Chuyên đề Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội

Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tế quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội hiện nay ta rút ra được một số kết luận như sau: Các dự án, công trình sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB thường có quy mô vốn nhỏ. Mặc dù vậy, công tác quản lý đã tuân thủ chặt chẽ theo đúng những quy định của Nhà nước. Nhờ vậy vốn ngân sách đã được sử dụng hợp lí, hiệu quả. Công trình sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp đưa vào sử dụng đã góp phần đáp ứng được nhiệm vụ chính trị - xã hội được giao của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế đặc biệt về tiến độ giải ngân quyết toán các công trình. Bên cạnh đó, quá trình vận dụng các văn bản quản lý của Nhà nước đã nảy sinh một số điều bất cập . Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì những cố gắng và kết quả hiện tại đồng thời khắc phục những hạn chế tồn tại, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý của Nhà nước và của thành phố. Để làm được điều này không những cần sự nỗ lực của các cơ quan quản lý mà còn cần sự nỗ lực và tinh thần hợp tác của các cơ quan , đơn vị sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB . Cuối cùng , cần phải khẳng định lại một lần nữa, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB mặc dù có quy mô không lớn nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Vì vậy trong tổng chi ngân sách Nhà nước, loại vốn này sẽ tiếp tục giữ vị trí quan trọng và sẽ tăng lên về quy mô trong thời gian tới.

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá Hà Nội, số vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cấp trong tháng 12 năm 2001 là 15.670 triệu đồng, chiếm hơn 40% tổng số cấp trong năm. Tính đến tận thời điểm 8/10/2002 tỉ lệ thực hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB so với dự toán mới chỉ đạt 40,76 %. ( Xem Bảng 2.4 ) Bảng 2.4: Tình hình thực hiện dự toán 3 năm 2000 - 2002 Đơn vị tính: nghìn đồng Dự toán Thực hiện Tỷ lệ Năm 2000 33.936.528 32.757.834 96,53% Năm 2001 37.088.290 33.720.938 90,92% Năm 2002 (tính đến 8/ 10/ 2002 ) 31.116.041 12.683.703 40,76% Nguồn số liệu: Tổng hợp Báo cáo thực hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB 3 năm 2000-2002 của Phòng Tài chính Hành chính- Sự nghiệp, Sở Tài chính- Vật giá Hà Nội Biểu đồ 2.2: Dự toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB trong 3 năm Nhìn vào Biểu đồ 2.2 ta thấy dự toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB qua các năm không ổn định, năm cao, năm thấp. Điều này thể hiện tính không thường xuyên của loại vốn này. Nhu cầu vốn các năm không giống nhau do: + Số lượng công trình thực hiện mỗi năm không giống nhau. + Số vốn bố trí cho mỗi công trình qua các năm cũng khác nhau. Nhưng dự toán đều đạt trên 30 tỷ mỗi năm. Điều này thể hiện tính thường xuyên của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, tức là năm nào cũng cần phải bố trí một lượng vốn nhất định cho nhu cầu sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất của các đơn vị HCSN. Trong số 134 công trình đã có 60 công trình được quyết toán. Tổng số quyết toán của các đơn vị là 33.478.744.000 đồng. Tổng số quyết toán được duyệt là 32.159.596.000 đồng. So với số bình quân dự toán 3 năm 2000 - 2002 là 32.645.522.333, có thể xem như là trong 3 năm đã quyết toán được 1 năm. Để so sánh giữa số quyết toán đơn vị và quyết toán được duyệt ta dùng 2 xhỉ tiêu chênh lệch tuyệt đối và chênh lệch tương đối. Chênh lệch tuyệt đối = QT duyệt - QT đơn vị Chênh lệch tương đối = QT duyệt - QT đơn vị X 100 QT đơn vị Xét tổng số các công trình, chênh lệch tuyệt đối là 1.319.178.000 đồng , chênh lệch tương đối là 3,49%. Xét từng công trình đã được quyết toán, chỉ có 4 công trình có chênh lệch tuyệt đối bằng 0. Đối với các công trình còn lại, quyết toán duyệt đều thấp hơn quyết toán đơn vị và chênh lệch tương đối thường nằm trong khoản dưới 10%. Cá biệt có những công trình mà chênh lệch tuyệt đối và chênh lệch tương đối khá cao ( xem Bảng 2.5 ). Sau đây là một số nguyên nhân chính dẫn đến việc quyết toán được duyệt thường thấp hơn quyết toán của đơn vị : - Do đơn vị áp dụng đơn giá không phù hợp hoặc có sự thay đổi về đơn giá XDCB của thành phố khi làm quyết toán công trình. - Do cơ quan tài chính ( hoặc tổ chức kiểm toán ) loại bớt những khoản chi không nằm trong dự toán được duyệt, không đúng tiêu chuẩn định mức, không đủ thủ tục hợp lệ, chi sai mục đích, ... , đặc biệt là đối với những khoản chi phát sinh thêm và những khoản thuộc chi phí khác của dự án. Chênh lệch giữa quyết toán duyệt và quyết toán đơn vị là hầu như không thể tránh khỏi, nhất là đối với hoạt động xây dựng cơ bản bởi vì trong xây dựng rất hay có phát sinh, thay đổi về công việc, về giá cả, trong khi định mức giá chung của thành phố lại cố định, lâu sửa đổi Bảng 2.5: Công trình có số chênh lệch QT tuyệt đối và tương đối lớn nhất Đơn vị tính: nghìn đồng Tên công trình QT đơn vị QT duyệt Chênh lệch tuyệt đối Chênh lệch tương đối Xây dựng nhà học 4 tầng trường Nguyễn Văn Cừ ( Sở GD - ĐT ) 3.190.403 3.104.724 (85.679) (2,686%) Sửa chữa hội trường A ( Sở Tài chính - Vật giá ) 154.705 115.322 (39.383) (25,457%) Nguồn số liệu: Tổng hợp Báo cáo tình hình thực hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB 3 năm 2000-2002 của phòng Tài chính Hành chính- Sự nghiệp, Sở Tài chính - Vật giá Hà Nội Một số công trình đã hoàn thành nhưng chậm quyết toán là: - Cải tạo trụ sở 47 Hàng Dầu ( Sở Văn hoá - Thông tin ) đầu tư từ năm 2000 số tiền đã cấp 3. 863 triệu đồng đến nay chưa quyết toán do đơn vị chưa gửi hồ sơ quyết toán. - Sửa chữa, tôn tạo thành cổ đầu tư từ năm 1999 số tiền đã cấp 6.339 triệu đồng đến nay chưa quyết toán do sở Văn hóa - Thông tin đang hoàn thiện hồ sơ quyết toán. - Dự án cải tạo, sửa chữa, mở rộng, nâng cấp khu tâm thần ( Sở Lao động thương binh xã hội ) tổng mức đầu tư 4.456 triệu đồng. -Dự án khoa y học lâm sàng Bệnh viện Đống Đa ( Sở Y tế ) tổng mức đầu tư 4.402 triệu đồng. - Dự án cải tạo Nhà văn hoá học sinh sinh viên (Thành Đoàn thanh niên Hà Nội ) tổng mức đầu tư 922 triệu đồng. - Dự án Trung tâm giáo dục 06 ( Thành Đoàn thanh niên Hà Nội ) tổng mức đầu tư 954 triệu đồng. - Dự án Trường đào tạo cán bộ Đội Lê Duẩn (Thành Đoàn thanh niên Hà Nội ) tổng mức đầu tư 2.296 triệu đồng. - Dự án Bệnh viện lao và viện phổi ( Sở Y tế ) đầu tư từ năm 2000, tổng mức đầu tư 461 triệu đồng, số tiền đã cấp 412 triệu đồng đến nay chưa quyết toán - Dự án Trung tâm da liễu ( Sở Y tế ) đầu tư từ năm 2000 số tiền đã cấp 680 triệu đồng. - Dự án sửa chữa văn phòng sở và các đội Quản lý thị trường ( Sở Thương mại ) tổng mức đầu tư 200 triệu đồng. - Dự án xây mới kho tạm giữ ( Sở Tài chính- Vật giá ) tổng mức đầu tư 1.956 triệu đồng. Có 4/11 công trình chậm quyết toán nêu trên nằm trong số 10 dự án có tổng mức đầu tư lớn nhất. 3/11 công trình chậm quyết toán thuộc về Thành Đoàn thanh niên Hà Nội . 