũng giúp cho ngân hàng dễ dàng hơn trong sự đánh giá, so sánh giữa các khách hàng trong cùng một ngành nghề, nó rất hữu ích trong việc giúp cho ngân hàng tìm hiểu các thông tin bên ngoài về khách hàng thông qua các đối thủ cạnh tranh, các đối tác của khách hàng. Để công việc này thực sự đạt hiệu quả, cần có một bộ phận chuyên thu thập cũng như phân tích các chính sách vĩ mô của Nhà nước có tác động đến hoạt động kinh doanh đối với các ngành nghề, tư vấn pháp luật, kỹ thuật, công nghệ cho bộ phận tín dụng. Thông tin từ bên ngoài. Thông tin bên ngoài cung cấp cho ngân hàng những hiểu biết thực tế về tình hình hoạt động, kinh doanh của khách hàng, của dự án. Trước, trong và sau khi cho vay Cán bộ tín dụng vẫn cần phải thường xuyên sử dụng các thông tin bên ngoài để kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay cũng như tình hình tài chính của dự án. Các thông tin này có thể được lấy từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin tín dụng như: trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), từ các tổ chức tín dụng khác, hoặc nguồn thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ có các nguồn này mà ngân hàng có thể xác định lại các thông tin mà khách hàng đưa ra và bổ sung thêm các thông tin liên quan khác như: thị trường sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín của dự án và chủ đầu tư trên thị trường và với các ngân hàng khác… Các thông tin bên ngoài cũng có thể là những thông tin phi tài chính, tuy nhiên chúng lại khá quan trọng, rất hữu ích trong việc đánh giá tình trạng hoạt động thực tế của dự án, khả năng lãnh đạo, tình hình kinh doanh cũng như tương lai phát triển của dự án. Khả năng quan sát và óc phân tích chính là những yếu tố rất quan trọng giúp Cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông tin phi tài chính có chất lượng như: Quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng, kho bãi: xem xét xem mọi người có vẻ vội vã hay không? Nhà kho có lỗn xộn hay không? Các loại hàng hóa có biểu hiện gì như bị bụi phủ, cũ, kém chất lượng giống như đã nằm trong kho lâu ngày không? Quan sát kỹ lưỡng văn phòng làm việc của chủ đầu tư, ban quản lý dự án: mọi thứ sắp xếp trong phòng có thể hiện được tiềm lực kinh tế tương xứng của doanh nghiệp không? Hồ sơ tài liệu trong phòng có được sắp xếp gọn gàng trong tủ kính có khóa không? Tiếp xúc với nhân viên hay công nhân làm việc tại dự án: xem xét xem điều kiện làm việc của họ có thuận lợi không? Tinh thần làm việc của công nhân viên như thế nào? Lưu ý tới chỗ làm việc của các nhân viên kế toán: có chứng tỏ được rằng công việc kế toán được kiểm soát chặt chẽ không? Phương tiện làm việc của họ là gì? Có hiện đại hay không?... Tuy nhiên, trong điều kiện thông tin tràn lan thì việc các Cán bộ tín dụng phải biết sàng lọc, lựa chọn, cảnh giác trong việc tiếp nhận thông tin cũng là rất cần thiết. Điều này đòi hỏi sự rèn luyện của các Cán bộ tín dụng nói riêng, cũng như đòi hỏi sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngân hàng nói chung. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý các dự án đầu tư cho vay vốn. Đây là một nội dung rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư, giúp phát hiện và ngăn ngừa sớm các rủi ro có thể phát sinh. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát dự án vay vốn, trước hết các Cán bộ tín dụng cần quán triệt các nguyên tắc đã được đề ra. Trên thực tế các nguyên tắc này tuy đã được quy định rất cụ thể trong Sổ tay tín dụng của ngân hàng công thương Việt Nam nhưng chưa được các Cán bộ tín dụng chấp hành nghiêm chỉnh. Xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay là rất cần thiết giúp cho Cán bộ tín dụng chủ động trong việc thực hiện kiểm tra dự án vay vốn, các cán bộ ở các bộ phận liên quan, lãnh đạo các phòng ban hoặc Ban giám đốc có cơ sở để đôn đốc và giám sát việc thực hiện của Cán bộ tín dụng, thống nhất về nội dung và phương thức kiểm tra sử dụng vốn vay trong toàn Chi nhánh. Nội dung chủ yếu của kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay bao gồm: lịch kiểm tra và đề xuất phương thức kiểm tra sử dụng vốn vay thích hợp. Căn cứ đặc thù hoạt động cho vay của Chi nhánh, Trưởng/ Phó Phòng khách hàng doanh nghiệp chỉ đạo xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay của từng dự án đầu tư. Cán bộ tín dụng cần xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay riêng theo từng Hợp đồng tín dụng, chậm nhất là sau khi phát món vay đầu tiên. Trong trường hợp giải ngân bằng tiền mặt, việc kiểm tra sử dụng vốn vay có thể thực hiện theo từng lần giải ngân và có thể thực hiện ngay sau ngày giải ngân hoặc 5- 10 ngày kể từ ngày