3/11 công trình chậm quyết toán thuộc về Sở Y tế Hà Nội . 2/11 công trình chậm quyết toán thuộc về Sở Văn hoá-Thông tin . Bên cạnh việc bố trí vốn thực hiện các dự án đầu tư, hàng năm, Phòng Tài chính Hành chính - Sự nghiệp, Sở Tài chính - Vật giá cũng bố trí một lượng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cho việc lập dự án đầu tư. Số vốn được bố trí cho mỗi dự án thường chỉ 10 đến 50 triệu đồng. Bảng 2.6: Vốn bố trí cho việc lập dự toán qua các năm Năm Số dự án được bố trí vốn lập dự án Tổng dự toán vốn Số dự án đã hoặc đang được thực hiện 2000 13 704.000.000 đ 13 2001 29 489.000.000 đ 7 2002 44 720.000.000 đ 0 Nguồn số liệu: Tổng hợp Báo cáo tình hình thực hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB 3 năm 2000-2002 của phòng Tài chính Hành chính- Sự nghiệp, Sở Tài chính- Vật giá Hà Nội Một số dự án của Sở Giáo dục - Đào tạo được bố trí vốn lập dự án trong năm 2001 nhưng chưa tiến hành việc lập dự án do đó chuyển tiếp sang cho năm 2002. Đặc biệt năm 2002 có đến 44 dự án chuẩn bị đầu tư với tổng dự toán bố trí cho việc lập dự án đầu tư là 720 triệu đồng. Tuy nhiên, đến 8/ 10/ 2002 mới chỉ cấp được 94 triệu đồng ( xem Bảng 2.7 ). Bảng 2.7: Kế hoạch vốn cho lập dự án đầu tư của năm 2002 Đơn vị tính: triệu đồng Tên đơn vị Số dự án Dự toán Tổng 44 720 Sở Giáo dục - Đào tạo 24 240 Sở Văn hoá - Thông tin 10 230 Sở Y tế 5 110 Thành Đoàn thanh niên Hà Nội 3 80 Sở Tài chính - Vật giá 1 20 Sở LĐTBXH 1 40 Nguồn số liệu: Tổng hợp Báo cáo tình hình thực hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB năm 2001 - 2002 của phòng Tài chính Hành chính- Sự nghiệp, Sở Tài chính- Vật giá Hà Nội 2.2.3.Một số điều đã làm được Thành phố Hà Nội rất quan tâm đến việc hướng dẫn thực hiện các quy định của Chính phủ, của các Bộ. Ngay sau khi có những Nghị định , Thông tư mới, UBND Thành phố ra văn bản hướng dẫn và các văn bản quy định của thành phố theo các Nghị định, Thông tư mới ban hành. Sau đó Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá lại có các văn bản hướng dẫn cụ thể các quyết định UBND Thành phố cho các Quận, Huyện, Sở, Ban, Ngành. Trong những năm qua, với tư cách là phòng chuyên quản quản lý chi ngân sách cho Sở, Ban, Ngành của thành phố, Phòng Tài chính Hành chính -Sự ngiệp đã làm khá tốt công tác lập, phân bổ dự toán, cấp phát, quyết toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB : - Ngay từ khâu lập dự toán đã bố trí danh mục, vốn chuẩn bị đầu tư , vốn thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm theo thứ tự ưu tiên, khắc phục tình trạng dàn trải vốn , sửa chữa chắp vá. - Đánh giá kịp thời khả năng giải ngân của các công trình qua đó điều chỉnh, bố trí vốn hợp lí tránh ứ đọng nguồn. - Phòng đã thẩm định và trình phê duyệt quyết toán kịp thời đối với các công trình đã đầy đủ thủ tục đồng thời cũng hướng dẫn các đơn vị bổ sung các thủ tục còn thiếu. - Khi lập dự toán , Phòng bố trí mức vốn hợp lí với nhu cầu của đơn vị và theo đúng tiêu chuẩn định mức của Nhà nước, trong thẩm tra quyết toán kiên quyết loại bỏ các khoản chi sai chế độ. Vì vây đã tiết kiệm được chi ngân sách và vẫn đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư. - Phối hợp với Phòng Quản lý ngân sách Kho bạc Nhà nước Hà Nội kiểm tra, giám sát việc thanh toán các khoản chi. - Quá trình lập và phân bổ kế hoạch, cấp phát vốn, điều chỉnh bổ sung vốn, quyết toán, tuân theo đúng các quy định, trình tự, thủ tục, tiêu chuẩn, định mức, của Nhà nước và của thành phố ( tuy một số bước còn chậm so với thời hạn quy định ). Nói chung, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cấp cho các dự án, công trình được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, phục vụ kịp thời cho yêu cầu cải thiện cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đặc biệt việc sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp các trường học, bệnh viện của Sở Giáo dục- Đào tạo , Sở Y tế đã giúp đơn vị thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị được giao. 2.2.4. Những hạn chế còn tồn tại Hai hạn chế lớn nhất và khó khắc phục nhất hiện nay là việc dồn chi vào cuối năm và việc chậm quyết toán công trình hoàn thành. Một số nguyên nhân của việc dồn chi vào cuối năm - Do chậm được giao dự toán ngân sách vào đầu năm. - Do nhiều đơn vị không chú ý bố trí chi đều trong năm. - Theo Luật NSNN cũ năm 97 và những quy định hướng dẫn trước đây, hạn mức kinh phí của các cơ quan, đơn vị nếu không chi hết trong năm thì phải nộp trả ngân sách. Vì vậy, có nhiều đơn vị tập trung chi cho hết hạn mức kinh phí vào cuối năm. - Riêng đối với chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB còn một nguyên nhân là sự chậm trễ trong việc tiến hành thi công công trình và chuẩn bị hồ sơ thủ tục thanh toán với Kho bạc. -Theo quy định hiện tại của thành phố, kế hoạch đầu tư sẽ được xem xét bổ sung, điều chỉnh vào thời điểm tháng 9 hàng năm nên thời điểm thanh toán khối lượng hoàn thành, quyết toán thường vào cuối năm. Tình trạng dồn chi cuối năm khiến việc thanh quyết toán của cơ quan quản lý gặp khó khăn, tiến độ quyết toán hàng năm không bảo đảm. Một số nguyên nhân của việc chậm quyết toán công trình hoàn thành: - Một cố công trình chủ yếu là cải tạo, sửa chữa do vậy trong quá trình thực hiện có các công việc phát sinh, phải trình UBND Thành phố cho phép, phải chờ thủ tục phê duyệt lại dự án, thiết kế, tổng dự toán. Vì vậy, tiến độ quyết toán công trình bị chậm so với kế hoạch. - Do trong quá trình phê duyệt thiết kế kĩ thuật, tổng dự toán, đấu thầu hoặc trong quá trình thực hiện có phát sinh thay đổi đơn giá khiến quá trình phê duyệt bị chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch chung của công trình hoặc dẫn đến việc phải phê duyệt lại làm chậm tiến độ quyết toán. - Quyết toán công trình hoàn thành là phải quyết toán toàn bộ các chi phí cho công trình bao gồm cả chi phí chuẩn bị đầu tư ( điều tra khảo sát, lập và thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án ) ; chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư (đền bù đất đai hoa màu, di chuyển dân cư, các công trình trên mặt bằng xây dựng, chuyển quyền sử dụng đất, ... , khảo sát, thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán, chi phí đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư ); chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng ( xây lắp, mua sắm thiết bị và các chi phí khác có liên quan ); chi phí kết thúc đầu tư, bàn giao và đưa công trình vào sử dụng. Các chi phí này được thực hiện trong nhiều năm với nhiều hoá đơn chứng từ kèm theo. Việc lập báo cáo quyết toán và thẩm tra tất cả các chi phí này chỉ trong một vài tháng là một khối lượng công việc khổng lồ, phức tạp và hết sức khó khăn. - Do công tác quyết toán phải trải qua nhiều bước ( lập báo cáo quyết toán, gửi hồ sơ quyết toán, thẩm tra quyết toán, phê duyệt quyết toán ) và đòi hỏi nhiều loại hồ sơ tài liệu nên một số công trình tuy đã thi công xong nhưng chưa quyết toán được vì chưa kịp lập báo cáo quyết toán, chưa đủ hồ sơ, thủ tục quyết toán. Nói hai hạn chế trên khó khắc phục vì : - Tình trạng châm giao dự toán và chậm quyết toán ngân sách là tình trạng phổ biến lâu nay của các địa phương, đặc biệt là Hà Nội. Hà Nội là một trong hai thành phố lớn nhất nước, lại là trung tâm hành chính - văn hoá nên có rất nhiều cơ quan đơn vị sử dụng vốn ngân sách, phải chi cho nhiều công việc, ngân sách thành phố tuy lớn nhưng cũng rất khó cân đối. Với khối lượng công việc lớn như vậy, việc lập và giao dự toán, việc quyết toán theo đúng thời hạn quy định của Nhà nước là rất khó thực hiện. - Việc lập và giao dự toán, việc quyết toán được quy định rất chặt chẽ, phải thông qua nhiều bước, nhiều cấp, nhiều thủ tục vì vậy đòi hỏi phải có thời gian tương đối lâu mới hoàn thành được. - Tiến độ công tác lập dự toán, quyết toán hiện nay phụ thuộc vào cả cơ quan quản lý lẫn đơn vị dự toán. Nhiều đơn vị hiên nay chưa tự giác, chưa nhanh chóng trong việc lập dự toán, lập báo cáo quyết toán gửi cơ quan tài chính vì vậy không những làm ảnh hưởng đến tiến độ của bản thân đơn vị mình mà còn làm ảnh hưởng đến tiến độ công việc chung của cơ quan quản lý. Theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng, các dự án được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư hoặc thực hiện đầu tư phải có quyết định đầu tư phù hợp với những quy định của Quy chế vào thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch. Nhưng trong thực tế điều này không thể thực hiện được đầy đủ. Các dự án có quyết định đầu tư sau thời điểm tháng 10 năm trước vẫn tiếp tục được ghi bổ sung vào dự toán ngân sách. Đây không hẳn là hạn chế mà là sự linh hoạt khi vận dụng những quy định cứng nhắc vào thực tiễn. Hiện nay do có quy định không được sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB để đầu tư xây dựng mới nên khi các Quận, Huyện, Sở, Ban, Ngành có công trình muốn xây dựng mới, dù có số vốn nhỏ một vài trăm triệu cũng phải xin vốn đầu tư XDCB tập trung của thành phố với những thủ tục phức tạp hơn vì vậy rất phiền hà, mất thời gian, hạn chế hiệu quả vốn đầu tư. Trong khi đó lại cho phép xây dựng mới những hạng mục công trình nằm trong cơ sở vật chất sẵn có của cơ quan, đơn vị dù công trình đó có vốn đầu tư lên đến hàng tỉ đồng. Đây là một điều bất hợp lí của quy định hiện hành. Chương 3 . Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản 3.1. Xu hướng quản lý và phát triển vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB Theo đà tăng trưởng kinh tế - xã hội, sự gia tăng của dân số và gia tăng của mức sống, nhu cầu mở rộng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa cơ sở vật chất của các đơn vị HCSN cũng không ngừng tăng lên, nhất là đối với các đơn vị sự nghiệp. Đồng thời, với chủ trương ưu tiên chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước ( đã được đề cập đến trong văn kiện Đại hội IX, Pháp lệnh Thủ đô, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 ), chi cho phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế nói chung và chi cho sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất của các ngành trên nói riêng sẽ lớn. Thực trạng cơ sở vật chất của các cơ quan, đơn vị HCSN hiện nay còn yếu kém. Mặc dù trong những năm vừa qua thành phố đã chú ý bố trí vốn để cải tạo, sửa chữa, mở rộng, nâng cấp, nhưng nhu cầu vẫn còn nhiều. Thực ra biện pháp triệt để nhất là phải thay thế, xây mới những cơ sở vật chất này nhưng do Nhà nước phải tập trung đầu tư XDCB cho những công trình then chốt nên sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp vẫn được sử dụng như là giải pháp khả thi nhất hiện nay. Với chủ trương tiết kiệm chi ngân sách, cải cách tài chính công, Chính phủ đã có quy định về khoán biên chế và chi phí quản lý hành chính cho các cơ quan hành chính và quy định về giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Tuy nhiên, đối với khoản chi về sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất cách quản lý chưa thay đổi gì nhiều, các đơn vị vẫn phải dựa chủ yếu vào vốn ngân sách Nhà nước cấp. Vì các lý do trên , có thể nói rằng, trong thời gian ngắn hạn và trung hạn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB sẽ không giảm đi. Trong dài hạn, cần ưu tiên tích luỹ vốn đầu tư XDCB để đổi mới, thay thế một cách toàn diện, triệt để những cơ cở hạ tầng cũ kĩ, lạc hậu, trang bị những cơ sở vật chất rộng rãi, khang trang, hiện đại, đúng tiêu chuẩn cho các cơ quan, đơn vị HCSN. Bên cạnh đó, đối với riêng ngành văn hoá- thông tin, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB vẫn cực kỳ cần thiết cả trong hiện tại và về tương lai lâu dài bởi vì nó không chỉ dùng để phục hồi, nâng cao giá trị những tài sản hiện tại mà nó còn góp phần duy trì và gìn giữ những di sản của quá khứ, những di sản mà nếu mất đi thì dù có đầu tư bao nhiêu tiền của cũng không lấy lại được. Trong Chương trình Tổng thể Cải cách hành chính Nhà nước, Cải cách bộ máy quản lý và Cải cách thủ tục hành chính là hai nội dung quan trọng. Xu thế cải cách là tăng cường phân cấp quản lý, nâng cao quyền tự chủ của các cơ quan, đơn vị. Đối với thành phố Hà Nội hiện nay, công tác phân công, phân cấp quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đã và đang được thực hiện khá tốt. Vốn đầu tư XDCB được tập trung ở thành phố UBND nhờ đó tập trung được nguồn lực đầu tư cho những dự án quan trọng của Thành phố và thống nhất được quản lý. Trong khi đó, phân cấp, uỷ quyền quản lý cho các Sở, UBND Quận, Huyện, Thành phố chủ yếu quản lý về quy hoạch, kế hoạch chung vì vậy phát huy được sự chủ động trong việc bố trí những khoản chi nhỏ, giảm bớt thủ tục hành chính và tận dụng được nguồn lực quản lý của các Sở, Quận, Huyện. Do những ưu điểm này, và trong xu hướng