giải ngân Thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay. Cán bộ tín dụng cần chủ động thực hiện Kế hoạch kiểm tra việc sử dụng vốn vay. Tùy đặc điểm của từng dự án, từng khoản vay, Cán bộ tín dụng có thể lựa chọn các cách thức kiểm tra như sau: Kiểm tra hàng hóa lưu kho. Căn cứ khối lượng hàng hóa thực tế hiện có trong kho khách hàng, Cán bộ tín dụng tính toán và cân đối với giá trị tiền vay đã phát hành theo Hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay là loại hàng hóa khó kiểm đếm thực tế, Cán bộ tín dụng có thể dựa trên thẻ kho hoặc các loại giấy tờ khác liên quan có thể chứng minh về số lượng, mẫu mã loại hàng hóa đang lưu trong kho. Trường hợp dự án đang vay từ nhiều ngân hàng, Cán bộ tín dụng cần yêu cầu khách hàng báo cáo rõ ràng hàng hóa trong kho hình thành từ những nguồn vay nào, trong đó của Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội là bao nhiêu, đồng thời kiểm tra sự khớp đúng giữa thực tế với nội dung báo cáo. Kiểm tra khối lượng thi công xây dựng cơ bản, máy móc thiết bị. Thông thường, việc kiểm tra khối lượng thi công xây dựng cơ bản tương đối khó khăn vì vậy Cán bộ tín dụng chỉ có thể căn cứ vào thực trạng của công trình tại thời điểm kiểm tra lần này so với thời điểm kiểm tra lần trước (sự tiến triển của công trình) đồng thời kiểm tra các chứng từ liên quan đến việc nghiệm thu công trình, yêu cầu thanh toán của bên thi công… Đối với máy móc thiết bị, Cán bộ tín dụng kiểm tra chủng loại, số lượng, seri trên máy … có khớp với giấy tờ hóa đơn lưu trong hồ sơ phát tiền vay. Kiểm tra sổ sách, chứng từ. Đối với các trường hợp hàng hóa hình thành từ vốn vay đã được xuất đi, được bán cho đối tác hoặc đang trên đường vận chuyển… cán bộ tín dụng có thể áp dụng phương pháp kiểm tra các hóa đơn chứng từ xuất khẩu, hóa đơn bán hàng, phiếu xuất kho… Trong trường hợp này, Cán bộ tín dụng cần theo dõi việc thanh toán của dự án để thu hồi kịp thời hoặc tổ chức kiểm tra thực tế sau khi hàng đã về. Kiểm tra về việc mua các loại bảo hiểm cảu dự án. Đặc biệt là các bảo hiểm về tái sản, bảo hiểm cho người lao động. Để đề phòng khi rủi ro xảy ra, người gánh chịu tổn thất không phải là doanh nghiệp, dự án mà là các công ty bảo hiểm. Như vậy thì mặc dù rủi ro có thể xảy ra nhưng những tổn thất mà dự án gặp phải có thể không lớn, không ảnh hưởng nhiều tới tình hình sản xuất kinh doanh của dự án. Do đặc thù sản xuất kinh doanh của các dự án đầu tư khác nhau vì vậy để có thể kiểm tra tốt các nội dung như trên, các Cán bộ tín dụng cần phát huy tinh thần trách nhiệm cao, chủ động trong công việc nhằm lựa chọn áp dụng biện pháp kiểm tra thích hợp nhất. Bên cạnh việc kiểm tra vốn vay, Cán bộ tín dụng cũng cần quan tâm đến nguồn tiền thanh toán của dự án, yêu cầu chủ đầu tư, người mua khi thanh toán chuyển khoản về tài khoản khách hàng tại Chi nhánh để trả nợ tiền vay, không cho rút tiền mặt. Cán bộ tín dụng cũng cần kiểm soát tài khoản tiền gửi của khách hàng tránh hiện tượng tiền thanh toán về khách hàng không trả nợ mà sử dụng vào việc khác, khi nợ đến hạn không có khả năng trả cho ngân hàng. Nâng cao vai trò của kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư là một công cụ vô cùng quan trọng vì thông qua hoạt động này có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do Cán bộ tín dụng gây ra. Để nâng cao vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro xảy ra với các dự án đầu tư vay vốn cần thực hiện một số biện pháp sau: Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho Phòng Kiểm tra nội bộ. Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc quản lý rủi ro cùng phối hợp kiểm tra. Các cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ trước hết phải có kiến thức về các hoạt động của ngân hàng nói chung và về nghiệp vụ tín dụng nói riêng, kiến thức về pháp luật, tin học, ngoại ngữ đồng thời cũng phải nẳm rõ các kiến thức chuyên môn về kiểm toán. Vì vậy, phải thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ phòng Kiểm tra nội bộ. Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra theo hướng từ kiểm tra riêng lẻ sang kiểm tra hệ thống và kiểm tra tính tuân thủ, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích kiểm tra. 3.2.8. Đầu tư công nghệ hiện đại hóa hoạt động ngân hàng dễ dàng phát hiện và kiểm soát rủi ro. Triển khai tích cực giai đoạn hai của dự án hiện đại hóa, chú trọng đến các vấn đề phát triển sản phẩm tiện ích mới trong quản trị rủi ro an ninh bảo mật. Đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao quản lý rủi ro: có các công cụ kỹ thuật hỗ trợ phân tích đo lường, lượng hóa cụ thể các loại rủi ro để có biện pháp cụ thể hạn chế bớt các rủi ro nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Kiến nghị. Kiến nghị với Nhà nước. Với tư cách là người tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán có định hướng lâu dài nhằm tạo môi trường kinh tế ổn định. Tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng cũng như tạo điều kiện ổn định cho các dự án hoạt động. Đồng thời, chỉ đạo phối hợp các ban ngành liên quan hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ vay quá hạn tồn đọng. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành. Việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thương mại còn gặp nhiều khó khăn vì việc tiếp cận các thông tin giúp cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng, dự án (các thông tin về triển vọng kinh doanh ngành, các chỉ số trung bình ngành về tỷ số tài chính, giá thành…) hiện vẫn còn nhiều hạn chế và hầu như là không có. Vì vậy, Chính phủ cần giao cho Tổng cục thống kê phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình của các ngành kinh tế. Đây là thông tin hết sức quan trọng trong việc xem xét, đánh giá khách hàng trên cơ sở so sánh với trung bình ngành, qua đó giúp cho các ngân hàng thương mại có những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh tín dụng, cấp vốn cho các dự án đầu tư. Tăng cường giám sát nội bộ và kiểm toán đối với doanh nghiệp và các dự án đầu tư. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập tài chính quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tài chính kế toán. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường vai trò và hoạt động kiểm toán và giám sát nội bộ. Các công ty kiểm toán không chỉ dừng lại ở việc cung cấp đơn thuần dịch vụ kiểm toán mà cần tư vấn cho các doanh nghiệp, dự án về tài chính, kế toán và giải pháp quản lý, góp phần lành mạnh hóa hoạt động của các doanh nghiệp, dự án. Nhà nước cũng cần sớm ban hành quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng có nguồn thông tin đáng tin cậy trong việc đưa ra quyết định cho vay hợp lý, an toàn. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một trong những kênh thông tin giúp ngân hàng đối phó với những vấn đề thông tin không cân xứng, từ đó góp phần vào việc ngăn ngừa, hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thông tin mà trung tâm cung cấp trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng cho các ngân hàng thương mại. Đây là một trong những hạn chế tạo nên những khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong quá trình quản lý rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các ngân hàng thương mại, trung tâm thông tin của các bộ, các cơ quan quản lý về doanh nghiệp để làm giàu thông tin của mình. Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung quy chế tổ chức hoạt động của trung tâm theo hướng bắt buộc các ngân hàng thành viên phải thực hiện vai trò cung cấp thông tin của mình, đảm bảo chất lượng, trung thực, đầy đủ. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần liên hệ với các tổ chức nước ngoài để khai thác thông tin về các đối tác nước ngoài có ý định đầu tư vào Việt Nam để kịp thời thông tin cho các ngân hàng thương mại trong nước, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do thiếu thông tin. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại. Trên thực tế, hoạt động của ngân hàng thương mại sẽ càng phát huy hiệu quả khi nó được kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Kết quả của việc kiểm tra chính là những dấu hiệu vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn những xu hướng tiêu cực có thể xảy ra. Sự kiểm soát thường xuyên của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước và sự kiểm toán định kỳ của cơ quan kiểm toán phải được thực hiện cùng với các biện pháp bắt buộc ngân hàng thương mại tuân thủ nghiêm túc các kiến nghị hay xử lý sau công tác thanh tra, kiểm tra. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì nguy cơ dẫn đến rủi ro càng lớn, chỉ đơn độc một ngân hàng thì không thể khắc phục được. Cho nên cần phải có hình thức trao đổi kinh nghiệm, hợp tác giữa các ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư. Để làm được điều này cần có công tác chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước tới toàn hệ thống ngân hàng dưới hình thức tổ chức các buổi hội thảo và các khóa đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức. Kiến nghị với Ngân hàng công thương Việt Nam. Với tư cách là đơn vị chủ quản của toàn bộ hệ thống Ngân hàng công thương, Ngân hàng công thương Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một hệ thống quản lý rủi ro định hướng thông lệ quốc tế. Cần sớm nghiên cứu và xây dựng