chung, việc phân cấp quản lý sẽ càng được tăng cường. Các đơn vị HCSN đã và sẽ ngày càng được chủ động trong việc sắp xếp những khoản chi, sử dụng vốn ngân sách miễn là hoàn thành nhiệm vụ được giao và tiết kiệm NSNN. Việc tăng quyền tự chủ sẽ giảm được các thủ tục phiền hà xảy ra trong quá trình lập và chấp hành ngân sách, giúp thủ trưởng cơ quan, đơn vị phát huy khả năng và trách nhiệm trong việc quyết định các khoản chi cần thiết đối với đơn vị mình. Hiện tại, mới chỉ có quy định về khoán biên chế và chi phí quản lý hành chính cho các cơ quan hành chính và quy định về giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Nội dung cơ bản và quan trọng nhất của hai quy định này là kinh phí trong năm chi không hết (do tiết kiệm được, do thu) thì không phải nộp trả ngân sách mà được giữ lại đơn vị để chi cho tăng lương và tăng cường cơ sở vật chất. Kinh phí được phép chuyển năm sau là kinh phí Nhà nước cấp cho hoạt động thường xuyên của đơn vị và khoản thu sự nghiệp. Thực tế áp dụng những quy định này ở thành phố Hà Nội, dù mới trong thời gian chưa lâu, đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Vì vậy rất có thể trong thời gian tới các quy định mới sẽ được mở rộng nghiên cứu triển khai và áp dụng cho các khoản chi khác như chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất. 3.2. Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB 3.2.1. Nâng cao chất lượng ở từng khâu của nội dung quản lý và trên cả quá trình quản lý 3.2.1.1. Khâu lập và phân bổ kế hoạch vốn đầu tư Chất lượng khâu lập kế hoạch có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB bởi vì đây là khâu đầu tiên của toàn bộ quá trình. Tuy nhiên, công tác lập và phân bổ kế hoạch hiện nay chưa tốt, còn tồn tại hai hạn chế là không đúng thời hạn và chưa đầy đủ, chính xác. Để khắc phục những hạn chế này, cần thực hiện một số giải pháp sau: Cơ quan tài chính lập và phân bổ kế hoạch vốn đầu tư theo các giai đoạn của trình tự đầu tư. Có 3 loại kế hoạch: Kế hoạch vốn cho chuẩn bị đầu tư, kế hoạch vốn cho chuẩn bị thực hiện và kế hoạch vốn cho thực hiện đầu tư. Với mỗi loại kế hoạch này có các yêu cầu biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả quản lý. Ngay từ đầu khi đơn vị lập dự toán chi ngân sách của mình, cơ quan tài chính cần xem xét ngay danh mục xin kinh phí cho việc lập dự án. - Đánh giá sơ bộ sự cần thiết của dự án đề xuất dựa trên những thông tin đã nắm được về tình hình thực tế và những nhu cầu phát triển của đơn vị , của ngành. Loại bỏ ngay những dự án không cần thiết hoặc chưa cần thiết, những dự án không phù hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị hoặc với yêu cầu phát triển ngành. - Đánh giá mức hợp lý của vốn chuẩn bị đầu tư của mỗi dự án nhất định để điều chỉnh. Như vậy, không những tiết kiệm được khoản chi cho lập dự án đầu tư mà còn hạn chế được sự lãng phí nếu như dự án được lập nhưng không được quyết định đầu tư. Khi dự án đã có quyết định đầu tư, cơ quan tài chính cần bố trí vốn cho việc lập tổng dự toán, thiết kế kỹ thuật để chuẩn bị thực hiện đầu tư. Vì dự án đã có quyết định đầu tư, công việc chuẩn bị thực hiện đầu tư càng mau chóng tiến hành thì công trình càng mau chóng được khởi công theo đúng tiến độ. Đối với các dự án đã dược phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, cơ quan tài chính sẽ lập và thông báo kế hoạch vốn thực hiện đầu tư dự án. Kế hoạch năm và kế hoạch quý cần giao sát với nhu cầu vốn theo tiến độ công trình , cần đánh giá khả năng giải ngân của công trình , qua đó bố trí vốn kịp thời, hợp lý tránh được ứ đọng nguồn. ở đây có hai ý cần thực hiện. Một mặt phải bố trí đủ vốn cho công trình để thi công theo đúng tiến độ, không để xảy ra tình trạng tạm ngừng thi công do chưa có vốn hoặc tình trạng đơn vị phải xin bổ sung vốn nhiều lần. Mặt khác, kế hoạch vốn cần được bố trí đủ, không qua thừa so với khả năng thực hiện của đơn vị, tránh việc bố trí nhiều vốn mà thực hiện được ít, phải chuyển sang quý sau hoặc phải thu hồi lại khi hết năm. Bố trí vốn hợp lý không chỉ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đối với mỗi công trình mà nó còn làm tăng khả năng cân đối vốn giữa các công trình và do đó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB nói chung. Để làm được điều này cần căn cứ vào: - Tổng dự toán và nhu cầu vốn theo tiến độ đã được duyệt. - Báo cáo tình hình thực hiện vốn đầu tư của đơn vị và của KBNN. - Tổng hợp dự toán và tình hình thực hiện dự toán của tất cả các dự án Những yếu tố này đòi hỏi một hệ thống thông tin báo cáo đầy đủ, chính xác kịp thời giữa cơ quan quản lý với đơn vị sử dụng vốn và giữa các cơ quan quản lý với nhau. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình của cán bộ quản lý. Trong việc lập và phân bổ kế hoạch ngân sách đối với cả 3 loại kế hoạch nêu trên đều phải lưu ý những điểm sau: - Bố trí danh mục vốn, kế hoạch vốn có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên cho các dự án thuộc các ngành y tế, giáo dục vì xét về ý nghĩa xã hội, số lượng của các công trình cần thực hiện và tính cấp thiết của các công trình, hai ngành này đều đứng đầu. Bố trí vốn có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải vốn, sửa chữa chắp vá chính là nhằm yếu tố hiệu quả tiết kiệm trong mục tiêu quản lý vốn, đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu phát triển của mỗi ngành. - Giao mức vốn hợp lý tức là trong đó các khoản mục chi và mức vốn phù hợp cho mỗi khoản mục chi cần được giao càng chính xác và đầy đủ càng tốt. Điều này mới nghe có vẻ mâu thuẫn với xu hướng tăng cường quyền tự chủ của các đơn vị nhưng thực ra không phải như vậy. Việc đưa ra mức vốn hợp lý phải căn cứ vào nhu cầu và tình hình thực tế của đơn vị, căn cứ vào dự toán của đơn vị và có sự trao đổi, điều chỉnh nếu có bất đồng. Đó là quyền tự chủ của đơn vị. Ngược lại, cơ quan tài chính giao chính xác và đầy đủ các khoản mục chi là nhằm đưa ra một công cụ giám sát, bắt các đơn vị phải tự giác chi vốn theo đúng mục đích ( đúng nội dung của mỗi khoản mục ), và đúng dự toán ( đúng số vốn được giao của mỗi khoản mục ). Đặc biệt, đối với những hoạt động đã được lập kế hoạch trước như việc thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng thì việc bố trí vốn cụ thể theo các mục chi lại càng tỏ ra thích hợp. Thông thường mọi người hay nghĩ đến việc cơ quan tài chính cần tính giảm những khoản chi lớn quá mức cần thiết trong dự toán trình duyệt của đơn vị. Tuy nhiên, xét khía cạnh khác, cơ quan tài chính cần cố vấn cho đơn vị tính đầy đủ , tính đúng giá các khoản chi cần thiết để giao dự toán cho chính xác , hạn chế việc phải bổ sung dự toán sau này, tránh tình trạng bị động về vốn đối với các chủ đầu tư lẫn cơ quan quản lý cấp phát. 3.2.1.2. Khâu thanh toán vốn Thanh toán vốn chính là một khâu quan trọng để kiểm soát việc thực hiện chi vốn ngân sách. Chất lượng của khâu thanh toán vốn phụ thuộc vào : - Chất lượng khâu lập dự toán ban đầu - Tình hình thực hiện thi công và hoàn thành khối lượng công trình theo tiến độ của đơn vị. - Chất lượng hệ thống thanh toán vốn của cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước. Hạn chế lớn nhất của khâu thanh toán vốn hiện nay là việc giải ngân chậm, chi ngân sách bị dồn vào cuối năm. Để đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thành công trình của các đơn vị, Sở Tài chính- Vật giá cần phối hợp với đơn vị chủ quản và các cơ quan có thẩm quyền đôn đốc các đơn vị tiến hành thực hiện vốn đã được bố trí theo kế hoạch, khắc phục tình trạng kế hoạch vốn đã giao mà không được chi hoặc tỷ lệ thực hiện kế hoạch quá thấp , hoặc việc dồn các khoản chi vào cuối năm, ảnh hưởng đến tiến độ công trình và gây khó khăn cho công tác quyết toán của cơ quan tài chính. Về phần mình, cơ quan quản lý thanh toán ( Kho bạc ) cần kết hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý cấp phát ( Sở Tài chính - Vật giá ), thực hiện nhanh chóng việc chuyển vốn, thanh toán vốn cho các đơn vị có đầy đủ hồ sơ thanh toán, hướng dẫn cho các đơn vị còn thiếu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải ngân các công trình. Đồng thời, hai cơ quan này cần tăng cường chế độ thông tin báo cáo lẫn nhau để kiểm soát các khoản chi, giám sát tiến độ và khối lượng thanh toán vốn, từ đó kịp thời đốc thúc và phát hiện các sai sót. Hiện nay, theo quy định mới của Luật Ngân sách 2002, Nghị định số 10/ 2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, hạn mức kinh phí hoặc số kinh phí khoán của các cơ quan đơn vị nếu chi không hết (do tiết kiệm hoặc tăng thu) không bị thu hồi mà được chuyển sang năm sau. Vì vậy, sẽ hạn chế được tình trạng dồn chi cuối năm. Tuy nhiên, việc cho phép chuyển kinh phí thừa sang năm sau chỉ áp dụng đối với kinh phí chi quản lý hành chính ( đối với cơ quan hành chính ) và kinh phí chi hoạt động thường xuyên, khoản thu sự nghiệp ( đối với đơn vị sự nghiẹp có thu ). Chi đầu tư XDCB cơ bản không áp dụng quy định này. Đối với chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, quy định tương tự có thể có tác dụng. Tuy nhiên cần lưu ý điểm khác biệt. Hai quy định nêu trên là nhằm khuyến khích các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp tiết kiệm chi quản lý hành chính và tăng thu, vì vậy còn có quy định cho phép các cơ quan đơn vị này sử dụng một phần kinh phí dôi ra để tăng lương và đầu tư tăng cường cơ sở vật chất. Đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, chỉ được dùng vào mục đích duy nhất là chi cho công trình, dự án đang thực hiện và việc cho phép chuyển hạn mức thừa sang năm sau chỉ là giải pháp tình thế cho các đơn vị do điều kiện khách quan không thực hiện tốt kế hoạch vốn đã giao. Vì vậy để tránh bị lạm dụng cần phải kèm theo những quy định chặt chẽ hơn. Ví dụ phải có giải trình về nguyên nhân không thực hiện đúng kế hoạch, vốn chuyển sang năm sau phải được thực hiện xong trong một thời gian nhất định. 3.2.1.3. Khâu quyết toán Quyết toán là khâu kiểm tra cuối cùng đối với việc sử dụng vốn ngân sách. Nó là điểm chốt, phát hiện những sai sót mà các khâu quản lý khác đã bỏ qua. Vì vậy, yêu cầu đối với công tác quyết toán là phải chặt chẽ, chính xác, đúng chế độ, đúng pháp luật. Hạn chế lớn nhất trong khâu quyết toán hiện nay là việc các công trình chậm quyết toán và số quyết toán duyệt còn chênh lệch nhiều so với quyết toán đơn vị. Để giải quyết vấn đề này, cần thực hiện các biện pháp sau: Các công trình đã thi công xong cần nhanh chóng lập báo cáo quyết toán. Cơ quan tài chính cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, tổ chức tập huấn về các trình tự , thủ tục, hồ sơ quyết toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản cho các cơ quan, đơn vị. Trong văn bản hướng dẫn nên có mục lưu ý các sai sót mà đơn vị hay mắc trong quá trình quyết toán như các hồ sơ thủ tục bị thiếu, quyết toán nhầm mục lục ngân sách, cách tính và điều chỉnh giá trị công trình theo đơn giá thành phố quy định , thời hạn nộp báo cáo quyết toán . Như vậy sẽ hạn chế được các sai sót của đơn vị, đẩy nhanh tốc độ quyết toán. Các đơn vị cần tự giác thực hiện nghiêm túc việc quyết toán thực hiện vốn đầu tư năm, quyết toán hạng mục công trình hoàn thành và quyết toán công trình hoàn thành. Nếu việc quyết toán thực hiện vốn đầu tư năm, quyết toán hạng mục công trình hoàn thành được thực hiện tốt thì việc quyết toán công trình hoàn thành sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn. Cơ quan tài chính cần thực hiện tốt các công việc: - Phối hợp với Kho bạc Nhà nước và cơ quan quản lý của chủ đầu tư kiểm tra , theo dõi tiến độ thanh quyết toán vốn theo kế hoạch , đôn đốc những đơn vị chậm trễ. - Tiến hành giải quyết thanh quyết toán nhanh cho các đơn vị đã đủ thủ tục, hướng dẫn bổ sung thủ tục cho các đơn vị còn thiếu. - Thẩm tra giá trị khối lượng công việc hoàn thành đề nghị quyết toán so với giá trúng thầu, dự toán được duyệt, các đơn giá, tiêu chuẩn, định mức quy định, giá trị khối lượng tăng giảm và nguyên nhân. - Thẩm tra các khoản chi phí khác bằng cách so sánh số vốn đề nghị quyết toán của từng loại chi phí đã thực hiện so với dự toán được duyệt và chính sách chế độ quy định về quản lý chi phí đầu tư và xây dựng. Công tác kiểm tra, thẩm tra nếu thực hiện tốt sẽ đạt được các mục đích: - Nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư - Phát hiện các sai phạm. - Có được bản quyết toán công trình chính xác, tránh được việc sử dụng lãng phí, thất thoát ngân sách. - Đánh giá được chất lượng công tác quản lý vốn, quản lý dự án. Điều kiện quan trọng để thực hiện tốt khâu quyết toán là phải có hệ thống kế toán, kiểm toán mạnh và trong sạch. Điều này phụ thuộc vào các quy định hiện hành của Nhà nước và chất lượng nguồn nhân lực. 3.2.1.4. Trên toàn bộ quá trình quản lý Trong quá trình quản lý, công tác hướng dẫn của cơ quan quản lý là rất quan trọng vì không phải đơn vị nào cũng nắm được hết các văn bản quản lý của Nhà nước đồng thời vận dụng được chúng vào thực tế phong phú sinh động. Công tác hướng dẫn thực hiện tốt sẽ giảm được những sai sót không đáng có, giảm được lãng phí về thời gian và công sức do việc phải làm lại các báo cáo, đẩy nhanh tiến độ và tăng cường hiệu