mô hình lượng hóa cụ thể mức độ rủi ro của dự án cũng như mô hình định lượng để xác định số vốn được vay trên cơ sở mức độ rủi ro của dự án, xây dựng mô hình đánh giá và cảnh báo sớm rủi ro để áp dụng chung cho toàn hệ thống. Ngân hàng công thương cần sớm xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin quản lý đảm bảo cập nhật, chính xác và đầy đủ. Hệ thống thông tin này được tập trung tại Hội sở chính, kết nối trực tuyến với các chi nhánh trên cơ sở mạng máy tính nội bộ. Nội dung hệ thống này bao gồm tất cả các thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý rủi ro của ngân hàng. Với trình độ công nghệ chưa đồng bộ giữa các ngân hàng như hiện nay thì Ngân hàng công thương có thể thiết kế những mẫu biểu thông tin riêng phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ riêng của mình trong đó bám sát các nội dung khoa học chung của các vấn đề báo cáo và đặc biệt phải bám sát quy định chung của quốc tế. Mặt khác, hệ thống thông tin này lại còn phải phù hợp với các yêu cầu báo cáo chung của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng công thương cần tạo điều kiện cho các Chi nhánh trong công tác đào tạo cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý tín dụng. Ngân hàng công thương cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về các lĩnh vực chuyên môn cung cấp nền tảng kiến thức toàn diện cho các Cán bộ tín dụng. LỜI KẾT Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng luôn gắn liền và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng trầm trọng đặt các doanh nghiệp trước các nguy cơ rủi ro ngày một cao hơn và nặng nề hơn. Ngân hàng là người cho các doanh nghiệp vay vốn để tiến hành các dự án đầu tư, do vậy cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Khi các dự án đầu tư gặp rủi ro sẽ ngay lập tức ảnh hưởng tới ngân hàng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi không những chỉ các doanh nghiệp phải chú trọng tới công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư mà bản thân các ngân hàng cũng phải tổ chức quản lý rủi ro thật tốt các dự án này để có thể tồn tại lâu dài. Trên cơ sở lý luận về rủi ro, qua thực tiễn triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội và các kết quả đã đạt được, em đã đánh giá, từ đó rút ra những thành công, hạn chế, nguyên nhân của hoạt động này tại Chi nhánh. Kết quả là đã đề ra một số giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Rất mong rằng những giải pháp và kiến nghị của em sẽ có thể phần nào đóng góp được cho Ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư nói riêng cũng như cho sự phát triển của Ngân hàng nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Hoài Chang (2005), “ Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 8, tr. 36 – 42. Nguyễn Đức Đương (2005), “Thông tin tín dụng trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 10, tr 1 – 6. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. TS. Nguyễn Hồng Minh (2007), Bài giảng “Quản trị rủi ro trong đầu tư”. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1999/QH10 do Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và lậu sửa đổi bổ sung các tổ chức tín dụng số 20/2004 do Quốc hội thông qua ngày 15/06/2004 Luật đầu tư số 59/2005/QH 11 ngày 29/11/2005 Ngân hàng công thương Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng. Ngân hàng công thương Việt Nam (2003), Quy trình thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng công thương Việt Nam, Văn bản hướng dẫn cho vay các dự án trong nền kinh tế tại chi nhánh. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân (2007), 10 năm xây dựng và phát triển. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2008 MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức ngân hàng công thương Thanh Xuân 29 Sơ đồ 2: Qui trình tiếp nhận hồ sơ dự án 40 Sơ đồ 3: Qui trình cho vay theo dự án tại chi nhánh 41 ngân hàng công thương Thanh Xuân4 41 Sơ đồ 4: Sơ đồ quản lý rủi ro tín dụng. 63 Bảng 1: Bảng kết quả huy động vốn 2006 - 2008 35 Bảng 2: Bảng kết quả huy động vốn cụ thể từng hạng mục 2006-2008 36 Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh 2006 – 2008 37 BIỂU 1: TỔNG DƯ NỢ CHO VAY THEO DỰ ÁN 74 BIỂU 2: TỶ LỆ NỢ QUÁ HẠN CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ 74 Lêi cam ®oan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Yến. Các số liệu, thông tin nêu trong chuyên đề thực tập hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Nếu có bất cứ sự gian dối nào tôi xin chịu trách nhiệm Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Yến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21750.doc
Tài liệu liên quan