quả công việc. Trên toàn bộ qua trình quản lý cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan thuộc hệ thống quản lý và việc thông tin, báo cáo giữa cơ quan quản lý với đơn vị sử dụng vốn và giữa đơn vị quản lý với nhau. Hai biện pháp khả thi hiện nay là: - Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thống nhất về quy trình, biểu mẫu. - ứng dụng công nghệ thông tin. Hiện nay, cả hai vấn đề nêu trên đều đang ở dạng đề án của Nhà nước và từng bước thực hiện ở một số cơ quan, đơn vị. Mục tiêu và yêu cầu của cải cách một bước thủ tục hành chính là phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và giải quyết công việc của dân và tổ chức. Cụ thể là: phải phát hiện và xoá bỏ những thủ tục thiếu đồng bộ, chồng chéo, rườm rà, phức tạp, đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa cơ quan Nhà nước với công dân; tổ chức xây dựng và thực hiện được các thủ tục giải quyết công việc đơn giản, rõ ràng thống nhất, đúng pháp luật và công khai; vừa tạo thuận tiện cho công dân và tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc, vừa có tác dụng ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu và tham nhũng trong công chức Nhà nước, đồng thời đảm bảo được trách nhiệm quản lý Nhà nước, giữ vững kỷ cương pháp luật. Để đạt được mục tiêu trên, kể từ khi có chủ trương cải cách thủ tục hành chính (từ năm 1994) đến nay, trong hệ thống hành chính Nhà nước đã và đang tiến hành các công việc: - Tinh giảm thủ tục hành chính, loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, tạo thuận lợi, ít tốn kém cho nhân dân và các tổ chức. - Lập lại trật tự trong việc ban hành các thủ tục hành chính, chỉ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định mới được ban hành thủ tục, các cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện thủ tục không được tuỳ tiện đặt thêm các thủ tục. - Tập trung cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đang có nhiều vướng mắc, nhiều hiện tượng tiêu cực như : cấp đất xây dựng và giấy phép xây dựng, phân bổ và cấp phát vốn đầu tư của Nhà nước, các lệ phí đi liền với thủ tục,... Để công cuộc cải cách hành chính đạt hiệu quả, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Cụ thể là: - Đổi mới đồng bộ cơ chế ban hành thủ tục hành chính, đảm bảo tính pháp lý thống nhất, năng động, hợp lý, khoa học của hệ thống thủ tục hành chính. Bỏ những thủ tục rườm rà, dễ lợi dụng. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực có sự kiểm soát của Nhà nước, theo hướng giảm sự kiểm soát phi hiệu quả và không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo được vai trò quản lý của Nhà nước. - Công khai hoá và quy định cụ thể các trình tự, thủ tục giải quyết công việc, tạo thuận lơi cho cá nhân và tổ chức liên hệ công tác nắm được và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ tài liệu theo đúng trình tự thủ tục ấy. - Xây dựng cơ chế có hiệu quả để kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc, xử lý cán bộ vi phạm, khem thưởng người có thành tích. Tuy nhiên, việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB gặp phải khó khăn sau: Mâu thuẫn giữa yêu cầu chặt chẽ, đầy đủ, chính xác của các thủ tục, giấy tờ về đầu tư xây dựng với đòi hỏi phải đơn giản hoá các thủ tục. Khối lượng văn bản quản lý , hồ sơ thủ tục hiện nay rất nhiều, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, việc rà soát lại và chỉnh sửa, thay đổi các văn bản này là một công việc hết sức khó khăn, cần nhiều thời gian, tiền bạc, sức lực và phải tiến hành một cách thận trọng và đồng bộ, tránh việc sửa đổi nhiều lần các văn bản gây khó khăn cho công tác triển khai thực hiện của các cơ quan, đơnvị. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin là xây dựng và triển khai thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực tin học hoá quản lý Nhà nước. Chúng ta đã bước đầu xây dựng được cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho việc ứng dụng Tin học trong quản lý Nhà nước và các hoạt động chuyên ngành. Trên cơ sở đó đã tổ chức triển khai từng bước xây dựng các hệ thống thông tin phục vụ cho các hoạt động quản lý kinh tế, xã hội. Một số dự án Thông tin đã và đang thực hiện là: - Dự án tin học hoá hệ thống thông tin Văn phòng Chính phủ. - Các dự án tin học hoá quản lý Nhà nước tại các địa phương và các bộ, ngành. - Các dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về Thống kê kinh tế - xã hội, Tài chính - ngân sách, Tài nguyên đất, Công chức viên chức và các đối tượng hưởng chính sách, Dân cư, Luật và các văn bản pháp quy. Đối với quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, việc thống nhất về quy trình, biểu mẫu trong báo cáo, kế toán, quyết toán cũng là để dễ dàng đưa công nghệ thông tin vào trong quản lý, dễ xử lý các số liệu trên máy. Việc áp dụng hệ thống máy tính nối mạng sẽ tăng cường việc thông tin báo cáo lẫn nhau giữa các cơ quan , đơn vị, giảm thời gian và chi phí đi lại, đẩy nhanh được tiến độ công việc và nâng cao hiệu quả giám sát. Tuy nhiên, việc tin học hoá công tác quản lý Nhà nước đòi hỏi sự tiến hành đồng bộ đồng thời ở mức độ cao, thậm chí rất cao thì mới có hiệu quả bởi vì sự liên kết thông tin giữa các nguồn số liệu phải dựa trên một nền tảng kỹ thuật thống nhất và tương đương về cấp độ. Tức là các cơ quan đơn vị đều phải được trang bị hệ thống cơ sở kỹ thuật về tin học tương đương nhau, áp dụng những chương trình quản lý như nhau hoặc chí ít cũng phải tương đồng về cơ bản. Muốn thực hiện được điều này cần có thời gian và chi phí không nhỏ. 3.2.2. Nâng cao trách nhiệm và tăng quyền tự chủ của của đơn vị sử dụng vốn. Như đã nói ở trên, về việc giao quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, hiện đã có Nghị định số 10/2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Mặc dù đây mới chỉ là quy định cho một số khoản chi thường xuyên nhưng trong tổ chức thực hiện đã tỏ rõ hiệu quả, tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách. Trong thời gian tới, các cơ quan tài chính có thể xem xét đề nghị Chính phủ mở rộng quyền tự chủ của đơn vị đối với những khoản chi khác, trong đó có chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Bên cạnh đó, cần phải quy định rõ trách nhiệm của đơn vị và của cá nhân thủ trưởng đơn vị đối với việc sử dụng vốn ngân sách nói chung và vốn sự nghiệp đầu tư nói riêng. Tăng cường tự chủ để đơn vị chủ động bố trí các khoản chi phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị mình. Còn nâng cao trách nhiệm để thủ trưởng cơ quan thận trọng trong quyết định chi tiêu, và để ngăn ngừa việc tham ô, lãng phí. Nâng cao trách nhiệm và tăng cường tự chủ của đơn vị không chỉ là việc đơn vị được chủ động hơn trong sử dụng các khoản kinh phí ngân sách cấp mà nó còn kèm theo một ý nữa là đơn vị phải chủ động trong việc tìm kiếm nguồn cho các khoản chi của mình: nguồn ngân sách, nguồn tài trợ viện trợ, nguồn thu để lại. Nhất là đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, xu hướng là Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần kinh phí, phần còn lại đơn vị tự trang trải. Tăng cường tự chủ và nâng cao trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có nghĩa là cơ quan tài chính phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cho các đơn vị làm theo đúng chế độ chính sách. Việc kiểm tra định kỳ rất cần thiết vì nhờ đó cơ quan quản lý sẽ kịp thời phát hiện những sai sót để tiến hành xử lý. 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan, đơn vị bị quản lý có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng công tác quản lý. Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay mặc dù đã được cải thiện nhiều nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu công việc. Trong Chương trình Cải cách hành chính hiện nay, muốn cải tổ bộ máy quản lý, tinh giảm biên chế thì phải thực hiện cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức theo hướng chuyên môn hoá và kiêm nhiệm. Một số việc cần thực hiện : - Ngay từ khâu đầu vào, tổ chức nghiêm túc việc thi công chức để tuyển dụng những cán bộ, công chức đủ trình độ chuyên môn và năng lực quản lý. - Trong quá trình sử dụng nhân sự, cần phân công công việc phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ. Định kì hoặc khi đột xuất có kế hoạch phân công công tác mới hoặc đề bạt cho cán bộ, cơ quan sử dụng nhân sự cần tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc gửi cán bộ đi học lớp, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao ở các Trung tâm đào tạo tập trung, các trường đại học, học viện. - Đối với cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ quản lý cấp cao, bên cạnh việc nâng cao chuyên môn nghiệp vụ còn cần phải tham gia các lớp học chính trị và quản lý hành chính Nhà nước. - Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ và hướng dẫn triển khai các văn bản quản lý của Nhà nước. - Hàng năm, cơ quan sử dụng nhân lực cần chủ động bố trí một khoản chi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đồng thời khuyến khích các cán bộ sử dụng nguồn lực cá nhân tự đi học nâng cao trình độ. Cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ cán bộ đi học về thời gian và phân công công tác. Cán bộ đi học có trách nhiệm vừa hoàn thành nhiệm vụ học tập vừa hoàn thành nhiệm vụ công tác được giao. Đối với chất lượng cán bộ công chức, bên cạnh yêu cầu về kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn, còn cần có kĩ năng sử dụng vi tính, trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết xã hội để phù hợp với xu thế giao lưu, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. Để tăng cường sự tự giác của cán bộ trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn, hàng năm cơ quan sử dụng nhân sự có thể tổ chức thi kiểm tra nghiệp vụ định kì và có chế độ khen thưởng thích hợp . 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống chế độ chính sách hiện tại Hiện nay có rất nhiều văn bản sử dụng trong quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Tuy nhiên vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB được quy định chung trong các văn bản cùng với vốn đầu tư XDCB trong khi hai loại vốn này có những điểm khác nhau về quản lý. Vì vậy gây ra khó khăn trong việc phân tích xem công tác quản lý có phù hợp với quy định về quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB hay không hay là chỉ đúng với quy định về quản lý đầu tư và xây dựng nói chung. Đồng thời việc này cũng gây khó khăn cho việc vận dụng văn bản vào thực tế quản lý. Các văn bản dùng trong quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB hiện hành phần lớn mới được ban hành hoặc sửa đổi trong các năm 1999; 2000; 2002 nên tương đối đầy đủ, cụ thể và sát với thực tế. Tuy nhiên, cũng do mới ban hành nên nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm được. Vì vậy, cơ quan quản lý một mặt phải hướng dẫn chi tiết cách vận dụng quy định, đồng thời, trong quá trình quản lý phải nắm bắt thông tin phản hồi từ các cơ quan, đơn vị để tìm ra những điểm chưa phù hợp, chưa đầy đủ, từ đó sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị cơ quan cấp trên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế và yêu cầu quản lý. Để làm được điều này, điều kiện tiên quyết là các cán bộ quản lý phải nắm vững được các chế độ chính sách hiện hành. Các cơ quan quản lý phải thực hiện tốt việc thông tin lẫn nhau và với các cơ quan, đơn vị là đối tượng bị quản lý. Tuy nhiên , việc sửa đổi, bổ sung hệ thống chế độ chính sách không thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý cấp thành phố mà phụ thuộc vào bộ phận xây dựng chính sách của cấp bộ, cấp Chính phủ và Quốc hội. Cơ quan quản lý cấp dưới chỉ có thể làm tốt việc cố vấn và cung cấp thông tin cho bộ phận xây dựng chính sách này. 3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB Với Chính phủ, Bộ Tài chính: Cần có những quy định phân biệt rõ hơn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB và vốn đầu tư XDCB . Vì quản lý hai loại vốn này có nhiều điểm tương đồng nên để dễ tra cứu ( và tiết kiệm ) vẫn nên duy trì việc quy định chung cả hai loại vốn trong một văn bản. Tuy nhiên, trong các quy định cần nêu rõ khái niệm và phạm vi của các loại vốn này, xác định cụ thể quy mô dự án, nội dung dự án được phép sử dụng vốn, nêu rõ phương thức quản lý và thẩm quyền quản lý đối với hai loại vốn ( các văn bản hiện nay chưa có phần này hoặc mới chỉ đề cập hết sức sơ lược chung chung, nhất là đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB ). Với Bộ Tài chính : - Đối với những dự án xây dựng mới có quy mô vốn nhỏ dưới 1 tỉ đồng và việc xây dựng mới này phù hợp với quy hoạch xây dựng của Thành phố thì cho phép sử dụng nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB để chủ động hơn trong việc bố trí vốn đầu tư . - Quy định về chế độ khen thưởng đối với đơn vị thực hiện tốt và trong mức độ những sai sót chưa nghiêm trọng, đưa ra những chế tài xử phạt về hành chính và tài chính đối với những đơn vị làm sai chế độ chính sách có dấu hiệu lợi dụng, tham ô. - Nhanh chóng xây dựng các thông tư hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định mới của Chính phủ và Quốc hội. Khi ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản cần tiến hành đồng bộ, tránh tình trạng liên tục sửa đổi các văn bản gây khó khăn cho công tác thực hiện và tra tìm văn bản mới nhất ( có hiệu lực cao hơn văm bản cũ ). Việc xây dựng đồng bộ văn bản cũng giúp cho công tác quản lý được đồng bộ, có hiệu lực cao vì có hệ thống văn bản quản lý đủ mạnh, phù hợp với nhau và với thực tiễn. Đối với UBND Thành phố, Sở Kế hoạch- Đầu tư, Sở Xây dựng: cần đẩy nhanh tiến độ các khâu thẩm định và phê duyệt để Sở Tài chính kịp thời bố trí các khoản chi theo đúng thời hạn lập dự toán ngân sách. Đối với Sở Xây dựng: Khi thẩm định dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán cần phải thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết, phù hợp với nhu cầu thực tế của chủ đầu tư để hạn chế các trường hợp phải bổ sung, điều chỉnh dự án, dự toán. Đối với UBND Thành phố, các Sở, các cơ quan quản lý có liên quan: tích cực phối hợp với cơ quan tài chính kiểm tra, đôn đốc công tác lập dự toán, thực hiện dự toán và quyết toán công trình của các đơn vị thuộc quyền quản lý. Hỗ trợ cơ quan tài chính trong việc cung cấp thông tin, báo cáo và việc xây dựng các văn bản quản lý liên ngành. UBND Thành phố cần giữ vai trò chủ trì, là cơ quan quản lý cao nhất của thành phố, chỉ đạo công tác quản lý của tất cả các Sở, Ban, Ngành, tuy nhiên, cần tiếp tục tăng cường phân công, phân cấp quản lý cho các , Sở, Ban, Ngành để giảm thiểu thủ tục hành chính, gia tăng hiệu quả quản lý theo ngành chuyên quản. Kết luận Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tế quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội hiện nay ta rút ra được một số kết luận như sau: Các dự án, công trình sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB thường có quy mô vốn nhỏ. Mặc dù vậy, công tác quản lý đã tuân thủ chặt chẽ theo đúng những quy định của Nhà nước. Nhờ vậy vốn ngân sách đã được sử dụng hợp lí, hiệu quả. Công trình sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp đưa vào sử dụng đã góp phần đáp ứng được nhiệm vụ chính trị - xã hội được giao của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế đặc biệt về tiến độ giải ngân quyết toán các công trình. Bên cạnh đó, quá trình vận dụng các văn bản quản lý của Nhà nước đã nảy sinh một số điều bất cập . Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì những cố gắng và kết quả hiện tại đồng thời khắc phục những hạn chế tồn tại, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý của Nhà nước và của thành phố. Để làm được điều này không những cần sự nỗ lực của các cơ quan quản lý mà còn cần sự nỗ lực và tinh thần hợp tác của các cơ quan , đơn vị sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB . Cuối cùng , cần phải khẳng định lại một lần nữa, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB mặc dù có quy mô không lớn nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Vì vậy trong tổng chi ngân sách Nhà nước, loại vốn này sẽ tiếp tục giữ vị trí quan trọng và sẽ tăng lên về quy mô trong thời gian tới. Với đề tài “Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản dối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội”, chuyên đề đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc xác định vị trí của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB trong tổng chi ngân sách Nhà nước, nêu được thực trạng quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố trong thời gian vừa qua và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kinh nghiệm và thời gian nên luận văn này còn nhiều thiếu sót. Em kính mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các cán bộ hướng dẫn thực tập . Danh mục tài liệu tham khảo Học viện Hành chính Quốc gia: Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước Chương trình chuyên viên- Phần II: Hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính, Hà Nội, 2002. Học viện Hành chính Quốc gia: Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước Chương trình chuyên viên- Phần III: quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, Hà Nội, 2002. Nguyễn Ngọc Điệp: Tìm hiểu pháp luật- Hỏi đáp về Luật tài chánh Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Ts. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên): Kế toán công trong đơn vị Hành chính sự nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001. Công văn số 2934/ STCVG - ĐT của Tài chính- Vật giá ngày 27/ 9/ 2002 hướng dẫn quy trình thẩm tra quyết toán vốn đầu tư các dự án do UBND Thành phố quyết định đầu tư và do các Sở quyết định đầu tư theo uỷ quyền của UBND Thành phố Hà Nội. Công văn số 306/ KH &ĐT - TH ngày 15/ 10/ 2002 của Sở Kế hoạch - Đầu tư hướng dẫn triển khai thực hiện quyết định số số 116/ 2002/ QĐ - UB ngày 14/8/2002 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phân cấp, uỷ quyền quyết định đầu tư . Chương trình Tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010 ( Ban hành kèm theo Quyết định số 136/ 2001/ QĐ -TTg ngày 17/ 09/ 2001 của Thủ tướng Chính phủ ). Luật Ngân sách Nhà nước năm 1997. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002. Nghị định 88/ 1999/ NĐ - CP ngày 01/ 09/ 1999 của Chính phủ và Thông tư số 96/ 2000/ TT - BTC ngày 28/ 09/2000 của Bộ Tài chính Hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nghị định số 10/2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Nghị định số 52/ 1999/ NĐ - CP ngày 08/ 07/ 1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng. Nghị định số 12/ 2000/ NĐ - CP ngày 05/ 05/ 2000 của Chính phủ vể việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/ 1999/ NĐ - CP ngày 08/ 07/ 1999 của Chính phủ. Quyết định số 116/ 2002/ QĐ - UB ngày 14/ 08/ 2002 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phân cấp cho các UBND Quận, Huyện quyết định đầu tư và phân công giám định đầu tư cho các Sở thuộc thành phố Hà Nội. Quyết định số 1242/ 1998/ QĐ - BXD về việc ban hành định mức dự toán công trình XDCB. Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Thông tư 09TC/ NSNN ngày 18/ 03/ 1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Thông tư số 04/ 2002/TT - BXD ngày 27/ 06/ 2002 về việc hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình XDCB. Thông tư số 09/ 2000/ TT - BXD ngày 17/ 07/ 2000 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập và quản lý chi phí xây dựng thuộc các dự án đầu tư. Thông tư số 70/ 2000/ TT - BTC ngày 17/ 07/ 2000 của Bộ Tài chính Hướng dẫn quyết toán Vốn đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37061.doc
Tài liệu liên quan